LỜI NÓI ĐẦU
Thuế không chỉ là công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý nền kinh tế mà còn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.Thông qua việc thu thuế nhà nước có thể tập trung một phần nguồn lực xã hội vào tay mình để có thể thực hiện chức năng của mình.
Từ khi nước ta thực hiện đổi mới, Đảng và nhà nước chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các thành phần trong xã hội có thể tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật trong đó có việc tự do lựa chọn loại hình doanh nghiệp. Nhà nước cho phép các cá nhân, tổ chức trong xã hội được tự do sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Nhờ chính sách thông thoáng của nhà nước đặc biệt là khi luật doanh nghiệp 2005 được áp dụng và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta, cùng với sự hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển ngày càng mạnh mẽ cả về quy mô, số lượng và lĩnh vực hoạt động. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau do vậy cũng đã góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên ở nước ta hiện nay việc quản lý thuế đối với các doanh nghiệp này vẫn còn nhiều bất cập. Mặc dù hai luật thuế GTGT và TNDN đã thực hiện được một thời gian khá dài nhưng công tác quản lý chưa chặt chẽ vẫn còn nhiều kẽ hở vì vậy một số doanh nghiệp đã lợi dụng để trốn lậu thuế, do đó một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngành thuế nói chung và chi cục thuế huyện Đông Anh nói riêng là phải tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp, tổ chức có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhất là đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhằm tránh thất thoát cho ngân sách nhà nước và đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước.
Hiện nay nước ta ngày càng hội nhập sâu với kinh tế thế giới do vậy nhiều loại thuế đang được cắt giảm theo những hiệp định đã ký kết nhất là các loại thuế xuất nhập khẩu, đồng nghĩa với việc cắt giảm các loại thuế này là NSNN sẽ mất đi một khoản thu đáng kể do vậy mà việc chống thất thu thuế ngày càng trở nên cấp thiết.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, qua thời gian tìm hiểu thực tế tại Đội Kiểm tra - chi cục thuế huyện Đông Anh kết hợp với những kiến thức đã được học ở trường em mạnh dạn đi sâu tìm hiểu nghiên cứu đề tài: ”Các giải pháp tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh”.
Nội dung đề tài gồm ba phần
Chương 1: Lý luận chung về thất thu thuế và sự cần thiết phải tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Đông Anh.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Đông Anh.
CHƯƠNG 1:LÝ LUẬN CHUNG VỀ THẤT THU THUẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHỐNG THẤT THU THUẾ GTGT VÀ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH.
1.1. Lý luận chung về thất thu thuế
1.1.1. Khái niệm
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định nhằm sử dụng cho mục đích công.
Lịch sử đã chứng minh thuế ra đời là cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước.
Thất thu thuế được hiểu là hiện tượng trong đó những khoản tiền từ các cá nhân, tổ chức có tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hay có những điều kiện cơ sở vật chất nhất định so với khả năng của họ cần phải động viên vào NSNN, song vì những lý do xuất phát từ phía nhà nước hay người nộp thuế mà những khoản tiền đó không được nộp vào NSNN.
Như vậy có thể hiểu thất thu thuế có hai hình thức đó là: Thất thu thực và thất thu tiềm năng.
- Thất thu thuế thực: Được hiểu là những khoản tiền phải thu vào NSNN đã được quy đinh trong luật nhưng thực tế vì lý do nào đó không được nộp vào NSNN.
- Thất thu thuế tiềm năng: Được hiểu là những khoản tiền thuộc khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế đáng lẽ phải được khai thác động viên vào NSNN nhưng không được quy định trong các luật thuế.
Dạng thất thu thuế là những biểu hiện bên ngoài của thất thu thuế theo những tiêu thức nhất định. Do vậy có thể khái quát các dạng thất thu thuế cơ bản như sau:
* Thất thu thuế do không bao quát hết số cơ sở sản xuất, kinh doanh: Tình trạng này xảy ra do các cơ sở sản xuất, kinh doanh không đăng ký kinh doanh, không đăng ký mã số thuế hoặc có thể đăng ký kinh doanh nhưng không đăng ký mã số thuế nhưng vẫn tiến hành sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra cũng có thể do các cơ sở này xin tạm nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
* Nhiều đối tượng cố tình kê khai không đúng số thuế đáng lẽ phải nộp theo quy định của pháp luật cũng như thực tế mà các doanh nghiệp đang kinh doanh. Các doanh nghiệp cũng như các hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai thấp hơn nhiều so với số thuế thực tế phải nộp bằng cách khai tăng chi phí, giảm doanh thu thậm chí khai sai thuế suất.
* Các người nộp thuế nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tìm mọi cách để trốn, lậu thuế như lập 2 hệ thống sổ sách kế toán để đối phó với cơ quan thuế, thực tế cho thấy nhiều kế toán của các công ty “sở hữu” hàng trăm chữ ký khác nhau.
* Trốn thuế thông qua buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới không những không giảm mà có chiều hướng ngày càng tăng và phức tạp hơn trước.
* Thất thu từ hoạt động xây dựng, du lịch lữ hành, vận tải tư nhân, cho thuê nhà nghỉ còn lớn do nhà nước chưa có các biện pháp quản lý các hoạt động này có hiệu quả. Vì vậy các cá nhân, các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp thường không khai báo, không đăng ký nộp thuế nhằm trốn, tránh nghĩa vụ thuế với nhà nước,.
* Thất thoát do không bao quát hết thu nhập của người nộp thuế cũng như số lượng người phải nộp thuế thu nhập cá nhân vì số lượng các cá nhân hành nghề tự do còn lớn, chưa có biện pháp quản lý hiệu quả thu nhập của họ. Hiện nay thu nhập của người lao động ở nước ta có nhiều nguồn thu khác nhau và thường lớn hơn nhiều so với quỹ lương nhưng nhà nước mới chỉ quản lý được phần thu nhập thông qua quỹ lương mà cá cơ quan, đơn vị chi trả, còn những khoản thu nhập từ các nguồn khác thì chưa có biện pháp quản lý hiệu quả.
* Thất thu thuế từ các khoản phí, lệ phí do chưa có biện pháp quản lý có hiệu quả ví dụ như tình trạng bán vé cầu đường giả diễn ra rất “tấp nập” mà nhà nước chưa có biện pháp quản lý.
* Vì lợi ích cá nhân cán bộ thuế móc ngoặc với người nộp thuế để làm giảm số thuế phải nộp vào NSNN để chia chác.
Tình trạng thất thu thuế nói trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
* Do xuất phát từ người nộp thuế: Trong lịch sử phát triển của xã hội nhà nước ra đời là tất yếu khách quan trong xã hội có giai cấp. Để có thể đảm bảo quyền lợi của giai cấp thống trị, nhà nước cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình. Nguồn này được lấy bằng cách động viên một phần thu nhập của các tầng lớp trong xã hội. Với quyền lực của mình nhà nước đặt ra các loại thuế buộc mọi cá nhân và tổ chức trong xã hội phải tuân theo. Nhu cầu chi tiêu của nhà nước càng nhiều thì mức động viên của thuế càng cao. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các nhà kinh doanh là tối đa hóa lợi nhuận, do vậy họ luôn tìm cách để làm tăng doanh thu, giảm chi phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình, mà thuế cũng là một khoản chi mà họ phải nộp cho nhà nước nên sẽ làm giảm lợi nhuận mà họ thu được. Do đó vì lợi ích của mình họ luôn tìm cách làm giảm số thuế đáng lẽ phải nộp mà trốn được thuế không phải nộp thì càng tốt. Như vậy trong thuế luôn tồn tại mâu thuẫn giữa lợi ích của nhà nước và lợi ích của người kinh doanh, vì lẽ đó tình trạng thất thu thuế là không thể tránh khỏi.
* Các cơ quan quản lý nhà nước chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý thuế. Chính quyền các cấp chưa tích cực tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế làm việc.
* Nguyên nhân từ cơ quan thuế: Có thể do trình độ quản lý còn yếu, bộ máy tổ chức kém hiệu quả, hay có thể do trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý chưa cao hoặc có thể do chính sách thuế thay đổi liên tục, diễn giải không rõ ràng, còn có những thiếu sót, sơ hở dẫn đến việc hiểu sai luật thuế do đó sẽ dẫn đến thực hiện sai. Hoặc cũng có thể do trình độ cán bộ còn yếu nên không thể phát hiện ra những gian lận, sai sót trong các hóa đơn, chứng từ, sổ sách do vậy người nộp thuế có thể trốn thuế.
* Thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế đã được cải thiện nhiều song vẫn còn nhiều phiền hà, gây khó khăn cho người nộp thuế. Nhiều quy trình quản lý thuế chưa được rà soát, xem xét sửa đổi do vậy gây tâm lý sợ đến cơ quan thuế của người nộp thuế.
