MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC BẢNG VÀ HÌNH
DANH SÁCH CÁC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH
1.1 TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH 1
1.2 LỢI ÍCH VÀ CƠ HỘI TỪ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH .3
1.3 RỦI RO VÀ BẤT ỔN ĐỊNH TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH .5
1.3.1 Dòng vốn chảy ồ ạt .6
1.3.2 Sự đảo ngược của dòng vốn . .7
1.3.3 Tính biến động và xu hướng bầy đàn . 8
1.4 THÁCH THỨC CỦA QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH .9
1.5 AN NINH TÀI CHÍNH .9
1.5.1 Khái niệm 9
1.5.2 Sự cần thiết phải kiểm soát an ninh tài chính .10
1.5.3 Nguyên nhân gây ra bất ổn định . 10
1.5.4 Kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình tự do hóa tài chính .10
1.5.4.1 Rủi ro tài chính đối với các khoản nợ nước ngoài không kiểm soát .11
1.5.4.2 Rủi ro tài chính trong kinh doanh chứng khoán 12
1.6 SỰ THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI CỦA CÁC NƯỚC TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH 12
1.7 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM . .19
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 . 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 THỰC TRẠNG CẢI CÁCH VÀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM SAU HƠN 20 NĂM ĐỔI MỚI . 22
2.1.1 Chủ trương hội nhập của Đảng ta .22
2.1.2 Các bước đi trong quá trình hội nhập .23
2.1.3 Những kết quả đã đạt được trong tiến trình hội nhập .24
2.1.3.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế 24
2.1.3.2 Chính sách tài khóa . 25
2.1.3.4 Về xuất nhập khẩu .26
2.1.3.5 Về tình hình thu hút vốn đầu tư . 27
2.1.3.6 Về dự trữ bắt buộc .28
2.2 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ THẢ NỔI CÓ SỰ ĐIỀU TIẾT CỦA NHÀ NƯỚC 28
2.2.1 Những thành tựu đạt được .29
2.2.2 Những tồn tại trong việc xây dựng và điều hành chính sách tỷ giá 29
2.2.2.1 Việc xác định tỷ giá chưa thích ứng với cung cầu ngoại tệ .30
2.2.2.2 Chậm thay đổi tỷ giá theo mức độ cần thiết . .30
2.2.2.3 Chính sách tỷ giá thiếu gắn bó chặt chẽ với chính sách lãi suất 31
2.2.2.4 Tỷ giá giao dịch ở hai trung tâm giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa thể hiện hết vai trò điều tiết của mình .32
2.3 NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM . .32
2.3.1 Những thành tựu đạt được từ chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua . .34
2.3.1.1 Chính sách lãi suất góp phần đẩy lùi lạm phát 34
2.3.1.2 Chính sách lãi suất góp phần ổn định giá trị đồng Việt Nam .35
2.3.1.3 Chính sách lãi suất quyết định chấm dứt việc phát hành tiền cho ngân sách cho ngân sách sử dụng 35
2.3.1.4 Chính sách lãi suất góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 35
2.3.1.5 Chính sách lãi suất góp phần thu hút được vốn và mở rộng tín dụng .36
2.3.1.6 Chính sách lãi suất tiến dần tới tự do hóa lãi suất 36
2.3.2 Những tồn tại của chính sách lãi suất trong thời gian qua .37
2.3.2.1 Duy trì quá lâu việc điều hành chính sách lãi suất dựa trên phương pháp điều chỉnh truyền thống .37
2.3.2.2 Chính sách lãi suất hạn chế khả năng cạnh tranh của các NHTM 38
2.3.2.3 Tồn tại trong việc tổ chức thực hiện quan điểm về tự do hóa lãi suất 38
2.3.2.4 Chính sách lãi suất chưa được phối hợp đồng bộ với các công cụ khác của chính sách tiền tệ .39
2.4 TÌNH HÌNH VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM . 39
2.4.1 Thực trạng . 40
2.4.2 Đánh giá 41
2.4.3 Những hạn chế trong quá trình điều hành nợ vay nước ngoài 44
2.5 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH TRUNG GIAN.44
2.5.1 Hoạt động của hệ thống ngân hàng . 44
2.5.2 Tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam 48
2.5.3 Tình hình hoạt động của các quỹ đầu tư 50
2.6 NHỮNG KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ VỀ KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 51
2.6.1 Kết quả . .51
2.6.2 Hạn chế . 52
2.6.3 Nguyên nhân của những hạn chế .53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 . 53
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH TRONG TIẾN TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 NHỮNG DỰ BÁO VỀ LỢI THẾ VÀ THÁCH THỨC ĐẾN KIỂM SOÁT AN NINH TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM HẬU WTO . 54
3.1.1 Những lợi thế . .54
3.1.2 Những thách thức 55
3.2 CÁC GIẢI PHÁP ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ CỦA CHÍNH PHỦ 57
3.2.1 Quan điểm hoạch định chính sách tài khóa của chính phủ .57
3.2.2 Nhóm các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .58
3.2.2.1 Khắc phục bội chi Ngân sách Nhà nước 59
3.2.2.2 Minh bạch hóa việc xây dựng và thực thi chính sách .58
3.2.2.3 Hoàn thiện việc xây dựng cơ chế giám sát hợp lý .59
3.2.2.4 Hoàn thiện hệ thống luật pháp và xử lý các xung đột mâu thuẫn giữa quy định của quốc gia và quốc tế .60
3.2.2.5 Thực hiện thắng lợi cải cách DNNN hoạt động kém hiệu quả bằng biện pháp cổ phần hóa 61
3.3 CÁC QUAN ĐIỂM VỀ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ 62
3.3.1 Chính sách tỷ giá ở Việt Nam phải từng bước thích ứng với các điều kiện tự do hóa thương mại trên thị trường tài chính quốc tế .62
3.3.2 Chính sách tỷ giá phải kích thích phát triển xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế 63
3.3.3 Chính sách tỷ giá phải giữ vững thế cân bằng giữa kinh tế đối nội và kinh tế đối ngoại . .63
3.3.4 Thực hiện chính sách đa ngoại tệ 64
3.3.5 Hoàn chỉnh thị trường ngoại tệ liên ngân hàng .64
3.3.6 Khắc phục những yếu kém trong giá xuất nhập khẩu hàng hóa để tiết kiệm ngoại tệ, gia tăng nguồn thu ngoại tệ .65
3.3.7 Thực hiện chế độ lưu hành duy nhất đồng Việt Nam trên thị trường Việt Nam 66
3.3.8 Tạo tiền đề để đồng Việt Nam chuyển đổi được 66
3.3.9 Thực hiện đổi mới chính sách cho vay bằng ngoại tệ ở thị trường trong nước 67
3.4 CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT .67
3.4.1 Điều hành chính sách lãi suất đồng bộ với chính sách cung ứng tiền .67
3.4.2 Kiến nghị chính sách lãi suất là mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ 68
3.4.3 Xây dựng chính sách lãi suất theo xu hướng góp phần ổn định tiền tệ và phát triển thị trường tài chính .69
3.4.4 Loại bỏ chương trình tín dụng chỉ định . .70
3.4.5 Điều hành chính sách lãi suất phù hợp với tỷ lệ lạm phát .70
3.4.6 Điều hành chính sách lãi suất đồng bộ với các công cụ khác của chính sách tiền tệ 71
3.4.6.1 Đối với công cụ thị trường mở 71
3.4.6.2 Đối với công cụ tái chiết khấu .72
3.4.6.3 Đối với công cụ dự trữ bắt buộc 72
3.5 CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NỢ NƯỚC NGOÀI 73
3.5.1 Tăng trưởng kinh tế .73
3.5.2 Mức dự trữ ngoại tệ quốc gia . .73
3.5.3 Giải pháp làm giảm chi phí nợ vay . 74
3.5.3.1 Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý vay, sử dụng và hoàn trả vốn vay nước ngoài .74
3.5.3.2 Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài 74
3.6 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN WTO 7 6
3.6.1 Đối với hệ thống tổ chức tín dụng 76
3.6.2 Thị trường chứng khoán 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 . 81
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tóm tắt nội dung một số cam kết chủ yếu trong lĩnh vực ngân hàng khi Việt Nam gia nhập WTO
Phụ lục 2: Định hướng chính sách tỷ giá ở Việt Nam trong giai đoạn trung và dài hạn
Phụ lục 3: Nguyên nhân bùng nổ thị trường chứng khoán Việt Nam
108 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2663 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp kiểm soát an ninh tài chính trong tiến trình tự do hóa tài chính của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g giá cả hàng hóa và
giá cả vốn đã là một trong những nguyên nhân khiến cho tăng trưởng kinh tế chậm lại phần
nào trong các năm vừa qua.
