Các khía cạnh địa chất của sức khỏe môi trường

Những đồng vị phóng xạ trải qua sự phân rã phóng xạ, trong đó, thành phần được thay đổi vào trong một phần tử khác và sự bức xạ sản phẩm. Những loại bức xạ phóng xạ chính là những hạt alpha, những hạt bêta và tia gam-ma từng cái với một hiệu ứng khác và tính độc. Hiểm nguy đối với sức khoẻ từ một đồng vị phóng xạ đặc biệt phụ thuộc vào vài nhân tố (hệ số), bao gồm kiểu sự bức xạ nó phát hành, một nửa sự tồn tại của nó, và ở trạng thái hay hoạt động hóa học vật lý. Những chất đồng vị với những sự phát xạ năng lượng và một nửa rất ngắn và thấp. Những cuộc sống nói chung ít nguy hiểm hơn so với người (vật) là với những sự phát xạ năng lượng và cuộc sống cao. Tuy nhiên, một năng lượng thấp, sự tồn tại 1 nửa là chất đồng vị như khí radon, mà sẵn sàng vào một pha thể khí hay được hút trong nước, được trở nên nguy hiểm khi được tập trung và hít vào hay ăn vào bụng. Mặc dù chúng tôi biết điều đó là mạo hiểm và những liều gây chết của sự bức xạ mức cao, chúng tôi không chắc chắn những gì mà sự bóc trần tới sự bức xạ mức thấp cấu thành một mối nguy hiểm và mà có ngưỡng cửa nào đó (của) sự bức xạ mà bên ngoài có thề thiệt hại sẽ xảy ra.

docx24 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2580 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các khía cạnh địa chất của sức khỏe môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iới thứ 2, các khu công nghiệp khi thi hành xử lý chất thải phần lớn bị bỏ qua. ■ Hoạt động khai thác mỏ kẽm, chì, cadmium, đổ chất thải khai thác vào các con sông, nông dân lại sử dụng phần nước hạ lưu vị ô nhiễm cho nông nghiệp. ■ Nguyên nhân đặc biệt là do cadmium, nồng độ của 1/1 triệu ppm trong đất và gạo gây ra bệnh Italltal. Khi kiểm tra xương và mô của nạn nhân đã tìm thấy nồng độ kẽm, chì và cadmium lớn. ¯ Một dữ liệu cho thấy có nồng độ trung bình của Cadmium là 6ppm trong đất ô nhiễm. (cadmium còn gây ra chứng tăng huyết áp, có thể làm tử vong do tạo nồng độ cao cadmium kẽm trong thận, tỷ lệ chết cao hơn so với những người chết). Bệnh tim ¯ Nguyên nhân: ■ Đột quỵ ( ngập máu), đột ngột bị mất các chức năng như bị đứt gẫy hoặc tắc nghẽm các mạch máu trong não. ■ Sự biến đổi bệnh này có liên quan đến tỉ lệ sulfate bicarbonate trong nước sông. Giải thích về những chất liên quan đến độ cứng của nước: ■ Ion bicarbonate (HCO3-) là một phần kết quả của thời tiết, hình thành nên đá giàu carbonat như đá vôi. Nước cứng trong bicarbonate có chứa nồng độ Canxi hoặc Magie cao. ■ Tỷ lệ sulfate dicarbonate chỉ ra nồng độ bicarbonate tương đối cao nên nước cứng. Và ngược lại, tỷ lệ sulfate dicarbonate cao sẽ cho thấy nước tương đối mềm. Những nơi nào có nước tương đối mềm thì có tỉ lệ mắc bệnh tim cao hơn so với những nơi có nước cứng hơn. ¯Ví dụ về mối quan hệ nghịch đảo giữa nước cứng và tỉ lệ tử vong từ bệnh tim ở Hoa Kì: Nhà nghiên cứu Ohio cho thấy rằng các hạt trong nước uống giàu sulsate có nguồn gốc từ than đá, nằm ở phía đông nam có xu hướng tỷ lệ tử vong do mắc bệnh tim cao hơn so với nguồn nước có lượng sulfate thấp, nước uống carbhonat acid cao bắt nguồn từ những băng tích trẻ. ¯ Nguyên nhân và mối liên quan đến bệnh tim( các nhà khoa học chưa biết thiên nhiên có ảnh hưởng như thế nào): Nước mềm do acid ăn mòn xuyên qua ống dẫn, giải phóng vào trong nước những nguyên tố vi lượng gây ra bệnh tim. Một số đặc trưng khác của nước mềm có thể trực tiếp góp phần gây bệnh tim. Một số chất được hòa tan trong nước cứng có thể giúp ngăn ngừa bệnh tim Nghiên cứu bổ sung cho thấy lợi ích của nước cứng và có thể xử lí nước mềm để làm giảm bệnh tim. Nguyên tố vi lượng như magan, chroumium, vanadi, đồng có lợi trong ngăn ngừa bệnh tim. Ung thư và môi truờng địa hoá Liên quan đến những điều kiện ngoại cảnh, phức tạp, có thể có sự hiện diện hoặc vắng mặt của một số vất liệu Trái Đất. ¯Nguyên nhân: ■ Sự xuất hiện của các vật chất trong tự nhiên như đất, nước. ■ Sự giải phóng vật chất vào môi trường bởi chính con người. Đặc biệt là sự giải phóng bởi những hoạt động công nghiệp. Chất ung thư có thể được tìm thấy ở nhiều nguồn nước mà ta sử dụng. Nước bị ô nhiếm do chất thải công nghiệp và đô thị có chứa hóa chất độc hại.Như ở sông Mississippi, nước ô nhiễm, kết hợp với clo, việc xử lý nước được sử dụng không triệt để để loại bỏ một số chất gây ung thư. Ung thư thực quản: có mối liên quan phức tạp giữa ung thư và yếu tố môi trường: khí hậu, đất, thảm thực vật, các hoạt động nông nghiệp ( đất là yếu tố có tương tác cao nhất) Bệnh tim ở Georgia ¯Nghiên cứu đầu tiên về bệnh tim là ở Georgia Mỹ. Sự khác biệt rõ rệt giữa mức tử vong do mắc bệnh tim cao nhất và thấp nhất trong 159 tỉnh ở Georgia. ■ Chim nơi có tỷ lệ tử vong cao tập trung ở phần trung tâm phía nam, vùng đồng bằng ven biển Đại Tây Dương của quốc gia ( khoảng 1151 đến 1446 ca chết trong 100000 dân) ■ Chin nơi có tỷ lệ bệnh tim thấp là ở phía bắc Georgia trong khu vực Piedmont, núi Blue, sườn núi và khu vực thung lũng. à Sự khác biệt như vậy là do biến đổi địa hóa trong đất khác nhau, do nồng độ của một trong các nguyên tố nhôm, bari, canxi, crom, đồng, sắt, kali, magie, mangan, niobium, phốt pho, vanadium được tìm thấy ( Zinrconium là nguyên tố có nồng độ lớn hơn cả gây tử vong cao). Mangan, crom, vanadi và đồng có lợi cho bệnh tim, tập trung cao hơn ở những nơi có tỷ lệ tử vong thấp. Amiang ¯ Là những khoáng vật nhỏ, dài gọi là sợi phíp. Đặc biệt vỡ ra từng mảnh của những khoáng đá sa thạch. ¯ Công dụng: phòng cháy và nóng quá mức của nhiên liệu. Được sử dụng trong các lớp phanh và như một vật liệu cách nhiệt. Sản xuất sợi nghiền gần như bất kì tảng đá nào có khả năng tạo ra mảnh vỡ, khoáng vật nhỏ kéo dài ¯ Nhược điểm: ■ Tiếp xúc nhiều với amiang như công nhân trong ngành công nghiệp dễ mắc bệnh phôi, được gây ra bởi hít phải các sợi. Nặng hơn là bệnh ung thư phổi. ■ Thí nghiệm động vật tiếp xúc với amiang làm phổi xuất hiện các khối u, gây ra niêm mạc phổi. Nhưng không phải tất cả các loại Amiang nguy hiểm như nhau. Được biết như amiang trắng là sự đa dạng được sử dụng phổ biến nhất tại Hoa Kì. ¯ Ví dụ ở miền bắc Iran, gần biển Caspian: Tỷ lệ mắc bệnh cao nhất là vùng mặn nằm ở phía đông của khu vực, tỷ lệ thấp nằm ở vành đai mưa của khu vực này. Khu vực phía đông đất ngậm muối nhiều hơn. Thảm thực vật và hệ thống nông nghiệp thay đổi từ chăn thả gia súc, bao phủ thưa thớt bởi các cây chịu hạn đến các khu rừng tươi tốt và canh tác lú khô, trái cây và trà. Phóng xạ và khí Radon: R adon, một khí