68 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4902 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các giải pháp tăng cường chống thất thu thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c kiểm tra không được tiến hành hoặc kiểm tra không tốt thì sẽ gây thất thoát rất lớn cho NSNN.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác kiểm tra vì vậy trong năm qua chi cục tích cực đẩy mạnh công tác kiểm tra thuế tại trụ sở doanh nghiệp và đạt được kết quả khá tốt, nhờ đó góp phần tăng thu cho ngân sách.
Bảng 3: Kết quả kiểm tra thuế tại trụ sở doanh nghiệp.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
Số đơn vị đã kiểm tra, kết luận
Kết quả truy thu và phạt
Tổng
Thuế GTGT
Thuế TNDN
Phạt
2007
117
3.785,04
576,20
2.933,50
275,54
2008
102
3.585,53
614,30
2.702,90
268,33
Nguồn: Chi cục thuế huyện Đông Anh
Công tác kiểm tra tại chi cục đạt được kết quả đó là do:
+ Chính sách thuế TNDN, GTGT được sửa đổi, bổ xung ngày càng hoàn thiện.
+ Quy trình thanh tra được đổi mới so với trước đây, Đội ngũ cán bộ thanh tra ngày càng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng.
+ Công tác thanh tra, kiểm tra được sự chỉ đạo, quan tâm của lãnh đạo chi cục, có sự phối hợp với các cơ quan hữu quan khác.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi đó thì công tác thanh tra, kiểm tra vẫn còn nhiều hạn chế do:
+ Ý thức chấp hành pháp luật thuế của các doanh nghiệp còn thấp.
+ Mặc dù đã được sửa đổi, bổ xung nhiều lần nhưng hai sắc thuế GTGT và TNDN vẫn còn hiều kẽ hở để các doanh nghiệp khai thác, lợi dụng.
+ Số lượng doanh nghiệp tăng lên theo từng năm nhưng cán bộ thanh tra mặc dù được tăng lên nhưng vẫn còn thiếu trung bình mỗi cán bộ đội kiểm tra quản lý trên 150 doanh nghiệp.
+ Sự phối hợp giữa cơ quan thuế và các cơ quan nhà nước khác đôi khi chưa được nhịp nhàng.
* Công tác đôn đốc thu nộp và thu hồi nợ đọng.
Thực tế cho thấy bên cạnh những doanh nghiệpngoài quốc doanh làm ăn có hiệu quả, luôn thực hiện tốt nghĩa vụ thuế đối với nhà nước thì vẫn có những doanh nghiệp bất chấp thủ đoạn, tìm mọi cách để trốn thuế, chiếm dụng tiền của nhà nước nhằm kiếm lợi riêng. Bên cạnh tình trạng trốn, lậu thuế còn xảy ra tình trạng nợ đọng kéo dài đã gây thất thu khá lớn cho NSNN mà cho đến nay tình trạng này vẫn chưa được giải quyết triệt để. Nợ đọng thuế là số tiền thuế mà người nộp thuế phải nộp trong kỳ tính thuế nhưng hết hạn nộp thuế vẫn chưa nộp cho cơ quan thuế hoặc là nộp nhưng vẫn còn thiếu. Tình trạng nợ đọng thuế xảy ra có thể là do doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả nên không thể nộp thuế hoặc có thể là do doanh nghiệp chây ỳ, cố tình không nộp do vậy nhà nước không thu được kịp thời số thuế của doanh nghiệp và xảy ra tình trạng thất thu thuế.
Trong năm qua chi cục thuế đã có nhiều biện pháp nhằm tăng cường thu hồi nợ đọng như: Sắp hết thời hạn nộp thuế, chi cục gọi điện nhắc nhở, thông báo nộp thuế cho các doanh nghiệp; Tiến hành phân loại nợ thuế để có các biện pháp đôn đốc thu nợ thích hợp; Đẩy mạnh công tác thu thuế trong mỗi tháng hạn chế tình trạng nợ mới phát sinh; Một số doanh nghiệp có số nợ lớn, kéo dài chi cục đã mời lên cơ quan thuế để làm việc và đôn đốc nộp nợ đọng. Bên cạnh đó chi cục còn phối hợp với cơ quan công an để xử lý đối với một số đối tượng chây ỳ, kết hợp với ngân hàng trong việc thu nợ. Trong năm 2008 chi cục đã phối hợp với công an huyện Đông Anh xử lý 01 trường hợp vi phạm về thuế, đã truy thu và xử phạt số tiền là 39,5 triệu đồng, thu hồi nợ đọng của 01 doanh nghiệp số tiền là 280 triệu đồng. Chính nhờ các biện pháp đó mà kết quả thu nợ trong năm 2008 cũng rất khả quan với tổng số tiền thu nợ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 21.699,1 triệu đồng.
Tuy nhiên, một thực trạng tồn tại đó là tính đến cuối tháng 12/2008 số nợ đọng thuế GTGT và TNDN tại chi cục là 556 lượt doanh nghiệp, với tổng số thuế nợ đọng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 11.010,1 triệu đồng (trong đó nợ của các doanh nghiệp bỏ trốn là 395,6 triệu đồng, nợ của các doanh nghiệp bỏ kinh doanh là 1.424,6 triệu đồng). Cụ thể tình hình nợ đọng thuế của từng loại hình như sau:
Bảng 4: Tình hình ghi thu và nợ đọng thuế GTGT và TNDN của các doanh ngiệp ngoài quốc doanh tính đến thời điểm 31/12
Đơn vị tính: triệu đồng
Loại hình DN
Năm 2007
Năm 2008
Ghi thu
Nợ đọng
Tỷ lệ nợ đọng trên ghi thu %
Ghi thu
Nợ đọng
Tỷ lệ nợ đọng trên ghi thu %
Cty cổ phần
12.799,8
2.242,7
17,5
19.076,6
3.741,9
19,6
Cty TNHH
18.655,2
3.603,9
19,3
24.886,3
6.012,4
24,2
DN tư nhân
819
58
5,2
1.762,8
392,3
22,3
HTX
942,6
135,7
14,6
1.451,2
140,2
9,7
Chi nhánh
456,9
9,3
2,0
603,2
12,9
2,1
Quỹ tín dụng
182,2
6,3
3,4
198,4
23,7
11,9
khác
75,5
8,9
11,8
85,6
36.2
42,3
Tổng
33.931,2
6.058,2
17,9
48.064,1
10.359,6
21,6
Nguồn: Chi cục thuế huyện Đông Anh
Qua bảng số liệu có thể thấy tỷ lệ nợ đọng thuế GTGT và TNDN của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn lớn và có xu hướng tăng lên, năm 2007 tỷ lệ nợ đọng trên ghi thu của các doanh nghiệp này là 17,9% tương ứng với số tiền 6.058,2 triệu đồng, thì đến năm 2008 số tiền nợ thuế GTGT và TNDN là 10.359,6 triệu đồng với tỷ lệ nợ là 21,6%. Trong đó loại hình công ty TNHH nợ nhiều nhất năm 2008 tổng nợ là 6.012,4 triệu đồng, chiếm 24,2% so với số thuế GTGT và TNDN ghi thu trong năm và tăng 2.408,5 triệu đồng so với cùng kỳ năm 2007. Tiếp đến là loại hình công ty cổ phần nợ đọng thuế năm 2008 là 3.741,9 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ 19,6% so với thuế GTGT và TNDN ghi thu, tăng 1.499,2 triệu đồng so với năm 2007. Chi nhánh có số nợ đọng thấp nhất năm 2008 số nợ là 12,9 triệu đồng, tăng 3,6 triệu đồng so với năm 2007.
Một số doanh nghiệp có số thuế nợ đọng lớn như:
Công ty TNHH Thăng Long, mã số thuế (mst): 0100766077, tổng nợ tính đến 31/12/2008 là 402,43 triệu đồng, công ty TNHH xây dựng Minh Đạt tổng nợ tính đến 31/12/2008 là 315,89 triệu đồng, công ty thương mại Minh Tâm, mst: 010125219 tổng nợ là 831,08 triệu đồng.
Mặc dù chi cục đã áp dụng nhiều biện pháp để thu hồi nợ đọng, cưỡng chế thuế như phối hợp với cơ quan công an, phong tỏa ngân hàng, thu qua ngân hàng, thu qua bên thứ ba. Nhưng nhiều ngân hàng không chịu hợp tác, hoặc hợp tác một cách miễn cưỡng, kéo dài thời gian và khi ngân hàng thông báo cho chi cục thì trên tài khoản của đơn vị số dư là không đáng kể nên việc thu hồi nợ thuế qua ngân hàng cũng rất hạn chế.
