Các hình thưc nhà nước XHCN trong lịch sử

Lý do chọn đề tài Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử luôn là một trong những đề tài được rất nhiều học giả quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu. Song không vì thế mà những đề tài nghiên cứu về vẫn đề này mất đi tính cấp thiết của nó. Việc tìm hiểu về các nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ góp phần củng cố và bổ sung thêm những góc nhìn mới, nhận định mới, nội dung mới về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. Điều quan trọng là giúp cho ta thấy được sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội nhân loại nói chung và các mô hình các nhà nước trong lịch sử nói riêng. Tuy nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử nhân loại đã trải qua giai đoạn sóng gió, biến cố, thậm chí là sự sụp đổ của một loạt mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông âu. Nhưng không vì thế mà phủ nhận được tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử loài người. Thế giới của chúng ta đang phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật các nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đặc biệt là nước ta cũng đã nhanh chóng vươn lên khẳng định vị thế của mình. Để đạt được thành công đó đòi hỏi các nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có những chủ trương, quyết sách đáp ứng được yêu cầu phát triển của thời đại. Đồng thời sự phát triển đó luôn đặt ra nhiệm vụ phải giữ vững bản chất và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tôi hi vọng đề tài này sẽ góp phần giúp cho thế hệ trẻ hiểu biết thêm về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử, từ đó thấy được tính ưu việt của mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, bên cạch đó tạo điều kiện cho thê hệ trẻ có những định hướng để xây dựng và hoàn thiện đất nước hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu Giúp người nghiên cứu: - Có kiến thức lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. - Chắt lọc các kinh nghiệm ưu việt về xây dựng bộ máy nhà nước của các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử để vận dụng kinh nghiệm đó vào xây dựng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và các phương pháp nghiên cứu: * Đối tượng: Các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. * Phương pháp: - Phương pháp duy vật lịch sử. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh đối chiếu. - Phương pháp quy nạp. - Phương pháp diễn dịch. 4. Kết cấu Gồm 4 phần : Phần I: Các khái niệm của đề tài. Phần II: Sự ra đời và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Phần III: Các chức năng cơ bản và các hình thức của nhà nước xã hội chủ nghĩa Phần IV: Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa.

doc23 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10015 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các hình thưc nhà nước XHCN trong lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử luôn là một trong những đề tài được rất nhiều học giả quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu. Song không vì thế mà những đề tài nghiên cứu về vẫn đề này mất đi tính cấp thiết của nó. Việc tìm hiểu về các nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ góp phần củng cố và bổ sung thêm những góc nhìn mới, nhận định mới, nội dung mới về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. Điều quan trọng là giúp cho ta thấy được sự phát triển không ngừng của lịch sử xã hội nhân loại nói chung và các mô hình các nhà nước trong lịch sử nói riêng. Tuy nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử nhân loại đã trải qua giai đoạn sóng gió, biến cố, thậm chí là sự sụp đổ của một loạt mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên xô và các nước Đông âu. Nhưng không vì thế mà phủ nhận được tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử loài người. Thế giới của chúng ta đang phát triển nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật…các nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới đặc biệt là nước ta cũng đã nhanh chóng vươn lên khẳng định vị thế của mình. Để đạt được thành công đó đòi hỏi các nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có những chủ trương, quyết sách đáp ứng được yêu cầu phát triển của thời đại. Đồng thời sự phát triển đó luôn đặt ra nhiệm vụ phải giữ vững bản chất và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tôi hi vọng đề tài này sẽ góp phần giúp cho thế hệ trẻ hiểu biết thêm về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử, từ đó thấy được tính ưu việt của mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa, bên cạch đó tạo điều kiện cho thê hệ trẻ có những định hướng để xây dựng và hoàn thiện đất nước hơn. 2. Mục tiêu nghiên cứu Giúp người nghiên cứu: - Có kiến thức lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. - Chắt lọc các kinh nghiệm ưu việt về xây dựng bộ máy nhà nước của các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử để vận dụng kinh nghiệm đó vào xây dựng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và các phương pháp nghiên cứu: * Đối tượng: Các nhà nước xã hội chủ nghĩa trong lịch sử. * Phương pháp: - Phương pháp duy vật lịch sử. - Phương pháp phân tích tổng hợp. - Phương