phóng xạ tự nhiên, được coi là vấn đề quan trọng của môi trường phát sinh từ quá trình tự nhiên và không liên quan đến bất kì các hoạt động công nghiệp, công cộng, hoặc hoạt động của chính phủ. Trước khi chúng tôi xem xét các vấn đề về radon, chúng ta cần phải xem xét bản chất của phóng xạ và nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe do sự tiếp xúc với khí thải phóng xạ. Bản chất của phóng xạ. Tất cả các nguyên tử của cùng một nguyên tố đều có cùng số nguyên tử (số proton trong hạt nhân). Đồng vị là các nguyên tử của một nguyên tố mà có số neutron khác nhau và do đó có khối lượng nguyên tử khác nhau (tổng số proton và neutron trong hạt nhân). Ví dụ, 2 đồng vị của uranium là 235U92 và 238U92. Nguyên tử của 2 đồng vị này có số nguyên tử là 92, nhưng khối lượng tương ứng của chúng lại là 235 và 238. Những đồng vị này có thể được viết là uranium-235 và uranium-238, hay U-235 và U-238. Sự phân rã hạt nhân của 1 đồng vị phóng xạ phân rã hạt nhân một cách tự nhiên, điều đó có nghĩa là nó thay đổi hạt nhân trong 1 hay nhiều các quá trình phóng xạ. 3 loại hạt chính được phát ra do trong các quá trình phân rã phóng xạ là hạt alpha, hạt beta, hạt gamma. Mỗi đồng vị phóng xạ có bức xạ đặc trưng của riêng nó, một số đồng vị chỉ phát ra một loại bức xạ trong khi một số khác có thể phát ra hỗn hợp các loại bức xạ. Hạt alpha Hạt alpha bao gồm 2 hạt proton và 2 hạt neutron, do đó làm chúng có khối lượng lớn hơn những loại bức xạ khác. Bởi vì sự phân rã alpha (phát xạ của một hạt alpha) làm thay đổi số proton trong hạt nhân, đồng vị này cũng bị biến đổi thành đồng vị của một nguyên tố khác. Ví dụ, 1 nguyên tử radon-222, có 86 proton, phát xạ 1 hạt alpha và do đó chuyển thành 1 nguyên tử polonium-218 với 84 proton. Do khối lượng của chúng nên các hạt alpha là bức xạ di chuyển chậm nhất (năng lượng thấp nhất). Chúng di chuyển với khoảng cách ngắn nhất (khoảng 5 đến 8 cm trong không khí) và khả năng xuyên qua bề mặt chất rắn cũng thấp hơn bức xạ beta và gamma. Hạt beta. Hạt beta là hạt điện tử mang năng lượng và có khối lượng nhỏ hơn hạt alpha. Phóng xạ beta xảy ra khi một trong các neutron của hạt nhân thay đổi một cách tự nhiên. Lưu ý rằng điện tử phát sinh là một sản phẩm do sự biến đổi, không có điện tử trong hạt nhân trước khi phân rã xảy ra. Hạt gamma. Trong bức xạ gamma, một loại năng lượng được gọi là tia gamma được phát ra từ đồng vị, nhưng số lượng của các proton và neutron trong đồng vị không thay đổi. Tia gamma là tia hạt nhân tương tự như tia X được dùng trong y học. Tia gamma được phát xạ ra khỏi hạt nhân với năng lượng cao hơn, di chuyển nhanh hơn và khả năng đâm xuyên cao hơn tia beta và alpha. Một đặc điểm quan trọng của 1 đồng vị phóng xạ là thời gian bán rã của nó, là thời gian cần cho một nửa số lượng các đồng vị phóng xạ biến đổi thành một dạng khác. Mỗi một đồng vị phóng xạ đều có 1 thời gian bán rã đặc trưng của riêng nó. Ví dụ, như radon-222 có thời gian bán rã tương đối ngắn, 3.8 ngày. Carbon-14, một đồng vị phóng xạ của carbon có thời gian bán rã là 5570 năm; uranium-235 có thời gian bán rã là 700 triệu năm và uranium-238 có thời gian bán rã là 4.5 tỉ năm. Một vài đồng vị phóng xạ, đặc biệt là những đồng vị rất nặng trải qua nhiều lần phân rã để trở thành một đồng vị ổn định (không còn là đồng vị phóng xạ). Hình 13.10 cho thấy các chuỗi phân rã uranium-238 thông qua radium-226 và polonium-218 để tạo ra đồng vị ổn định chì-206. 2 điều quan trọng cần lưu ý trong mỗi biến đổi là loại bức xạ được phát ra và thời gian bán rã của đồng vị, thông tin này được đưa ra cho mỗi biến đổi trong hình 13.10. Sự phân rã từ một đồng vị phóng xạ tạo ra những đồng vị khác thường được ghi trong điều kiện của các nguyên tử cha mẹ và nguyên tử con. Từ nguyên tử radon-222, một loại khí có thời gian bán rã 3.8 ngày, phân rã bức xạ alpha tạo nên polonium-218, là một chất rắn có chu kì bán rã 187 giây. g Hình 13.10: đơn giản hóa những chuổi phóng xạ từ uranium-238 tạo ra chì-206. Tất cả đồng vị không được thể hiện. Thời gian bán rã và loại bức xạ được thể hiện cho vài loại đồng vị. Đơn vị bức xạ C ác đơn vị phóng xạ phụ thuộc vào chúng ta quan tâm đến điều gì,quá trình phân rã phóng xạ hoặc lượng chất phóng xạ bị cơ thể hấp thụ. Trong cả 2 trường hợp, những đơn vị được sử dụng để đo năng lượng của bức xạ. Đo phân rã phóng xạ Một đại lượng thường dùng để đo phân rã phóng xạ được gọi là Curie nhằm tôn vinh Marie và Pierre Curie, người đã phân lập được nguyên tố phóng xạ được biết đến đầu tiên, polonium và radium vào năm 1890. Marie Curie đặt ra thuật ngữ tính phóng xạ, và cô đặt tên là polonium theo tên của quê hương cô, Poland. Các tác hại của chất phóng xạ không được biết đến vào thời điểm đó, và cả Marie Curie và con gái cô, người cùng làm việc với nguyên tố phóng xạ, đã mất ở Leukenia, mà nguyên nhân được tin rằng là do tác hại của những tin bức xạ gây nên. 1 curie (Ci) là một lượng năng lượng phóng xạ trong 1 gam radium-226, mà trải qua 37 tỉ phân rã hạt nhân trong mỗi giây. Radium-226 có thời gian bán rã là 1622 năm, vào cuối thời gian đó từ 1 gram khối lượng ban đầu của radium sẽ được giảm xuống còn 0,5 gram, phân rã hạt nhân sẽ giảm khoảng 18,5 tỉ mỗi giây, và lượng phóng xạ sẽ là 0,5 Ci (39). Trong hệ thống đo lường quốc tế, đơn vị thường được sử dụng cho phân rã phóng xạ là becquerel (Bq) (được đặt theo tên một giáo viên của Marie Curie, nhà vật lí học Henri Becquerel), tương ứng với 1 phân rã mỗi giây (do đó 1Ci=3.7.1010 Bq). Becquerel là 1 đơn vị hữu ích để làm việc với các khí phóng xạ, khi đó số lượng nguyên tử rất ít trong mỗi đơn vị thể tích. Ví dụ, nếu chúng ta đang làm việc với radon-222, chúng ta có thể nêu năng lượng phóng xạ của nó bằng becquerels mỗi mét khối hoặc theo picocuries mỗi lít (pCi/l). 