* Công tác hoàn thuế:
Hoàn thuế GTGT thể hiện tính ưu việt của sắc thuế GTGT, việc hoàn thuế góp phần giúp cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất thuận lợi hơn.Tuy nhiên nếu công tác kiểm tra hoàn thuế nếu không được thực hiện tốt thì rất dễ để xảy ra trường hợp một số doanh nghiệp lợi dụng để kiếm lợi riêng không những nhà nước mất đi một khoản thu mà còn bị các doanh nghiệp này lấy tiền từ NSNN do những khoản hoàn khống.
Công tác hoàn thuế tại chi cục được tiến hành theo đúng quy định, kịp thời giúp cho doanh nghiệp được thuận lợi trong hoạt động của mình.Tuy nhiên để tránh tình trạng hoàn không đúng chi cục tiến hành kiểm tra sau hoàn thuế. Mặc dù có nhiều doanh nghiệp thuế GTGT âm trong nhiều tháng nhưng không xin hoàn. Trong năm 2006 toàn chi cục chỉ có duy nhất một trường hợp được hoàn là công ty TNHH TM Đông Việt, mã số thuế 0101240833 số tiền hoàn là 1.416.281.091 đồng. Chi cục đã tiến hành kiểm tra sau hoàn thuế và thu hồi số tiền là 8.588.736 đồng và phạt hành chính đối với doanh nghiệp là 12.833.104 đồng do doanh nghiệp có hành vi trốn thuế. Năm 2007 chi cục không có trường hợp nào xin hoàn, sang năm 2008 chi cục hoàn thuế cho công ty cổ phần kim khí Đông Anh, mã số thuế 0102024056 số thuế 1.915.000.000 đồng.
Đạt được kết quả trên là do chi cục thuế Đông Anh đã thực hiện tăng cường công tác đối chiếu xác minh hóa đơn đối với các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa, dịch vụ trong và ngoài huyện để xác định giá trị hàng hóa thực tế mua vào, thuế GTGT đầu vào đã kê khai nhằm kịp thời phát hiện ra các trường hợp sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, có hành vi gian lận thuế. Kết quả trong năm 2008 chi cục đã gửi đi xác minh 127 phiếu với 168 hóa đơn, đã có trả lời 119 phiếu với 155 hóa đơn qua đó đã xử lý 1 phiếu với số tiền 12,07 triệu đồng. Trong năm chi cục cũng nhận được 757 phiếu với 1.247 hóa đơn nhờ xác minh, chi cục đã trả lời xác minh 731 phiếu với 1.195 hóa đơn, qua đó xử lý 4 hóa đơn với số tiền là 32,12 triệu đồng.
2.2.4. Đánh giá chung về công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh
2.2.4.1. Những kết quả đạt được
Năm 2008 chi cục thuế đã thu và nộp cho ngân sách được 247.408,4 triệu đồng, đạt 139,9% pháp lệnh, đạt 134,6% so với dự toán phấn đấu, tăng 47,7% so với cùng kỳ. Riêng đóng góp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 43.363,2 triệu đồng tăng 55,37 % so với năm 2007, trong đó thu từ thuế GTGT là 27.647,8 triệu đồng chiếm 63,8% trong tổng thu từ thuế của các doanh nghiệp, thu từ thuế TNDN là 14.120,7 triệu đồng, chiếm 32,6 % tổng thu thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thu nợ thuế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong năm đạt 21.699,1 triệu đồng. Sở dĩ chi cục trong năm qua đạt được thành tích đó là do:
- Chi cục đã tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế .Nhờ vậy ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp cũng tăng lên.
- Chi cục thuế được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của cấp trên cùng với đó là sự phối hợp hoạt động có hiệu quả với các cơ quan nhà nước khác như ngân hàng, công an, quản lý thị trường trong việc tổ chức thu thuế.
- Công tác kiểm tra tại doanh nghiệp có hiệu quả cũng góp phần hạn chế tình trạng thất thu thuế.
- Công tác tổ chức, bồi dưỡng cán bộ thuế tại chi cục được chú ý do vậy trình độ của các cán bộ được tăng lên, góp phần tăng cường hiệu quả công tác quản lý và chống thất thu thuế.
- Việc áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế nên có thể quản lý được sát sao các người nộp thuế cũng như việc sử dụng hóa đơn của các doanh nghiệp.
2.2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì công tác quản lý chống thất thu thuế GTGT và TNDN tại chi cục trong năm qua vẫn còn nhiều hạn chế như:
- Tình trạng thất thu thuế còn nhiều, trong đó thất thu thuế về căn cứ tính thuế còn phổ biến.
- Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa tự giác kê khai đúng doanh thu, chi phí thực tế trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Nhất là trong lĩnh vực kinh doanh ô tô, vận tải tư nhân,…
- Tình trạng dây dưa, nợ đọng thuế còn nhiều chưa khắc phục được triệt để và có xu hướng tăng lên. Tính đến 31/12/2007 số thuế nợ đọng là 6.423,4 triệu đồng thì đến 31/12/2008 là 11.010,1 triệu đồng.
- Tình trạng doanh nghiệp bán hàng không xuất hóa đơn, giá ghi trên hóa đơn thấp hơn giá thanh toán của khách hàng, dùng hóa đơn của các doanh nghiệp bỏ trốn để hợp thức hóa đầu vào vẫn còn nhiều.
- Công tác kiểm tra mặc dù được đẩy mạnh nhưng do số lượng cán bộ có hạn, số lượng doanh nghiệp phải quản lý nhiều nên chỉ tiến hành kiểm tra các doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm còn các doanh nghiệp khác thì chưa có điều kiện để tiến hành.
Nguyên nhân:
- Về cơ chế chính sách:
+ Hệ thống chính sách thuế chưa bao quát hết ĐTNT, còn nhiều mức thuế ưu đãi, thời gian miễn, giảm thuế, điều kiện ưu đãi chưa quy định cụ thể trong luật; còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội; cơ chế quản lý thuế chưa được quy định rõ ràng đặc biệt là vấn đề xử lý vi phạm trong các văn bản quy phạm pháp luật. Nguyên nhân là do khi xây dựng chính sách thuế chưa nhận thức hết phạm vi điều chỉnh của từng sắc thuế và chưa lường hết nguồn thu sẽ phát sinh trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường.
+ Giữa chính sách thuế với Chế độ kế toán và Chuẩn mực kế toán chưa có sự đồng nhất. Do đó, việc hạch toán kế toán theo chế độ quy định nhưng khi xác định nghĩa vụ thuế phải loại trừ những những khoản chi phí không hợp lý, hợp lệ khi xác định nghĩa vụ thuế, từ đó tạo nên sự phức tạp và dễ nhầm lẫn khi thực hiện cơ chế tự kê khai, tự nộp.
- Về phía chi cục thuế:
+ Tổ chức bộ máy của chi cục thuế mặc dù đã được tăng cường nhưng trình độ nghiệp vụ còn hạn chế chưa đáp ứng được với những biến động đầy phức tạp của thị trường, một số cán bộ chưa nắm bắt được chính xác tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Việc phối hợp với các cơ quan nhà nước có liên quan như ngân hàng, cơ quan công an đôi khi không được nhịp nhàng.
- Về phía các doanh nghiệp:
+ Ý thức tự giác, tự nguyện của các doanh nghiệp trong việc kê khai, nộp thuế mặc dù được nâng lên nhưng nhiều doanh nghiệp vẫn cố tình tìm mọi cách để trốn thuế.Tình trạng các doanh nghiệp khi không được đôn đốc nhắc nhở thì không nộp tờ khai vẫn còn nhiều, tình trạng dây dưa nợ đọng tiền thuế còn khá phổ biến.
+ Bên cạnh đó tổ chức công tác kế toán và bộ máy kế toán ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện nay còn rất sơ sài, chưa chú ý đến việc tổ chức công tác kế toán hợp lý và khoa học phù hợp với đặc điểm tổ chức quản lý kinh doanh, các kế toán viên thông thường là kiêm nhiệm, trình độ kế toán còn hạn chế cho nên nhiều chỉ tiêu trong tờ khai còn ghi sai, ghi thiếu, bỏ sót doanh thu còn khá nhiều.
- Ngoài ra, còn bởi một phần nguyên nhân chủ quan từ người tiêu dùng không đòi hỏi hoá đơn khi mua hàng hoá, dịch vụ hoặc không quan tâm đến nội dung của hoá đơn. Việc này đã vô tình đã tiếp tay cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trốn, lậu thuế và gây khó khăn cho công tác quản lý thuế nói chung và thuế GTGT và TNDN nói riêng trên địa bàn huyện Đông Anh.