pháp so sánh đối chiếu. - Phương pháp quy nạp. - Phương pháp diễn dịch. 4. Kết cấu Gồm 4 phần : Phần I: Các khái niệm của đề tài. Phần II: Sự ra đời và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Phần III: Các chức năng cơ bản và các hình thức của nhà nước xã hội chủ nghĩa Phần IV: Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. NỘI DUNG PHẦN I: CÁC KHÁI NIỆM CỦA ĐỀ TÀI - Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa: là những phương diện hoạt động cơ bản thể hiện bản chất giai cấp của nhà nước. Ý nghĩa xã hội, mục đích và nhiệm vụ chiến lược của nhà nước được quy định bởi thực tế khách quan và tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế trong từng giai đoạn cách mạng. - Hình thức nhà nước gồm ba yếu tố cấu thành là hình thức chính thể, hình thức cấu trúc nhà nước và chế độ chính trị Hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa bao gồm ba yếu tố cấu thành là hình thức chính thể cộng hòa dân chủ, hình thức cấu trúc nhà nước có thể là nhà nước liên bang hoặc nhà nước đơn nhất và chế độ chính trị đều sử dụng một hệ thống các phương pháp và biện pháp dân chủ thực sự, rộng rãi để tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. - Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là hệ thống các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống cơ sở, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học, phù hợp với bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước và toàn thể bộ máy nhà nước. PHẦN II : SỰ RA ĐỜI VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ RA ĐỜI NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Tính tất yếu khách quan. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh rằng: Cách mạng vô sản và sự ra đời của nhà nước là tất yếu lịch sử. tính tất yếu lịch sử đó được quy định bởi toàn bộ quá trình phát triển đầy mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự bùng nổ của cách mạng vô sản và kết quả của nó là sự ra đời của nhà nước chuyên chính vô sản chính là các tiền đề kinh tế, chính trị, xã hội phát sinh trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa. Những tiền đề kinh tế: Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì quan hệ đó trở nên mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn ngày càng trở lên gay gắt đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là kiểu quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Những tiền đề chính trị - xã hội: Khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thì xuất hiện chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. Nhà nước đã trở thành công cụ của bọn tư bản. Do đó bản chất của nhà nước tư sản ngày càng bộc lộ rõ nét, một nhà nước phản dân chủ, quan liêu độc tài nhưng được che đậy dưới hình thức dân chủ. Từ đó mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản ngày càng sâu sắc làm xuất hiện tiền đề cho cách mạng vô sản nổ ra. Trong khi đó, giai cấp vô sản ngày càng phát triển nhanh về cả số lượng và chất lượng, thông qua đội tiền phong của mình là đảng cộng sản, giai cấp vô sản đã vươn lên đấu tranh để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Những yếu tố dân tộc và thời đại cũng tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. 2. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản giai cấp vô sản và nhân dân lao động đã đứng lên đấu tranh để giành lại chính quyền. Cuộc đấu tranh đó phải được tiến hành bằng bạo lực cách mạng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ sự thắng lợi của cuộc đấu tranh đó. Tùy vào tình hình thực tiễn mỗi nước mà tổ chức bộ máy nhà nước có những đặc điểm riêng.Tuy nhiên những nhà nước đó vẫn mang bản chất chung của nhà nước xã hội chủ nghĩa. - Các hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa: + Công xã Pari (1871). + Nhà nước Xô viết (1917). + Nhà nước DCND ra đời ở các nước Đông Âu sau chiến tranh thế giới II. II. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Theo Lênin, bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa là chuyên chính vô sản, chính quyền thuộc về tay nhân dân mà trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động, theo đường lối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện ở các đặc điểm sau: * Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan cưỡng chế, một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của nhân dân lao động, nó là nhà nước “nửa nhà nước”. * Dân chủ xã hội chủ nghĩa là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa. * Nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn giữ vai trò tích cực sang tạo, là công cụ để xây dựng một xã hội nhân đạo công bằng, bình đẳng. PHẦN III : CÁC CHỨC NĂNG CƠ BẢN VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. CÁC CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Chức năng đối nội Chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa: Bảo vệ an ninh chính trị, trật tự oan toàn xã hội là điều kiện tiên quyết để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Chức năng bảo vệ các quyền tự do dân chủ của nhân dân: Dân chủ là dân làm chủ, là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tự do dân chủ thực sự chỉ tồn tại khi được tổ chức thừa nhận về mặt pháp lý, tồn tại dưới hình thức pháp luật. Điều đó có