1 picocurie tương đương với 1 phần nghìn tỉ curie, vì thế picocuries mỗi lít là một đơn vị đo lường số phân rã trong 1 giây ở 1 lít (1pCi/l=37Bq/m3). Đơn vị đo lường mức phóng xạ. Lượng bức xạ nhận được từ một nguồn bức xạ phóng xạ thường được thể hiện bằng đơn vị rad và rem. 1 rad là đơn vị của lượng bức xạ hấp thụ, và rem là đơn vị của lượng tương đương, mà được giải thích một cách ngắn gọn. Các đơn vị tương ứng của hệ thống quốc tế là grays và sieverts: 1 gray (lượng hấp thụ) tương đương với 100 rad. Và 1 sievert (lượng tương đương) bằng với 100 rem (38). Cả 2 hệ thống đơn vị này đều thường được sử dụng. Rad và ray đo lường lượng năng lượng được giữ lại trong các sinh vật sống khi chúng tiếp xúc với chất phóng xạ. Tuy nhiên, bởi vì các loại phóng xạ khác nhau có mức đâm xuyên khác nhau, nên mức độ gây tổn hại đến các sinh vật sống của chúng cũng khác nhau. Rad và gray do đó cũng tăng lên bởi 1 nhân tố được biết đến như là liên quan đến tác dụng sinh học để tạo ra các kết quả tương ứng (hoặc có ảnh hưởng tương đương), mà được đo lường bằng rem hay sieverts. Millirem (mrem) và millisievert (mSv)- một phần nghìn của rem hoặc sieverts- được sử dụng để đo lường một lượng nhỏ phóng xạ (39-41). Đơn vị thông thường được sử dụng để đo lường tia X hoặc tia gamma là roentgen hoặc, trong hệ thống đơn vị quốc tế, coulombs mỗi kilogram (cả 2 đều liên quan đến lượng ion trên mỗi đơn vị khối lượng). Nguy hiểm đến sức khỏe từ sự phát xạ phóng xạ. M ột đồng vị phóng xạ ảnh hưởng đến sức khỏe nguy hiểm thế nào dựa vào những nhân tố: loại phóng xạ nào được phát ra, mức tiếp xúc tự nhiên (đó là, liệu đồng vị đó ở bên ngoài hay bên trong cơ thể), thời gian bán rã của đồng vị, dạng vật lý của nó và dạng tính chất hóa học của đồng vị này. Radon-222 phát xạ lượng năng lượng thấp, và có thời gian bán rã ngắn, nhưng nó nguy hiểm vì ở dạng khí. Nếu nó được hít vào, sản phẩm dạng rắn của nó sẽ phát ra phóng xạ nguy hiểm bên trong cơ thể. Loại phóng xạ. Chúng ta đã ghi nhận được hạt alpha có thể di chuyển từ 5-8cm trong không khí trước khi dừng lại do ma sát với các phần tử trong không khí. Ở mô của con người, với mật độ dày đặc hơn trong không khí, hạt alpha chỉ có thể di chuyển được khoảng 0,005- 0,008 cm, vì thế chúng phải bắt đầu từ 1 tế bào hoặc 1 thực thể sống gần nhất để phá hủy nó. Phóng xạ alpha thì gần như nguy hiểm với sức khỏe, khi nó bị hít phải hoặc bị nuốt phải: tất cả các phóng xạ đều dừng trước các cơ thể sống trong một khoảng cách rất ngắn, vì thế cơ thể hấp thụ tất cả các năng lượng gây nguy hiểm đó. Mặt khác, khi một bức xạ do hạt alpha phóng ra được chứa trong một vật kín thì nó khá là vô hại. Bởi vì mức năng lượng phát xạ lớn và khả năng đâm xuyên cao của nó, tia gamma có thể gây nguy hiểm cả bên ngoài và bên trong cơ thể. Tuy nhiên, nếu lượng phát xạ đó bị nuốt phải, một vài bức xạ sẽ xuyên ra bên ngoài cơ thể, làm giảm khả năng gây nguy hiểm. Để bảo vệ từ một nguồn tia gamma ở bên ngoài cần một lớp che chắn dày. Phóng xạ beta có mức ảnh hưởng trung bình, mặc dù phần lớn, phóng xạ beta bị hấp thụ bởi cơ thể khi 1 phóng xạ beta bị nuốt phải. Hạt beta từ một nguồn phóng xạ bên ngoài có thể được ngăn chặn bằng một lớp che chắn vừa phải. Lượng phóng xạ. Lượng phóng xạ ở từng nơi khác nhau chủ yếu là do độ cao và do địa chất. Nhiều bức xạ từ vũ trụ ở các độ cao cao hơn ở vùng thấp hơn do bầu khí quyển ở đó mỏng hơn và một phần là do đá granit, thường chứa nhiều đồng vị phóng xạ, thường được tìm thấy ở các khu vự vùng núi. Không có báo cáo chính xác về lượng bức xạ mà ta nhận được từ những nguồn phát xạ ở mức thấp. Tuy nhiên, nguồn phóng xạ chính tự nhiên bao gồm potassium-40 và carbon-14, tồn tại trong cơ thể chúng ta với nồng độ dao động khoảng 0,2 và 0,25 mSv/người/năm. Potassium là một chất điện phân quan trọng trong máu chúng ta, và một đồng vị của potassium (K-40) với thời gian bán rã rất dài. Mặc dù potassium-40 chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ Kali trong cơ thể nhưng nó tồn tại trong tất cả chúng ta, vì thế mỗi người trong chúng ta đều có 1 lượng nhỏ phóng xạ. Do đó, nếu bạn sống gần với 1 người khác, bạn đã tiếp xúc nhiều hơn với lượng phóng xạ từ người đó (một mối nguy hiểm nhỏ so với những lợi ích mà nó mang lại). Con người tiếp xúc với khoảng từ 0,35 đến 1,5 mSv/người/năm, phụ thuộc vào độ cao và các chất phóng xạ trong đất đá, với mức trung bình khoảng 0,35 mSv. Các nguồn bức xạ thấp được con người sử dụng như là tia X cho mục đích y tế và nha khoa, lên đến trung bình 0,7-0,8 mSv/người/năm, kế hoạch năng lượng hạt nhân có thể là nguyên nhân của 0,04 mSv, việc đốt cháy nguyên liệu hóa thạch như than đá và khí tự nhiên có thể thêm 0,03 mSv. Bên cạnh đó, nghề nghiệp và phong cách sống cũng ảnh hưởng đến lượng bức xạ mà bạn nhận được. Mỗi lần bạn bay tại một độ cao so với mực nước biển, bạn nhận được thêm 1 lượng bức xạ. Nếu bạn làm việc tại nhà máy đốt than thông thường hoặc 1 nhà máy hạt nhân, hoặc một số công việc trong ngành công nghiệp bạn có thể sẽ phải tiếp xúc với 1 liều lượng phóng xạ thấp. Ở một số nước, lượng phóng xạ mà công nhân phải tiếp xúc được giám sát chặt chẽ tại một nơi xác định như nhà máy năng lượng hạt nhân, và phòng thí nghiệm có liên quan đến tia X. Ở đó, nhân viên phải đeo một vật tượng trưng thể hiện mức bức xạ mà người đó phải tiếp xúc. Câu hỏi quan trọng về việc tiếp xúc với bức xạ là: khi nào chúng ta tiếp xúc và hàm lượng bức xạ như thế nào là nguy hiểm cho sức khỏe con người? để trả lời câu hỏi này không hề đơn giản. Chúng ta biết 1 giải pháp tốt về ảnh hưởng của hàm lượng phóng xạ cao đối với con người nhưng ít hơn nhiều đối với việc tiếp xúc liên tục hàm lượng thấp các chất phóng xạ. Phần lớn thông tin của chúng ta về ảnh hưởng của hàm lượng cao từ việc nghiên cứu những người sống sót sau vụ nổ bom nguyên tử ở Nhật, những người tiếp xúc với hàm lượng cao các chất phóng xạ trong mỏ uranium, những công nhân sơn mặt đồng hồ với sơn dạ quang chứa radium, và những người được điều trị bằng phương pháp phóng xạ để chữa bệnh. Những người công nhân tiếp xúc với nồng độ cao các chất phóng xạ trong mỏ phải chịu đựng căn bệnh ung thư phổi với tỉ lệ khá cao hơn những người dân bình thường. Nghiên cứu cho thấy kể từ thời gian tiếp xúc đến thời gian tử vong kéo dài khoảng từ 10 đến 25 năm. Những ảnh hưởng xấu của hàm lượng cao các chất phóng xạ được xác định từ loại nghiên cứu vừa mô tả. Một lượng khoảng 5000 mSv thì có thể giết tất cả những người tiếp xúc với nó. Một lượng từ 1000-2000 mSv có thể gây nên vấn đề sức khỏe bao gồm nôn, mệt mỏi, tăng tỉ lệ hỏng thai tự nhiên dưới 2 tháng, vô sinh tạm thời ở nam giới, và ở tại 500 mSv thiệt hại sinh lý được ghi nhận. Liều lượng bức xạ cho phép tối đa đối với người lao động trong ngành công nghiệp là 50 mSv mỗi năm, lượng bức xạ này gấp 30 lần mức bức xạ trung bình mà mỗi người nhận được từ các nguồn tự nhiên. Lượng phóng xạ trung bình hằng năm cho phép đối với mỗi cư dân Hoa Kỳ là 5 mSv hoặc khoảng 3 lần lượng phóng xạ trung bình hằng năm. Mặc dù phần lớn các nhà khoa học đồng ý rằng phóng xạ có thể gây ung thư, có một tranh luận giữa mối quan hệ giữa việc tiếp xúc với lượng thấp phóng xạ và ung thư gây tử vong. Một vài nhà khoa