Việc để xảy ra tình trạng thất thu thuế không những không đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế, làm ảnh hưởng không tốt tới uy tín của chi cục mà còn làm cho các doanh nghiệp coi thường luật pháp vì vậy một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong năm tới là chi cục cần phải đẩy mạnh công tác chống thất thu thuế đặc biệt là đối với thuế GTGT và TNDN.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHỐNG THẤT THU THUẾ GTGT VÀ TNDN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN ĐÔNG ANH
3.1. Mục tiêu của công tác tăng cường chống thất thu thuế
* Việc tăng cường các biện pháp chống thất thu thuế nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ số thuế cho NSNN, đảm bảo được nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong từng thời kỳ nhất định, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước ta đang trong quá trình cắt giảm nhiều loại thuế xuất nhập khẩu theo cam kết.
* Tăng cường chống thất thu thuế nhằm giảm thiểu tình trạng khai man, khai không đúng nhằm trốn, lậu thuế, nợ đọng tiền thuế và các tình trạng tiêu cực khác.Nhờ vậy không những đảm bảo được nguồn thu cho NSNN mà còn góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của nhân dân trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế.
* Việc chống thất thu thuế nói chung và thất thu thuế GTGT và TNDN nói riêng nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách, từ đó tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp.
* Đảm bảo vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước. Thông qua việc điều chỉnh thuế suất, nhà nước có thể khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn còn lạc hậu, kém phát triển, những lĩnh vực mà nhà nước thấy cần thiết cho sự phát triển của đất nước.
* Thông qua việc tăng cường chống thất thu thuế ý thức của nhân dân trong việc tuân thủ pháp luật thuế nói riêng cũng như pháp luật nói chung nhờ đó cũng sẽ được tăng lên.
Để thực hiện tốt các mục tiêu trên yêu cầu tất yếu trong công tác chống thất thu thuế là cần phải có sự quyết tâm của cơ quan thuế cũng như các cơ quan nhà nước trong việc đấu tranh với những biểu hiện của gian lận thuế.Bên cạnh đó đòi hỏi phải có sự cố gắng, sáng tạo, tinh thần làm việc hết mình của cán bộ ngành thuế cùng với sự ủng hộ tích cực của nhân dân. Một vấn đề quan trọng cần được quan tâm nữa là khâu hoạch định chính sách thuế phải phải đảm bảo sự phù hợp, khả thi, lường trước được các khả năng có thể xảy ra qua đó mới có thể đảm bảo sự ổn định của chính sách thuế.
Qua thực tế thực tập, nghiên cứu công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN tại chi cục thuế huyện Đông Anh trong thời gian qua, em xin đề xuất một số ý kiến nhỏ nhằm khắc phục những tồn tại và tăng cường hơn nữa công tác chống thất thu thuế trong những năm tới.
3.2. Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện Đông Anh
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
3.2.1.1. Tiếp tục sửa đổi và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế
Chính sách thuế là sự thể hiện chủ trương, đường lối, chính sách của nhà nước trong việc động viên nguồn tài chính vào NSNN.Một chính sách thuế được coi là hoàn hảo khi đạt được các mục tiêu sau:
Về mặt tài chính: Đem lại số thu lớn cho NSNN
Về mặt kinh tế: Có tác dụng khuyến khích ,thúc đẩy sản xuất phát triển
Về mặt xã hội: Đảm bảo sự công bằng
Về mặt nghiệp vụ: Đảm bảo sự hợp lý,đơn giản,đễ hiểu,dễ làm
Tuy nhiên để một sắc thuế đạt được tất cả các chỉ tiêu trên là rất khó khăn. Ví dụ như để đảm bảo công bằng thì phải quy định nhiều mức thuế suất, nhưng khi đó lại làm cho công tác thu thuế phức tạp và tốn kém chi phí. Hay như để có số thu lớn cho NSNN thì phải quy định mức thuế suất cao nhưng khi đó lại không khuyến khích sản xuất…hai loại thuế GTGT và TNDN cũng không phải là ngoại lệ. Để hạn chế thất thu thuế GTGT và TNDN cần phải quan tâm tới vấn đề sau:
* Hoàn thiện hệ thống các sắc thuế đảm bảo đáp ứng ứng yêu cầu hội nhập với thế giới, bên cạnh đó cần phải chú ý kết hợp hài hòa lợi ích giữa nhà nước, nhà kinh doanh và người dân lao động.Với chính sách thuế hợp lý sẽ khuyến khích các doanh nghiệp, người sản xuất tự giác, chủ động kê khai, nộp thuế theo đúng pháp luật, đúng thực tế kinh doanh.
- Trong luật thuế GTGT:
+ Để đảm bảo thuế GTGT là thuế tiêu dùng đánh trên bình diện rộng, có tính liên hoàn và trung lập kinh tế cao, luật thuế GTGT cần mạnh dạn thu hẹp diện miễn trừ thuế GTGT theo đó các đối tượng trước đây đang thuộc diện không chịu thuế GTGT sẽ đưa vào diện chịu thuế.
+ Cần giảm số lượng mức thuế suất theo hướng chỉ còn mức 0% và 10%.Hiện tại nước ta đang áp dụng thuế GTGT với 3 mức thuế suất là 0%,5% và 10%, thứ nhất sẽ gây khó khăn cho việc quản lý thuế trong việc áp dụng mức thuế 5% hay 10% vì chỉ cần một thay đổi nhỏ là có thể chuyển từ mức 10% xuống mức 5%, do vậy cơ chế với một mức thuế suất (trừ mức 0%) sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý, thu thuế, góp phần làm giảm chi phí hành thu. Ngoài ra nếu đã đánh thuế thì nên áp dụng thuế như nhau đối với các hàng hóa đảm bảo tính trung lập của thuế GTGT và do đó không bóp méo hành vi và quyết định của người tiêu dùng.
Tuy nhiên khi thực hiện biện pháp này nếu áp dụng ngay thuế suất 10% có thể gây nên khó khăn ban đầu vì vậy có thể áp dụng mức thuế suất 5% trong vài năm đầu.
+ Đối tượng chịu thuế GTGT được quy định trong luật là “hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT” thì sẽ không xác định được thời điểm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT vì vậy cần phải nghiên cứu và chỉnh sửa cho hợp lý, ví dụ ” đối tượng chịu thuế GTGT là các hoạt động chuyển giao hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam”.
+ Trong luật thuế GTGT mới thời điểm tính thuế là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng hàng hóa hay hoàn thành dịch vụ là không bao quát vì căn cứ nào để xác định là đã chuyển giao hay bên nhận hàng hóa đã nhận do vậy theo em nên giữ nguyên quy định như trong luật cũ là thời điểm tính thuế là thời điểm chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng hay xuất hóa đơn.
- Trong luật thuế TNDN:
+ Về thuế suất: Việc quy định thuế suất như trong luật hiện nay là không đảm bảo tính cụ thể, tính ổn định của hệ thống pháp luật.Ví dụ trong quy định về thuế suất đối với các doanh nghiệp tiến hành tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí là từ 25% đến 50%.Như đã biết thu từ đầu khí là khoản thu lớn trong tổng thu thuế TNDN nói riêng cũng như trong NSNN nói chung (các khoản thu từ dầu khí chiếm 20%-25% tổng thu NSNN) Vì vậy việc kiểm soát, điều tiết khoản thu từ dầu khí là cần thiết việc quy định các mức thuế suất khác nhau là phù hợp tuy nhiên trong luật lại không quy định cụ thể vì vậy để tạo sự minh bạch, rõ ràng, tránh sự áp dụng một cách tùy tiện, tạo cơ sở cho việc tính thuế thì luật cần phải xác định rõ tiêu chí cụ thể làm căn cứ tính thuế.
Về thuế suất ưu đãi: Trong luật quy định “đối với đự án cần đặc biệt thu hút đầu tư như các dự án có quy mô lớn và công nghệ cao thời gian áp dụng thuế suất có thể dài hơn 10, 15 năm. Có thể thấy là luật chưa quy định thế nào là ”cần đặc biệt thu hút đầu tư”, thế nào là “quy mô vốn lớn”…thời hạn cụ thể là bao lâu, thời hạn tối đa là bao nhiêu năm. Tất cả những quy định không rõ ràng đó có thể để cho các doanh nghiệp lợi dụng để mà trốn, lậu thuế.
+ Về việc trích lập quỹ đầu tư khoa học và công nghệ của doanh nghiệp vẫn còn hạn chế.Theo luật nếu doanh nghiệp sử dụng trên 70% quỹ thì không phải nộp vào NSNN phần thuế TNDN tính trên khoản thu nhập đã trích quỹ và phần lãi. Đây cũng là một cơ sở để cho doanh nghiệp lợi dụng do vậy để hạn chế tình trạng trốn, lậu thuế bằng cách này thì nhà nước nên quy định chỉ khi nào có dự án thì mới được trích và phải xử phạt thật nặng đối với các trường hợp trích lập quỹ sử dụng không đúng mục đích.