nghĩa là nhà nước thừa nhận mục đích sống của tất cả mọi người. Chức năng bảo vệ trật tự pháp luật tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa: Đây là nhân tố quy định đến hiệu quả, hiệu lực quản lý của nhà nước. Nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất đảm bảo an ninh chính trị, bảo vệ quyền tự do dân chủ, bảo đảm cho nhà nước quản lý các lĩnh vực kinh tế, chính trị,văn hóa, xã hội có hiệu quả. Chức năng tổ chức và quản lý kinh tế: Đây là chức năng quan trọng hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa cách mạng vô sản và cách mạng tư sản. Cách mạng tư sản cốt hoàn thiện thêm bộ máy nhà nước để tăng cường bóc lột, còn cách mạng vô sản đặt ra cho bộ máy vô sản nhiệm vụ phải đập tan bộ máy nhà nước cũ, xây dựng nhà nước mới, dùng nhà nước đó để xây dựng và sáng tạo xã hội mới - xã hội không còn người bóc lột người. Chức năng tổ chức và quản lý văn hóa, khoa học giáo dục: Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xây dựng một xã hội do nhân dân lao động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở một nển khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến. Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc,có điều kiện phát triển toàn diện. Chính vì vậy nhà nước xã hội chủ nghĩa phải tổ chức và quản lý sự nghiệp giáo dục đào tạo, văn hóa, phát triển khoa học và công nghệ là tất yếu. 2. Chức năng đối ngoại Chức năng bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa: Đây là chức năng mang tính chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ công cuộc xây dựng hòa bình của nhân dân lao động, ổn định để phát triển. Chức năng củng cố, tăng cường hữu nghị và hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi; ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. + Củng cố và tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết, hợp tác, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các nước xã hội chủ nghĩa + Mở rộng quan hệ với các nước có chế độ chính trị khác nhau trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi + Mở rộng mối quan hệ với các tổ chức quốc tế. + Ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa, chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chống chính sách gây chiến, chạy đua vũ trang, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. II. CÁC HÌNH THỨC NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1. Công xã Pari (18-3-1971) Mặc dù chỉ tồn tại 72 ngày nhưng nó là hiện thực đầu tiên của nhà nước xã hội. Đó là ý nghĩa vĩ đại nhất, là kết quả của cuộc đấu tranh giữa giai cấp sản xuất và giai cấp chiếm hữu, là hình thức chính trị có thể thức hiện được việc giải phóng lao động về mặt kinh tế, là công cụ để thủ tiêu chế độ tư bản chủ nghĩa Công xã Pari được tập trung theo nguyên tắc tập trung dân chủ từ xóm thợ đến trung ương, do đó nó đã tạo cho nền cộng hòa cái cơ sở của thiết chế dân chủ nhất. Công xã tuyên bỏ bộ hủy bỏ bộ máy nhà nước cũ, xóa bỏ bộ máy đại nghị tư sản và các nguyên tắc phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước tư sản. Công xã do đầu phiếu phổ thông bầu lên, bộ máy không đắt tiền, không có khả năng thoái hóa, biến chất thành những kẻ đặc quyền đặc lợi, thăng quan phát tài. 2. Hình thức nhà nước Xô viết Ra đời trong thắng lợi của cách mạng tháng Mười vĩ đại, nhà nước Xô viết đã trở thành người đại biểu của giai cấp công nhân, nông dân và binh lính cách mạng. Lúc đầu các Xô viết hình thành như những trung tâm lãnh đạo các cuộc bãi công, sau đó chuyển thành cơ quan quyền lực nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Các Xô viết cấp huyện trở xuống do bầu cử trực tiếp lập lên. Các Xô viết tỉnh và trung ương là đại hội đại biểu các Xô viết. Hình thức Xô viết xuất hiện ở giai đoạn đầu của khủng hoảng tư bản chủ nghĩa nên việc giành chính quyền thường dùng những biện pháp kiên quyết, phương pháp bạo lực cách mạng. 3. Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân Hình thức dân chủ nhân dân xã hội chủ nghĩa xuất hiện từ phong trào chống phát xít ở châu Âu, chống thực dân phong kiến ở châu Á cho nên mang tính mặt trận rộng rãi và thống nhất với khẩu hiệu “ giải phóng dân tộc”. Phương pháp cách mạng là kết hợp bạo lực với hòa bình. Nhà nước tổ chức theo chính thể cộng hòa. Hình thức nhà nước này phù hợp với tình hình cách mạng của các nước sau chiến tranh thế giới thứ hai vì vậy đã góp phần tăng cường sức mạnh và phát huy hiệu quả của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hình thức nhà nước dân chủ nhân dân ở châu Âu như các nước : Ba Lan, Bungari, Anbani, Hunggari, Rumani, Cộng hòa dân chủ Đức… Ở châu Á có Việt Nam, Triều Tiên, Trung Quốc. Trên đây là ba hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên nước Cộng hòa Cu Ba có nét đặc thù riêng không giống hoàn toàn với ba hình thức nhà nước trên từ hình thức ra đời đến việc tổ chức bộ máy nhà nước. III. MỖI QUAN HỆ GIỮA BẢN CHẤT VÀ HÌNH THỨC CỦA NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Theo Lênin, tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều không thể tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại nay hay loại khác của nền chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Mặc dù có nhiều hình thức nhà nước, nhưng bản chất nhà nước