Đề Cương
Giới thiệu
PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.Công ty chứng khoán
2. Kinh doanh chứng khoán
3. Các hoạt động kinh doanh chứng khoán
3.1 Hoạt động Môi giới chứng khoán
3.2 Hoạt động Tự doanh
3.3 Hoạt động Bảo lãnh phát hành chứng khoán
3.4 Hoạt động tư vấn chứng khoán
3.5 Các nghiệp vụ khác
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN FPT
Khái quát về công ty cổ phần chứng khoán FPT
2. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán FPT
2.1. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán FPT
2.2.1 Nghiệp vụ môi giới
2.2.2 Nghiệp vụ tự doanh
2.2.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
2.2.4 Nghiệp vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp
2.2.5 Hoạt động Lưu ký chứng khoán
PHẦN 3. ĐÁNH GIÁ CHUNG
3.1 Kết quả đạt được
3.1.1 : Một số thành tựu
3.1.2 : Kết quả kinh doanh năm 2009
3.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.2.1 Hạn chế của công ty
3.2.2 Nguyên nhân
3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan
3.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan
3.3.Các giải pháp phát triển các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty cổ phần chứng khoán FPT
3.3.1. Định hướng phát triển công ty
1. Về hoạt động môi giới
2.Về hoạt động tư vấn
3. Về hoạt động Bảo lãnh và Đại lý phát hành
4 Về hoạt động lưu ký và các dịch vụ tiện ích
3.3.2Định hướng phát triển của Nhà nước về lĩnh vực kinh doanh chứng khoán trong thời gian tới
3.3.3 Một số kiến nghị với chính phủ
1. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin
2. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK
45 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5987 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty chứng khoán FPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện thoại hay internet.
Trung tâm dữ liệu (data center) và trung tâm phòng chống thảm họa được trang bị để đảm đảm an toàn dữ liệu ngay cả khi có các sự cố như cháy, nổ, động đất,…
Các phần mềm phục vụ giao dịch chứng khoán được lựa chọn để đáp ứng yêu cầu hiện tại và tương lai theo tiêu chuẩn quốc tế, đang được sử dụng rộng rãi tại các quốc gia có thị trường chứng khoán rất phát triển như Úc, Anh, Hồng Kông, Ấn độ, Malaysia, Singapore,…
Các trang WEB của FPTS được chứng thực bởi tổ chức có uy tín trên thế giới Verisign với giao thức SSL, đảm bảo an toàn về dữ liệu truy cập và dữ liệu trên đường truyền.
Các giao dịch từ xa qua Internet, qua điện thoại được bảo mật bằng Thiết bị xác thực người dùng – Token Card của Hãng RSA.
Các hoạt động kinh doanh chứng khoán:
Môi giới chứng khoán
Tự doanh chứng khoán
Tư vấn đầu tư chứng khoán
Lưu ký chứng khoán
Bảo lãnh phát hành chứng khoán.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC
2. THỰC TRẠNG CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN FPT
2.1. Thực trạng các nghiệp vụ kinh doanh tại Công ty cổ phần Chứng khoán FPT
2.2.1 Nghiệp vụ môi giới
Năm 2009 là năm mà Cty có được nhiều thành công nhất. Trong nửa đầu năm 2009 giá trị giao dịch toàn thị trường sụt giảm mạnh vì vậy cũng đã ảnh hưởng nhiều tới doanh thu môi giới của FPTS. Tuy nhiên, ngay từ đầu năm FPTS đã đẩy mạnh hoạt động bán hàng, phát triển các đại lý nhận lệnh và mở tài khoản tại nhiều tỉnh thành nhằm gia tăng đáng kể số lượng tài khoản, đón đầu cho sự phục hồi của thị trường chứng khoán.
Với chiến lược tập trung xây dựng các sản phẩm giao dịch trực tuyến với những nỗ lực trong việc phát triển các dịch vụ, tiện ích ưu việt hướng đến quyền lợi của nhà đầu tư vì vậy trong năm 2009 khi được kết nối không sàn với HOSE vào tháng 01 năm 2009 và đầu tháng 02 năm 2010 kết nối không sàn với HNX thị phần của FPTS đã được cải thiện. .. Về thị phần môi giới về cổ phiếu và chứng chỉ quĩ năm 2009 tại HOSE là 3.84%, HNX là 4.13% (thị phần môi giới năm 2008 tương ứng là 2.86% và 2.81%). Do chú trọng tập trung xây dựng các sản phẩm giao dịch trực tuyến nên mặc dù nửa cuối năm 2009 khi thị trường chứng khoán. FPTS vinh dự đứng trong TOP 10 cuả HOSE và TOP 5 của HNX về thị phần môi giới
Quy trình thực hiện hoạt động môi giới
+ Bước 1: Mở tài khoản
Trước khi nhận lệnh của khách hàng, FPTS yêu cầu khách hàng mở tài khoản giao dịch. Tài khoản đó có thể là tài khoản tiền mặt hay tài khoản ký quỹ. Tài khoản giao dịch để dùng cho các giao dịch thông thường còn tài khoản ký quỹ dùng cho giao dịch ký quỹ. Sở dĩ phải có hai loại tài khoản như vậy là vì yêu cầu quản lý đối với giao dịch ký quỹ khách yêu cầu quản lý đối với giao dịch thông thường.
PHIẾU YÊU CẦU MỞ TÀI KHOẢN GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
I. Thông tin chủ tài khoản
Tên Cá nhân/Tổ chức (Chữ in hoa):
Ngày sinh:
Quốc tịch:
Giới tính: Nam Nữ
Số CMND/Giấy CN ĐKKD:
Nơi cấp:
Ngày cấp:
Ngày hết hạn:
Địa chỉ liên hệ/Địa chỉ trụ sở chính:
Điện thoại: Fax:
MST:
Điện thoại di động:
Email:
Người đại diện theo pháp luật của tổ chức:
Chức vụ:
Số CMND/Hộ chiếu:
Nơi cấp:
Ngày cấp:
Ngày hết hạn:
Số tài khoản:
Tại Ngân hàng
II. Thông tin giao dịch chứng khoán
1. Loại tài khoản (Lựa chọn một loại tài khoản)
Tài khoản cá nhân Tài khoản tổ chức
2. Loại chứng khoán giao dịch
Chứng khoán niêm yết Chứng khoán chưa niêm yết
3. Phương thức giao dịch (Lựa chọn một hoặc nhiều phương thức) Tại Sàn giao dịch
Giao dịch qua điện thoại (Bắt buộc sử dụng Token Card)
Giao dịch trực tuyến: Sử dụng Tên truy cập và Mật khẩu – Miễn phí
Sử dụng Token card
Mã Token card (Serial No.): ..................................................................................................................... Ngày nhận Token card: .............................................................................................................................
4. Dịch vụ trực tuyến
EzSearch – Dịch vụ Thông tin trực tuyến
EzAdvance – Dịch vụ đặt lệnh nhượng quyền nhận tiền bán chứng khoán trực tuyến
EzTransfer – Dịch vụ đặt lệnh chuyển tiền trực tuyến
Chuyển tiền không hạn chế Người thụ hưởng
(Chỉ áp dụng cho tài khoản Sử dụng Thiết bị xác thực người dùng - Token card)
Chuyển tiền đến Người thụ hưởng sau:
Chủ tài khoản
Họ và tên: ......................................................................................................................................... Số CMND: ................................................ Nơi cấp: ………………… Ngày cấp: ....................