Bên cạnh đó cũng cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống tham nhũng, buôn lậu vì đây là một trong những nguyên nhân làm thất thu NSNN.Cần phải xử phạt nghiêm minh đối với những hành vi này.Ví dụ như trong quy định về buôn bán qua biên giới của cư dân hai nước, nước ta quy định tối đa không quá 2 triệu đồng/cá nhân/một ngày, đây là kẽ hở cho buôn bán qua biên giới mà không phải nộp thuế cho nhà nước của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp vì khi đó các doanh nghiệp có thể “thuê“ người dân hàng hóa cho họ sau đó họ sẽ mua hóa đơn ở chọ đen để hợp thức hóa đầu vào vì việc mua hóa đơn này ở nước ta là rất dễ dàng. Một cá nhân làm sao có thể tiêu dùng hết số hàng hóa trị giá 2 triệu đồng mà ngày nào cũng vậy, do đó theo em nên giảm mức quy định này xuống cho phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trung bình của người dân, ví dụ như 3 triệu đồng /người/tháng.
3.2.1.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế
Hiến pháp nước ta ghi nhận “Đóng thuế là nghĩa vụ của công dân” vì thế, khi thiết lập quan hệ pháp luật thuế những người nộp thuế họ chỉ thấy nghĩa vụ phải nộp thuế mà không thấy quyền lợi của mình khiến cho họ cảm thấy mình bị cưỡng bức, bị tước đoạt một phần lợi ích vật chất cho nên họ sẽ tìm cách trốn, tránh nghĩa vụ thuế. Ngoài ra người nộp thuế có thể bị cơ quan công quyền, cán bộ nhũng nhiễu khi thực thi quyền thu thuế mà nhà nước giao. Chính vì vậy cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân được biết về chính sách chế độ của nhà nước để họ thấy rằng đóng thuế không chỉ là ”nghĩa vụ” mà còn là “quyền” của mỗi công dân. Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế phải diễn ra thường xuyên trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Để công tác tuyên truyền, giáo dục người nộp thuế có hiệu quả thì nhà nước cần phải:
- Tổ chức gặp gỡ, đối thoại với các doanh nghiệp để trực tiếp giải đáp thắc mắc cũng như lắng nghe ý kiến nghị của họ.Thông qua các buổi gặp gỡ, hội thảo cơ quan thuế giải thích cho các doanh nghiệp hiểu về chính sách cũng như chủ trương của đảng, nhà nước trong lĩnh vực thuế. Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật về thuế tương đối nhiều do vậy để cho cuộc hội thảo, giải đáp có hiệu quả thì cần phải:
+ Tiến hành hội thảo theo chuyên đề.
+ Thông báo về cuộc hội thảo, gặp gỡ trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiến hành phát trước tài liệu cho doanh nghiệp và đề nghị doanh nghiệp phải tìm hiểu trước để hội thảo tập chung giải đáp các vướng mắc chứ không phải các doanh nghiệp đến nghe cán bộ thuế đọc lại các văn bản đó.
- Hiện nay mặc dù đường dây nóng giải đáp thắc mắc thuế được thành lập nhưng hiệu quả chưa cao ví dụ như khi doanh nghiệp hỏi mà cán bộ tư vấn “bí” quá nên họ bảo doanh nghiệp đọc lại văn bản luật do vậy đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa trình độ của các cán bộ tuyên truyền, hỗ trợ để nâng cao hiệu quả của hoạt động này.
- Đối với các doanh nghiệp mới thành lập vấn đề thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước còn hạn chế khi đó cơ quan thuế có thể cử cán bộ xuống hướng dẫn cho các doanh nghiệp này về cách lập tờ khai, cách ghi hóa đơn, chứng từ… hoặc hàng quý tổ chức các buổi hội nghị hướng dẫn cho các doanh nghiệp mới thành lập để doanh nghiệp thực hiện cho đúng.
- Tuyên dương kịp thời cả về vật chất cũng như tinh thần đối với các doanh nghiệp, cá nhân có thành tích tốt trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với ngân sách.
- Ngoài ra để nâng cao tinh thần làm việc của cán bộ tuyên truyền cũng nên có khen thưởng đối với những cán bộ có thành tích tốt, hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên một vấn đề được đặt ra là để có thể đánh giá một cách chính xác hiệu quả làm việc của cán bộ cần có tiêu chí đánh giá hiệu quả làm việc ví dụ như: thời gian tư vấn, số lượng doanh nghiệp tư vấn, tỷ lệ câu hỏi tư vấn không được trả lời hoặc cần phúc đáp… các tiêu chí này sẽ được sử dụng làm căn cứ để đánh giá, phân loại cán bộ tuyên truyền qua đó để thực hiện việc thưởng, phạt thỏa đáng nhằm tạo động lực khuyến khích cán bộ làm việc.
- Thực hiện cung cấp văn bản, ấn phẩm tại tủ sách cấp miễn phí tại chi cục.
Công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế mặc dù không trực tiếp thu thuế cho nhà nước, thậm chí NSNN phải chi một khoản nhưng hiệu quả công tác này đem lại không nhỏ, qua công tác này sẽ giáo dục cho người nộp thuế thấy được tầm quan trọng của thuế nhờ đó họ sẽ tự nguyện nộp thuế, tình trạng thất thu thuế sẽ được cải thiện.
3.2.1.3. Tổ chức tốt công tác cán bộ
Vì cơ quan thuế là cơ quan quản lý nhà nước, công việc của cán bộ thuế có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích của người nộp thuế do vậy đòi hỏi cán bộ thuế phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, nghiệp vụ vững vàng mà còn phải có khả năng thuyết phục quần chúng, có khả năng ứng xử khéo léo, tinh tế chính vì vậy để nâng cao hiệu quả công tác thu thuế cần phải chú trọng tới công tác tổ chức cán bộ. Để công tác này có hiệu quả thì cần phải:
- Tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức cả về công tác nghiệp vụ, chuyên môn đặc biệt là kỹ năng quản lý, kỹ năng vận động quần chúng. Bên cạnh đó cần phải cần phải nâng cao ý thức trách nhiêm, niềm tự hào về ngành nghề…qua đó có thể phát huy cao nhất hiệu quả công tác thu thuế.
Để thực hiện tốt biện pháp này thì cơ quan thuế cần phải tổ chức các lớp tập huấn định kỳ, đưa các cán bộ đi đào tạo nâng cao tay nghề.
- Mở rộng giao lưu với các quốc gia có chính sách thuế tiên tiến, cách thức tổ chức, quản lý hiện đại để học tập kinh nghiệm nhất là kinh nghiệm trong công tác chống thất thu thuế, đặc biệt là hai sắc thuế GTGT và TNDN.
- Tuyển chọn những cán bộ có trình độ, đáp ứng được yêu cầu công việc thông qua tổ chức thi tuyển rộng rãi trên cả nước, thông báo công khai các đợt thi tuyển trên các phương tiên thông tin đại chúng…
- Bố trí cán bộ một cách hợp lý, đúng người, đúng việc.
- Trong nền kinh tế hiện nay đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được năng lên, trong khi đó đời sống của cán bộ, công chức nghành thuế còn nhiều khó khăn, do vậy để cho cán bộ thuế yên tâm làm việc, công tác, không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, khuyến khích họ làm việc hết mình cho công việc cần phải cải thiện chế độ lương, thưởng cho cán bộ. Cần có sự khen thưởng kịp thời những cán bộ gương mẫu, có thành tích tốt trong công tác, kiên quyết xử lý và kỷ luật nghiêm minh những cán bộ thoái hóa, biến chất có hành vi cấu kết với người nộp thuế để trốn, lậu thuế.
- Phát động các phong trào thi đua, các hội thi để tạo ra không khí làm việc tích cực, nâng cao hiệu quả làm việc. Cũng phải thấy rằng khi thực hiện biện pháp này nếu công tác thi đua khen thưởng hàng năm cứ xét theo các tiêu chí thông thường thì vô hình chung mọi danh hiệu thi đua đều thuộc về các cán bộ giữ vị trí lãnh đạo. Điều này không chỉ làm giảm ý chí phấn đấu của tập thể mà còn có thể dẫn đến sự mất đoàn kết trong nội bộ chi cục, do vậy theo em nên có một cơ chế khen thưởng trong đó bắt buộc phải có ít nhất 30% đối tượng khen thưởng là các cán bộ không giữ chức vụ nếu không sẽ không xét thi đua của đội, phòng.