3.4.7 Điều hành chính sách lãi suất đồng bộ với các công cụ khác của chính sách
tiền tệ
3.4.7.1 Đối với công cụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ, nó có tác
động nhiều đến chính sách lãi suất thông qua việc áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng hoặc
chính sách tiền tệ thắt chặt. Nếu NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì có thể bán
các giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc hoặc tín phiếu ngân hàng… mà mình
đang nằm trong tay. Điều này sẽ khiến cho khối lượng tiền trong lưu thông giảm xuống,
nguồn vốn ngắn hạn sẽ khan hiếm nên lãi suất sẽ tăng lên. Ngược lại, nếu NHNN áp dụng
chính sách tiền tệ nới lỏng thì có thể mua các giấy tờ có giá ngắn hạn. Trong trường hợp
này, khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên, nên lãi suất sẽ giảm xuống.
Nếu NHNN tăng lãi suất mà không dựa vào công cụ thị trường mở thì có khả năng lãi
suất không tăng lên được do lượng tiền cung ứng trong lưu thông vẫn còn nhiều. Hoặc giả
như NHNN điều chỉnh giảm lãi suất nhưng không có giải pháp tung một số lượng tiền vào
lưu thông bằng cách mua các giấy tờ ngắn hạn thì lãi suất cũng không thể giảm được do
nguồn vốn trên thị trường tiền tệ không được dồi dào.
Tại Việt Nam, thị trường mở đã được NHNN đưa vào hoạt động từ ngày 7/7/2000,
nghĩa là trước khi áp dụng lãi suất cơ bản khoảng một tháng. Điều này nói lên rằng NHNN
có quan tâm đến nghiệp vụ thị trường mở cũng như đã thấy được tác động tương hỗ giữa
nghiệp vụ thị trường mở và chính sách lãu suất.
Một vấn đề là Luật NHNN qui định hoạt động thị trường mở chỉ cho phép mua bán
các loại giấy tờ có giá ngắn hạn cũng gây ra rất nhiều giới hạn cho sự hoạt động của nghiệp
vụ thị trường mở. Có nên chăng, ít nhất cần xem các trái phiếu mà thời gian đáo hạn còn
dưới 12 tháng vẫn được xem như một loại giấy tờ có giá ngắn hạn, nhằm phong phú và đa
dạng hóa cho hàng hoá được phép mua bán trên thị trường mở.
Nhằm đa dạng hoá công cụ điều hành chính sách tiền tệ, chúng tôi kiến nghị NHNN
cần đẩy mạnh hoạt động của thị trường mở cũng như đa dạng hóa đối tượng giao dịch
trong sân chơi của thị trường này.
3.4.7.2 Đối với công cụ tái chiết khấu
Lãi suất tái chiết khấu hoặc lãi suất tái cấp vốn mà NHNN qui định lại có một khoảng
cách khá xa so với lãi suất cơ bản và nó cũng chỉ xoay quanh mức lãi suất trên thị trường
mở hoặc lãi suất do Bộ Tài chính mong muốn thực hiện được trong các phiên đấu thầu tín
phiếu kho bạc. Điều này khiến cho các NHTM có mong muốn nhiều hơn đến việc vay của
NHNN. Tuy nhiên, việc vay của NHNN tỏ ra không mấy dễ dàng vì trong thực tế NHNN ít
khi cho vay thông qua cánh cửa tái chiết khấu. Như vậy, lãi suất tái chiết khấu hầu như là
một qui định mang tính hình thức; đồng thời NHNN ít khi mong muốn thực thi vai trò
người cho vay cuối cùng trong nền kinh tế quốc gia.
Hơn nữa, tại nước ta thương phiếu dường như hoàn toàn thiếu vắng trên thị trường
tiền tệ, bởi vì trong một thời gian dài chúng ta đã sử dụng phương thức thanh toán dùng
tiền mặt là chủ yếu. Một khi tiền mặt không đủ, NHNN tung ra một số lượng ngân phiếu
thanh toán để bù vào. Tín dụng ngắn hạn trong việc kinh doanh được thể hiện hoàn toàn
trên hợp đồng mua bán và hầu như không thể hiện bằng thương phiếu dù cho Pháp lệnh
Thương phiếu đã có hiệu lực thi hành.
Kiến nghị NHNN nên duy trì tỷ lệ hợp lý giữa lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản
hoặc tìm một lãi suất nào thay thế cho lãi suất cơ bản mà hiện nay cho thấy mặt yếu kém
của nó. Điều này sẽ làm kết nối giữa chính sách lãi suất và công cụ tái chiết khấu.
3.4.7.3 Đối với công cụ dự trữ bắt buộc
Công cụ dự trữ bắt buộc chỉ phát huy hết tác dụng của nó trong việc điều hành chính
sách tiền tệ khi trong nền kinh tế áp dụng tốt phương thức thanh toán không dùng tiền mặt.
Tại Việt Nam, công cụ dự trữ bắt buộc chỉ có tác động đến lãi suất ở một mặt duy
nhất, đó là làm cho giá cả đầu vào của các tổ chức tín dụng tăng lên nến NHNN tăng tỷ lệ
dự trữ bắt buộc. Ngược lại, nếu NHNN giảm tỷ lệ bắt buộc thì lãi suất thực đầu vào của các
tổ chức tín dụng sẽ giảm xuống. Do đó, công cụ dự trữ bắt buộc là một công cụ bị bỏ rơi
nhiều nhất khi NHNN điều chỉnh lãi suất.
Tuy nhiên, để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ một cách tốt hơn, chúng ta
phải nâng cao vai trò của dự trữ bắt buộc; đồng thời chính sách lãi suất phải gắn chặt với
công cụ dự trữ bắt buộc nhiều hơn một khi nền kinh tế nước ta chuyển từ phương thức
thanh toán bằng tiền mặt sang phương thức thamh toán chuyển khoản. Điều này sẽ xảy ra
không xa, nếu việc sử dụng ngân phiếu thanh toán chấm dứt và thói quen vể việc thanh
toán bằng tiền mặt được chặn đứng vì những bất lợi vô cùng của chính nó.
3.5 CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG TIẾP NHẬN NỢ NƯỚC NGOÀI
Mức vay nợ phải phù hợp với khả năng tiếp nhận của nền kinh tế. Thực hiện đánh giá
mức độ an toàn vay nợ cần phân tích các chỉ tiêu sau:
3.5.1 Tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế tăng trưởng cao là động lực thu hút nguồn vốn nước ngoài, đảm bảo khả
năng trả nợ vay. Mặc dù trong những năm gần đây, GDP vẫn tăng nhưng hệ số ICOR lại
tăng liên tục và tốc độ tăng cao hơn tốc độ tăng GDP (ICOR những năm 90 là 3, trong khi
đó năm 2001 là 4,5, 2002 là 4,1) cho thấy hiệu quả sử dụng vốn không cao. Dựa vào những
chỉ số tính toán thì hệ số ICOR là 4 trong thời gian tới (ICOR= s/g, trong đó s là đầu
tư/GDP, g là tốc độ tăng trưởng GDP). Nếu trong giai đoạn 2000-2010, kinh tế Việt Nam
đạt được tốc độ tăng trưởng là 7,5% - 8% năm thì đòi hỏi đầu tư/GDP là 30-32%. Nhu cầu
vốn đầu tư giai đoạn này theo kế hoạch là 135-160 tỷ USD giai đoạn 2000-2010 và 250 -
280 tỷ USD giai đoạn 2010-2020 thì quy mô nền kinh tế trong hai giai đoạn trên phải đạt
được là: 450 – 534 tỷ USD và 782-934 tỷ USD.
Xuất khẩu là nguồn cung cấp duy nhất cho trả nợ vay nước ngoài, vì thế muốn nâng
cao năng lực trả nợ và hạn chế những rủi ro tác động từ bên ngoài đòi hỏi xuất khẩu phải
tăng trưởng cao, đa dạng hóa về cơ cấu và chủng loại.
3.5.2 Mức dự trữ ngoại tệ quốc gia
Nguồn thu ngoại tệ chủ yếu là từ hoạt động xuất khẩu. Vì vậy nền kinh tế cần duy trì
mức dự trữ ngoại tệ đủ mạnh để đối phó với những cơn khát ngoại tệ xảy ra. Ngân hàng
từng bước quản lý chặt các nguồn thu, chi ngoại tệ và chỉ dùng cho các hoạt động thanh
toán mua hàng, chi trả dịch vụ, trả nợ cho các tổ chức nước ngoài. Thực tế cho thấy mức
dự trữ ngoại tệ của Việt Nam rất mỏng, chỉ đủ cho hơn hai tháng nhập khẩu. Mức dự trữ
này là tương đối thấp, vì vậy cần nâng cao ít nhất là 6 tháng nhập khẩu bằng với mức trung
bình của khu vực. Chính vì thế chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu và có chính sách
phù hợp để thu hút kiều hối chảy về nước
3.5.3 Giải pháp làm giảm chi phí nợ vay
Thúc đẩy hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu giúp cải thiện cán cân tài khoản vãng lai là
nhân tố phát triển nhằm cải thiện tỷ giá hối đoái, tăng trưởng kinh tế.