học tin rằng mối quan hệ này là tuyến tính, vì thế bất kì sự gia tăng phóng xạ nào đều tạo thêm một nguy cơ. Một vài người khác thì tin rằng có thể có thể xử lí và phục hồi từ mức bức xạ rất thấp, ảnh hưởng đến sức khỏe bắt đầu xuất hiện khi lượng bức xạ vượt ngưỡng. Và có lẽ là, bất kì sự gia tăng lượng bức xạ nào cũng kéo theo sự gia tăng ảnh hưởng có hại cho sức khỏe. Khí Radon. Radon là 1 khí phóng xạ tự nhiên không màu, không mùi và không vị. Phân rã phóng xạ của uranium-238 tạo ra radium-226, mà tiếp tục phân rã tạo ra radon-222 (xem hình 13.10). Do đó, đá uranium là nguồn gốc tạo nên khí radon gây ô nhiễm nhiều gia đình ở Hoa Kỳ. Khí radon có 1 lịch sử thú vị kể từ khi nó được khám phá vào năm 1900 bởi nhà hóa học Đức Ernest Dorn. Đầu những năm 1900 các quốc gia trên thế giới xem radon như một loại thuốc bổ cho sức khỏe của họ. 1 bác sĩ đã báo cáo trong 1 tờ tạp chí y học rằng radon hoàn toàn không có tác dụng động hại và hài hòa với hệ thống của con người nhiều như là ánh sáng mặt trời được cây cối chấp nhận. Vào năm 1916, hiệp hội y tế Hoa Kỳ đã từ chối xác nhận một vài radon emanators (1 thiết bị phân giải radon trong nước) bởi vì có quá ít radon được tạo ra. Trong suốt thời kì này, nhiều sản phẩm có chứa uranium và dĩ nhiên là có radon, được bán trên thị trường bao gồm kẹo socola, bánh mì, và kem đánh răng. Gần đây, vào năm 1953 thuốc tránh thai jelly mà có chứa radium được bán trên thị trường ở Hoa Kỳ. Ngày nay, đặc tính tiêu diệt tế bào của sản phẩm từ radon được sử dụng rộng rãi trong điều trị ung thư. Tại sao khí radon lại nguy hiểm? Con người đang lo lắng vì khí radon bởi vì tiếp xúc với nồng độ cao khí radon có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư phổi, đặc biệt là đối với người bị hút thuốc. Nguy cơ được suy nghĩ đến việc gia tăng như là nồng độ radon, lượng thời gian tiếp xúc với radon, và số lượng người hút thuốc gia tăng. Trong những năm gần đây khoảng 140,000 ca ung thư phổi xảy ra hằng năm tại Hoa Kỳ. Mặc dù, hút thuốc là một nhân tố quan trọng nhất kết hợp với ung thư phổi, EPA đánh giá rằng từ 7000-30,000 trong những ca này có liên quan đến việc tiếp xúc với khí radon. 1 thống kê chỉ ra rằng vừa tiếp xúc với khí radon vừa tiếp xúc với thuốc lá gây nguy hiểm gấp 10 lần khi tiếp xúc với 1 trong 2 thứ trên. Mặc dù ít có nghiên cứu trực tiếp về mối quan hệ giữa việc tiếp xúc khí radon trong nhà với việc tăng nguy cơ ung thư phổi, ước lượng về mối liên kết như vậy đến từ việc nghiên cứu những cá thể từng tiếp xúc với nồng độ cao chất phóng xạ qua những hoạt động như là khai thác các mỏ uranium. Nguy cơ sức khỏe từ khí radon có mối quan hệ cơ bản với các sản phẩm của nó, polonium là 1 phần tử, bám chặt vào bụi. Những hạt bụi này có thể được hít vào phổi, nơi mà phóng xạ alpha có thể phân rã tạo ra polonium-218, từ đó tạo ra chì-214 với thời gian bán rã gần 3 phút (xem hình 13.10). Hít phải những hạt từ bình phun mà có thể mang những sản phẩm của radon như là polonium-218 bị kẹt lại trong phổi bởi lớp nhầy trên bề mặt của cuống phổi, và những tế bào nằm bên dưới lớp nhầy đó có thể bị phá hủy bởi phóng xạ alpha. Phóng xạ được biết đến như là nguyên nhân gây nên việc hỏng sợi DNA trong tế bào, và khi cả sợi DNA bị vỡ, việc phá hủy có thể là chắc chắn, kết quả là sự đột biến. Sự đột biến không phải là nguyên nhân gây ung thư nhưng nó lại liên quan đến quá trình bắt đầu những căn bệnh, mà có lẽ là sau khi được thúc đẩy việc tiếp xúc các chất hóa học như những chất được tìm thấy trong khói thuốc. EPA đã đưa ra biểu đồ ước lượng sự nguy hiểm của radon, một trong số đó được thể hiện trong hình 13.12. Biểu đồ liên kết đến thời gian tiếp xúc với khí radon trong picocuries mỗi lít đến ước tính mức độ nguy hiểm và số người chết do ung thư phổi. Một nghiên cứu gần đây đền nghị khí radon là 1 yếu tố nguyên nhân gây bệnh bạch cầu dòng tủy, khối u ác tính, ung thư thận và một số bệnh ung thư ở trẻ em. Nghiên cứu dựa trên một thống kê về sự tập trung của radon trong nhà và tác động của ung thư. Nó có thể gây ra tranh luận, tuy nhiên, một phần bởi vì cơ sở dữ liệu bao gồm tỉ lệ ung thư và nồng độ radon trung bình cho một số nước chứ không phải đánh giá nồng độ radon trong nhà của các nạn nhân ung thư. Phương pháp tiếp cận, trong khi có hiệu lực, cần gắn chặt với các cá nhân và môi trường cụ thể của họ trước những quan sát hoài nghi rằng radon còn gây nên những loại ung thư khác ngoài ung thư phổi. Mối liên quan giữa các khối u ác tính (một dạng ung thư da chết người) và giả thiết liên quan đến tổn thương tế bào da bởi sự phân rã phóng xạ radon và sản phẩm từ những phóng xạ sau của nó mà bằng cách nào đó có thể tích tụ lại trên da. Bệnh bạch cầu được giả thiết là radon hòa tan trong máu và tế bào chất béo, dẫn đến sự tích tụ radon ở các tế bào chất béo và tủy xương. Những giả thiết thú vị này có ý nghĩa quan trọng và cần được giải quyết trong các nghiên cứu ở tương lai. Trong một vài giới hạn về mức phóng xạ đã được đưa ra, người ta khẳng định rằng nồng độ radon lớn nguy hiểm và không đề cập đến ảnh hưởng của nồng độ radon thấp đối với sức khỏe. EPA đã thiết lập 4,0pCi/l là mức độ mà trên nó, khí radon được coi là nguy hiểm. Nồng độ trung bình ngoài trời của khí radon là 0,2 pCi/l và nồng độ trung bình trong nhà là khoảng 0,1 pCi/l. Mức phóng xạ 4,0 pCi/l laà mức phóng xạ ở 1 mục tiêu tập trung, đối với mức độ phóng xạ trong nhà nên được giảm xuống. Nếu bạn chưa bao giờ hút thuốc, mức độ nguy hiểm tại 4,0 pCi/l có thể tương đương với nguy cơ chết đuối; nếu bạn hút thuốc, nguy cơ gấp khoảng 100 lần nguy cơ chết trong 1 tai nạn máy bay. Nguy cơ tiếp xúc với radon cũng có thể tương đương với số lượng người có thể bị ung thư phổi, theo như hiển thị ở hình 13.12. Những ước tính này rất khó để kiểm tra. Báo cáo trong một nghiên cứu của Hoa Kỳ ở những phụ nữ không hút thuốc không tìm thấy một dấu hiệu tích cực nào giữa việc tiếp xúc với radon và ung thư phổi. Một nghiên cứu khác ở Thụy Điển thống kê về mối quan hệ tích cực giữa việc tiếp xúc với khí radon trong nhà và ung thư phổi. Kết luận sau này nói rằng, việc tiếp xúc với khí radon là 1 nguyên nhân quan trọng dẫn đến ung thư phổi trong dân cư của Thụy Điển. Nếu những nguy cơ từ khí radon gần như EPA ước tính thì mối nguy hiểm có thể tương đương với khả năng tử vong do tai nạn giao thông, và cao hơn hàng trăm lần so với những rủi ro được trình bày bởi những chất ô nhiễm ngoài trời có thể hiện diện trong nước và không khí. Chất ô nhiễm ở môi trường