Số tài khoản 1: .................................................... Tại ngân hàng: .................................................... Chi nhánh: …………........................................ Tỉnh/Thành phố: ………………………............
Số tài khoản 2: ………………………………
Tại ngân hàng: ........................................................ Chi nhánh: …………............................................. Tỉnh/Thành phố: …………………………………
+ Bước 2: Nhận đơn đặt hàng
Sau khi tài khoản được mở, khách hàng có thể ra lệnh mua, bán cho Công ty môi giới. Hình thức đặt lệnh có thể bằng điện thoại, telex hay bằng phiếu lệnh.
Nếu là lệnh bán Công ty sẽ đề nghị khách hàng xuất trình số chứng khoán muốn bán để kiểm tra trước khi thực hiện đơn hàng hoặc đề nghị phải ký quỹ một phần số chứng khoán theo một tỷ lệ do UBCKNN quy định.
Nếu là lênh đặt mua, Công ty phải đề nghị khách hàng mức tiền ký quỹ nhất định trên tài khoản khách hàng ở Công ty. Khoản tiền này thường bằng 40% trị giá mua theo lệnh.
Phòng môi giới chứng khoán của Công ty sau khi phân loại các lệnh mua bán và hoàn tất thủ tục ban đầu thoả thuận với khách hàng như: Mức ký quỹ, hoa hồng, lệ phí… sẽ thông báo bằng điện thoại, telex hoặc Fax cho thư ký văn phòng đại diện của Công ty có mặt tại quầy giao dịch trong SGDCK
+ Bước 3: Chuyển lênh tới thị trường phù hợp để thực hiện
Những người đại diện có giấy phép của FPTS hoạt động với vai trò trung gian giữa khách hàng với Công ty. Trước đây, người đại diện gửi tất cả lệnh mua bán chứng khoán của khách hàng tới bộ phận thực hiện lệnh hoặc phòng kinh doanh giao dịch của Công ty. Ở đây, một thư ký sẽ kiểm tra xem chứng khoán đó được mua bán trên thị trường nào (phi tập trung hay tập trung). Sau đó người thư ký sẽ gửi lệnh này tời thị trường để thực hiện.
Ngày nay, nhờ có mạng lưới thông tin trực tiếp từ các trụ sở chính và các phòng giao dịch. Vì vậy, các lệnh mua bán chứng khoán không còn được chuyển đến phòng thực hiện lệnh nữa mà được chuyển trực tiếp tới phòng giao dịch của SGDCK.
+ Bước 4: Xác nhận cho khách hàng
Sau khi lệnh đã được thực hiện sau, CTCK gửi cho khách hàng một phiếu xác nhận đã thi hành xong lệnh.Thông thường, FPTS gửi xác nhận trong ngày làm việc hôm sau so với ngày mua bán chứng khoán. Xác nhận này cũng giống như một hoá đơn hẹn ngày thanh toán với khách hàng.
+ Bước 5: Thanh toán bù trừ giao dịch
Hoạt động thanh toán bù trừ giao dịch bao gồm việc đối chiếu giao dịch và bù trừ các kết quả giao dịch.SGDCK sẽ tiến hành bù trừ giao dịch trên cơ sở nội dung lệnh của các CTCK chuyển vào hệ thống, những sai sót của CTCK tự sửa chữa.
Việc bù trừ các kết quả giao dịch sẽ kết thúc bằng việc in ra các chứng từ thanh toán. Các chứng từ này sẽ được gửi cho các CTCK và là cơ sở để thực hiện thanh toán và giao dịch chứng khoán.
+Bước 6: Thanh toán và giao hàng
Đến ngày thanh toán, người mua sẽ nhận được một giấy chứng nhận quyền sở hữu về số chứng khoán do Công ty bảo quản chứng khoán xác nhận, số chứng khoán này nằm trong tài khoản lưu trữ chứng khoán mà FPTS đã mở tại Công ty Bảo quản.
Đối với người bán chứng khoán sẽ nhận được một giấy báo cáo trên tài khoản của mình ở CTCK hoặc thông qua Ngân hàng đại diện của khách hàng.
Phí môi giới:
2.2.2 Nghiệp vụ tự doanh
Hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh
+ Giao dịch gián tiếp: Tức là FPTS đặt các lệnh mua và bán của mình trên sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với khách hàng nào không xác định trước.
Yêu cầu đối với hoạt động tự doanh của công ty FPTS
+ Tách biệt quản lý: Phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và Công ty.
+ Ưu tiên khách hàng: Phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của Công ty. Nguyên tắc này đảm bạo công bằng cho khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên công ty có thể dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên.
+ Góp phần bình ổn thị trường: FPTS hoạt động tự doanh nhằm góp phần làm bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các CTCK phải dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch của mình (ở Mỹ là 60%) cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các CTCK có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi chứng khoán lên nhằm giữ giá chứng khoán ổn định.
+ Hoạt động tạo thị trường: Khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tại thị trường cho các chứng khoán mới này các CTCK thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những TTCK phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua và bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoăc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy họ sẽ duy trì một thị trường liên tục với chứng khoán mà họ kinh doanh.
2.2.3 Bảo lãnh phát hành chứng khoán
Sau 1 năm hoạt động, FPTS hiện đã và đang cung cấp dịch vụ tư vấn phát hành cho các doanh nghiệp chủ yếu tập trung trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, năng lượng, bất động sản, và các công ty có nhu cầu huy động vốn cho hoạt động đầu tư phát triển dài hạn.
Với đội ngũ 10 chuyên viên tư vấn tài chính, FPTS cam kết cung cấp các giải pháp tư vấn tài chính và giải pháp huy động vốn đầu tư tối ưu cho khách hàng, bao gồm hỗ trợ khách hàng thiết kế cơ cấu vốn tối ưu, chuẩn bị tài liệu và quảng bá cơ hội đầu tư, tìm kiếm nhà đầu tư chiến lược, thương thảo các điều khoản với các nhà đầu tư và bảo lãnh phát hành ra công chúng. Tính đến tháng 10/2007, tổng số vốn FPTS đã tư vấn phát hành thành công lên đến hơn 1.200 tỷ VND, trong đó có những dự án lớn như dự án phát hành cho Công ty Thủy Điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh, Công ty Cổ phần Đầu tư và Vận tải Dầu khí Vinashin.
FPTS thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh và đồng bảo lãnh cho các hoạt động phát hành cổ phiếu và trái phiếu. FPTS cung cấp dịch vụ bảo lãnh ở các mức độ dịch vụ khác nhau, từ hình thức “Bảo lãnh cố gắng hết khả năng có thể” đến hình thức “Bảo lãnh cam kết”. Ngoài ra, với lợi thế về quan hệ với các doanh nghiệp và các định chế ngân hàng đầu tư trong và ngoài nước, FPTS giới thiệu cho khách hàng của mình với các nhà đầu tư tài chính và đầu tư chiến lược.