Xây dựng tỷ giá hối đoái hợp lý để kích thích xuất khẩu cải thiện các cân thanh toán.
Trước hết cần đưa VND về đúng giá trị thực của nó vì như đánh giá của nhiều chuyên gia
kinh tế trong và ngoài nước. Chúng ta đều biết rằng VND đang định giá quá cao so với sức
mua thực tế của nó. Theo quy luật cung cầu, đến một lúc nào đó VND trở về giá trị thực
của nó thì tỷ giá sẽ tăng lên rất nhanh, lúc đó chúng ta sẽ không chịu trở tay và mất khả
năng thanh toán nợ, số nợ đó đã tăng lên quá nhanh.
3.5.3.1 Hoàn thiện chính sách cơ chế quản lý vay, sử dụng và hoàn trả vốn vay
nước ngoài
3.5.3.1.1 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Tận dụng triệt để các nguồn huy động vốn ưu đãi từ nước ngoài, đặc biệt là nguồn
vốn cho những dự án mang tầm cỡ quốc gia. Thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tài
chính tiền tệ quốc tế nhằm tranh thủ các khoản viện trợ cũng như khoản vay với lãi suất ưu
đãi.
3.5.3.1.2 Đảm bảo cơ cấu đầu tư hợp lý từ nguồn vốn vay
- Thực hiện tốt và chính xác trong khâu lập kế hoạch các dự án để sử dụng vốn vay
hợp lý và có hiệu quả nhất.
- Khai thác hợp lý các nguồn vốn vay với thời gian và chi phí hợp lý.
- Thẩm định kỹ các điều khoản về vay và trả nợ nhằm tránh những rủi ro không đáng
có.
- Kiểm tra tình hình thực hiện dự án nhằm đảm bảo dự án được thi công đúng tiến độ
cũng như khả năng hoàn trả vốn vay được thực hiện đúng theo hợp đồng ký kết.
- Kế hoạch giải ngân phải đảm bảo cân đối giữa các vùng các ngành, đặc biệt là
những dự án tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, dự án tạo công ăn việc làm, dự án đầu tư
chế biến hàng xuất khẩu. Mặt khác ta cần tránh sai lầm chủ quan nóng vội, quá thiên về
công nghiệp nặng quy mô lớn.
3.5.3.2 Các biện pháp quản lý nợ vay nước ngoài
Để tiếp tục nâng cao khả năng phát triển kinh tế tài chính nước ta hiện nay, giảm vay
nợ nước ngoài và đảm bảo hiệu quả sử dụng nợ vay, chúng ta phải kiểm soát chặt chẽ các
khoản vay nợ nước ngoài của các dự án chưa được thẩm định về mọi mặt, thực hiện quản
lý thống nhất vay nợ nước ngoài bởi một cơ quan quản lý nhà nước nhưng vẫn đảm bảo
gánh trách nhiệm người đi vay, người sử dụng vốn vay với nghĩa vụ trả nợ. Tránh tình
trạng bảo lãnh và tư tưởng ỷ lại của doanh nghiệp đối với cơ quan chủ quản nhà nước. Vấn
đề này được thực hiện cụ thể như sau:
a/ Đánh giá thẩm định dự án
Dự án trước khi được triển khai cần có báo cáo thẩm định sát thực và mang tính khả
thi cao, đặc biệt là các dự án vay nợ nước ngoài, liên quan đến hiệu quả sử dụng vốn vay
và khả năng thanh toán nợ vay. Báo cáo thẩm định được lập dựa trên cơ sở nhiều giả định
và đầy đủ các luận chứng kinh tế-kỹ thuật, đảm bảo dự án có hiệu quả và lợi nhuận để hoàn
trả vốn vay. Hơn nữa, tổ chức đấu thầu dự án là một khâu đặc biệt quan trọng để tìm ra
những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh, trình độ quản lý giỏi để dự án được thực hiện
đúng kế hoạch và thực sự có hiệu quả.
Thành lập Ủy ban nhà nước trực thuộc Chính phủ để quản lý vay và trả nợ tập trung
thống nhất. Hiện nay, BTC theo dõi và ký kết trực tiếp các khoản vay nợ với nước ngoài,
Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm về giải ngân và theo dõi nợ cho các doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế. Để gắn kết trách nhiệm người đi vay và người trả nợ, giảm
thiểu chi phí cho quá trình quản lý cho vay và trả nợ thống nhất, nâng cao kiểm soát nợ vay
nước ngoài, thì nên thành lập ủy ban kiểm soát trực thuộc Chính phủ có trách nhiệm theo
dõi, tổng hợp và báo cáo tình hình vay nợ và sử dụng vốn vay nước ngoài.
Tạo lập sự bình đẳng trong vay vốn nước ngoài cho các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế. Nhà nước cần gắn trách nhiệm trả nợ cụ thể cho từng doanh nghiệp đối
với các khoản vay đã phân bổ cho họ, đồng thời phải thường xuyên kiểm tra và giám sát
việc thực hiện các khoản vay nợ trên nhằm đảm bảo hiệu quả việc sử dụng vốn và kế hoạch
trả nợ. Một số quy định cụ thể như sau:
+ Doanh nghiệp thuộc bất kỳ thành phần kinh tế nào vay vốn nước ngoài cũng đều
phải có trách nhiệm trả nợ nước ngoài với các điều kiện đã cam kết.
+ Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có thể vay vốn trực tiếp từ nước
ngoài hoặc vay lại từ các nguồn vay nước ngoài của Chính phủ hay Ngân hàng.
+ Các doanh nghiệp không tự động liên hệ hay thỏa thuận với phía nước ngoài đối
với các khoản vay của Chính phủ đang trong quá trình đám phán.
+ Toàn bộ hoạt động vay vốn và trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp đều phải thực
hiện qua hệ thống Ngân hàng.
b/ Thành lập Hội đồng tư vấn nợ độc lập
Để hạn chế tiêu cực trong việc giải ngân vốn vay, thẩm định giá, xét duyệt phân bổ
dự án cho các nhà thầu. Chủ trương thành lập Hội đồng tư vấn nợ có chức năng độc lập
trong tất cả các khâu từ thẩm định cho đến kiểm tra thực hiện dự án là quyết định phù hợp
nhằm gia tăng hiệu lực chức năng bất kiêm nhiệm, giảm thiểu hình thức quản lý chồng
chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nước về vay nợ nước ngoài. Theo ý kiến chúng tôi, Hội
đồng tư vấn nợ cần phối hợp thực hiện với Ủy ban nhà nước trực thuộc Chính phủ để quản
lý vay và trả nợ nước ngoài trước khi trình Chính phủ ký duyệt nhằm đảm bảo khách quan
và nâng cao tính hiệu quả của quá trình quản lý nợ nước ngoài hiện nay.
3.6 ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TRONG KỶ NGUYÊN WTO
3.6.1 Đối với hệ thống tổ chức tín dụng
3.6.1.1 Định hướng chiến lược chung
Với tư cách là một ngành dịch vụ đẳng cấp cao và đứng ở “hàng” tiên phong trong cơ
chế hội nhập, có thể nói đây là thời điểm thích hợp để nhìn lại nội dung chiến lược hội
nhập cũng như kiểm tra và hoàn thiện lại hành trang, lộ trình của các Định chế Ngân hàng
Việt nam bước vào kỷ nguyên WTO. Các định hướng chiến lược phát triển dịch vụ của
ngành Ngân hàng Việt nam bao gồm:
- Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực Ngân hàng theo lộ trình và bước
đi phù hợp với khả năng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam;
- Thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, trước hết
là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định khung về thương mại dịch vụ (AFAS) của
ASEAN và hướng tới phù hợp với WTO mà Việt nam đã là thành viên chính thức từ
7/11/2006;
- Tăng cường vai trò ảnh hưởng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam đối với thị trường
tài chính khu vực và vươn ra quốc tế.
- Phát hành và niêm yết chứng khoán của các NHTM Việt Nam trên TTCK trong
nước và trên thị trường tài chính quốc tế.
- Tham gia các điều ước quốc tế, các câu lạc bộ, các diễn đàn khu vực và quốc tế về
tiền tệ, Ngân hàng.