ngoài trời thường được qui định để làm giảm nguy cơ tử vong sớm và bệnh ít hơn 0,001% hay 1 trên 100000. Những nguy cơ từ những chất gây ô nhiễm trong nhà như chất hữu cơ ám chỉ nguy cơ ung thư xấp xỉ 0,1 %. Dù vậy, nguy cơ này cũng chỉ rất nhỏ so với những nguy hiểm do radon. Ví dụ, những người sống trong nhà trong khoảng 20 năm với nồng độ radon trung bình khoảng 25 pCi/l, phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi từ 2% đến 3%. Hình 13.12: ước lượng nguy cơ liên quan đến radon. Những ước tính này được tính toán như nguy cơ do tiếp xúc lâu dài của những người ở độ tuổi 70 và dành khoảng 75% thời gian trong nhà với 1 mức độ radon. Mối nguy hiểm của radon nếu bạn hút thuốc Mức độ radon Nếu 1000 người hút thuốc tiếp xúc với mức độ radon này trong cả cuộc đời của họ Nguy cơ ung thư từ việc tiếp xúc với nồng độ radon tương đương… Điều cần làm: dừng hút thuốc và… 20 pCi/l Khoảng 135 người có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Gấp 100 lần nguy cơ chết đuối. Sửa lại nhà của bạn 10 pCi/l Khoảng 71 người có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Gấp 100 lần nguy cơ chết trong 1 ngôi nhà đang cháy. Sửa lại nhà của bạn 8 pCi/l Khoảng 57 người có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Sửa lại nhà của bạn 4 pCi/l Khoảng 29 người có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Gấp 100 lần nguy cơ chết trong 1 máy bay đang rơi. Sửa lại nhà của bạn 2 pCi/l Khoảng 15 người có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Gấp 2 lần chết trong 1 tai nạn xe. Cân nhắc đến việc sửa nhà ở mức radon trong khoảng 2-4 pCi/l 1,3 pCi/l Khoảng 9 người có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Mức radon trong nhà trung bình. Khó để giảm mức radon xuống dưới 2 pCi/l 0,4 pCi/l Khoảng 3 người có nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi. Mức radon ngoài trời trung bình. Ghi chú: nếu ở thời điểm hiện tại bạn không hút thuốc, nguy cơ mắc phải sẽ thấp hơn. Mối nguy hiểm của radon nếu bạn không bao giờ hút thuốc Mức độ radon Nếu 1000 người không bao giờ hút thuốc tiếp xúc với mức độ radon này trong cả cuộc đời của họ Nguy cơ ung thư từ việc tiếp xúc với nồng độ radon tương đương… Điều cần làm: dừng hút thuốc và… 20 pCi/l Khoảng 8 người có thể bị ung thư phổi Nguy cơ bị giết trong 1 tội ác bạo lực. Sửa lại nhà của bạn 10 pCi/l Khoảng 4 người có thể bị ung thư phổi Sửa lại nhà của bạn 8 pCi/l Khoảng 3 người có thể bị ung thư phổi Gấp 10 lần nguy cơ chết trong 1 máy bay rơi. Sửa lại nhà của bạn 4 pCi/l Khoảng 2 người có thể bị ung thư phổi Nguy cơ chết chìm. Sửa lại nhà của bạn 2 pCi/l Khoảng 1 người có thể bị ung thư phổi Nguy cơ chết trong 1 ngôi nhà đang cháy. Cân nhắc đến việc sửa nhà ở mức radon trong khoảng 2-4 pCi/l 1,3 pCi/l Ít hơn 1 người có thể bị ung thư phổi Mức radon trung bình trong nhà. Khó để giảm mức radon xuống dưới 2 pCi/l 0,4 pCi/l Ít hơn 1 người có thể bị ung thư phổi Mức radon trung bình ngoài trời. Ghi chú: nếu trước đây bạn từng hút thuốc, nguy cơ mắc phải sẽ thấp hơn. Địa chất của khí radon. C ả loại đá và cấu trúc địa chất rất quan trọng trong việc xác định bao nhiêu radon có khả năng tiếp cận ở bề mặt trái đất. Nồng độ uranium-238 trong đất và đá rất khác nhau. Một vài loại đá như là sa thạch thường chứa ít hơn 1 phần triệu (ppm) U-238; vài loại khác như là đá phiến sét đen và vài loại đá granit, có thể chứa hơn 3 ppm U-238. Hàm lượng thật sự của radon gần bề mặt trái đất thì liên quan đến nồng độ uranium trong đá và đất cũng hiệu quả như quá trình chuyển hóa từ đá hoặc đất thành đất nước và khí đất. Một số vùng của Nước Mỹ chứa đựng đá gốc trên mức trung bình về sự tập trung trong tự nhiên của Uranium. Một vùng ở Pennsylvania, New Jersey và New York nổi tiếng về những sự tập trung cao của khí radom là Reading Prong (Hình 13.13). Vùng này chứa đựng một số lượng lớn với những sự tập trung cao của khí radon. Tương tự, hai vùng ở Florida đã được xác định là đã có gia tăng những sự tập trung của những tảng đá giàu Uranium trong phốt phát. Ở nhiều tiểu bang khác bao gồm Illinois, New Mexican, phía Nam Dakota, bắc Dakota và Washington đã được xác định những vùng với những sự tập trung khí radon ở bên trong rất cao. Một loại diệp thạch tối (đá phiến sét) trong thành phố Santa Barbara, California, vùng đã được xác định khi một người sản xuất ra khí radon cung cấp khí đốt (Hình 13.14). Những cấu trúc địa chất như những đới bị đứt gãy và những lỗi thì thông thường được làm giàu khi có Urani và có thể sản xuất ra những sự tập trung cao của khí radon trong những lớp đất bên trên. Một nghiên cứu ở miền nam Virginia được tìm thấy những đới cắt một loại đá hoa cương do chấn động tạo thành được liên quan đến sự tập trung của khí radon bên trong những lớp đất phía trên. Hơn nữa, một số mức được đo là cao nhất bên trong của nước Mỹ được xác định qua những đới bị phá vỡ ở Boyertown, Pennsylvania.Ở Santa Barbara, California, một trong những sự tập trung cao nhất bên trong nhà có hàm lượng khí radom được đo cho đến nay đã xuất hiện tại ngọn (đỉnh) của một nếp lồi và nếp gấp mạnh liên quan đến những lớp cát mà có lẽ phần lớn những chất hữu cơ bên trên của lớp đá phiến sét xuất hiện tại chiều nông sâu. Nó được xây dựng trên giả thuyết bởi những sự đứt gãy mạnh mà tại đó phần còn lại của nếp gấp cho phép khí radon khuếch tán theo chiều hướng lên trên bề mặt. Số lượng của khí radom mà thoát khỏi đá gốc và những hạt đất là do ảnh hưởng bởi hàm lượng nước.. Một cách tương đối, hàm lượng ẩm cao ưu đãi sự ngăn chặn thoát ra của khí radon. Trong những không gian giữa đất và những sự đứt gãy trong những tảng đá: Nước giảm bớt mạnh khoảng cách mà khí radon có thể thoát ra như kết quả của sự phân rã phóng xạ từ đá gốc của nó như Rađium-226. Sự chuyển động của khí radom từ những sự gãy vỡ trong tảng đá và những khe hở trong đất đã tạo điều kiện thuận lợi bởi một cách tương đối hàm lượng ẩm thấp.. Nghĩa là, quá trình của sự khuyếch tán của khí radon tồn tại nhiều trong những vật chất không bão hòa. Như vậy, hàm lượng ẩm ảnh hưởng đến số lượng của khí radon mà có thể đạt đến bề mặt của trái đất vào 2 cách như sau: 1.Hàm lượng ẩm cao tăng tạo cơ hội của khí radon vào và cư trú trong khe hở trong những sự gãy vỡ tảng đá hay giữa những hạt đất.. 2.Hàm lượng ẩm cao có tác dụng để ngăn chặn khí radon từ chuyển động xuyên qua những khe hở trong những tảng đá và đất.. Vậy thì, có một hàm lượng nước tối ưu mà sẽ dẫn đến số lượng cực đại của khí radom mà thật sự đạt đến bề mặt của trái đất.. Trong một số loại đất, hàm lượng nước tối ưu này xấp xỉ là 20 tới 30 phần trăm (38) (xem lại từ Chương 3 mà hàm lượng nước là tỉ lệ giữa trọng lượng của nước đến trọng lượng của những chất rắn trong một mẫu, được biểu thị như một số thập phân). Khí radon hình thành trong nhà như thế nào? Ba đường chính đã được đồng nhất hóa bởi khí rado nào vào những (Hình 13.15) tại nhà. Như : 1.Khí mà di trú lên trên từ đất và đá vào trong tầng hầm và những phần khác của ngôi nhà.. 2.Nước ngầm được bơm từ những giếng. 