Dịch vụ bảo lãnh của FPTS được hậu thuẫn bởi mạng lưới các đối tác chiến lược trong các lĩnh vực và ngành kinh tế khác nhau và các mối quan hệ chặt chẽ của FPTS với cộng đồng các nhà đầu tư tổ chức.
Các hình thức Bảo lãnh phát hành
+ Bảo lãnh chắc chắn: Là hình thức Bảo lãnh mà FPTS nhận mua toàn bộ số chứng khoán trong đợt phát hành của Công ty phát hành, sau đó sẽ bán ra công chúng. Giá mua là một giá được ấn định. Thường là thấp hơn giá thị trường, giá bán là giá thị trường. Hoặc toàn bộ chứng khoán với một giá nhất định cho đến lúc không còn ai mua thì Công ty sẽ nhận mua toàn bộ số chứng khoán còn lại.
+ Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức Bảo lãnh mà FPTS hứa sẽ cố gắng đến mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho Công ty phát hành. Trường hợp không bán hế, số chứng khoán còn lại được trả về cho Công ty phát hành. FPTS được hưởng hoa hồng trên số chứng khoán đã được bán ra.
Quy trình Bảo lãnh
+ Lập nghiệp đoàn Bảo lãnh
Lập nghiệp đoàn: Nếu Công ty phát hành là một Công ty nhỏ, giá trị chứng khoán phát hành không lớn, thì có thể chỉ cần một FPTS đứng ra Bảo lãnh phát hành. Nhưng nếu đó là một Công ty lớn, số chứng khoán phát hành vượt quá khả năng Bảo lãnh của FPTS thì một nghiệp đoàn bao gồm một số CTCK và các tổ chức tài chính sẽ được thành lập.
Nghiệp đoàn này có ý nghĩa phân tán rủi ro trong hình thức Bảo lãnh chắc chắn. Trong nghiệp đoàn, sẽ có một Công ty Bảo lãnh chính hay còn gọi là người quản lý, thường là người khởi đầu cuộc giao dịch này, đứng ra ký kết và giải quyết các thủ tục giấy tờ với Công ty phát hành. Nó cũng quyết định CTCK nào sẽ được mời tham gia nghiệp đoàn cũng như sẽ chi trả phí Bảo lãnh cho các Công ty khác trong nghiệp đoàn.
Nhóm bán: Trong những trường hợp cần thiết, nghiệp đoàn Bảo lãnh có thể tổ chức thêm một “nhóm bán” để giải quyết việc bán chứng khoán nhanh hơn. Nhóm bán gồm những CTCK không nằm trong nghiệp đoàn Bảo lãnh, họ chỉ giúp bán chứng khoán mà không chịu trách nhiệm về những chứng khoán không bán được. Vì thế, thường thù lao cho họ ít hơn so với CTCK là thành viên của nghiệp đoàn.
+ Phân tích, đánh giá chứng khoán
Định giá chứng khoán cho một đợt phát hành mới là một nghệ thuật, một khoa học. Giá của cổ phiếu cũng như lãi suất của trái phiếu không được định trước ngày chứng khoán được phép bán ra cho công chúng. Giá thị trường của chứng khoán rất bất thường, có thể hấp dẫn vào buổi sáng nhưng có thể không hấp dẫn vào buổi chiều nữa.
Đối với trái phiếu, việc định giá có đơn giản hơn, vì trên thị trường đã có sẵn lãi suất chuẩn và giá yết của những người mua, bán chứng khoán cho những loại trái phiếu tương tự.
Định giá cho một cổ phiếu, việc định giá rất phức tạp. Ở đây người quản lý vấp phải một vấn đề nan giải: Một mặt, người phát hành cổ phiếu muốn nhận càng nhiều tiền càng tốt từ đợt bán này mặt khác, người quản lý muốn định giá sao cho có thể bán được và bán càng nhiều càng tốt. Nếu giá cao quá công chúng sẽ không muốn mua nữa, nếu thấp quá thì chứng khoán sẽ mau chóng chuyển nên giá cao hơn ở thị trường thứ cấp và người phát hành sẽ bị thiệt.
Thông thường, việc định giá một cổ phiếu tuỳ thuộc vào việc định lượng nhiều yếu tố: Lợi nhuận của Công ty, dự kiến lợi tức cổ phần, số lượng cổ phiếu chào bán, tỷ lệ giá cả-lợi tức so với những Công ty tương tự và tình hình thị trường lúc chào bán.
+ Ký hợp đồng Bảo lãnh
Sau khi nghiệp đoàn được thành lập xong, đồng thời tiến hành một số công việc như phân tích định giá chứng khoán, chuẩn bị cho đợt phân phối chứng khoán…, nghiệp đoàn Bảo lãnh sẽ ký một hợp đồng với Công ty phát hành, trong đó xác định: Phương thức Bảo lãnh, phương thức thanh toán và khối lượng Bảo lãnh phát hành.
+ Đăng ký phát hành chứng khoán (Nộp đơn xin Bảo lãnh và Bản cáo bạch).
Sau khi ký hợp đồng Bảo lãnh, nghiệp đoàn phải trình lên cơ quan quản lý đơn xin đăng ký phát hành cùng một Bản cáo bạch thị trường, có đầy đủ chữ ký của đơn vị phát hành, Công ty Bảo lãnh, Công ty luật. Bản cáo bạch là thông báo của tổ chức phát hành trình bày tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh và kế hoạch sử dụng số tiền thu được từ việc phát hành giúp công chúng đánh giá và đưa ra quyết định mua chứng khoán.
Thường thì cơ quan quản lý xem xét tính trung thực và hợp lệ của Bản cáo bạch để chấp thuận cho phép phát hành hay từ chối trong thời hạn 30 ngày.
Trong thời gian này, có thể Công ty Bảo lãnh cùng Công ty Phát hành sẽ phải cung cấp thêm tài liệu để giải trình các chi tiết chưa đủ, chưa rõ trong Bản cáo bạch.
+ Phân phối chứng khoán trên cơ sở phiếu đăng ký
Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết như phân phát Bản cáo bạch và phiếu đăng ký mua chứng khoán và đợi khi đăng ký phát hành chứng khoán có hiệu lực, FPTS (Hoặc nghiệp đoàn Bảo lãnh) sẽ tiến hành phân phối chứng khoán.
Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán có thể phân phối chứng khoán ra công chúng bằng các hình thức: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, như các quỹ đầu tư, quỹ Bảo hiểm, quỹ hưu trí…, bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành, bán ra công chúng.
+ Thanh toán
Đến đúng ngày theo hợp đồng, FPTS phải giao tiền cho Công ty phát hành. Số tiền phải giao là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi thù lao
Thù lao có thể là một khoản phí đối với hình thức Bảo lãnh chắc chắn hoặc hoa hồng đối với các hình thức Bảo lãnh khác. Mức phí Bảo lãnh cao hay thấp tuỳ thuộc vào tính chất của đợt phát hành cùng điều kiện thị trường lúc phát hành, do hai bên thoả thuận nói chung, nếu đó là đợt phát hành lần đầu thì mức phí và hoa hồng phải cao hơn lần phát hành bổ sung. Đối với trái phiếu, phí và hoa hồng Bảo lãnh còn tuỳ thuộc vào lãi suất trái phiếu (Nếu lãi suất cao thì dễ bán, chi phí sẽ thấp và ngược lại).