- Có lộ trình tích cực về áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế áp dụng cho hoạt
động Ngân hàng thương mại - Đặc biệt là chuẩn mực về kế toán, kiểm toán, qui chế quan
hệ bắt buộc giữa các Ngân hàng trung gian với Ngân hàng trung ương về tái cấp vốn, thị
trường mở, thanh toán quốc gia và các chuẩn mực về thanh tra - giám sát Ngân hàng;
- Mở cửa thị trường Ngân hàng, nới lỏng dần theo lộ trình các hạn chế về quyền tiếp
cận và nội dung hoạt động của chi nhánh cũng như Ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại
Việt Nam bắt đầu được xem xét cho thành lập từ 1/4/2007;
- Xoá bỏ dần, tiến tới xoá bỏ tối đa các giới hạn đối với các Ngân hàng nước ngoài về
số lượng đơn vị; hình thức pháp nhân; tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài; tổng giao dịch
nghiệp vụ Ngân hàng; mức huy động vốn VND; loại sản phẩm, loại dịch vụ.
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với luật lệ quốc tế để tạo sân
chơi bình đẳng cho các NHTM trên lãnh thổ Việt Nam cùng phát triển và cạnh tranh lành
mạnh.
Vậy là dường như ngay lập tức dịch vụ Ngân hàng – Tài chính đã không chỉ phải chủ
động, mà phải trực tiếp sống ngay trong “chiến trường” WTO với những thách thức nhiều
hơn thuận lợi dành cho những ngành đi tiên phong.
3.6.1.2 Đối với các Ngân hàng thương mại Nhà nước
Trong thời điểm hiện tại, các NHTMNN đang thực hiện đề án tổng thể về cơ cấu lại
tài chính, hoạt động và tổ chức để đáp ứng nhu cầu phát triển mới của khách hàng trong
điều kiện hội nhập. Theo chủ trương của Chính phủ, trong số các nội dung cơ bản cần cơ
cấu lại bao gồm cả việc cơ cấu lại sở hữu bằng hình thức cổ phần hoá tất cả các NHTMNN.
Tôi cho rằng sau cổ phần hoá sẽ là quá trình tạo ra điều kiện và các nhân tố khách quan để
các Ngân hàng này phát triển thành các Tập đoàn Ngân hàng – Tài chính lớn hơn. Để chủ
động đón trước xu hướng này, các NHTMNN cần phải:
- Đẩy mạnh tiến trình cơ cấu lại toàn diện hệ thống NHTM theo Đề án tái cơ cấu
NHTMNN đã được Chính phủ phê duyệt từ 10/2001.
- Cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo hướng:
+ Sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các NHTMNN từ Hội sở chính đến chi nhánh theo
hướng tuân thủ chiến lược khách hàng, không coi trọng việc mở rộng chi nhánh nhưng nhất
thiết phải coi trọng tính chuyên nghiệp.
+ Đổi mới tổ chức bộ máy ở hội sở chính phù hợp với thông lệ quốc tế: Hội đồng
quản trị phải là cơ quan quyền lực tối cao là “người” đại diện và cũng chính là những ông
chủ thực sự của nguồn vốn tự có của mình, có thực quyền giám sát toàn diện hoạt động
Ngân hàng của mình và quyết định Ban điều hành, đồng thời chịu rủi ro cuối cùng về hoạt
động của Ngân hàng. Bộ phận tham mưu, tác nghiệp cho HĐQT gồm có ít nhất Ban kiểm
soát và kiểm toán nội bộ, Hội đồng/Uỷ ban quản lý rủi ro;
+ Phát triển hệ thống kênh phân phối điện tử (ATM, auto-branch hay kiosk bank) mà
không nhất thiết phải mở nhiều chi nhánh nhằm năng động hoá quá trình phát triển dịch vụ,
chuyển hướng thị trường hoặc thay đổi nhóm khách hàng.
- Tăng cường năng lực hoạt động và quản lý kinh doanh:
+ Đa dạng hoá sản phẩm và dịch vụ, phát triển sản phẩm mới dựa trên cơ sở công
nghệ tiên tiến về nghiệp vụ bán lẻ, thanh toán và giao dịch;
+ Phát triển hệ thống công nghệ thanh toán tiên tiến;
+ Chuẩn hoá các qui trình và thủ tục quản lý theo hướng đồng bộ, hiện đại, tự động
hóa và phù hợp thông lệ quốc tế;
+ Phát triển hệ thống thông tin tập trung và quản lý rủi ro độc lập chịu sự giám sát của
Thanh tra chuyên ngành NH;
+ Thiết lập và tách bạch các nhóm nghiệp vụ như: Quản lý rủi ro; Quản lý tín dụng;
Quản lý tài sản nợ/có, Quản lý tài chính - kế toán; Quản trị nguồn nhân lực; Quản lý thanh
toán; Quản lý công nghệ; Quản lý chiến lược kinh doanh & Marketing; Hệ thống thông tin
quản lý nội bộ. Thành lập Ban/Hội đồng quản lý tài sản nợ/có và phát triển hệ thống kiểm
tra trực thuộc Ban điều hành.
- Tăng cường năng lực tài chính:
+ Tăng vốn tự có của các NHTM bằng lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, sáp nhập;
hợp nhất; mua lại, gọi thêm vốn từ các nhà đầu tư chiến lược...để tăng VTC cấp 1; Phát
hành trái phiếu huy động vốn dài hạn trên TTCK sơ cấp, phát hành kỳ phiếu dài hạn trên
thị trường huy động tiền gửi v.v để tăng VTC cấp 2.
+ Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối càng sớm càng tốt. Xây dựng
cơ chế ngăn chặn sự gia tăng của nợ xấu mới.
- Phân biệt chức năng của NHTW và NHTM; chức năng cho vay của Ngân hàng
chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ Ngân hàng khác của
NHTM.
- Gắn cải cách Ngân hàng với cải cách doanh nghiệp Nhà nước - Đặc biệt là xử lý dứt
điểm phương án trả nợ Ngân hàng trước khi thay đổi sở hữu của Doanh nghiệp;
- Cổ phần hoá các NHTMNN gắn liền với hiện đại hoá công nghệ và trình độ quản lý,
cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các TCTD có tiềm lực tài chính, công
nghệ, quản lý và uy tín quốc tế mua cổ phiếu đến mức trần tối đa cho phép và đủ tư cách để
tham gia điều hành.
- Đón trước và có lộ trình chi tiết cho xu hướng Tập Đoàn hoá các NHTMNN sau cổ
phần hoá.
3.6.1.3 Đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP):
- Củng cố và phát triển hệ thống NHTMCP theo hướng tăng cường năng lực tài chính
và quản lý, đồng thời giải thể, khuyến khích sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại các NHTMCP
yếu kém về hiệu quả kinh doanh;
- Bảo đảm quyền kinh doanh của các Ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo
các cam kết quốc tế đã ký kết theo hướng kiểm soát chặt chẽ sự phát triển thêm của các chi
nhánh và khuyến khích hình thành loại NH 100% vốn tại VN hoạt động theo Pháp Luật
Việt Nam;
- Giúp đỡ và thúc đẩy các TCTD trong nước nâng cao năng lực quản lý và trình độ
nghiệp vụ, có khả năng cạnh tranh với các TCTD nước ngoài.
3.6.1.4 Về định hướng chiến lược phát triển các Quĩ tín dụng nhân dân
(QTDND)
- Phát triển QTDND thực sự trở thành TCTD hợp tác độc lập, dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động;
- QTDND hoạt động theo Luật các TCTD và Luật Hợp tác xã.
- Củng cố và chấn chỉnh hệ thống QTDND nhằm đưa hoạt động của QTDND đi đúng
hướng và bảo đảm an toàn.
Tóm lại: Những nội dung cơ bản về hình ảnh, cơ cấu và động thái phát triển các
TCTDVN trong tương lai trung và dài hạn có thể khái quát như sau: Sau khi cổ phần hoá
NHTMNN, hình thành một số Tập đoàn Ngân hàng đa năng qui mô cỡ khu vực và ngày
càng có ảnh hưởng tới thị trường tài chính khu vực và thế giới.
3.6.2 Thị trường chứng khoán
Là thể chế tài chính bậc cao và là sản phẩm tinh túy của nền kinh tế thị trường, hoạt
động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt,
sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến tình hình phát triển nền kinh tế xã hội của đất nước.
Việc đưa ra vận hành thị trường chứng khoán ở nước ta vừa đưa ra cơ hội, vừa là thử thách
lớn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đòi hỏi các chủ thể tham gia phải tự mình đổi
mới trong một hệ thống luật pháp ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, đảm bảo lợi ích chính
đáng cho những đối tượng tham gia và an toàn cho phát triển kinh tế - xã hội.