3.Những vật liệu xây dựng như việc xây dựng sự khóa (sự chặn, sự kết khối) được làm từ những chất mà phát ra khí khí radom. Hầu hết sự sớm quan tâm khí radon trong những nhà liên quan đến những sử dụng vật liệu xây dựng chxứa đựng những sự tập trung cao của Rađium. Chẳng hạn, giữa 1929 và 1975, nguyên liệu dùng để sản xuất bê tông trong Thụy Điển chứa đựng những sự tập trung một cách tương đối cao của Rađium. Tương tự, vào những năm 1960 ở Nước Mỹ đã được khám phá rằng một số ngôi nhà và tòa nhà khác trong vùng Grand Junction của khu vực Colorado được xây dựng với nguyên liệu đã bị làm bẩn bởi Urani gây tiêu phí cho con người. Một số nhà ở Florida bị khám phá để có những sự tập trung một cách tương đối cao của khí radon, nơi sự tiêu phí khai mỏ phốt phát được sử dụng như chất bẩn. Cuối cùng, một số nhà trong New Jersey được xây dựng tại một chỗ lấp đất nơi những sự tiêu phí từ một nhà máy chế biến Rađium trước đó được đặt… Trong Tháng mười hai 1984, nhà khoa học đã khám phá ra được rằng khí radom thoát ra từ những nguồn tự nhiên, nhiều người (vật) vào nhà và có lẽ sẽ là một hiểm nguy đối với sức khoẻ rất nghiêm trọng.. Câu chuyện của Watras Stanley đã được nói và kể lại nhiều lần cho đến khi đó và bây giờ là phần của lời chú thích khí radon. Tuy vậy,tại đây, đó là cái giá được lặp lại. Stanley Watras, của Boyertown, Pennsylvania, có một công việc như người cố vấn kỹ thuật trong trạm năng lượng hạt nhân Limerick.. Tại lối vào đây, những bộ phận phát hiện bức xạ bảo đảm rằng không có những chất phóng xạ rời bỏ phương tiện.. . Lò phản ứng tại trạm năng lượng chưa được bật tại Watras, trong Tháng mười hai 1984, bằng cách đưa thiết bị đó lên thực vật,nó đã báo động.Việc thử quần áo anh ấy gợi ý rằng sự nhiễm bẩn không thể đến từ cây nhưng phải chắc rằng nó bắt nguồn nơi ông ta sống. Những viên chức công ty đã kiểm tra nhà của Watras và đã làm kinh ngạc khi tìm thấy mức bức xạ đó trong không khí trong nhà là 3200 pCi/ L, cao hơn 800 lần so với 4pCi/L. Xem xét một ngưỡng cửa cho thấy mối nguy hiểm của loại chất này bởi Cơ quan bảo vệ môi trường.. Nhà khoa học rất ngạc nhiên vì cho đến lúc đó bọn họ được không phải tin tưởng rằng khí radon mà tự nhiên rỉ ra vào trong những ngôi nhà đó đã có thể rất mạo hiểm (38, 48, 51). Watras giữ bản ghi tại nhà cho sự tập trung khí radon trong nhà cho đến khi cái đó chia ra vào năm 1980, khi một cái nhà ở Whispering Hills, New Jersey được khám phá với mức bức xạ là 3500pCi/L (51). Biến cố của khí radon trong những nhà trực tiếp liên quan đến thực tế mà khí radon là một khí mà có thể di chuyển xuyên qua những lối nhỏ trong những đất và những tảng đá... Khí radon vào những nhà từ ống khói cùng lý do mà khói lên trong một quá trình được biết khi ống khói đã thải ra môi trường ngoài. Những cái nhà nói chung ấm so với đất lân cận, vì vậy như những hàm lượng khí và không khí, khí radon là không khí có tỷ trọng thấp nên có thể dễ dàng vào trong và ra khỏi những tòa nhà.. Khí radon có thể cũng vào những nhà xuyên qua sự cấp nước, đặc biệt nếu nhà được cung cấp bởi một giếng riêng tư,. mặc dù đóng góp này thông thường là nhiều hoặc nhỏ hơn là khí mà rỉ ra sẽ xuyên qua những nền tảng nhà.. Khí radon và những sản phẩm được sinh ra từ nó được giải phóng vào trong không khí khi nước được sử dụng cho hàng ngày bằng những chức năng như mưa rào, rửa thức ăn.. Nói chung, xấp xỉ 10, 000 pCi/ L của khí radon sẽ sản xuất khoảng 1pCi/ L của khí radom tồn tại trong không khí trong nhà.. Nước được bơm từ những nguồn nước ngầm cho việc cung cấp vào thành phố có thể cũng chứa đựng khí khí radon.. Tuy nhiên, bởi vì hầu hết nước trong những hệ thống này được cất giữ trong vài ngày và được xử lý như làm sạch, có một sự trì hoãn giữa thời gian nước được bơm và khi nó thật sự được sử dụng.. Thời gian tuổi của những mỏm núi kể cả khí radon có thể như nhau. Như một kết quả, quần chúng và những sự cấp nước thành phố nói chung có 1 hàm lượng thấp radon trong đó…. Phép đo khí radon trong những nhà: Phép đo của sự tập trung khí radon trong những nhà có một số khó khăn ... Sự tập trung của khí radon có thể vô cùng thay đổi trong bất kỳ một cái nhà nào, việc phụ thuộc vào mùa của năm và hiểu những nhân tố (hệ số) liên quan đến sự phát xạ khí radon từ khí đất. Trong thành phần của nước, mức cao hơn của khí radon có thể được chờ đợi trong mùa đông so với trong mùa hè. Bên trong nền, những sự phát xạ (của) khí radon có thể thay đổi với áp lực không khí, hàm lượng nước, và những biến đổi khác mà khó có thề xác nhận được…… Sự bức xạ trong nhà bằng nhân tố (hệ số) khác là trong khi cái nhà có thể có một sự tập trung một cách tương đối cao, những vùng lân cận khác có thể có những mức thấp hơn. Dù địa chất trong một tổng quan cách có thể sử dụng như một công cụ chẩn đoán để xác định những vùng mà có thể có những sự tập trung cao của khí radon, chỉ trong nhà, sự thử có thể xác minh điều này. Thậm chí những sự khác nhau rất nhỏ trong những khe của những lớp đất đá, chẳng hạn, những sự định vị (vị trí) của những sự gãy vỡ liền mạch. Có thể hoàn toàn rất quan trọng. May mắn, sự thử cho khí radon thì tương đối dễ dàng và ít chi phí tốn kém. Khả năng và sự nhận thức của vấn đề: Từ năm 1985, sự ý thức của vấn đề khí radon trong nước Mỹ đã tăng.. Tuy vậy, những người trong thời kỳ khó khăn khó có thể tập trung vào một vấn đề mà họ không thể nhìn thấy, mùi, nghe thấy, hoặc chạm đến… Vấn đề xa hơn nữa pha lẫn bởi thực tế mà chủ nhân nào đó có nhiều sự mất mát quanh những tiềm tàng liên quan đến những giá trị thuộc tính hơn là hiểm nguy đối với sức khoẻ.. Có một chỗ thiếu sót đáng kể giữa bản thân cùng với những sự nhận thức của con người về vấn đề khí radon và kích thước tiềm tàng của vấn đề. Tại đây thì đúng, thậm chí trong những tiểu bang như New Jersey, nơi mà vấn đề đã được biết quanh trong vài năm… Một sự khảo sát của các nhà dò thám được kết luận rằng chỉ có khoảng 5 phần trăm trong số họ có hay đang lập kế hoạch. Một khí radon có thể là một vấn đề trong nhà của họ.. Phần trăm thực tế của những nhà mong đợi có một vấn đề là khí radon trong thành phần đó tại New Jersey xấp xỉ là 30 phần trăm.. Không có ước lượng được những nhà ở Mỹ cùng với tháng năm đã nâng lên những sự tập trung của khí khí radon. Quan sát từ những thí nghiệm đã làm, xấp xỉ một nhà có một mức khí radon trong nhà ở trên 4 pCi/ L. Nếu nhịp độ này cứ tiếp diễn trung bình tốt, thì xấp xỉ 7 triệu nhà trong Nước Mỹ được có thể nâng lên những nhịp độ, và hàng triệu ý định nữa cần được kiểm tra. Mặt khác, nhiều sự thử được thực thi trong vùng nơi mà khí radon đã đang khả nghi, mà tháng năm thiên lệch về ước lượng. Nó cần phải được đề cập rằng những sự tập trung khí radon cao không phải chỉ được tìm thấy trong những nhà mà cũng trong những tòa nhà khác..  