3.2.1.4. Tăng cường sự phối hợp với các cơ quan có liên quan
Có thể nói tình trạng thất thu thuế xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực kinh doanh. Cơ quan thuế tuy là cơ quan tổ chức thu thuế, là nòng cốt trong công tác chống thất thu thuế tuy nhiên để cho công tác chống thất thu thuế có hiệu quả cao thì cần phải có sự phối hợp của các cấp, các ngành có liên quan.
- Phối hợp với sở kế hoạch và đầu tư để tiến hành rà soát lại các doanh nghiệp đảm bảo các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh phải đăng ký mã số thuế theo đúng thời hạn quy định, ngăn chặn kịp thời những hành vi kinh doanh nhưng sau một thời gian mới đăng ký mã số thuế.
- Tăng cường phối hợp với công an kinh tế để phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về thuế như buôn bán hóa đơn bất hợp pháp, hoàn khống thuế…Ngoài ra cơ quan công an cũng cần phải khẩn trương điều tra làm rã những vụ mà cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ sang đặc biệt là đối với các doanh nghiệp bỏ trốn. Với các doanh nghiệp lập hồ sơ khống để hoàn thuế với số tiền lớn cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự và phạt thật nặng.
- Phối hợp với các ngân hàng trong việc thu thuế qua ngân hàng.
3.2.1.5. Hình thành và tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ làm thủ tục thuế phát triển
Người nộp thuế là những người kinh doanh, họ luôn phải tìm hiểu thị trường, tìm nguồn hàng, quản lý nội bộ…nên họ khó có thể nắm bắt được hết các quy định về tài chính, kế toán, thuế… nhất là khi thực hiện áp dụng cơ chế quản lý thu nộp thuế theo phương thức các người nộp thuế tự kê khai, tự tính và tự nộp thuế. Với mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận và thực hiện nghĩa vụ với ngân sách do vậy doanh nghiệp rất cần đến những đơn vị có chuyên môn nghiệp vụ để giúp họ việc tính toán sổ sách, các khoản thuế phải nộp. Mặt khác các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta còn chưa chủ động tìm hiểu thông tin, chính sách mới, trình độ của kế toán còn quá yếu nên thường khai sai, khai thiếu bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp chưa ứng dụng công nghệ thông tin, thương mại điện tử nên chưa tiếp cận được với phần mềm hỗ trợ khai thuế, chưa sử dụng hóa đơn tự in…những lý do đó làm hạn chế việc tuân thủ pháp luật thuế, tăng chi phí của doanh nghiệp cũng như mất thời gian của cơ quan thuế do vậy khi hình thành các đại lý làm dịch vụ thủ tục thuế thì sẽ tiết kiệm thời gian cho cả doanh nghiệp và cơ quan thuế.
Tuy vậy khi thực hiện biện pháp này có thể xảy ra sự móc nối thông đồng giữa doanh nghiệp và đại lý hoặc giữa cán bộ thuế với các đại lý do vậy để giải pháp này có hiệu quả cần phải:
- Tuyên truyền cho mọi công dân, mọi tổ chức thấy được đóng thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
- Nâng cao năng lực của cơ quan thuế, giáo dục tư tưởng cho các cán bộ thuế.
- Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các tổ chức, cá nhân trong xã hội nhằm phát hiện những gian lận.
- Ngoài ra tránh tình trạng doanh nghiệp làm dịch vụ thu lãi đến khi có vấn đề như cầm tiền thuế của các doanh nghiệp đi nộp nhưng nếu họ không nộp và cầm tiền đó bỏ trốn thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả cơ quan thuế cũng như doanh nghiệp, vì vậy khi các doanh nghiệp làm dịch vụ thuế thì cần phải quy định có một số tiền ký quỹ tại ngân hàng để đảm bảo.
- Xử phạt thật nặng đối với các doanh nghiệp làm đại lý khi họ cố tình vi phạm. Ngoài việc truy thu và phạt tiền nếu số tiền trốn thuế lớn có thể sẽ truy cứu trách nhiệm hình sự.
3.2.1.6. Xây dựng kế hoạch thu thuế hàng năm hợp lý
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Hàng năm nhà nước phải tiến hành tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch thu thuế, việc xây dựng kế hoạch thu thuế có ảnh hưởng lớn đến công tác chống thất thu thuế vì: Nếu kế hoạch thu giao cho các đơn vị quá thấp thì các đơn vị chỉ cần làm qua loa, không cần đi sâu vào tìm hiểu thực tế hoạt động của các doanh nghiệp cũng có thể đạt được chỉ tiêu thậm chí vượt chỉ tiêu đề ra. Khi đã vượt chỉ tiêu rồi thì sẽ dẫn tới làm việc không cẩn thận không kiểm tra kỹ tờ khai khi đó nếu có doanh nghiệp cố tình hoặc vô tình vi phạm sẽ gây thất thu cho NSNN thì các cán bộ thuế cũng không thể phát hiện được do vậy tình trạng thất thu sẽ xảy ra. Mặt khác nếu kế hoạch thu giao quá cao, căn cứ vào những số thu năm trước họ thấy là chắc chắn sẽ không đạt được chỉ tiêu đã đề ra thì sẽ gây nên tâm lý chán nản vì đằng nào cũng không đạt được thì ít hay nhiều đều như nhau nên có thể họ quản lý không chặt chẽ các doanh nghiệp.
Vì vậy việc xây dựng kế hoạch thu hợp lý là rất quan trọng cũng góp phần vào việc chống thất thu thuế nói chung cũng như hai sắc thuế này nói riêng.
3.2.2. Một số giải pháp cụ thể
3.2.2.1. Tăng cường quản lý người nộp thuế
Đây là khâu đầu tiên quan trọng nhằm đưa các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vào diện quản lý của cơ quan thuế. Thực hiện tốt công tác quản lý người nộp thuế sẽ tránh được tình trạng thất thu thuế do không bao quát hết số lượng người nộp thuế đồng thời đảm bảo sự đóng góp công bằng giữa các doanh nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, môi trường kinh doanh của huyện được cải thiện, nhiều doanh nghiệp trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện ngày càng nhiều với lĩnh vực kinh doanh ngày càng đa dạng. Các doanh nghiệp này là đối tượng trực tiếp nộp thuế do vậy quản lý chặt chẽ các đối tượng này sẽ góp phần không nhỏ trong việc chống thất thu thuế GTGT và TNDN. Để công tác quản lý người nộp thuế có hiệu quả thì cần phải:
- Tiến hành phân loại các doanh nghiệp, xác định cụ thể những doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ hóa đơn, chứng từ theo quy định để từ đó có các biện pháp tư vấn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó cần phải xử phạt nghiêm những doanh nghiệp cố tình vi phạm chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ.
- Tiến hành chuyển dần các doanh nghiệp đang nộp thuế trực tiếp trên GTGT sang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ để đảm bảo đúng bản chất của thuế GTGT và dễ dàng trong công tác quản lý.
- Tăng cường sự phối hợp với sở kế hoạch và đầu tư, chính quyền địa phương nhằm kiểm tra việc đăng ký kinh doanh, cấp mã số thuế cho các doanh nghiệp.Tăng cường quản lý lĩnh vực kinh doanh, hình thức kế toán áp dụng,ngành nghề kinh doanh, quy mô kinh doanh, địa điểm kinh doanh.Tăng cường quản lý các đơn vị mới ra kinh doanh, các đơn vị chuyển đi nơi khác, các đơn vị từ nơi khác chuyển đến, các đơn vị tạm nghỉ kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp chưa đăng ký kinh doanh, chưa có mã số thuế mà đã hoạt động cần phải lập biên bản và có biện pháp xử lý kịp thời. Bên cạnh đó cần thường xuyên công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, truyền hình, trang wed của bộ tài chính về danh sách những doanh nghiệp bỏ trốn, những doanh nghiệp có đăng ký kinh doanh, xin cấp mã số thuế nhưng nhiều tháng không kê khai, nộp thuế mà cơ quan thuế không tìm thấy. Sau khi công bố đề nghị các cơ quan có liên quan thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh, thu hồi các hóa đơn đã bán cho các doanh nghiệp này nhưng chưa sử dụng hết, tránh hiện tượng các doanh nghiệp này sẽ mua bán hóa đơn.
3.2.2.2. Quản lý chặt chẽ căn cứ tính thuế
* Tăng cường quản lý hóa đơn chứng từ.
Hóa đơn, chứng từ là căn cứ quan trọng ảnh hưởng tới việc xác định nghĩa vụ thuế đối với nhà nước.
Đối với thuế TNDN: Hóa đơn, chứng từ là căn cứ để xác định doanh thu, chi phí được trừ.
Đối với thuế GTGT: Đặc thù của sắc thuế GTGT là việc khấu trừ và hoàn thuế mà hiệu quả thực hiện lại phụ thuộc lớn vào công tác quản lý hóa đơn, chứng từ làm cơ sở xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, số thuế GTGT phải nộp và số thuế GTGT được hoàn. Nếu công tác quản lý hóa đơn, chứng từ không tốt sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng mà điển hình là vấn đề trốn, lậu thuế GTGT gây thất thu cho NSNN.