là yếu tố quyết định, cho nên những đặc điểm chung và đặc điểm riêng của các hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa không tách biệt với nhau, mà nằm trong một thể thống nhất, tác động qua lại với nhau. Trong quá trình vận động và phát triển của nhà nước xẫ hội chủ nghĩa, các đặc điểm riêng sẽ ngày càng ít đi, còn các đặc điểm chung sẽ ngày càng thể hiện đầy đủ và thống nhất trong mỗi hình thức nhà nước xã hội chủ nghĩa. PHẦN IV : BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA I. CÁC LOẠI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được phân ra thành nhiều loại dựa theo từng cách tiếp cận, nghiên cứu khác nhau. Xét theo hình thức thực hiện tam quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp thì các cơ quan nhà nước được chia thành cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp. Xét theo trình tự thành lập : các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể được chia thành các cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra và các cơ quan không do nhân dân trực tiếp bầu ra. Các cơ quan đại diện hình thành do kết quả bầu cử, thể hiện ý chí trực tiếp của nhân dân, vì vậy chúng nhân danh quyền lực nhân dân và mang tính chất là hệ thống cơ quan quyền lực. Các hệ thống cơ quan khác đều do cơ quan quyền lực trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra. Xét theo tính chất thẩm quyền: các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể chia thành các cơ quan có thẩm quyền chung và các cơ quan có thẩm quyền riêng. Các cơ quan có thẩm quyền chung có quyền xem xét và quyết định bất cứ việc gì để đảm bảo lợi ích xã hội. Các cơ quan có thẩm quyền riêng chỉ có quyền xem xét và quyết định các vẫn đề trong một phạm vi nhất định của đời sống xã hội. Xét theo cấp độ thẩm quyền các cơ quan nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các cơ quan nhà nước trung ương và các cơ quan nhà nước địa phương. Ngoài ra còn có thể xem xét tới góc độ thời hạn thực quyền có thể chia thành các cơ quan hoạt động thường xuyên và các cơ quan lâm thời. 1. Các cơ quan quyền lực nhà nước Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp được coi là “sương sống” của bộ máy nhà nước. Đó là cơ quan quyền lực nhà nước, do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhân danh nhân dân để thực hiện và thực thi một cách thống nhất quyền lực, có trách nhiệm và báo cáo với nhân dân về các hoạt động của mình. Các cơ quan khác của bộ máy nhà nước do cơ quan này trực tiếp hoặc gián tiếp lập ra, chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực. Đối với Việt Nam, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước, là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những vẫn đề trọng đại nhất của quốc gia; thực hiện quyền giám sát tối cao với tất cả các cơ quan nhà nước khác. Còn Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của người dân, do nhân dân trực tiếp bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Ở các nước xã hội chủ nghĩa khác cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân có vị trí, chức năng, vai trò tương tự như Quốc hội ở nước ta. 2. Chủ tịch nước Chủ tịch nước là một trong những thành tố đặc biệt quan trọng của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, Hiến pháp năm 1992 chỉ rõ “ Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại”. Cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước bầu ra chủ tịch nước. Do đó Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và kiêm nhiệm chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Chủ tịch nước không phải là một cơ quan thuộc về hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Chủ tịch nước là cơ quan có vị trí đặc biệt và giữ vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phối hợp thống nhất giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. 3. Các cơ quan quản lý nhà nước a. Các cơ quan chấp hành và hành chính nhà nước Hệ thống cơ quan chấp hành, điều hành hoặc cơ quan hành chính nhà nước được gọi chung là các cơ quan quản lý nhà nước. Những tên gọi đó đều có nội dung cụ thể, phản ánh vị trí, chức năng, tính chất của các cơ quan quản lý nhà nước khi chúng được xem xét từ những góc độ khác nhau. Trong khoa học và thực tiễn pháp lý tùy thuộc vào yêu cầu phải xem xét và giải quyết những vẫn đề, những mối quan hệ cụ thể có liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước, người ta có thể tiếp cận từ một, hai hoặc toàn diện toàn bộ các khía cạnh để xác định tên gọi chung cho các cơ quan quản lý nhà nước. Trên thực tế bộ máy nhà nước bao giờ cũng là bộ máy lớn nhất, có cơ cấu phức tạp nhất và có đội ngũ công chức đông đảo nhất. Bởi bộ máy quản lý nhà nước phải trực tiếp đứng ra tổ chức việc thực thi pháp luật, trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý, điều hành mọi công việc tường nhật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước ở Việt Nam bao gồm : Chính phủ, các bộ và các cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp. Toàn bộ các cơ quan này tạo thành một hệ thống thống nhất. Pháp luật xác lập mối quan hệ cụ thể giữa các cơ quan trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, quy định thẩm quyền, trách nhiệm nghĩa vụ cụ thể của mỗi cơ quan và người đứng đầu cơ quan đó. Đồng