Trong một sự khảo sát gần đây của hơn 100 trường học, EPA được tìm thấy trong nhiều hơn so với môt nửa họ, những sự tập trung khí radon ở trên mức hoạt động là 4 pCi/ L, và một trường học ở Tennessee có một mức là 136 pCi/ L.Thông tin này quan trọng bởi vì một số cán bộ y tế tin tưởng rằng con cái dễ bị ảnh hưởng hơn đối với thiệt hại khí radon so với những người lớn, bởi vì kích thước phổi của những đứa trẻ nhỏ hơn người lớn và thực tế là họ vẫn còn đang phát triển.. Giảm bớt những sự tập trung của khí radon trong những nhà: Một chương trình thành công để rút gọn hay giới hạn. Một mối nguy hiểm tiềm tàng từ khí radon là một trong những trung tâm ở trên có ba chiến lược chính: 1.Những điểm của khí radon đã được đánh dấu vào đã có thể định vị và thoát hơi ở những chỗ nổi (niêm phong). 2.Sự thoát hơi trong nhà có thể cải thiện bằng việc giữ nhiều cửa sổ mở hơn hay sử dụng những cánh quạt thoát khí…. 3.Những phương pháp xây dựng mà cung cấp một hệ thống thông gi có thể được thiết đặt.. Có lẽ phương pháp đơn giản nhất của việc giảm bớt sự tập trung khí radon sẽ tăng bằng sự thông hơi trong nhà. Đôi khi, đây đủ để giải quyết vấn đề.. Việc đóng dấu những vết rạn trong nền tảng có thể cũng giảm bớt mục vào khí radon, đặc biệt nếu nó được làm trong những chỗ đặc biệt ở đâu khí radon thật sự đang vào cái nhà. Những máy dò tìm sẵn sàng giúp đỡ xác định những sự định vị (vị trí) như vậy. Không may, phương pháp này thường không giải quyết vấn đề, và những vết rạn mới có thể hình thành.. Những tùy chọn xây dựng khác nhau, đối với chủ nhân tại nhà, bao gồm những hệ thống thông gió trong một nền tảng, nếu cái nhà được dựa vào một miếng đá, rồi những hệ thống thông hơi đặc sánh có thể được thiết đặt. Có tin tức tốt và tin tức xấu về việc khí radon. Tin tức xấu là nhiều phần của Nước Mỹ và những phần khác của thế giới nhận được những sự phát xạ một cách tương đối cao của khí radom từ đất và những tảng đá và sự bức xạ đang sản xuất một mối nguy hiểm trong những gia đình.. Tin tức tốt là trong đa số những trường hợp vấn đề có thể cố định một cách tương đối dễ dàng. Dù một hệ thống thông hơi được yêu cầu, nó đòi giá chỉ vài nghìn đô la, nói chung một phần nhỏ của giá trị ngôi nhà.. Nghiên cứu trong tương lai, buổi diễn tháng năm mà những nguy cơ sức khỏe từ sự bóc trần khí khí radon không lớn như được dự đoán bởi EPA. Một số nhà khoa học hoài nghi trả lời rằng khí radon là một đường thẳng, từ những sự tập trung thấp đến cao và họ bởi vậy tin mức mối nguy hiểm đó của 4 pCi/ L có thể sự đông cứng quá thấp. Không có vấn đề đúng, nó quan trọng cho những người trở nên được thông báo bây giờ liên quan vấn đề tiềm tàng này.. Những người có thể chiếm giữ khó đánh giá hoạt động để giải quyết khả năng của khí radon trong những nhà của họ và trong quá nhiều trường hợp họ có vẻ cảm thấy liên quan hơn với những giá trị thuộc tính so với sức khỏe của họ. Khi những người nhìn thấy toàn bộ bức tranh và biết rằng vấn đề đó có thể được cải thiện, sự sợ hãi sẽ được giảm bớt.. Đánh giá rủi ro trong ngành độc học: Đánh giá rủi ro là quá trình của việc xác định những hiệu ứng sức khỏe môi trường đối lập tiềm tàng theo sau sự bóc trần tới một vật gọi là chất độc, được hay không nó đã xây dựng một sự tự nhiên xảy ra khi kim loại nặng hay con người làm hóa chất hữu cơ, những bước trong việc truy nhập nguy cơ. 1.Mạo hiểm sự nhận ra. Bước này xác định liệu có phải sự bóc trần tới một vật chất đặc biệt có khả năng gây ra sức khỏe môi trường từ những vấn đề trên hay không. Nó có thể gồm có những dân cư điều tra về những người mà đã được phơi bày. Chẳng hạn, trong việc xác định mối nguy hiểm được liên quan đến sự thoát khí radon, những người khảo sát có những thợ mỏ cố ý trơ trọi đối với khí radon trong khi Uranium cũng như bóc trần khai mỏ trong những nhà. Cách tiếp cận khác để mạo hiểm để có thể nhận ra có thể đang chỉ đạo những sự thí nghiệm tại mức độ phân tử để xác định một vật chất đặc biệt tương tác như thế nào với những tế bào sống.. 2.Liều sự định giá đáp lại. Mục đích của bước này sẽ xác định những mối quan hệ giữa liều của một vật chất độc và những hiệu ứng sức khỏe môi trường đối lập của nó. Đây thường là một thủ tục gây bàn cãi,vì dự đoán những sự đáp lại tại những liều thấp, hay ngược lại.. ở đó cũng có thể là thảo luận liên quan đến những ngưỡng cửa có có mặt hay không hay vắng mặt.. Cuối cùng, Liều sự định giá những đáp lại thường tin cậy sự phân tích thống kê của dữ liệu được thu được từ những sự quan sát và những phép đo mà phụ thuộc đến những lỗi thí nghiệm hay phép đo.. 3.Sự định giá Bóc trần. . Mục tiêu của sự định giá bóc trần sẽ đánh giá khoảng thời gian, tần số và cường độ của sự bóc trần tới một độ độc đặc biệt.. Nó được giả thiết rằng mối nguy hiểm liên quan đến sự bóc trần trực tiếp cân đối đối với dân cư mà thật sự được phơi bày cũng như tới cường độ, khoảng thời gian hay tần số của sự bóc trần. Sự định giá bóc trần là một quá trình gây bàn cãi nữa, vì việc đo sự bóc trần và sự tập trung của nguyên liệu độc tại vô cùng, sự tập trung nhỏ, có thể là 1 phần triệu hay 1 phần tỷ là rất khó. 4.Sự đặc trưng Nguy cơ: Đây là bước cuối cùng trong quá trình đánh giá rủi ro. Nó bao gồm cầm vào trong sự xem xét mối nguy hiểm mà đã được xác định liều sự định giá đáp lại, và sự đánh giá của sự bóc trần như được phác thảo ở trên.. Những sự định giá của nguy cơ từ sự bóc trần đến những độc tố trong môi trường cho phép chúng ta phát triển những kế hoạch hoạt động để tối giản nguy cơ. Đây là quá trình của quản lý rủi ro, đánh giá rủi ro những số nguyên nào với hợp pháp. , buổi họp mặt thân mật, chính trị, kinh tế, và những vấn đề kỹ thuật liên quan trong