Hoa hồng: là một tỷ lệ cố định (%) đối với một loại chứng khoán nhất định. Việc tính toán và phân bổ hoa hồng cho các thành viên trong nghiệp đoàn là do các thành viên thương lượng với nhau.
Phí Bảo lãnh: Là mức chênh lệch giữa giá chứng khoán trên thị trường cho người đầu tư (người đầu tư phải trả) và số tiền Công ty phát hành nhận được.
2.2.4 Nghiệp vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp
Khách hàng doanh nghiệp tin tưởng vào FPTS và tìm kiếm lời khuyên trong các dịch vụ tư vấn về cổ phần hoá, tăng vốn từ cả hai nguồn chào bán ra công chúng và phát hành riêng lẻ, dịch vụ tư vấn niêm yết, mua bán & sáp nhập doanh nghiệp và giải pháp tái cấu trúc.
Đội ngũ tư vấn tài chính doanh nghiệp FPTS am hiểu thị trường và có kinh nghiệm giao dịch tại thị trường Việt Nam. Cty tự hào với các thế mạnh bao gồm:
Quan hệ chặt chẽ ở cấp độ quản lý cao cấp với rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Đại diện cho các cổ đông lớn trong FPTS là thành viên Hội đồng quản trị của nhiều công ty trong khắp cả nước;
Quan hệ chặt chẽ với các đối tác chiến lược và các nhà đầu tư tài chính tại Việt Nam và trong khu vực;
Có các chuyên gia ngành có uy tín và kinh nghiệm chuyên sâu;Hiểu biết sâu sắc về các khách hàng trong nước
Năm 2009 là một năm mà mảng tư vấn được đẩy mạnh. FPTS chính thức đặt tên mình vào thị trường M&A với việc tư vấn thành công cho Eland (Singaporre) mua cổ phần của Công ty Dệt may Thành công – Một doanh nghiệp lớn đã niêm yết trên sàn HOSE và một số các hợp đồng M&A khác. Đồng thời trong năm FPTS cũng đã tạo được hình ảnh tốt, uy tín trong mảng tư vấn phát hành trái phiếu. Bên cạnh đó FPTS cũng thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn phát hành, niêm yết, cổ phần hóa và tư vấn hoàn thiện doanh nghiệp cho nhiều doanh nghiệp khác.
Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn
Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám họ bỏ ra để kinh doanh đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyến cáo đối với khách hàng, vì với lời khuyến đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản phí về dịch vụ tư vấn (Bất kể dịch vụ đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau:
+ Không bảo đảm chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng khoán không phải là một số cố đinh nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tiễn của thị trường.
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ,. Có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra.
+ Không đựơc dụ dỗ, mời chào khách hàng mau hay bán một loại chứng khoán nào đó những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu
2.2.5 Hoạt động Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi số, khách hàng phải mở tài khoản lưu ky chứng khoán tại các CTCKhoặc ký gửi chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán
PHẦN 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG
3.1 Kết quả đạt được
3.1.1 : Một số thành tựu
Tổng doanh thu hoạt động kinh doanh đạt gần 216 tỷ đồng, tăng 178% so với năm 2008 (tương đương tăng 138,3 tỷ đồng). Các mảng doanh thu chủ yếu của công ty là doanh thu hoạt động môi giới với 117,56 tỷ đồng, doanh thu hoạt động tư vấn hơn 54 tỷ đồng, doanh thu khác và doanh thu đầu tư, góp vốn đều đóng góp hơn 20 tỷ đồng.
Có thể thấy, chi phí hoạt động kinh doanh trong năm 2009 giảm mạnh so với năm 2008 với mức 66,8 tỷ đồng đã làm cho lợi nhuận gộp từ hoạt động kinh doanh của công ty đạt 149 tỷ đồng. Trong khi ở năm 2008 lợi nhuận gộp đã âm gần 193 tỷ đồng.
Lợi nhuận sau thuế trong năm 2009 của FPTS đạt 120,5 tỷ đồng. Trong năm 2008 cùng chung hoàn cảnh khó khăn của các CTCK, công ty lỗ 234,8 tỷ đồng.
Tại ĐHCĐ lần này FPTS cũng thông qua phương án phát hành thêm 11 triệu cổ phiếu tăng vốn điều lệ. Với giá bán không thấp hơn 18.000 đồng/cổ phiếu.
Tính đến hết ngày 31/12/2009 Tổng cộng nguồn vốn của FPTS đạt 1.244 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm trước.
3.1.2 : Kết quả kinh doanh năm 2009
Chỉ tiêu
Năm 2009
Năm 2008
Tổng doanh thu hoạt động kinh doanh
215,931,049,801
77,595,629,273
Doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán
117,559,284,080
25,123,081,814
Doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán,góp vốn
21,232,575,731
25,011,228,011
Doanh thu đại lý phát hành chứng khoán
360,000,000
Doanh thu hoạt động tư vấn
54,310,403,122
4,142,023,662
Doanh thu hoạt động lưu ký chứng khoán
1,807,347,819
613,894,150
Doanh thu khác
20,761,439,049
22,705,401,636
Các khoản giảm trừ doanh thu
0
0
Doanh thu thuần
215,931,049,801
77,595,629,273
Chi phí hoạt động kinh doanh
66,803,544,951
270,415,560,435
Lợi nhuận gộp
149,127,504,850
192,819,931,162
Chi phí quản lý doanh nghiệp
29,325,106,904
41,896,327,989
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
119,802,397,946
-234,716,259,151
Thu nhập khác
10,711,144,937
4,330,238,230
Chi phí khác
9,991,314,452
4,428,452,774
Lợi nhuận khác
719,830,485
-98,214,544
Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế
120,522,228,431
-234,814,473,695
3.2. Hạn chế và nguyên nhân
3.2.1 Hạn chế của công ty:
Hoạt động môi giới
- Nội dung thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán chủ yếu vẫn là trung gian thực hiện nhận truyền lệnh mua và bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Nếu như ở các TTCK phát triển có sự gắn bó mật thiết thì ở Việt Nam các CTCK nói chung và FPTS nói riêng, hàm lượng tư vấn đầu tư cho khách hàng trong hoạt động môi giới còn rất hạn chế. Các Công ty hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ cung cấp các thông tin về tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết, thông báo kết quả mua bán chứng khoán và thông tin về giá chứng khoán mà khách hàng quan tâm. Các dịch vụ của nhà môi giới toàn phần chưa được triển khai thực hiện.
- Mặc dù tài khoản giao dịch của nhà đầu tư chứng khoán mở tại Công ty là khá lớn song chỉ một số ít tài khoản thực tế tham gia giao dịch, phần lớn còn lại ở tình trạng “bất động”. Đồng thời, trong số tài khoản giao dịch thì chủ yếu vẫn là nhà đầu tư nhỏ lẻ.