Những điểm nổi bật của thị trường chứng khoán trong thời gian vừa qua: giá cổ phiếu
biến động mạnh, thông tin chưa minh bạch, tính thanh khoản của cổ phiếu còn yếu, diễn
biến thị trường khó dự báo,… Trước tình hình này Ủy ban chứng khoán Nhà nước nên tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý bình đẳng và đồng bộ cho hoạt động
của TTCK, tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thông thoáng hơn theo cam kết
WTO để thu hút các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài vào hoạt động kinh
doanh ở Việt Nam, hoàn thiện thể chế thị trường tài chính nói chung và TTCK nói riêng, tổ
chức và điều hành TTCK theo đúng chuẩn mực quốc tế, đảm bảo tính công khai và minh
bạch, nâng cao năng lực quản lý và giám sát TTCK.
Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các DNNN và các NHTMNN, góp phần tăng thêm
nguồn hàng hóa có chất lượng cho TTCK, tiếp tục bán cổ phần tại một số công ty cổ phần
mà Nhà nước thấy không cần phả nắm giữ.
Lựa chọn và tạo “hàng hóa có chất lượng cao” cho thị trường chứng khoán. Muốn
vậy, cần có sự phối hợp đồng bộ với công tác cổ phần hoá DNNN và cải tiến cơ chế quản
trị Công ty sau khi cổ phần hóa.
Nâng cao năng lực hoạt động của các trung gian tài chính trên TTCK. Trong đó, các
công ty chứng khoán trong nước cần chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh theo hướng
cải thiện quy mô vốn, nâng cao chất lượng và loại hình dịch vụ, đổi mới công nghệ thông
tin và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, áp dụng chuẩn mực quốc tế trong quản trị công
ty chứng khoán, nâng cao khả năng giám sát, kiểm soát nội bộ và hiệu quả tác nghiệp của
công ty chứng khoán.
Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc, có sự giám sát
thích hợp của Nhà nước và liên kết với thị trường vốn quốc tế.
Xây dựng thị trường trái phiếu Chính phủ trên cơ sở tham gia của các nhà tạo lập thị
trường, khuyến khích các tập đoàn và các công ty lớn phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Thiết lập hệ thống thông tin cung cấp dữ liệu an toàn, tin cậy cho nhà đầu tư để họ có
những quyết định đầu tư hợp lý nhằm giảm thiểu biến động xấu của thị trường.
Tăng cường hệ thống giám sát tài chính nhằm hạn chế rủi ro, nhất là đối với các
nguồn vốn ra nước ngoài. Có giải pháp khả thi để giảm thiểu rủi ro, tránh những biến động
lớn và đột ngột của TTCK; trong đó, Chính phủ cần đóng vai trò định hướng thông tin và
dẫn dắt thị trường, điều chỉnh thị trường bằng những công cụ thích hợp, mở rộng các công
cụ tài chính phái sinh, hình thành quỹ bình ổn thị trường và đảm bảo sự an toàn hệ thống.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Qua chương này, tôi muốn đề cập và đưa ra những dự báo về thuận lợi và thách thức
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà đặc biệt là quá trình gia nhập WTO. Đồng thời
đề xuất các giải pháp để đẩy nhanh tiến trình hội nhập và các giải pháp khắc phục những
nguy cơ tiềm ẩn trong hiện trạng nền kinh tế mà những nguy cơ này có thể gây ra sự bất ổn
tài chính. Thiết nghĩ, các giải pháp này phải được tiến hành đồng bộ và có sự phối hợp hài
hòa của nhiều ban ngành và các cơ quan chức năng nhằm thực thi chính sách kiểm soát an
ninh tài chính hiệu quả nhất.
KẾT LUẬN
Trước xu thế hội nhập và yêu cầu đổi mới đã đặt ra không ít những thách thức cho
nền kinh tế nước ta nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Việt Nam vẫn kiên định với
mục tiêu phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Để có thể thực
hiện được những mục tiêu trên điều kiện tiên quyết là phải xây dựng được một thị trường
tài chính – tiền tệ lành mạnh nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cũng như phù hợp
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Tự do hóa tài chính là chấp nhận các cơ chế và nguyên tắc tài chính vận động theo
quy luật của thị trường. Vì vậy sẽ phát sinh những tác động tích cực và tiêu cực đến quá
trình phát triển kinh tế. Điều quan trọng là chúng ta phải tận dụng và phát huy những tác
động tích cực nhằm thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế, đồng thời phải chủ động đưa ra các
biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực có thể gây ảnh hưởng đến nền an ninh tài chính
quốc gia.
Qua việc phân tích thực trạng, những thành tựu cũng như những hạn chế của nền
kinh tế Việt Nam sau những năm tháng đổi mới, chúng ta có thể khẳng định rằng chính
sách tự do hóa kinh tế - tài chính thận trọng, kiểm soát an ninh tài chính vững chắc là một
định hướng đúng đắn cho sự phát triển, là kim chỉ nam cho các chính sách kinh tế của
Chính phủ Việt Nam, là một mục tiêu của các cải cách hệ thống tài chính hiện nay. Chúng
ta hy vọng rằng, với những bước đi thận trọng và kiểm soát an ninh tài chính tốt theo một
lộ trình đã có kế hoạch trước, Việt Nam sẽ thành công trong việc kiểm soát những bất ổn
tài chính cũng như thực hiện thắng lợi quá trình tự do hóa tài chính để đạt đến sự tăng
trưởng kinh tế vượt bậc và bền vững.
Phụ lục 1
TÓM TẮT NỘT DUNG MỘT SỐ CAM KẾT CHỦ YẾU TRONG LĨNH VỰC
NGÂN HÀNG KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
(1) Các tổ chức tín dụng nước ngoài được thiết lập hiện diện thương mại tại Việt Nam
dưới các hình thức như văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng
liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài; công ty tài chính liên doanh và 100% vốn
nước ngoài, công ty cho thuê tài chính liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Kể từ ngày
01/04/2007, ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập tại Việt Nam
(2) Các tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được phép cung ứng hầu hết
các loại hình dịch vụ ngân hàng theo mô tả trong Phụ lục về dịch vụ tài chính ngân hàng
kèm theo Hiệp định GATS như cho vay, nhận tiền gửi, cho thuê tài chính, kinh doanh
ngoại tệ, các công cụ thị trường tiền tệ, các công cụ phái sinh, môi giới tiền tệ, quản lý tài
sản, cung cấp dịch vụ thanh toán, tư vấn và thông tin tài chính;
(3) Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi VNĐ không giới hạn từ các
pháp nhân. Việc huy động huy động tiền gửi VNĐ từ các thể nhân Việt Nam sẽ được nới
lỏng trong vòng 5 năm theo lộ trình sau:
Ngày 1 tháng 1 năm 2007: 650% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2008: 800% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2009: 900% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2010: 1000% vốn pháp định được cấp
Ngày 1 tháng 1 năm 2011: Đối xử quốc gia đủ
(4) Chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép mở các điểm giao dịch ngoài trụ
sở chi nhánh, nhưng được giành đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc đầy đủ trong việc
thiết lập và vận hành hoạt động các máy rút tiền tự động;
(5) Các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối
xử quốc gia kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO;
(6) Một ngân hàng thương mại nước ngoài có thể đồng thời mở một ngân hàng con và
các chi nhánh hoạt động tại Việt Nam; Các điều kiện cấp phép đối với ngân hàng 100%
vốn nước ngoài sẽ dựa trên các qui định an toàn và giải quyết các vấn đề như tỷ lệ an toàn
vốn, khả năng thanh toán và quản trị doanh nghiệp. Ngoài ra, các tiêu chí đối với chi nhánh
và ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ được áp dụng trên cơ chế quản lý đối với chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, bao gồm yêu cầu về vốn tối thiểu, theo thông lệ quốc tế đã được
chấp nhận chung;
(7) Các ngân hàng nước ngoài có thể tham gia góp vốn liên doanh với đối tác Việt Nam
với tỷ lệ góp vốn không vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh; Tổng mức
góp vốn mua cổ phần của các tổ chức, cá nhân nước ngoài tại từng ngân hàng thương mại
cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó, trừ khi
pháp luật Việt Nam có qui định khác hoặc được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam;
(8) Để thu hút được các ngân hàng lớn, có uy tín vào hoạt động tại thị trường Việt Nam,
trong cam kết cũng đã đưa ra yêu cầu về tổng tài sản có đối với tổ chức tín dụng nước
ngoài muốn thành lập hiện diện thương mại tại Việt Nam (cam kết này cũng đã được thể
chế hoá trong Nghị định số 22 ban hành ngày 28/02/2006), cụ thể để mở một chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản có trên 20 tỷ đô la
Mỹ vào cuối năm trước thời điểm xin mở chi nhánh; mức yêu cầu tổng tài sản có đối với
việc thành lập ngân hàng liên doanh hoặc ngân hàng con 100% vốn nước ngoài của ngân
hàng nước ngoài là trên 10 tỷ đô la Mỹ; đối với việc xin phép mở công ty tài chính 100%
vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước
ngoài hoặc công ty cho thuê tài chính liên doanh, các tổ chức tín dụng nước ngoài phải có
tổng tài sản trên 10 tỷ đô la vào cuối năm trước thời điểm xin phép.