hoạt động, cả đánh giá rủi ro lẫn những quản lý rủi ro được dựa vào mọi thông tin hiện hữu.. Summery H ệ số chết hệ số tử vong và sự tác động của những bệnh đặc biệt thay đổi từ vùng này sang cái khác, và một số tính biến thiên có những nguyên nhân môi trường. Những nguyên nhân này thường hoàn toàn phức tạp, và một bệnh đặc biệt ít khi có một một nguyên nhân, mối quan hệ một hiệu ứng.. Những nhân tố (hệ số) văn hóa có thể đem lại mẫu địa lý của một sự tinh thần đặc biệt. Những ví dụ bao gồm ung thư dạ dày trong Nhật bản và ngộ độc chì trong nhiều vùng. Khí hậu bao gồm nhiệt độ, sự ẩm ướt và sự kết tủa là một nhân tố (hệ số) quan trọng trong việc xác định những mẫu bệnh. Schisto- somiasis và bệnh sốt rét là những ví dụ được biết tốt nhất của những bệnh liên quan đến khí hậu, nhưng nguyên nhân và những quan hệ hiệu ứng không sáng sủa.. Phân phối tự nhiên của vấn đề trong vũ trụ, như vậy những phần tử bật lửa dư thừa hơn. 26 nguyên tử đầu tiên của bảng tuần hoàn theo trọng lượng phần lớn rộng lớn tồn tại trong thạch quyển và sinh quyển.. Những sự chuyển động của những phần tử dọc theo nhiều đường dẫn xuyên qua thạch quyển, thủy giới, sinh quyển và khí quyển được gọi chu trình sinh hoá. Dọc theo những những đường dẫn này, quá trình tự nhiên như thời tiết và hoạt động núi lửa, kết hợp với sự ô nhiễm con người. giải phóng nhiều kiểu chất rồi được tập trung hay giải tán bởi những quá trình tự nhiên khác như sự ngấm chiết, sự phát triển thêm, sự giáng hạ, và hoạt động sinh học... Mỗi phần tử có một phạm vi về toàn bộ những hiệu ứng khả dĩ trên những cây và những động vật. Những sự tập trung vệt tin của phần tử đặc biệt có thể có lợi hay quan trọng tới một loại cây hay động vật đặc biệt, trong trường hợp nào phần tử được gọi là một nguyên tố vi lượng.  trong khi mà những sự tập trung bậc cao có thể là những sự tập trung độc và còn cao hơn có thể làm chết người.. Đồ thị của một sự tập trung về chất chống lại những hiệu ứng của nó trên một sinh vật được biết như một liều. Sự tập trung của một độc tố mà sản xuất một sự đáp lại đã cho trong 50 phần trăm một dân cư được gọi là liều hữu hiệu ED50. Nếu sự đáp lại là độc, liều lượng độc ( TD50) được sử dụng, và nếu sự đáp lại là sự chết, liều gây chết ( LD50).. Những ví dụ thú vị của ngành môi trường học quan trọng về những phần tử bao gồm Iot, Flo, kẽm và Se-len. Những hoạt động Nông nghiệp, công nghiệp, và khai mỏ đã giải phóng nguyên liệu mạo hiểm và độc vào trong môi trường.. Nguyên liệu này đã được liên quan đến bệnh xương trong những con người, những rối loạn chuyển hóa trong thú nuôi, và những vấn đề sinh học khác.. Những mối quan hệ giữa bệnh mạn tính và môi trường địa chất thì phức tạp và khó để phân tích.. Một tương quan giữa một nhân tố (hệ số) môi trường đã cho và biến cố của một bệnh là không phải sự chứng minh của một nguyên nhân. Và mối quan hệ hiệu ứng; Hơn nữa, đó là đa số vấn đề sức khỏe kinh niên. Những nhịp độ bệnh tim rõ ràng liên quan đến hóa học nước, như tổng số sự cứng rắn và sự tập trung của Ion sulphate sunfat hay cacbonat axit; một nghiên cứu gợi ý rằng bệnh tim cũng liên quan đến việc khuyết của những nguyên tố vi lượng.. Những nhịp độ ung thư trong vùng đặc biệt xuất hiện có liên quan tới nội dung hữu cơ của đất và sự phong phú của những nguyên tố vi lượng nhất định trong những vùng khác, ung thư có thể liên quan đến những đất mặn.. Khoáng chất A-mi-ăng được liên quan đến sự tác động đang gia tăng của bệnh phổi trong những công nhân A-mi-ăng và nó được nghi ngờ của việc gây ra ung thư phổi. Tuy nhiên, kiểu a-mi-ăng thường sử dụng Nước Mỹ là không phải sự suy nghĩ để sản xuất, đó là một hiểm nguy đối với sức khoẻ, và việc loại bỏ rộng lớn a-mi-ăng từ tòa nhà có thể không cần thiết. Những đồng vị phóng xạ trải qua sự phân rã phóng xạ, trong đó, thành phần được thay đổi vào trong một phần tử khác và sự bức xạ sản phẩm. Những loại bức xạ phóng xạ chính là những hạt alpha, những hạt bêta và tia gam-ma từng cái với một hiệu ứng khác và tính độc. Hiểm nguy đối với sức khoẻ từ một đồng vị phóng xạ đặc biệt phụ thuộc vào vài nhân tố (hệ số), bao gồm kiểu sự bức xạ nó phát hành, một nửa sự tồn tại của nó, và ở trạng thái hay hoạt động hóa học vật lý. Những chất đồng vị với những sự phát xạ năng lượng và một nửa rất ngắn và thấp. Những cuộc sống nói chung ít nguy hiểm hơn so với người (vật) là với những sự phát xạ năng lượng và cuộc sống cao. Tuy nhiên, một năng lượng thấp, sự tồn tại 1 nửa là chất đồng vị như khí radon, mà sẵn sàng vào một pha thể khí hay được hút trong nước, được trở nên nguy hiểm khi được tập trung và hít vào hay ăn vào bụng.. Mặc dù chúng tôi biết điều đó là mạo hiểm và những liều gây chết của sự bức xạ mức cao, chúng tôi không chắc chắn những gì mà sự bóc trần tới sự bức xạ mức thấp cấu thành một mối nguy hiểm và mà có ngưỡng cửa nào đó (của) sự bức xạ mà bên ngoài có thề thiệt hại sẽ xảy ra. Khí radon trong những nhà là một vấn đề sức khỏe môi trường nghiêm túc. Khí radon là một sản phẩm con của phóng xạ Rađium, mà được dẫn xuất ra lần lượt từ Urani trong những tảng đá. Sự Bóc trần tới khí khí radom tăng nguy cơ về ung thư phổi, một cách đặc biệt (cho) những người nghiện thuốc lên trên tới 30, 000, sự chết do ung thư phổi thường niên được nghĩ rằng là ảnh hưởng tới khí radon trong nhà cung cấp hơi đốt có vấn đề. Thiệt hại gây ra bởi sản phẩm của khí radom, đặc biệt Poloni218, vết tích nào trong những phổi sau khi khí khí radom được hít vào.. Những nhân tố (hệ số) mà kiểm soát sự tập trung của khí radon trong nhà bao gồm địa chất, sự tập trung khí radon vào đất và tảng đá, hàm lượng ẩm của đất, kiểu xây dựng nhà, và mùa của năm. Đa số sự bóc trần đến từ khí radom mà được sản xuất trong tảng đá nằm bên dưới và vào khí quyển như khí. mặc dù cho 1 số đến từ khí radon hoà tan trong nước từ những giếng riêng tư và một số bắt nguồn từ nguyên liệu trước đây được dùng trong xây dựng tại nhà. May mắn, công nghệ không đắt sẵn sàng rút gọn hay loại bỏ vấn đề khí radon. Sự định giá để xác định tiềm năng đối lập những hiệu ứng sức khỏe môi trường liên quan đến nguyên liệu độc bao gồm bốn bước: xác định mối nguy hiểm; đánh giá liều mối quan hệ đáp lại; đánh giá sự bóc trần; và đặc trưng nguy cơ. Đánh giá rủi ro là một bước đầu tiên quan trọng của quản lý rủi ro, mà phát triển những hoạt động lập kế hoạch tối giản những vấn đề sức khỏe liên quan đến một độc tố môi trường đặc biệt..

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxchuong_11_3096.docx