Do vậy để công tác quản lý hóa đơn, chứng từ có hiệu quả cần:
- Thắt chặt công tác quản lý về in ấn, phát hành, sử dụng hóa đơn nhất là hóa đơn các doanh nghiệp tự phát hành. Đảm bảo chỉ có doanh nghiêp có tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh mới được mua hóa đơn. Để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi cơ quan thuế phải kiểm tra thật kỹ các doanh nghiệp đến xin mua hóa đơn.
- Tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp mới thành lập về việc sử dụng hóa đơn, chứng từ và các tài liệu kèm theo.
- Đối với doanh nghiệp không nộp tờ khai thuế đầy đủ, kịp thời hoặc có tờ khai nhưng nhiều tháng không phát sinh doanh số thì phải tiến hành kiểm tra tại cơ sở.
- Đối với các doanh nghiệp tạm nghỉ hoặc bỏ kinh doanh phải tiến hành tổ chức kiểm tra tình hình sử dụng hóa đơn, chứng từ. Trường hợp doanh nghiệp bỏ trốn, không kinh doanh nữa qua kiểm tra nếu thấy còn hóa đơn chưa sử dụng nhưng không khai báo và nộp cho cơ quan thuế thì phải tiến hành thu hồi và thông báo ngay cho các cục, các chi cục thuế khác đồng thời đăng thông tin trên các phương tiện truyền thông để các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh khác biết nhằm tránh tình trạng bị lợi dụng.
- Phối hợp với các cơ quan có liên quan ngăn chặn việc mua, bán hóa đơn bất hợp pháp trên thị trường.
- Cần khuyến khích các đối tượng tiêu dùng đặc biệt là người dân khi mua hàng phải lấy hóa đơn, chứng từ. Với tư tưởng của người dân Việt Nam khi mua hàng để tiêu dùng cá nhân bất kể là mua của đại lý hay doanh nghiệp đều không lấy hóa đơn là rất phổ biến. Do vậy để khuyến khích việc lấy hóa đơn cơ quan thuế định kỳ hàng tháng sẽ tổ chức lễ bốc thăm trúng thưởng theo số trên hóa đơn mà người mua hàng có, hoặc có thể tiến hành cho đổi một số lượng hóa đơn nhất định lấy một số tiền hay món quà nào đó.
- Khi phát hiện doanh nghiệp có hóa đơn mà liên 1 khác liên 2 thì phải lập tức tiến hành kiểm tra vì các doanh nghiệp này thường là sẽ bỏ trốn nên họ không quan tâm đến việc hóa đơn đúng hay sai.
- Cần có các biện pháp, chế tài nghiêm khắc xử lý các hành vi mua, bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp như:
+ Mọi trường hợp vi phạm về khai báo, sử dụng hóa đơn đều phải bị xử lý hành chính và tạm thời đình chỉ việc bán hóa đơn cho doanh nghiệp và sử dụng hóa đơn của doanh nghiệp. Chỉ sau khi doanh nghiệp có biện pháp chấn chỉnh và nộp phạt thì mới tiếp tục cho sử dụng.
+ Nếu hóa đơn mua hàng mà người bán không viết đầy đủ các chỉ tiêu mà người mua vẫn chấp nhận thì ngoài việc không cho khấu trừ thuế người mua còn bị phạt hành chính vì sử dụng hóa đơn không đúng quy định.
- Cần nhanh chóng áp dụng công nghệ thông tin vào việc sử dụng, đối chiếu hóa đơn.
* Tăng cường kiểm tra doanh thu.
Doanh thu là căn cứ quan trọng ảnh hưởng tới việc xác định số thuế phải nộp của doanh nghiệp. Nhưng trong thực tế các doanh nghiệp thường kê khai doanh thu không đúng với tình hình thực tế sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, các doanh nghiệp thường tìm cách để làm giảm doanh thu nhằm trốn, lậu thuế. Do vậy một trong những cách để hạn chế tình trạng thất thu thuế doanh nghiệp là kiểm tra chặt chẽ doanh thu để xác định doanh thu tính thuế của doanh nghiệp.
Để công tác quản lý xác định doanh thu có hiệu quả thì cơ quan thuế cần:
- Quản lý chặt chẽ hàng hóa, nguyên vật liệu đầu vào dùng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan tới doanh thu kỳ đang tính. Cần kiểm tra số lượng hàng hóa, vật liệu mua vào, đối chiếu với hàng tồn kho, định mức tiêu hao để xác định chính xác số lượng sản phẩm, hàng hóa sản xuất, tiêu thụ trong kỳ cũng như nguyên liệu đã dùng để sản xuất các hàng hóa, dịch vụ đó.
- Tăng cường kiểm tra, đối chiếu số liệu trên hồ sơ khai thuế với các loại sổ sách như sổ nhật ký bán hàng, các loại sổ chi tiết…
- Bên cạnh đó cũng cần đối chiếu với doanh thu của các kỳ trước đó để xem có sự biến động về doanh thu không. Nếu doanh thu biến động lớn trong khi các khoản chi phí cũng như quy mô không đổi thì cần phải chú ý kiểm tra ngay.
* Tăng cường kiểm tra các khoản chi phí được trừ.
Cùng với doanh thu chi phí được trừ là bộ phận quan trọng trong việc xác định thuế TNDN phải nộp của doanh nghiệp do vậy các doanh nghiệp cùng với việc tìm cách khai giảm doanh thu là khai tăng các khoản chi phí được trừ. Chính vì vậy cùng với việc kiểm tra doanh thu cần phải tiến hành kiểm tra các khoản chi phí được trừ. Để công tác kiểm tra này đạt kết quả tốt thì cơ quan thuế cần phải:
- Xem xét tình hình kế toán của đơn vị như: hình thức kế toán, phương pháp kế toán…để có thể xác định các định khoản, nếu doanh nghiệp có vi phạm thì có thể phát hiện được. Muốn thực hiện tốt được thì đòi hỏi cán bộ thuế phải am hiểu về kế toán, về cách thức hạch toán chi phí.
- Khi kiểm tra nếu thấy có các khoản chi phí mà có sự đột biến thì cần phải chú ý quan tâm xem xét vì khi doanh nghiệp đã ổn định sản xuất, ổn định thị trường thì các khoản chi phí này rất ít biến động mà nếu có thì biến động rất ít.
- Nếu phát hiện phát sinh một số khoản chi mà năm trước không có thì cũng cần phải quan tâm.Thông thường chỉ khi doanh nghiệp mở rộng thị trường, chuyển đổi lĩnh vực đầu tư thì mới có khả năng xuất hiện các khoản chi mới hoặc các khoản chi trước kia doanh nghiệp giấu đi đến nay bị phát hiện.
- Chỉ có khoản chi nào có đầy đủ hóa đơn, chứng từ có hạch toán vào sổ sách, có liên quan đến doanh thu trong kỳ tính thuế thì mới cho hạch toán vào các khoản chi phí được trừ khi xác định thuế. Ngoài ra những khoản chi mặc dù có đầy đủ chứng từ theo quy định nhưng cũng không cho khấu trừ như tài sản cố định đã khấu hao hết, tiền thưởng cho người lao động nhưng không có trong hợp đồng.
3.2.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
* Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành.
Trong nền kinh tế hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cả về lĩnh vực kinh doanh cũng như số lượng, bên cạnh đó nhu cầu cuộc sống đòi hỏi ngày càng cao do đó tình trạng các doanh nghiệp móc ngoặc với cán bộ thuế để làm giảm số thuế phải nộp không phải là không có. Nếu xảy ra tình trạng này thì số thuế thất thu sẽ rất lớn vì số thuế mà doanh nghiệp trốn được là lớn hơn rất nhiều số tiền mà họ trả cho cán bộ có sự thông đồng mà nếu được lợi ít thì cán bộ thuế sẽ không làm. Chính vì vậy đòi hỏi cần phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành thuế. Để thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành có hiệu quả cần phải thực hiện các biện pháp sau:
- Trong việc thanh tra, kiểm tra nội bộ ngành ngoài việc lập đoàn thanh tra của cục thuế, của tổng cục thì cần tổ chức thêm các đoàn kiểm tra chéo giữa các chi cục. Các cục, chi cục tự tổ chức thanh tra, kiểm tra nội bộ đơn vị mình về việc chấp hành các quy trình quản lý, nội quy của đơn vị.. cần có sự khen thưởng đối với cá nhân, đơn vị thực hiện tốt và xử lý kỷ luật đối với các đơn vị không thực hiện đúng .