Phụ lục 2
ĐỊNH HƯỚNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
TRUNG VÀ DÀI HẠN
=> Tiếp tục duy trì cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước
=> Một trong những tư tưởng của “cải cách” tỷ giá ở Việt Nam hiện nay, là thực hiện
chính sách cố định tỷ giá vì họ cho rằng chỉ có tỷ giá cố định mới:
+ Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ổn định trong sản xuất xuất khẩu hàng hóa.
+ Kiềm chế lạm phát.
+ Thu hút đầu tư nước ngoài, do tỷ giá không có biến động, tạo yên tâm cho các nhà
đầu tư nước ngoài và như thế tạo đà tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày nay, việc ấn định một tỷ giá cứng, chính thức,
ổn định cho cả một thời kỳ dài thoát ly sự nhạy bén của thị trường sẽ dẫn đến tình trạng
ngoại tệ ào ạt chuyển dịch vào trong nước. và với ngoại tệ giá rẻ ấy có thể sẽ bị sử dụng để
nhập khẩu nhiều loại hàng hóa không cần thiết, mà về lâu dài gây ra món nợ nước ngoài
lớn cho đất nước.
Ngược lại với quan điểm trên, cũng có quan điểm “cải cách” tỷ giá cho rằng cần phải
thả nổi tỷ giá hoàn toàn. Nếu tỷ giá thả nổi hoàn toàn để thị trường chi phối toàn bộ sẽ làm
cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ giảm hiệu lực, đặc biệt là có thể làm bộc phát
lạm phát, nội tệ bị mất giá không kiềm chế được khi mà ta chưa có đủ ngoại tệ để thỏa mãn
nhu cầu nhập khẩu cao.
Vì vậy chọn chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết can thiệp của nhà nước vì những
lý do:
- Với chế độ tỷ giá cố định không gắn liền với cung cầu ngoại tệ sẽ dẫn đến các vấn
đề:
+ Nếu tỷ giá danh nghĩa do NHNN qui định thấp hơn tỷ giá thực, dẫn đến khuyến
khích nhập khẩu, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và mất cân bằng ngoại tệ. Đối với
nhà xuất khẩu sẽ bị thiệt hại, mà một trong những bằng chứng nổi bật nhất đó là giai đoạn
từ năm 1995- 1997, do tỷ giá cố định đã không phản ánh đúng giá trị thực của nó dẫn đến
hiện tượng các doanh nghiệp nhập hàng ồ ạt dưới hình thức L/C trả chậm và hậu quả
nghiêm trọng là các doanh nghiệp không đủ khả năng thanh toán khi L/C đến hạn.
+ Gắn liền với việc áp dụng tỷ giá cố định là nhà nước chỉ can thiệp thông qua biện
pháp hành chính, không khuyến khích các doanh nghiệp quản lý tốt, như vậy sẽ mâu thuẫn
với các Hiệp ước thương mại mà Việt Nam tham gia như Hiệp ước AFTA (đòi hỏi tự do
mậu dịch), Hiệp ước thương mại Việt Mỹ (hạn chế sử dụng quota, hệ thống thuế là giống
nhau giữa các nước).
Với chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn là chế độ tỷ giá mà NHTW không qui định tỷ giá,
nó được hình thành do các chủ thể kinh tế tự thỏa thuận với nhau khi mua bán ngoại tệ.
Tuy nhiên trong chế độ tỷ giá này, có những lúc tỷ giá biến động lớn thì nhà nước cần phải
can thiệp và do đó làm tăng hoặc giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, mà trong điều kiện hiện
nay khi CCTTQT Việt Nam đang bị mất cân đối nghiêm trọng. Do đó chế độ tỷ giá thả nổi
hoàn toàn có ưu điểm là tỷ giá luôn gắn liền với quan hệ cung cầu, và tỷ giá này thích ứng
với điều kiện toàn cầu hóa thị trường tài chính quốc tế. Nhưng bên cạnh đó vẫn có nhược
điểm như sau:
+ Tỷ giá thả nổi thường xuyên biến động đòi hỏi các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu
phải biết phương thức quản trị ngoại tệ, như thế mới hạn chế được rủi ro. Trong khi đó hầu
hết các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam chưa quen với phương thức quản trị các nguồn ngoại
tệ theo cơ chế thị trường.
+ Ngoài ra còn đòi hỏi một hệ thống Ngân hàng có đủ năng lực cạnh tranh, giúp cho
việc xác lập tỷ giá phù hợp với cung cầu ngoại tệ (Mặt khác, nếu trong điều kiện nào đó
môi trường cạnh tranh không tốt vẫn còn độc quyền thì tỷ giá sẽ không sát với cung cầu).
+ Đặc biệt trong chế độ tỷ giá thả nổi cần thiết phải có một thị trường ngoại tệ năng
động, để cho các chủ thể tham gia vào thị trường này, có thể tiếp cận với nhau một cách
nhanh chóng, từ đó thiết lập được quan hệ cung cầu.
Qua sự phân tích ưu nhược điểm của hai chế độ tỷ giá nói trên, để xây dựng một chế
độ tỷ giá hợp lý ở Việt Nam trong điều kiện cụ thể hiện nay CSTG cần theo những định
hướng sau:
- Về chiến lược dài hạn, phải áp dụng tỷ giá thả nổi vì chế độ tỷ giá này nó phù hợp
với toàn cầu hóa nền kinh tế và tài chính, mà Việt Nam là một thành viên.
- Về chiến lược ngắn hạn, thì cần áp dụng tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước.
Từ những lý do nêu trên, trong một vài năm trước mắt Việt Nam chỉ nên thực hiện
chính sách tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của Nhà nước, có nghĩa là chính sách tỷ giá vừa
phải dựa trên cơ sở quan hệ cung cầu của ngoại tệ để kích thích xuất nhập khẩu, đồng thời
Nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ các nguồn ngoại tệ, để đưa vào sử dụng cho các cân
đối thực tế, chống lại việc sử dụng ngoại tệ lãng phí hoặc không quản lý được các nguồn
ngoại tệ.
Phụ lục 3
NGUYÊN NHÂN BÙNG NỔ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bùng nổ của TTCK Việt Nam năm 2006 xuất phát
từ các sự kiện kinh tế chính trị quan trọng. Trong đó nguyên nhân có tác động sâu sắc và
lâu dài là sự kiện Việt Nam chính thức được gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
cũng như sự kiện tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC. Cả hai sự kiện này đã và
đang tiếp tục tạo được ấn tượng tốt đối với các nhà đầu tư nước ngoài và đó là tín hiệu cho
những làn sóng đầu tư trực tiếp và cả gián tiếp hứa hẹn sẽ đổ vào Việt Nam. Việc Việt
Nam vừa được xếp trong Top những nước có môi trường đầu tư tốt nhất năm 2006 đã tạo
cơ sở ban đầu thuận lợi, củng cố niềm tin cho các đối tác nước ngoài đã, đang và sẽ chuẩn
bị đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, số lượng các công ty niêm yết tăng mạnh trong năm 2006, đặc biệt là vào
thời điểm cuối năm. Chỉ riêng tháng 12, số lượng công ty niêm yết tại TTGDCK TP HCM
đã lên tới 50 công ty. Nguyên nhân của tình hình này do thực hiện việc cắt giảm ưu đãi
thuế thu nhập cho doanh nghiệp niêm yết kể từ ngày 1/1/2007 đã tạo ra một làn sóng lên
sàn ồ ạt của các công ty cổ phần.
Tình hình tăng giảm chứng khoán trong kỳ (từ ngày 11/6/2006 – 11/16/2007)
Chỉ tiêu Toàn thị trường Cổ phiếu
Chứng chỉ
quỹ Trái phiếu
Niêm yết mới(ngàn CK) 19.338.433.650 1.228.218 50.000 68.533
Niêm yết bổ sung 892.416.940 69.242 20.000 -
Huỷ niêm yết - - - -
Niêm yết lại - - - -
(Nguồn: TTGDCK TPHCM)
Thứ hai, cùng với sự bùng nổ về số lượng cổ phiếu niêm yết, số lượng các công ty
chứng khoán và công ty quản lý quỹ mới thành lập. Hai định chế tài chính này đã gấp rút
nộp hồ sơ xin cấp phép trước thời hạn Luật Chứng khoán có hiệu lực (1/1/2007) để tranh
thủ áp dụng các điều kiện quy định về vốn đối với công ty chứng khoán và công ty quản lý
quỹ. Đến 31/12/2006, có 50 công ty chứng khoán (tăng 37 công ty so với cuối năm 2005)
và 18 công ty quản lý quỹ hoạt động và cấp phép hoạt động. Trong đó 3 công ty chứng
khoán đã đăng ký giao dịch cổ phiếu trên TTGDCK Hà Nội).