- Hiện nay vẫn còn sự mất cân đối lớn về doanh thu môi giới so với các hoạt động khác. Bên cạnh đó, dịch vụ đi kèm như cầm cố chứng khoán và ứng trước tiền bán chứng khoán mới được triển khai rất ít, vì vậy chưa tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều cơ hội trong đầu tư chứng khoán, hạn chế trong việc phát triển nghiệp vụ môi giới tại các CTCK
Hoạt động tự doanh
- Hoạt động tự doanh của Công ty vẫn thực hiện với phương châm thận trọng bảo toàn vốn, thực hiện tự doanh để tích lũy kinh nghiệm là chính trong khi vốn điều lệ của Công ty vẫn ở trong tình trạng nhàn rỗi.
- Công ty chưa thực sự đóng vai trò là người kiến tạo thị trường bởi vì hiện nay phần lớn các phiên giao dịch, Công ty thường mua các lô lẻ từ nhà đầu tư và tập hợp thành lô chẵn, sau đó tiến hành khớp lệnh tại TTGD để hưởng lời từ chênh lệch giá. Có thể nói việc mua bán chứng khoán thực hiện tự doanh của Công ty vẫn mang tính chất nhỏ lẻ, chưa tương xứng với tiềm lực về vốn của Công ty cũng như với chức năng của nghiệp vụ này là điều tiết thị trường khi cần thiết.
Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
- Trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán hiện nay vẫn còn dè dặt. Doanh thu từ hoạt động này ít và không đều. Sở dĩ như vậy vì FPTS hiện nay chủ yếu thực hiện tư vấn cho nhà đầu tư dưới hình thức cung cấp dịch vụ miễn phí nhằm mục đích thu hút khách hàng, song hiệu quả tư vấn không cao. Mặc dù TTCK Việt Nam đã đị vào hoạt động được một thời gian nhất định, nhưng đây vẫn là một điều khá mới mẻ với công chúng đầu tư, hơn nữa các nhà đầu tư hiện nay cũng rất đa dạng, ở mọi lứa tuổi, thành phần xã hội, mức hiểu biết khác nhau, có thể nói nhà đầu tư ở Việt Nam chưa có tính chuyên nghiệp. Bởi vậy, họ rất cần đến những lời tư vấn từ phía các CTCK. Với một tiền năng khách hàng như vậy nhưng các CTCK nhìn chung vẫn ở trong tình trạng bị động tức là chờ khách hàng tìm đến với mình chưa chủ động tìm đến với họ.
- Hơn nữa, trình độ chuyên môn của nhân viên tư vấn không cao. Do sự non trẻ của thị trường, hầu hết nhân viên được chuyển từ các ngành khác chuyển sang, số nhân viên còn lại đa phần mới ra trường, số người đã có kinh nghiệm từ những thị trường tiên tiến quá ít. Những yêu cầu đối với một nhà tư vấn rất cao vì họ có ảnh hưởng không nhỏ đến đến quyết định đầu tư của khách hàng nên nếu không có chuyên môn tốt sẽ gây ra những thiệt hại cho khách hàng.
- Hiện nay vẫn chưa có một CTCK nào có khả năng tư vấn cho khách hàng, xây dựng được một danh mục đầu tư chứng khoán tối ưu giúp khách hàng có định hướng và đầu tư một cách bài bản, khoa học. Chưa có một hệ thống các chỉ số làm chuẩn mực khi phân tích cơ bản, hoạt động tư vấn vẫn còn mang tính chất cảm tính và tâm lý, không có cơ sở chính thức do đớ chưa thực sự thuyết phục nhà đầu tư.
- Bên cạnh đó, cũng do xuất phát bất cập từ quy định của pháp luật hiện hành nên hoạt động tư vấn đầu tư của Công ty còn bị giới hạn trong một phạm vi hẹp. Các CTCK nói chung chưa được phép thực hiện hoạt động tư vấn về cấu trúc vốn, về chiến lược công nghiệp và các vấn đề liên quan đến việc hợp nhất, mua lại doanh nghiệp. Hoạt động nghiệp vụ này hiện nay mới chỉ thực hiện với mức chứng khoán đựơc phát hành ra công chúng, trong khi các nhà đầu tư cũng như các nhà phát hành, không phân biệt đối với trường hợp phát hành ra công chúng hay phát hành riêng lẻ đều có nhu cầu huy động và sử dụng vốn với hiệu quả cao nhất trong khuân khổ pháp luật cho phép.
- Một chủ thể quan trọng để phát triển hoạt động tư vấn đó là chính sách khách hàng. Trong khi đó kiến thức của các nhà đầu tư chưa cao, quan niệm đầu tư, đầu cơ lẫn lộn. Một điều chắc chắn là không thể phát triển hoạt động tư vấn nếu khách hàng không cần tư vấn. Thu hút khách hàng chính là một khâu quan trọng trong hoạt động tư vấn.
Nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành
Công ty đã triển khai nghiệp vụ này, nhưng trên thực tế vẫn chưa thực sự theo đúng nghĩa của nó. Có nhiều lý do trên thực tế cho thấy đây là nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao trong khi đó kinh nghiệm thực tế và kỹ năng trong lĩnh vực này nói chung còn hạn chế. Hơn nữa, phương thức BLPH hiện nay là cam kết chắc chắn nên hầu hết các Công ty đều cho rằng khả năng rủi ro cao nên thường cân nhắc khi tiến hành nghiệp vụ này.
3.2.2 Nguyên nhân3.2.2.1 Nguyên nhân khách quan
- Môi trường pháp lý chưa hoàn thiện:
Ở Việt Nam, TTCK còn rất mới mẻ cả về nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn. Do vậy cơ sở phát lý về CK & TTCK còn ở mức rất sơ khai và nhìn chung còn manh mún. Cho đến nay, các văn bản quy phạm phát luật điều chỉnh về CK &TTCK có thể kể tới vài chục văn bản, nằm rải rác ở nhiều lĩnh vực, do nhiều cấp có thẩm quyền ban hành, dưới nhiều hình thức khác nhau như luật, phát lệnh, nghị định, quyết định, thông tư. Tuy nhiên, các văn bản, quy phạm phát luật chủ yếu, trực tiếp điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình hình thành, kinh doanh và quản lý Nhà nước về chứng khoán đều là những văn bản có giá trị dưới luật, về cơ bản như sau:
+ Nghị định số 48/ 1998/NĐ-CP ban hành ngày 11/7/1998 của Chính phủ về CK & TTCK. Quy chế về tổ chức và hoạt động của các CTCK (ban hành kèm theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998 của chủ tịch UBCKNN) và các văn bản hướng dẫn, quy chế khác liên quan đến việc thành lập và hoật động của CTCK
+ Luật Doanh nghiệp quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý Công ty. Luật doanh nghiệp Nhà nước quy định các nghuyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động và quản lý doanh nghiệp nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng quy định các nguyên tắc cơ bản về việc thành lập, hoạt động, quản lý Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
+ Các luật như Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật phá sản, Luật đầu tư nước ngoài, các văn bản pháp quy quy định quyền sở hữa về chứng khoán, phương thức chuyển giao quyền sở hữa này và vấn đề phá sản của CTCK.