thời cũng quy định mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước và các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Những quy định đó là cơ sở thực tế để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của bộ máy nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của hoạt động quản lý nhà nước nói riêng và của bộ máy nhà nước nói chung. Chính phủ là cơ quan cao nhất trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước, là cơ quan có thẩm quyền chung. Hiến pháp 1992, điều 109 chỉ rõ : “Chính phủ thống nhất việc quản lý thưc hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của nhà nước; đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương xuống cơ sở; đảm bảo việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Các bộ, các cơ quan ngang bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ là các cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương, là cơ quan có thẩm quyền chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối các ngành các lĩnh vực. Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, là cơ quan có thẩm quyền chung, thực hiện sự quản lý thống nhất mọi mặt đời sống xã hội ở địa phương. Ủy ban nhân dân dược tổ chức theo ba cấp và được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc hai chiều phụ thuộc - phụ thuộc các cơ quan quản lý cấp trên và hội đồng nhân dân các cấp. Các sở, phòng, ban chức năng của Ủy ban nhân dân là các cơ quan thực hiện chức năng quản lý chuyên môn trong phạm vi địa phương. Các cơ quan này cũng được tổ chức theo nguyên tắc hai chiều phụ thuộc nhưng chỉ trực thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan quản lý chuyên ngành cùng cấp. b.Cơ quan quốc phòng và an ninh. Trong bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống cơ quan quốc phòng và an ninh thuộc hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước tuy nhiên nó lại đóng vai trò,vị trí, chức năng hết sức đặc biệt và quan trọng. Các cơ quan này được tổ chức ra nhằm thực hiện chức năng đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự oan toàn xã hội, đảm bảo sự ổn định chính trị và các quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng, tính mạng tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm. Hệ thống cơ quan quốc phòng và an ninh của nước Việt Nam gồm có: Hội đồng quốc phòng an ninh, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các cơ quan thuộc bộ quốc phòng, an ninh địa phương. Hệ thống các cơ quan này thực hiện chức năng trấn áp, bảo vệ, nhưng đồng thời cũng là các cơ quan quản lý công tác quốc phòng, an ninh. Do đó việc tổ chức và hoạt động của cơ quan này có những đặc thù riêng. Các nhà nước xã hội chủ nghĩa đều rất coi trọng việc xây dựng bộ máy quốc phòng, an ninh. Điều này xuất phát từ yêu cầu thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đối với nước ta đường lối quốc phòng an ninh được xác định cụ thể trong Hiến pháp 1992, điều 44: nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Việc củng cố bộ máy quốc phòng và an ninh có ý nghĩa dặc biệt quan trọng nhằm bảo đảm cho lực lượng vũ trang thực sự giữ vai trò nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng và an ninh. Đồng thời cần hết sức coi trọng việc tạo điều kiện để phát huy vai trò của mỗi cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và các công dân tham gia vào công tác quốc phòng, an ninh. 4. Các cơ quan xét xử Trong bộ máy của nhà nước xã hội chủ nghĩa hệ thống các cơ quan xét xử là loại hình các cơ quan có chức năng đặc thù riêng. Điều này được thể hiện ở việc chúng trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước, chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan quyền lực nhà nước nhưng trong hoạt động lại độc lập và tuân theo pháp luật. Hệ thống cơ quan xét xử ở nước ta gồm có: Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định. Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm mục đích phát huy dân chủ, tạo điều kiện để cho công dân tham gia vào công việc của nhà nước, Tòa án nhân dân ở nước ta có Hội thẩm nhân dân, Tòa án quân sự có Hội thẩm quân nhân. Khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán. 5.Các cơ quan kiểm sát Hệ thống cơ quan kiểm sát của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc thù riêng của nó. Chúng được tổ chức ra không chỉ thực hiện quyền công tố mà còn kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Hệ thống cơ quan kiểm sát ở nước ta gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương và các Viện kiểm sát quân sự. Hệ thống Viện kiểm sát được tổ chức thống nhất theo ngành dọc và thực hiện chế độ thủ trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống viện kiểm sát, có quyền bổ nhiệm,miễn nhiệm, cách chức đối với tất cả các thành viên của các Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới. II. CÁC NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Quản lý xã hội là một vẫn đề hết sức quan trọng. Do đó để bộ máy nhà nước có thể phát huy cao độ hiệu lực và hiệu quả trong lĩnh vực quản lý xã hội thì vẫn đề quan trong hàng đầu là phải bảo đảm cho nó có được một cơ cấu tổ chức hợp lý, một cơ chế hoạt động đồng bộ và một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ được giao. Điều này chỉ có thể đạt được khi xác định đúng những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa có hệ thống các nguyên tắc tổ chức hết sức phong phú và đa dạng. Những nguyên tắc cơ bản có tính khái quát đối với toàn thể bộ máy nhà nước thường được ghi nhận trong hiến pháp, đạo luật. Đối với nước Việt Nam những nguyên tắc cơ bản gồm có: 1. Nguyên tắc đảm bảo quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Nguyên tắc này có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nó bắt nguồn từ bản chất của thể chế nhà nước xã hội chủ nghĩa – quyền lực thuộc về nhân dân. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện trên ba phương diện cơ bản sau: * Phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo và tích cực vào việc tổ chức lập ra bộ máy nhà nước. Điều này thể hiện trước hết ở chỗ phải có đủ cơ sở pháp lý và các biện pháp tổ chức phù hợp để nhân dân thể hiện ý chí và nguyện vọng của mình, phát huy quyền làm chủ, bầu ra cơ quan đại diện cho mình để lập ra hệ thống các cơ quan khác. Nhìn chung quyền lực nhà nước phải xuất phát từ tay nhân dân, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân và thuộc về nhân dân. * Phải đảm bảo cho nhân dân tham gia đông đảo vào việc quản lý các công việc của nhà nước và quyết định những vẫn đề trọng đại của đất nước. Đây là vẫn đề có ý nghĩa rất quan trọng, bởi nếu người dân tham gia đông đảo vào quản lý các công việc của nhà nước là cơ sở để nhân dân trực tiếp phát huy sức lực, trí tuệ và vai trò làm chủ của mình trong quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, các nhân. Lênin coi đây là phương pháp tuyệt diệu, phương pháp đặc thù chỉ có thể thực hiện được một cách đầy đủ trong chủ nghĩa xã hội. * Phải có cơ chế cho đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác được trao cho những quyền hạn nhất định để quản lý một số công việc của nhà nước. Đây là vẫn đề có tính nguyên tắc, đồng thời là một trong những phương pháp đảm bảo cho bộ máy nhà nước hoạt động đúng mục đích phục vụ và bảo vệ lợi ích của nhân dân, chống lại những biều hiện tiêu cực như quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, xa rời quần chúng của đội ngũ cán bộ nhà nước. Trong Hiến pháp nước Việt Nam quy định rõ: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước trong việc tôn trọng nguyên tắc đảm bảo quyền lực nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng như những hình thức tham gia của nhân dân trong việc thiết lập bộ máy nhà nước, tham gia quyết định những vẫn đề trọng đại của đất nước, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và các công chức nhà nước. Trong các nghị quyết của Đảng ta vẫn đề tôn trọng quyền lực nhân dân, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước luôn là một trong những nội dung quan trọng nhất. Để thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi phải có những biện pháp để nhân dân có điều kiện nâng cao trình độ văn hóa, chính trị, pháp luật, quản lý, đồng thời nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, cung cấp thông tin đầy đủ để dân biết, dân làm, dân kiểm tra các hoạt động của nhà nước. 2. Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước Thông qua Đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện sự lãnh đâọ của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng tổ chức và hoạt động của nhà nước xã hội chủ nghĩa, là điều kiện quyết định để nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia vào công việc của nhà nước. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước còn nhằm giữ vững bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đảm bảo mọi quyền lực thuộc về tay nhân dân, đưa công cuộc đổi mới đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều 4, Hiến pháp 1992 nhà nước Việt Nam nêu rõ : “ Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và lãnh đạo xã hội”. Điều này thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là nguyên tắc hiến định. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở các mặt chủ yếu sau đây: Đảng vạch ra đường lối chính trị, những chủ trương và phương hướng lớn, và quyết định những vẫn đề quan trọng về tổ chức bộ máy, đồng thời chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật, nhất là những đạo luật quan trọng nhằm thông qua nhà nước thể chế hóa các thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, thành những quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội, thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thường xuyên theo dõi, kiểm tra, hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan nhà nước hoạt động theo đúng đường lối của Đảng và đào tạo cán bộ tăng cường cho bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, đặc biệt thông qua các tổ chức Đảng và các đảng viên làm việc trong bộ máy nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không làm thay nhà nước. Năng lực lãnh đạo của Đảng thể hiện trước hết ở việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng và phát huy vai trò của nhà nước. Sự tin yêu của nhân dân đối với nhà nước và sự tham gia tích cực, chủ động của nhân dân vào quản lý nhà nước là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước. Đảng phải thường xuyên củng cố, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước để thực hiện tốt vai trò lãnh đạo của minh. 3.Nguyên tắc tập trung dân chủ Đây được coi là nguyên tắc thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa sự tập trung thống nhất của các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan nhà nước cấp trên với việc mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động, sáng tạo của các cơ quan nhà nước địa phương và các cơ quan nhà nước cấp dưới. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn là cơ sở để phát huy tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân, của tập thể và đề cao trách nhiệm, ý thức kỷ luật của cán bộ, công chức nhà nước. Do đó, nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ áp dụng cho việc giải quyết mỗi quan hệ giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên với cấp dưới, mà còn áp dụng cho mỗi cấp trong cơ cấu tổ chức, cũng như trong cơ chế hoạt động cụ thể của nó. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được biểu hiện trên ba mặt trận chủ yếu là: tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động và chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra và xử lý các vẫn đề khen thưởng, kỷ luật. Về mặt tổ chức: nguyên tắc này thể hiện ở chế độ bầu cử, cơ cấu tổ chức bộ máy, chế độ công vụ, xác lập và giải quyết mỗi quan hệ giữa các bộ phận của bộ máy nhà nước nói chung, giữa trung ương và địa phương, giữa các bộ phận trong mỗi cơ quan nhà nước và trên bình diện chung nhất là giữa nhà nước với nhân dân. Đối với các nước Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ được áp dụng trong lĩnh vực tổ chức bộ máy đều xuất phát từ nguyên lý : tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân trực tiếp bầu ra hệ thống cơ quan đại diện, trao quyền cho các cơ quan đại diện bầu ra hoặc phê chuẩn hệ thống các cơ quan khác. Tính tập trung là biểu hiện quan trọng của bộ máy nhà nước, nhưng sự tập trung đó đều bắt nguồn và dựa trên cơ sở của chế độ dân chủ, dân chủ sau khi đã tập trung phải chịu sự chỉ đạo của tập trung. Các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao quyền để quan lý các công việc nhà nước, nhưng đều phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và chịu sự kiểm tra giám sát của nhân dân. Về mặt hoạt động: các cơ quan nhà nước ở trung ương có quyền quyết định các vẫn đề cơ bản, quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại trên phạm vi toàn quốc. Các cơ quan nhà nước ở địa phương quyết định nhưng vẫn đề thuộc phạm vi địa phương mình. Quyết định của cơ quan nhà nước cấp trên có ý nghĩa bắt buộc với cơ quan nhà nước cấp dưới. Tất nhiên, trong phạm vi thẩm quyền luật định, các cơ quan nhà nước ở địa phương, các cơ quan cấp dưới có quyền tự quyết định và chịu trách nhiệm về những vẫn đề cụ thể ở địa phương và cấp mình. Cơ quan nhà nước trung ương, cấp trên có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan địa phương, cấp dưới, thậm chí có quyền đình chỉ, hủy bỏ quyết định của cơ quan cấp dưới của mình nếu những quyết định đó trái với luật định. Nhưng đồng thời cơ quan trung ương, cấp trên cũng phải tạo điều kiện cho các cơ quan địa phương, cấp dưới phát huy quyền chủ động, sáng tạo trong việc giải quyết các vẫn đề, góp phần vào việc thực hiện các vẫn đề chung của nhà nước. Muốn nguyên tắc tập trung dân chủ phát huy hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải chú trọng công tác xây dựng và thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra và xử lý các vẫn đề kịp thời, đúng đắn, khách quan và khoa học. Các chủ trương, chính sách của cấp trên phải được thông báo kíp thời cho cấp dưới, để cấp dưới nắm bắt được đúng tinh thần chỉ đạo của cấp trên, từ đó chủ động giải quyết các vẫn đề đúng pháp luật và đáp ứng yêu cầu của cấp trên. Đồng thời các hoạt động của cấp dưới phải được thông báo kịp thời đầy đủ cho cấp trên để cấp trên nắm được và có sự chỉ đạo đối với cấp dưới, tạo ra sự nhịp nhàng đồng bộ của bộ máy nhà nước. Bên cạnh đó phải đảm bảo chế độ kỷ luật nghiêm minh trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước phải thực hiện kiểm tra, xử lý nghiêm minh các vi phạm, đồng thời, áp dụng các biện pháp khuyến khích và khen thưởng kịp thời các đơn vị các nhân có nhiều sáng kiến, thành tích nổi bật. Trong hệ thống bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa thì nguyên tắc tập trung dân chủ được coi là một trong những nguyên tắc cơ bản. Tuy nhiên, đối với mỗi nước, mỗi hệ thống cơ quan, mỗi cơ quan thuộc các lĩnh vực và cấp bậc khác nhau đòi hỏi phải có tính sáng tạo, linh hoạt trong việc áp dụng nguyên tắc này. 4. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Nguyên tắc này đòi hỏi việc hoạt động và tổ chức của các cơ quan nhà nước phải được tiến hành theo đúng pháp luật, dựa trên cơ sở pháp luật. Mọi cán bộ và nhân viên nhà nước đều phải thực hiên nghiêm chỉnh và tôn trọng pháp luật khi thực thi nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm chỉnh mọi hành vi vi phạm pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa sẽ là cơ sở cho việc hoạt động bình thường của bộ máy nhà nước, tạo ra sự thống nhất đồng bộ, phát huy được hiệu lực quản lý của nhà nước và đảm bảo công băng trong xã hội. Điều này đòi hỏi phải có những biện pháp đúng đắn, sáng tạo. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc phản ánh nhu cầu tự nhiên của bộ máy nhà nước, đồng thời là đòi hỏi là yêu cầu từ phía nhân dân đối với bộ máy nhà nước và nhân viên nhà nước. Do đó, ở nước ta nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc hiến định, được quy định tại Điều 12, Hiến pháp 1992. Việc củng cố và hoàn thiện bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt Nam, đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, khắc phục tình trạng yếu kém, lỏng lẻo, thiếu nghiêm minh trong điều chỉnh pháp luật vể tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều đó phải đòi hỏi nhà nước phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động cuả bộ máy nhà nước; phải có nhưng biện pháp giáo dục nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ và nhân dân; tổ chức tốt công tác thực hiện và áp dụng pháp luật, đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra giám sát nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm minh và xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm. 5. Nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc Bất kì nhà nước xã hội chủ nghĩa nào đều phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc sinh sống trên đất nước mình. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát huy tất cả khả năng của dân tộc mình tham gia tích cực vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nguyên tắc này được biểu hiện ở các nôi dung sau: Về chính trị: các dân tộc đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trong quá trình thành lập và cử người tham gia vào các cơ quan nhà nước, tham gia vào quản lý các công việc của nhà nước và thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước và thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Về kinh tế: Các dân tộc bình đẳng với nhau về quyền và lợi ích kinh tế, đồng thời nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ để các dân tộc có điều kiện phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Về văn hoá, giáo dục: Các dân tộc đều được dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện chính sách đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm các hành vi kì thị, chia rẽ dân tộc. Đối với nước Việt Nam, đoàn kết là truyền thống quý báu của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp dựng nước, giữ nước và phát triển đất nước. Đối với Đảng, nhà nước, nhân dân ta đoàn kết là một trong những chính sách lớn, quán xuyến mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ. Đại đoàn kết dân tộc lấy mục tiêu chung của các dân tộc làm điểm tương đồng, đồng thời tôn trọng và chấp nhận những điểm khác nhau. Mục tiêu chung của dân tộc ta hiện nay là: giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc được ghi nhận trong hiến pháp và đã trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nước. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có những nguyên tắc khác như : Nguyên tắc tổ chức khoa học, nguyên tắc đảm bảo tính kinh tế, nguyên tắc công khai hóa… Tuy đây không phải là nguyên tắc cơ bản nhưng chúng có ý nghĩa rất lớn về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để áp dụng cho từng loại cơ quan, từng cơ quan xác định trong những điều kiện và hoàn cảnh củ thể. KẾT LUẬN Tìm hiểu về nhà nước xã hội chủ trong lịch sử nhằm qua đó giúp người nghiên cứu hiểu biết sâu sắc thêm sự ra đời, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa; các chức năng và hình thức của nhà nước xã hội chủ nghĩa; bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, nó đòi hỏi người nghiên cứu khi tiến hành nghiên cứu phải dựa trên cơ sở của quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng, biện chứng khoa học, phải đặt nhà nước xã hội chủ nghĩa trong mối liên hệ qua lại với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử và các hiện tượng của đời sống xã hội, để một mặt thấy được sự tác động và ảnh hưởng của chúng đối với nhà nước xã hội chủ nghĩa, mặt khác làm sáng tỏ tính ưu việt của nhà nước xã hội chủ nghĩa so với các mô hinh nhà nước khác đã tồn tại trong lịch sử phát triển loài người. Phải nghiên cứu nhà nước xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, theo quan điểm phát triển, gắn những vấn đề chung với thực tiễn để trả lời những câu hỏi của thực tiễn và phải có những tiêu chuẩn đúng đắn, những luận điểm khoa học để đánh giá về nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tóm lại sự phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người tất yếu sẽ tiễn lên xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn nhiều gian nan, khó khăn, đòi hỏi mỗi chúng ta phải luôn giữ vững ý chí quyết tâm, đồng thời phải nâng trình độ về mọi mặt đặc biệt là về lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Việc chuẩn bị đầy đủ các tiền đề này sẽ góp phần quan trọng xây dựng thanh công Nhà nước xã hội chủ nghĩa Viêt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Học viện báo chí và tuyên truyền (2003), Giáo trình lý luận về nhà nước và pháp luật, Nxb chính trị quốc gia Hà Nội. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới, Nxb Công an nhân dân Nguyễn Thế Thuẫn, Trần Hậu Thành (2008), Hỏi – đáp môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác hình thưc nhà nước XHCN trong lịch sử.doc
Luận văn liên quan