Từ tháng 12/2006 đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã lên xuống khá đột
ngột. Hiện tại thị trường lại vào một trào lưu tăng giá mới. Quý I năm 2007, VN-Index vẫn
tăng đáng kể so với cuối năm 2006. Về tương lai của thị trường chứng khoán Việt Nam,
các nhà đầu tư đang rất kỳ vọng vào sự tăng trưởng của ngành chứng khoán còn rất non trẻ
này; và người ta đang tự hỏi rằng liệu rằng “con ngựa bất kham” này sẽ lại “phi nước đại”
đến đâu? Đây là câu hỏi khó có thể trả lời, tuy nhiên, nhiều nhà phân tích nhận định, có
tính nguyên tắc rằng điều đó phụ thuộc vào sự bền vững của thị trường.
Người ta nhận định rằng vài đợt “tụt dốc” vừa qua là sự điều chỉnh cần thiết của thị
trường chứng khoán Việt Nam nhằm đảm bảo để thị trường tăng trưởng bền vững. Điều
này đặt ra yêu cầu rằng các yếu tố bên trong của các doanh nghiệp cần được cải thiện kịp
thời (ít nhất là quản trị, điều hành, chiến lược kinh doanh,…) đi đôi với môi trường vi mô
cởi mở (bao gồm cả yếu tố hội nhập). Ngược lại, nếu môi trường vĩ mô và các yếu tố vi mô
không được cải cách thì có thể doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng khó khăn hoặc là khó
vượt qua khó khăn hiện thời; Trong đó, đặc biệt là nếu có nhiều rào cản không cho đầu tư
công nghệ và quản lý tốt từ nước ngoài vào thì vấn đề quản trị, điều hành ở doanh nghiệp
sẽ khó được cải thiện trong tương lai… Khi môi trường vĩ mô không thuận lợi, “bong bóng
chứng khoán” sẽ nổ bất kỳ lúc nào và hậu quả của sự cố đó lại càng khôn lường.
Hiện tại, các chuyên gia kinh tế cũng đánh giá rằng mặc dù thị trường chứng khoán
Việt Nam có rất nhiều triển vọng nhưng cũng có không ít rủi ro về vĩ mô và vi mô. Những
yếu tố vĩ mô và vi mô này sẽ những yếu tố quan trọng, quyết định sự bền vững của thị
trường chứng khoán trong tương lai (hoặc là chứng khoán có tăng giá hay sụt giá như thế
nào):
- Các yếu tố vĩ mô: Việc Việt Nam tham gia nhập WTO, các rào cản (giấy phép, các
phân biệt đối xử, thủ tục hành chính,…) không phù hợp sẽ từng bước bị loại bỏ. Tuy nhiên
thực tế cho thấy việc loại bỏ các rào cản ở Việt Nam cũng cần có thời gian. Việc hạn chế
các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần khu vực ngân hàng chẳng hạn được người ta kỳ
vọng là 49% tổng số vốn tự có của ngân hàng vào năm 2006, nhưng hiện tại mới được mức
30%. Chính điều này sẽ có thể ảnh hưởng đến tiến trình cải tổ về quản trị của các ngân
hàng… Cũng theo tiến trình hội nhập quốc tế, hệ thống luật lệ nói chung sẽ được thay đổi
và ban hành mới để tạo lập khuôn khổ pháp lý và “chỗ dựa” cho các chứng khoán; tuy
nhiên, theo kinh nghiệm thực tế cho thấy, việc sửa đổi hệ thống luật lệ hiện thời về ngân
hàng và ban hành mới cũng không thể làm trong ngày một, ngày hai và nếu có thể thì vấn
đề về tính thực thi cũng rất hạn chế. Mức độ tham nhũng ở Việt Nam vẫn còn là vấn đề mà
tại Hội nghị các nhà tài trợ cho Việt Nam tổ chức vào tháng 12/2006, đã lên tiếng quan
ngại về quản lý hiệu quả nguồn vốn ODA; gần đây người ta cũng lo ngại về tình trạng rửa
tiền qua thị trường chứng khoán…
- Những yếu tố vi mô: Những rủi ro vi mô (bên trong doanh nghiệp) là khả năng quản
lý tài chính của các doanh nghiệp vẫn còn hết sức hạn chế. Rất ít doanh nghiệp Việt Nam
có hệ thống quản lý rủi ro đáng tin cậy theo thông lệ tốt nhất của quốc tế (nhất là khu vực
tài chính, ngân hàng); Thêm vào đó, việc công bố thông tin ra công chúng vẫn còn nhiều
bất cập (do chuẩn mực kế toán Việt Nam còn có khoảng cách với chuẩn quốc tế). Việc hạn
chế sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài (nhất là nhà đầu tư chiến lược). Người ta cho
rằng, không thể lấy vốn để thay cho quản lý tốt. Tuy nhiên, dễ nhận thấy rằng, các doanh
nghiệp trong nước sử dụng thị trường chứng khoán để tăng vốn hơn là để tăng cường quản
trị/ quản lý. Điều này dẫn đến, thị trường chứng khoán nóng lên vì các doanh nghiệp đua
nhau phát hành cổ phiếu để tăng vốn và thiên về chứng khoán nợ; Vốn của doanh nghiệp
tăng chóng mặt, trong khi quản trị/ quản lý doanh nghiệp thì vốn đó. Điều đáng lo ngại là
nhiều công ty cho rằng “cứ có tiền là làm được tất cả” và khu vực ngân hàng thì các
chuyên gia kinh tế vẫn nhận định rằng nợ xấu “chưa được xử lý tận gốc”. Báo cáo phát
triển tháng 12/2006 của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng cho rằng “các khoản nợ xấu của
các ngân hàng thương mại nhà nước chủ yếu được xử lý bằng cách xoá nợ và tái cấp vốn
cho các ngân hàng này mà không phụ thuộc vào việc các ngân hàng này có cải cách mạnh
mẽ hay không…”.
Đánh giá về khu vực tài chính Việt Nam hiện nay, đại diện Ngân hàng thế giới (WB)
tại Việt Nam nhận định rằng: “Sự phát triển ngoạn mục nhất (và hơi đáng lo ngại) là sự
tăng vọt thị trường chứng khoán với chỉ số VN-Index tăng gấp đôi trong vòng một năm.”
(WB-2006)5. Điều đó có thể được hiểu là sự tăng trưởng của thị trường vừa qua có chứa
đựng những rủi ro và đi kèm với cơ hội. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) tại Việt Nam vào đầu
tháng 3/2007 cũng gửi đến Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước bày tỏ quan ngại về sự “bùng
nổ quá mức” của thị trường chứng khoán Việt Nam . Theo ước tính của IMF, chỉ số P/E
của 20 công ty lớn nhất thị trường Việt Nam (chiếm 99% vốn hoá của thị trường) niêm yết
tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội và Trung tâm Giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh là khoảng 73 lần (tính đến tháng 1/2007). IMF cũng cho rằng, hiện tượng
tăng giá chứng khoán và số P/E tăng nhanh là hiện tượng phổ biến trên thị trường mới nổi,
nhưng vẫn là rất cao so với chuẩn mực thị trường khác (Nhất Linh, 20076).
Trên nền tảng thị trường chứng khoán Việt Nam như hiện nay, các tổ chức này dự
báo năm 2007, chỉ số P/E trung bình của thị trường sẽ giảm xuống còn 16,8 lần và đến cuối
năm 2008, chỉ số này sẽ giảm xuống còn 13,6 lần do khi đó có nhiều doanh nghiệp Việt
Nam sẽ phát hành cổ phiếu để tăng vốn, trong khi tốc độ tăng trưởng lợi nhuận trong giai
đoạn này chưa thể theo kịp tốc độ tăng trưởng vốn và nhiều doanh nghiệp không còn được
hưởng ưu đãi về thuế (Tường Vi, 20067). Về tổng thể, nhiều chuyên gia nhận định rằng về
mặt tiềm năng thì thị trường chứng khoán Việt Nam là rất tốt với sự hỗ trợ mạnh mẽ của
quá trình cải cách kinh tế mở cửa, hội nhập quốc tế, yếu tố vĩ mô đang trở nên thông
thoáng hơn; tiềm năng về tăng trưởng và cơ cấu lại ở các doanh nghiệp theo chuẩn mực
quốc tế - trong điều kiện nền kinh tế đang chuyển đổi đã làm cho giá thị trường của chứng
khoán của nhiều doanh nghiệp vượt xa so với mệnh giá ban đầu.