Nhìn một cách tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như ở một số nước trên thế giới, nhưng khung pháp lý về chứng khoán đã có ba bộ phận cấu thành tối thiểu cần có, gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về CK và TTCK đã hình thành.
Tuy nhiên về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ một số hạn chế nhất định, đó là sự đồng bộ và nhất quán trong việc điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng khoán nói chung và hoạt động kinh doanh chứng khoán nói riêng.
Hiện nay, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất để điều chỉnh các hoạt động của thị trường là nghị định 48 về chứng khoán và TTCK, nhưng cũng để điều chỉnh một lĩnh vực trong các hoạt động của thị trường còn hai nghị định nữa song song tồn tại là Nghị định số 17/2000/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của thanh tra chứng khoán, và Nghị định số 22/2000/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán. N hư vậy, xết về góc độ pháp lý, các văn bản này có hiệu lực ngang nhau đòi hỏi phải có được tính thống nhất cao.
Do văn bản có hiệu lực pháp lý cao là Nghị định nêu nên việc ban hành các hướng dẫn thi hành thường bị hạn chế và vướng về thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền thường chỉ ra được quyết định hoặc thông tư hướng dẫn thi hành. Thực tế nhiều lĩnh vực cần được quyết định chi tiết hơn, nhưng phải ra công văn hướng dẫn, mà công văn hoàn toàn không phải là văn bản phát quy.
Đối với những CTCK, một trong những vấn đề bất cập lớn về pháp lý đối với hoạt động kinh doanh của các CTCK là khung pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh, thâu tóm, mua bán Công ty, phá sản, giải thể, thanh toán Công ty như: Luật dân sự không cho phép bản tài sản khi chưa thuộc sở hữa của người bán, như vậy trong tương lai khi có đủ điều kiện chúng ta cũng không thể cho phép CTCK, nhà đầu tư thực hiện việc bán khống; Luật Doanh nghiệp không có quy địng rõ về việc thâu tóm, mua bán Công ty và bảo vệ lợi của cổ đông thiểu số ở các CTCP, trong khi khung pháp lý về chứng khoán hiện đang ở mức nghị định – NĐ 48/CP lại chưa quy định cụ thể và chi tiết vấn đề này; hay như Luật phá sản coi tất cả các chủ nợ như nhau, trong khi Luật này ở các nước phân chủ nợ thành nhiều loại, trong đó các chủ nợ phụ trợ là loại hình rất phổ biến và ảnh hưởng rất lớn đến việc phá sản của các Công ty nói chung và CTCK nói chung và CTCK nói riêng; Bộ Luật hình sự chưa có quy định rõ ràng về các tội danh trong hoạt động của TTCK…
Ngoài ra Nghị định 48 còn bộc lộ nhưng hạn chế khác như: Mới chỉ giới hạn hoạt động của các CTCK trên thị trường giao dịch tập trung vì vậy một mảng lớn của TTCK còn chưa được khai thác đó là TTCK chưa niêm yết. Các nghiệp vụ hiện nay các CTCK được phép triển khai hiện nay còn rất hạn chế…
Nguyên nhân cơ bản của tình trạng trên là do chúng ta chưa có một bộ luật riêng về chứng khoán và kinh doanh chứng khoán, các hoạt động liên quan đến chứng khoán và kinh doanh chứng khoán do nhiều luật khác nhau cùng điều chỉnh, do đó, những mâu thuẫn, chồng chéo là điều không tránh khỏi.
- TTCK non trẻ, hoạt động còn nhiều hạn chế
TTCK Việt Nam mới thành lập và vào hoạt động được vài năm,
một khoảng thời gian còn rất ngắn, do đó, thị trường vẫn còn mang tính sơ khai và những hạn chế, bất cập trong giai đoạn này là điều khó tránh khỏi. Nếu phân tích kỹ ta sẽ thấy TTCK hiện nay còn bộc lộ hạn chế về nhiều mặt, song ở đây sẽ chỉ đề cập đến những hạn chế làm ảnh hưởng đến hoạt động của các CTCK. Có thể nêu thành ba vấn đề chủ yếu là: TTCK Việt Nam không có sự phát triển của thị trường OTC làm tiền đề; hàng hoá trên thị trường hiện nay còn nghèo nàn, ảnh hưởng của các quyết định mang tính chất hành chính của UBCKNN tới hoạt động của thị trường.
Trong lịch sử phát triển TTCK trên thế giới, ngoại trừ Trung Quốc, TTCK tập trung được hình thành sau một thời gian hình thành và phát triển TTCK bán tập trung hay còn gọi là thị trường giao dịch ngoài quầy OTC. Như vậy, cơ sở nền tảng ban đầu cho sự ra đời của thị trường chính thức trên thế giới là những giao dịch ngoài quầy OTC. Đó là nơi trao đổi các chứng khoán của tất cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ. OTC cũng là nơi để các doanh nghiệp thăm dò, tìm hiểu và làm quen dần với hoạt động của TTCK. Đây cũng là nơi để mọi tầng lớp dân cư tiếp cận với các loại chứng khoán, cũng là nơi tạo uy tín, danh tiếng cho các doanh nghiệp thêm vững chắc, tự tin bước vào TTCK tập trung như một sự rèn luyện. Việt Nam ngay từ ban đầu đã thành lập ngay thị trường tập trung nên cả công chúng và các doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ, e dè, do đó hạn chế sự tham gia của họ vào thị trường.
Về vấn đề hàng hoá, như chúng ta đều biết, đối với bất kỳ một thị trường nào thì hàng hoá luôn là một yếu tố rất quan trọng, quyết định đến hoạt động và sự tồn tại của thị trưòng. Đối với TTCK cũng vậy. Có thể nói TTCK Việt Nam trong giai đoạn đầu lâm vào tình trạng khan hiếm hàng hoá nghiêm trọng, gây nên sự mất cân đối lớn giữa cung và cầu, làm cho những yếu tố của thị trường trở nên sai lệch.
Cho đến nay, có thể nói, lượng hàng hoá trên thị trường giao dịch tập trung đã được cải thiện phần nào, tuy nhiên, xét một cách toàn diện thì quy mô giao dịch của thị trường vẫn còn quá nhỏ bé, thị trường phát triển chậm, chưa tương xứng với vai trò của một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Số lượng các chứng khoán niêm yết giao dịch quá ít, kể cả loại chứng khoán và giá trị chứng khoán giao dịch.
Về vấn đề từ phía các nhà quản lý thị trường, mà ở đây là UBCKNN, cũng còn nhiều hạn chế nhất định trong quá trình quản lý, giám sát hoạt động của thị trường. Cụ thể là việc UBCKNN thực hiện quản lý, điều hành thị trường thông qua các quyết định hành chính của mình. Dĩ nhiên không thể phủ nhận đây là việc làm cần thiết đẻ bảo vệ các nhà đầu tư và hướng thị trương trong giai đoạn đầu đi theo đúng con đường đã định song mặt trái của nó là gây ra những tác động tiêu cực đến thị trường. Sở dĩ như vậy là do các quyết của UBCKNN đưa ra đôi khi mang tính chất tình thế, tạm thời và hơi đột ngột, làm cho các nhà đầu tư “không kịp trở tay” và trở nên lưỡng lự khi tham gia giao dịch do họ cảm thấy quyết định đầu tư của mình bị can thiệp sâu và bất ngờ, làm ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của họ, gây tâm lý bất ổn, chán nản.