- Cần phải nghiên cứu việc điều chuyển luân phiên cán bộ cho phù hợp với thực tế nhằm hạn chế mức thấp nhất tình trạng móc ngoặc giữa cán bộ thuế với người nộp thuế. Cần phải nghiên cứu thời gian làm việc để điều chuyển cho phù hợp, nếu thời gian làm việc của cán bộ tại địa bàn quá dài thì sẽ tạo điều kiện cho sự thông đồng giữa cán bộ thuế và doanh nghiệp nhưng nếu thời gian làm việc qúa ngắn cán bộ thuế chưa nắm bắt hết hoặc mới nắm bắt được tình hình kinh doanh trên địa bàn mình quản lý mà đã phải chuyển đi nơi khác thì sẽ làm giảm hiệu quả làm việc. Do vậy theo em thời gian làm việc của cán bộ tại địa bàn là 5 năm sau đó sẽ thực hiện luân chuyển.
- Ngoài ra để có thể kiểm tra, giám sát cán bộ, lãnh đạo chi cục nên cho mua một số máy ghi âm loại siêu nhỏ và công bố sẽ nhờ bất cứ doanh nghiệp nào đến làm việc trực tiếp ghi âm những trao đổi của cán bộ thuế với doanh nghiệp, phát hiện có dấu hiệu của gây nhũng nhiễu hay tiếp tay cho doanh nghiệp sẽ lập tức xử phạt thật nặng như không tăng lương trong một thời gian, chuyển sang bộ phận khác hay cho thôi việc. Tuy nhiên do vấn đề này rất tế nhị nếu doanh nghiệp không muốn thì lãnh đạo chi cục có thể tuyển một số cộng tác viên, đóng vai trò là người nộp thuế để thực hiện việc ghi âm.
* Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế.
Công tác thanh tra, kiểm tra không những nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật thuế đảm bảo cho luật thuế được thực hiện nghiêm mà còn góp phần tăng thu cho NSNN, nâng cao ý thức, trách nhiệm của người nộp thuế. Để công tác thanh tra, kiểm tra người nộp thuế có hiệu quả cần phải:
-Tăng cường kiểm tra trên địa bàn cũng như từng loại hình, từng lĩnh vực xem có bao nhiêu hoạt động sản xuất, kinh doanh, số doanh nghiệp đã đăng ký và chưa đăng ký kinh doanh, đăng ký mã số thuế.
- Tiến hành đẩy mạnh công tác kiểm tra các doanh nghiệp đã từng trốn thuế, các doanh nghiệp nghi ngờ có dấu hiệu vi phạm, vì khi đó cơ quan thuế không phải dàn trải tiến hành kiểm tra tất cả các doanh nghiệp do vậy sẽ tiếc kiệm được thời gian và chi phí cho công tác kiểm tra, cơ quan thuế có điều kiện tập chung vào các doanh nghiệp có nghi ngờ khi đó hiệu quả kiểm tra sẽ cao.
Để tiến hành có hiệu quả đòi hỏi:
+ Chuyển từ thanh tra, kiểm tra toàn diện sang thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề và nội dung vi phạm.
+ Phải lưu trữ thông tin có liên quan đến doanh nghiệp như: lịch sử chấp hành pháp luật của doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp….
+ Phải có hệ thống phân tích và dự báo rủi ro.
+ Lập danh sách các doanh nghiệp hay nộp chậm tờ khai, doanh nghiệp hay có sai sót, doanh nghiệp đã bị kiểm tra và có phát hiện vi phạm…
+ Định kỳ phải có sự đối chiếu sổ sách, chứng từ của các doanh nghiệp này. Khi doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh trong vài năm có thể rút doanh nghiệp ra khỏi danh sách này để có thể khuyến khích doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế của mình.
Khi thực hiện giải pháp này có thể bỏ sót những doanh nghiệp mới hoặc các doanh nghiệp trước đây không vi phạm nhưng giờ lại có hành vi trốn thuế do vậy đối với các doanh nghiệp này vẫn cần phải kiểm tra nhưng với tần suất nhỏ hơn.
- Để công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành nhanh chóng, kịp thời nâng cao hiệu quả trong việc chống thất thu thuế thì nhà nước nên bổ xung chức năng điều tra hình sự về thuế cho cơ quan thuế vì:
+ Chỉ cơ quan thuế mới có đủ khả năng chuyên môn, nghiệp vụ về thuế để điều tra các vi phạm về thuế, khi đó hiệu quả điều tra sẽ cao.
+ Việc chuyển giao cho cơ quan thuế chức năng điều tra đối với người nộp thuế sẽ đảm bảo không có sự chồng chéo, trùng lắp giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong việc điều tra gian lận của người nộp thuế.
Để cho các giải pháp trên được hiệu quả đòi hỏi cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ thuế có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức tốt.
3.2.2.4. Xử lý nhanh, gọn các khoản nợ thuế
Các khoản nợ thuế của các doanh nghiêp là khoản tiền mà doanh nghiệp tạm thời chiếm dụng của nhà nước. Khi các khoản nợ thuế này nhiều, kéo dài năm này sang năm khác thì nhà nước sẽ không có đủ ngân sách để chi tiêu thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, mặt khác nếu không thu hồi các khoản nợ thuế này nhanh chóng thì sẽ tạo ra tâm lý coi thường của các doanh nghiệp. Để thực hiện tốt biện pháp này đòi hỏi:
- Tổ chức các buổi tập huấn, tuyên truyền cho doanh nghiệp được biết về các sai sót thường gặp trong việc nộp thuế cũng như các biện pháp mà cơ quan thuế sẽ áp dụng nếu doanh nghiệp không nộp thuế để nâng cao ý thức trong việc chấp hành nộp thuế của doanh nghiệp.
- Cơ quan thuế nhanh chóng phân tích các khoản nợ thuế theo nội dung nợ, thời gian nợ, phân tích các nguyên nhân chưa thu hồi được nợ, loại bỏ các khoản nợ khống, nợ ảo không có thực.
- Kết hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan để tiến hành điều tra, xác minh các khoản nợ, tình hình hoạt động của các doanh nghiệp để từ đó có các biện pháp cần thiết để thu hồi nợ.
- Cho phép người nợ thuế thỏa thuận chậm nộp thuế hoặc nộp dần khoản nợ thuế còn thiếu theo cam kết với cơ quan thuế.
- Hiện tại mức phạt nộp chậm thuế còn thấp cho nên cần nâng mức phạt này nên cao hơn để có tính răn đe.
- Thu hồi và đình chỉ sử dụng hóa đơn, tiến hành kê biên tài sản đối với các doanh nghiệp cố tình chây ỳ.
Để thực hiện tốt các biện pháp trên đòi hỏi cần phải đào tạo, đào tạo lại cán bộ thuế để cán bộ thuế có thể đánh giá, phân tích tình hình nợ thuế của doanh nghiệp. Ngoài ra tổng cục thuế cần phải hỗ trợ phần mềm để phân loại, phân tích các khoản nợ thuế.
Công tác chống thất thu thuế nói chung và chống thất thu thuế GTGT và TNDN nói riêng là một nhiệm vụ phức tạp và nhiều khó khăn. Do vậy để công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đạt hiệu quả cao không thể chỉ áp dụng riêng rẽ một biện pháp nào mà đòi hỏi cần phải kết hợp chặt chẽ các biện pháp trên có như vậy thì công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN mới có hiệu quả cao nhất.
KẾT LUẬN
Vấn đề thu thuế và chống thất thu thuế nhất là đối với hai sắc thuế GTGT và TNDN luôn là vấn đề nóng bỏng đối với cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan thuế nói riêng.
Trong mấy năm trở lại đây hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở huyện Đông Anh phát triển mạnh cả về số lượng, lĩnh vực kinh doanh cũng như quy mô do đó góp phần quan trọng tăng thu cho NSNN. Tuy nhiên tình trạng trốn, lậu thuế gây thất thu cho NSNN vẫn còn nhiều. Qua phân tích ở trên có thể thấy những mặt tích cực và hạn chế trong công tác chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện. Thông qua đó em có đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục tình trạng thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Em hi vọng những biện pháp đó sẽ góp phần hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng trốn, lậu thuế của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng.
Do thời gian thực tập tại chi cục chưa nhiều, kiến thức còn hạn chế, bài luận văn của em không tránh khỏi còn những thiếu sót và hạn chế. Em rất mong nhận được nhận xét của các thầy cô để bài luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Lý Phương Duyên, chị Nguyễn Thị Thúy Hằng cùng toàn thể các anh, chị, cô, chú cán bộ tại chi cục thuế huyện Đông Anh đã quan tâm, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các giải pháp tăng cường chống thất thu thuế GTGT và TNDN đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại chi cục thuế huyện Đông Anh.doc