- Năng lực hạn chế và sự quá tải của các công ty chứng khoán Việt Nam. Vừa qua các
công ty chứng khoán đã ồ ạt được khai sinh. Sự mới tham gia thị trường dẫn đến tình trạng
các công ty đều thiếu nhân lực nghiêm trọng; cơ sở hạ tầng bất cập và thiếu thốn… Thời
gian gần đây, một vài công ty chứng khoán đã thực hiện “thanh lọc” bớt các nhà đầu tư
theo kiểu đưa ra mức khống chế số tiền tối thiểu nào đó có thể được coi là phản ứng của
các công ty chứng khoán trước tình trạng quá tải trước trào lưu hay hội chứng “chứng
khoán” hiện nay. Các công ty chứng khoán mới ra đời và trên cơ sở thị trường còn rất mới
mẻ cũng làm cho các dữ liệu thị trường mà các công ty đưa ra cho các phân tích kỹ thuật là
rất ít ý nghĩa đối với các nhà đầu tư. Một vài công ty chứng khoán vừa qua bị Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước phạt vì sai phạm này hay sai phạm khác (cho dù chưa có dấu hiệu
gì nghiêm trọng) nhưng cũng phản ánh rằng các công ty này hoạt động kém chuyên nghiệp
và những rủi ro có thể “nổ ra” ngay từ những nơi rất trọng yếu này.
- Yếu tố cơ sở hạ tầng tin học/viễn thông: Hiện tượng “sập thị trường” ngày
8/12/2006 tại Trung tâm giao dịch TP. Hồ Chí Minh vừa qua được giải thích là yếu tố kỹ
thuật và không gây ra hậu quả gì nghiêm trọng. Tuy nhiên nó lại là tiếng chuông cảnh báo
về sự bất cập của cơ sở hạ tầng cho các giao dịch điện tử về tài chính (mà ở đây là giao
dịch chứng khoán) so với tốc độ phát triển của thị trường. Đó cũng là yếu tố rủi ro tiểm
năng nếu không có những điều chỉnh, thay thế, nâng cấp kịp thời từ Trung tâm giao dịch
đến các công ty kinh doanh chứng khoán;
- Dịch chuyển vốn từ tín dụng sang đầu cơ chứng khoán ở Việt Nam. Tại Việt Nam,
hiện tại chưa có đánh giá về tác động của dòng vốn dịch chuyển từ ngân hàng sang chứng
khoán. Tuy nhiên vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã thừa nhận có dòng vốn đáng kể dịch
chuyển từ khu vực tín dụng sang đầu tư chứng khoán. Tín dụng cho nền kinh tế tăng
trưởng khá thấp do dòng vốn chuyển sang đầu tư chứng khoán (bằng chứng là dư nợ cho
vay thế chấp chứng khoán tăng mạnh); tiền gửi ngân hàng cũng giảm sút đáng kể vào dịp
cuối năm 2006. Phản ứng trước tình hình dư nợ cho vay cầm cố cổ phiếu tăng cao, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản số 7318/NHNN-CSTT (ngày 25/8/2006) yêu cầu
các ngân hàng thương mại phải thực hiện một số biện pháp thắt chặt an toàn trong cho vay
mua cổ phiếu/ cầm cố cổ phiếu. Bản đánh giá đầu năm 2007 của IMF cũng chỉ ra rằng,
Việt Nam đang đối mặt với rủi ro về tình trạng có dòng vốn chảy từ tín dụng ngân hàng
sang chứng khoán và rủi ro liên quan đến chứng khoán của các ngân hàng cũng đang tăng
cao.
Những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam vừa qua phản ánh các yếu tố
vĩ mô và vừa phản ánh các yếu tố vi mô. Nếu xét về mặt vĩ mô và vi mô và sự thận trọng
cần thiết cả về mặt cơ sở kỹ thuật cho thị trường, ta có thể nhận định rằng sự “sập sàn
Trung tâm Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh - do yếu tố kỹ thuật”, hiện tượng “bong
bóng chứng khoán” và sự “tụt dốc” của thị trường trong thời gian vừa qua là những dấu
hiệu phản ánh sự phát triển chưa thực sự bền vững của thị trường chứng khoán Việt Nam
(cho dù hiện tại thị trường đã hạ nhiệt). Sự kém bền vững hay “tính dễ tổn thương” của thị
trường chứng khoán Việt Nam có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế bền vững, xoá đói
giảm nghèo, tác động tiêu cực đến sự bền vững của cả khu vực tài chính, các doanh
nghiệp... và cụ thể là nó làm “không an tâm” các nhà đầu tư.
Việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển nhanh, mạnh là cần thiết nhằm tạo
kênh huy động vốn, tằng cường quản trị/ quản lý cho các doanh nghiệp trong nước và rộng
hơn là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế… là rất cần thiết đối với Việt Nam. Tuy nhiên, việc
duy trì thị trường phát triển bền vững (như không đổ vỡ,...) cũng là cực kỳ quan trọng khi
Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay.
Những diễn biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam vừa qua là tương đối “ổn
định”, không “sốc” mạnh; Tuy nhiên, chúng ta có thể thống nhất rằng, ngay từ bây giờ
chúng ta cần có sự điều chỉnh chính sách vĩ mô (như môi trường đầu tư, tính minh bạch của
thị trường, mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài tham gia các doanh nghiệp trong nước,…)
và các điều chỉnh ở cấp vi mô tại mỗi doanh nghiệp (như tăng cường quản trị, điều hành,
tăng cường công nghệ,…); nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho thị trường… nhằm đảm bảo
để thị trường tăng trưởng bền vững là cần thiết.
Phụ lục 4
LỰA CHỌN LÃI SUẤT CHỦ ĐẠO ĐỂ THAY THẾ CHO LÃI SUẤT CƠ BẢN
NHNN Việt Nam lựa chọn lãi suất nào để dùng lảm lãi suất chủ đạo? Để trả lời cho
câu hỏi này, hiện nay, còn có nhiều quan điểm khác nhau; trong đó có 5 quan điểm chính
như sau:
(1) Có quan điểm cho rằng cần tiếp tục duy trì lãi suất cơ bản dùng làm lãi suất
chủ đạo như Luật NHNN qui định, nên bên cạnh lãi suất cơ bản, NHNN vẫn ban
hành nhiều loại lãi suất khác nhau, dù các loại lãi suất này đã thoát ly dần với lãi
suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
(2) Quan điểm cho rằng lãi suất thị trường mở là lãi suất chủ đạo cũng được nhiều
người lựa chọn do NHNN có thể thông qua nghiệp vụ thị trường mở để điều hành
chính sách lãi suất một cách có hiệu quả.
(3) Một số quan điểm cho rằng NHNN chỉ cần sử dụng lãi suất liên Ngân hàng
làm lãi suất chủ đạo, vì lãi suất liên Ngân hàng luôn biến động theo lãi suất kinh
doanh của các tổ chức tín dụng.
(4) Một số người cho rằng NHNN có thể xem lãi suất chiết khấu như lãi suất chủ
đạo, bởi vì thông qua cánh cửa tái chiết khấu, NHNN vẫn có thể điều hành một
cách hiệu quả lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng.
(5) Cuối cùng, có quan điểm cho rằng sử dụng lãi suất tái cấp vốn thay cho lãi suất
cơ bản dùng làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh lả hợp
lý nhất.
Thực tế cho thấy lãi suất cơ bản đã xa rời lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng
và đồng thời lãi suất liên ngân hàng lại phụ thuộc vào các NHTM, nên chúng ta có thể loại
trừ hai loại lãi suất này.
Nếu xét NHNN thực hiện chức năng Ngân hàng của các tổ chức tín dụng tức là người
cho vay cuối cùng, chúng ta có thể dễ dàng loại trừ tiếp lãi suất thị trường mở. Như vậy,
chúng ta chỉ cần lựa chọn một trong hai loại: lãi suất tái cấp vốn hoặc lãi suất tái chiết khấu
để thay cho lãi suất cơ bản.
Quan điểm sử dụng lãi suất tái cấp vốn thay cho lãi suất cơ bản tỏ ra hợp lý hơn vì
Luật NHNN giải thích: lãi suất tái chiết khấu là hình thức lãi suất tái cấp vốn được áp dụng
khi NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho các tổ chức tín dụng
(Điều 9). Mặt khác, Điều 17, Luật NHNN Việt Nam cũng xác định hình thức tái cấp vốn
bao gồm: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu; tái chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá khác; cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
khác. Như vậy, lãi suất tái cấp vốn có khái niệm rộng hơn so với lãi suất tái chiết khấu bởi
vì nó bao gồm cả nghiệp vụ tái chiết khấu lẫn nghiệp vụ cho vay của NHNN đối với các tổ
chức tín dụng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 46790.pdf