Tóm lại, khi hàng hoá ít thì cũng không thể có nhiều người mua, và khi nhà đầu tư không được chủ động trong các quyết định của mình thì tất yếu họ cũng không mặn mà lắm với việc mua bán giao dịch. Do đó, hai vấn đề nổi cộm nêu trên từ phía TTCK cũng chính là nguyên nhân hạn chế hoạt động của các CTCK.
- Nhận thức của các doanh nghiệp và người đầu tư về dịch vụ của CTCK còn hạn chế
Đây cũng là một nguyên nhân gây khó khăn cho CTCK trong việc
triển khai các nghiệp vụ của mình. Ví dụ như đối với nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành, các doanh nghiệp là chủ thể tạo nên “cầu” về Bảo lãnh phát hành, là đối tượng để các CTCK thực hiện nghiệp vụ này. Song, nhìn chung, hiện nay nhiều doanh nghiệp vẫn chưa nhận thức hết được ý nghĩa cũng như lợi ích của việc để cho các CTCK thực hiện Bảo lãnh phát hành khi họ có ý định huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán ra thị trường. Điều này làm cản trở việc triển khai mở rộng nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành của CTCK.
Đối với nghiệp vụ môi giới, có những nhà đầu tư vẫn bị ảnh hưởng bởi định kiến xã hội, coi “môi giới” đồng nghĩa với nghề “chỉ trỏ”, là nghề của người làm trung gian mua bán theo kiểu “cò mồi” để kiếm lợi nhuận bất chính. Vì vậy, đôi khi họ thiếu tin tưởng vào những nhân viên môi giới của CTCK. Cho dù vậy không phải là ý kiến của số đông các nhà đầu tư song nó cũng là một mặt tồn tại làm ảnh hưởn phần nào đến quá trình tác nghiệp của CTCK.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan khác nữa cũng khiến cho hoạt động kinh doanh của các CTCK gặp khó khăn. Đó là do người Việt Nam hiện nay vẫn chưa quen trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán chủ yếu thực hiện thông qua việc chuyển khoản trong khi ở Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu sử dụng tiền mặt trong thanh toán. Hơn nữa, các nhà đầu tư ở Việt Nam cũng chưa thực sự tin vào các thông tin vào các thông tin mà các tổ chức phát hành chứng khoán công bố.
3.2.2.2 Nguyên nhân chủ quan
- Nguồn nhân kực của CTCK chưa đáp ứng được yêu cầu
Nhân tố con người là một trong những nhân tố đặc biệt quan trọng
quyết định đến sự thành công hay thất bại của TTCK nói chung và CTCK nói riêng. Nhưng đối với các CTCK hiện nay đây vẫn còn là một vấn đề khá bất cập. Đội ngũ cán bộ nhân viên của các CTCK hiện nay không thể nói là không có trình độ. Đa số đều được đào tạo khá bài bản qua các trường đại học hoặc qua các khoá học của UBCKNN, một số còn được đào tạo tại những nước có TTCK phát triển.
Bên cạnh đó, vấn đề kiêm nhiệm của đội ngũ lãnh đạo của các CTCK cũng là một hạn chế trong hoạt động của các Công ty này. Lãnh đạo của nhiều Công ty còn kiêm nhiệm nhiều công tác ở tổ chức sáng lập hoặc tổ chức chủ sở hữu, nhiều người còn hoạt động chủ yếu tại các tổ chức trên. Về lâu dài, vấn đề này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát triển của các CTCK nói riêng và của ngành nói chung. Vì khi giám đốc của của CTCK kiêm nhiệm quá nhiều việc dẫn đến thiếu chuyên sâu, thiếu kinh nghiệm, đặc biệt là thiếu thông tin về chính sách, chế độ trong hoạt động chứng khoán.
- Hoạt động của các CTCK còn hạn chế
Có thể nói, đây là một thực tế khá bức xúc tại hầu hết các CTCK.
hầu hết các CTCK còn lại trong số các Công ty mới chủ yếu thực hiện hai nghiệt vụ là môi giới và tự doanh, các nghiệp vụ khác được thực hiện rất ít hoặc bị bỏ ngỏ. Điển hình là hai nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu tư. Các dịch vụ phụ trợ mà các CTCK đưa ra vẫn còn quá ít ỏi, chưa thực sự hiệu quả và phát huy tác dụng hỗ trợ các nghiệp vụ chính và thu hút khách hàng. Có thể nói, khách hàng chưa thoả mãn với những dịch vụ mà CTCK đang triển khai. Ngay như nghiệp vụ môi giới được đánh giá là được các CTCK thực hiện tốt nhất nhưng cũng chưa làm khách hàng hài lòng vì theo họ, phí môi giới mà các CTCK đặt ra vẫn còn quá cao. Bên cạnh đó, còn rất nhiều những nhu cầu khác của khách hàng chưa được CTCK tìm hiểu để từ đó đưa ra những dịch vụ, tiện ích mới phục vụ khách hàng.
Tóm lại, sự phát triển không đồng đều các nghiệp vụ của CTCK là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn chế trong quá trình hoạt động của CTCK thời gian qua.
- CTCK chưa chủ động đến với khách hàng
Thực tế cho thấy, hiện tại chủ yếu vẫn là các khách hàng tìm đến với các CTCK vì họ cần các dịch vụ ở đây chứ các CTCK chưa chủ động tìm đến với khách hàng nhằm mở rộng thị trường hoạt động trong khi khách hàng chính là nguồn sống của họ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay thì đây quả là một điều khó chấp nhận. Điều này có thể được giải thích do số lượng nhà đầu ngày một đông và giữa các CTCK chưa có sự cạnh tranh lớn lắm. Do vậy, CTCK còn có vẻ thụ động trong việc tìm đến khách hàng để tạo các hợp đồng dịch vụ cho họ. Các CTCK cũng chưa xây dựng được chiến lược marketing hiệu quả cho các hoạt động dịch vụ của mình. Ngoài ra, các biện pháp nhằm thu hút, hấp dẫn khách hàng cũng chưa được các CTCK chú trọng, mới chỉ là những hình thức hết sức đơn giản như gửi thiệp chúc mừng tới khách hàng vào dịp lễ, tết hay sinh nhật. Trong khi đó, ở các nước phát triển những việc như thế này lại rất được coi trọng và họ thường bỏ ra một khoảng kinh phí khá lớn để thực hiện.
Hiện tại, những điều trên cũng chưa có ảnh hưởng gì lớn lắm đến hoạt động của các CTCK nhưng chắc chắn rằng, trong tương lai không xa khi thị trường phát triển và sự cạnh tranh giữa các CTCK trở nên gay gắt hơn thì đây có thể sẽ trở thành nguyên nhân gây hạn chế không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của các Công ty.
- Hệ thống mạng lưới của các CTCK chưa rộng rãi
Nói đến hệ thống mạng lưới là nói đến địa bàn hoạt động. Hiện nay,
phạm vi hoạt động của các CTCK mới chỉ tập trung chủ yếu ở hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Các CTCK đều có ý tưởng trở thành những Công ty lớn, có chi nhánh ở nhiều tỉnh, thành phố, tuy nhiên, việc mở rộng địa bàn đồng nghĩa với sự tăng lên nhiều loại chi phí như chi phí thuê nhà, thuê nhân viên, chi phí lắp đặt hệ thống truyền lệnh, máy móc thiết bị v.v… nên các CTCK còn dè dặt trong việc này.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC NGHIỆP VỤ KINH DOANH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN FPT
3.3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG TY
1. Về hoạt động môi giới
Tuy doanh thu từ hoạt động môi giới có sụt giảm mạnh do nhiều ảnh hưởng khách quan từ tình hình thị trường chung, nhưng Công ty xác định Môi giới là một nghiệp vụ luôn được quan tâm duy trì, củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh thu hút khách hàng bằng các biện pháp :
Hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả ứng dụng của trang Web, nâng cao chất lượng cung cấp thông tin qua các kênh như mạng Internet, bản tin tuần, tháng và nỗ lực sớm xây dựng hoàn thiện cơ sở dữ liệu kèm theo phân tích đánh giá về các doanh nghiệp
Mở rộng mạng lưới đại lý giao dịch cá nhân dưới hình thức các cộng tác viên để thu hút thêm người đầu tư trong nước và thông qua các tổ chức, cá nhân có mối quan hệ để quảng bá, phát triển đối tượng khách hàng là người đầu tư nước ngoài
Tiếp tục phối hợp với các hoạt động lưu ký để tăng cường nghiệp vụ quản lý cổ đông và đại lý chuyển nhượng, thực hiện quyền cho các doanh nghiệp cổ phần chưa niêm yết.
2.Về hoạt động tư vấn
Việc triển khai hoạt động Tư vấn sẽ được tăng cường chiều sâu, triển khai tỷ trọng và nâng cao chất lượng Tư vấn để đảm bảo uy tín,tiếp tục triển khai theo hướng cung cấp dịch vụ Tư vấn trọn gói tư đầu cho đến khi bàn giao xong doanh nghiệp
3. Về hoạt động Bảo lãnh và Đại lý phát hành
Công ty sẽ chủ động nắm bắt kế hoạch phát hành của kho bạc nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển và các tổ chức phát hành khác tiến hành thăm dò và giúp các tổ chức đầu tư, củng cố và phát triển mạng lưới khách hàng, tổ chức tiến hành thương lượng mức lãi suất phát hành có lợi nhất và chủ động linh hoạt trong việc dàn xếp lãi suất với các tổ chức đầu tư phát hành, chủ động hơn trong việc chào dịch vụ với nhà đầu tư để có thể đẩy mạnh hoạt động Bảo lãnh phát hành.
4. Về hoạt động lưu ký và các dịch vụ tiện ích
Duy trì và đẩy mạnh các dịch vụ tiện ích như cho vay cầm cố chứng khoán, ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay hỗ trợ tiền mua chứng khoán khi tình hình thị trường được cải thiện đồng thời xúc tiến mạnh dịch vụ hỗ trợ cho vay cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp mua cổ phần. Bên cạnh đó, Công ty sẽ sớm nghiên cứu và tìm kiếm đối tác để triển khai thêm dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán chưa niêm yết.
3.3.2Định hướng phát triển của Nhà nước về lĩnh vực kinh doanh chứng khoán trong thời gian tới
Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ của TTCK.
Nhiệm vụ chủ yếu là mở rộng và tăng cường năng lực của thị trường, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ, khuyến khích tăng cường khả năng cạnh tranh, thúc đẩy hội nhập quốc tế.
Nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán TP.HCM thành Sở giao dịch chứng khoán, hệ thống giám sát thị trường, thông tin thị trường tự động hoá hoàn toàn. Kết nối mạng giao dịch diện rộng giữa Sở giao dịch với các CTCK, đưa giao dịch qua mạng Internet. Cùng với điều đó, sẽ tiến hành nâng cấp thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội trở thành thị trường phi tập trung (OTC). Đồng thời thành lập trung tâm lưu ký độc lập, cung cấp đồng thời các dịch vụ thanh toán, lưu ký, đăng ký chứng khoán tập trung, phục vụ cho hoạt động giao dịch chứng khoán của SGDCK và TTGDCK; lưu ký chứng khoán chưa niêm yết; tiến tới mở tài khoản lưu ký đến từng nhà đầu tư. Tăng cường số lượng và chất lượng các Công ty niêm yết, CTCK, Công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán. Thành lập thí điểm một số Công ty định mức tín nhiệm.
TTCK Việt Nam với những bước đi cụ thể và có sự quản lý sát sao của UBCKNN sẽ từng bước hội nhập thị trường vốn quốc tế. Mở rộng liên kết thị trường vốn với các nước trong khu vực theo tiêu chuẩn chung. Tham gia quy chế niêm yết chéo trên các sở giao dịch của các nước trong khu vực ASEAN, tạo tiền đề cho việc huy động vốn trên thị trường quốc tế.
3.3.3 Một số kiến nghị với chính phủ
1. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin
Quy định này được áp dụng ở các TTCK trên thế giới, theo đó các CTCK phải công khai hoá các thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý ngành và SGDCK nếu Công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kỳ, CTCK phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất thường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xảy ra. Đặc biệt là các báo cáo hàng quý của CTCK phải được Công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lý Nhà nước ngành chứng khoán chấp nhận xác nhận.
Mặt khác, thông tin về TTCK là cơ sở hoạt động của TTCK, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. Ở nhiều nước trên thế giới việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, bởi vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến Công ty cần được thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý, điều hành Công ty. Các thông tin sai lệch trên TTCK có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của TTCK và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai hoá thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của TTCK. Ngay từ đầu xây dựng TTCK tại Việt Nam, UBCKNN đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên TTCK. Các quy định của UBCKNN đối với việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, Công ty quản lý quỹ, các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán là tương đối chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế về thông tin trên thị trường. Vấn đề còn lại chính là tính tự giác của các tổ chức có trách nhiệm phải công bố thông tin. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen và chưa sẵn sàng công bố công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình. Để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước đối với UBCKNN. UBCKNN và TTGDCK cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, cụ thể hoá các quy định về thông tin như thời điểm, cách thức và nội dung công bố thông tin, đặc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo... Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các Công ty niêm yết thực hiện được tốt. Đồng thời UBCKNN và TTGDCK cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của UBCKNN, bên cạnh tờ tin của TTGDCK cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của UBCKNN về những vấn đề chứng khoán và TTCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy.
2. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK
Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó.
Theo số liệu điều tra của UBCKNN, công chúng cho rằng tuy TTCK còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua TTCK đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. UBCKNN cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các nghiệp vụ kinh doanh tại công ty chứng khoán fpt.doc