MỞ ĐẦU
II- NỘI DUNG
A- CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI TRONG TTHS
1. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1.1. Đốí tượng áp dụng và điều kiện áp dụng
1.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
1.3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam
2. Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
2.1. Các trường hợp bắt người khẩn cấp
2.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
2.3. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
3. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
3.1. Bắt người phạm tội quả tang
3.2. Bắt người đang bị truy nã
B – ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI
III – KẾT LUẬN
17 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3530 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các quy định của luật tố tụng hình sự về bắt người trong tố tụng hình sự_Đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bắt người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
I– MỞ ĐẦU
1
II- NỘI DUNG
1
CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI TRONG TTHS
1
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam
2
1.1. Đốí tượng áp dụng và điều kiện áp dụng
2
1.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam
2
1.3. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam
3
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp
4
2.1. Các trường hợp bắt người khẩn cấp
4
2.2. Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
6
2.3. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
7
Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
7
3.1. Bắt người phạm tội quả tang
7
3.2. Bắt người đang bị truy nã
8
B – ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI
9
III – KẾT LUẬN
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
16
I – MỞ ĐẦU
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố( trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Bắt người là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định tại Chương VI, BLTTHS năm 2003. Việc bắt người luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị – xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, liên quan đến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, việc hoàn thiện quy định về biện pháp bắt người trong Tố tụng hình sự là vấn đề cấp thiết trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.
II – NỘI DUNG
A – CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
“ Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự (TTHS) được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người đang bị truy nã và trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố về hình sự nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội của họ, ngăn ngừa họ trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự”. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, cũng như yêu cầu của việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và việc bảo đảm các quyền dân chủ của công dân, kế thừa có chọn lọc các quy định về bắt người trong các văn bản pháp luật trước đây, Bộ luật TTHS năm 2003 quy định có ba trường hợp bắt người sau:
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam;
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp;
Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã;
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( Quy định tại Điều 80 Luật TTHS năm 2003).
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố bị can hoặc đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam, nhằm phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Đối tượng áp dụng và điều kiện áp dụng
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam chỉ có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo đã có lệnh bắt tạm giam, lệnh bắt giam hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát. Người chưa bị khởi tố với tư cách là bị can hoặc người không bị tòa án quyết định đưa ra xét xử thì không thể bị bắt để tạm giam. Tuy vậy, cần phải lưu ý rằng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể bị áp dụng biện pháp bắt để tạm giam. Từ đó có thể thấy đối tượng bị áp dụng phải là bị can hoặc bị cáo.
Bộ luật TTHS hiện hành không quy định cụ thể việc bắt để tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các trường hợp nào nhưng không phải mọi bị can, bị cáo đều có thể hoặc cần bắt để tạm giam mà chỉ bắt tạm giam đối với các bị can, bị cáo nào nếu xét thấy cần thiết.
Thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( Khoản 1 điều 80 bộ luật TTHS 2003)
Điều 80 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định: “ Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.”
Như vậy, trong giai đoạn điều tra, việc bắt bị can để tạm giam do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp quyết định. Trong giai đoạn truy tố chỉ có Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp mới có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, Kiểm sát viên không có quyền đó. Còn trong giai đoạn xét xử, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án tòa án nhân dân và tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử quyết định.
Nếu vụ án đã đưa ra xét xử, nhưng bị cáo không bị tạm giam thì theo Điều 228 Bộ luật TTHS quy định Hội đồng xét xử được quyết định bắt ngay bị cáo sau khi tuyên án, nếu có căn cứ cho rằng bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam ( khoản 2 và khoản 3 Điều 80 Bộ luật TTHS năm 2003)
Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh của người có thẩm quyền; Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu. Lệnh bắt phải bảo đảm yêu cầu pháp lí nêu trên mới có giá trị thi hành. Ngoài ra, lệnh bắt vi phạm thủ tục do luật định như bắt người theo lệnh miệng, lệnh bắt của người không có thẩm quyền, lệnh không ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh, lệnh không có chữ kí của người có thẩm quyền, không đóng dấu cơ quan, lệnh bằng thư tay, lệnh bắt của cơ quan điều tra không có phê chuẩn của Viện kiểm sát đều không có giá trị thi hành.
Trước khi bắt, người thi hành lệnh bắt buộc phải đọc lệnh bắt và giải thích lệnh bắt, quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt nghe và phải lập biên bản về lệnh bắt. Biên bản ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, thái độ của người bị bắt trong việc chấp hành lệnh bắt những đồ vật tài liệu có liên quan được phát hiện, bị tạm giữ và những yêu cầu, khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng kí tên vào biên bản.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Khoản 3 Điều 80 bộ luật này cũng quy định: “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã…”
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp ( Điều 81 Bộ luật TTHS năm 2003)
Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nhằm ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội của họ hay bắt người sau khi thực hiện tội phạm mà người đó bỏ trốn, cản trở việc điều tra, khám phá tội phạm.
Các trường hợp bắt người khẩn cấp
Khoản 1 Điều 81 bộ luật TTHS năm 2003 quy định các trường hợp được bắt khẩn cấp như sau:
Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Việc bắt người trong trường hợp này cần phải đảm bảo hai điều kiện sau:
Thứ nhất, có căn cứ khẳng định một người ( hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện tội phạm. Những căn cứ này có thể do cơ quan có thẩm quyền trực tiếp xác định qua việc theo dõi đối tượng hoặc qua việc kiểm tra, xác minh các nguồn tin do quần chúng cung cấp đã khẳng định người đó ( hoặc những người đó) đang tìm kiếm công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều cần thiết khác để thực hiện tội phạm…
Thứ hai, tội phạm đang được chuẩn bị thực hiện là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Chuẩn bị thực hiện tội phạm còn một khoảng cách nhất định với việc thực hiện tội phạm nên không phải mọi hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đều cần truy cứu trách nhiệm hành sự. Do vậy, muốn bắt khẩn cấp một người (hoặc nhiều người) đang chuẩn bị thực hiện thì phải xác định tội phạm họ đang chuẩn bị thực hiện phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (các tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra hoặc đe dọa gây ra nguy hại rất lớn hoặc đặc biệt lớn cho xã hội).
Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.
Việc bắt người trong trường hợp này cần phải bảo đảm hai điều kiện sau:
Thứ nhất, phải có người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông tháy và trực tiếp xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm. Người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm có thể là người bị hại hoặc người khác đã chính mắt trông thấy người phạm tội và hành vi phạm tội được thực hiện và trực tiếp xác nhận với cơ quan có thẩm quyền đúng là người đã thực hiện tội phạm. Việc xác nhận mang tính chất khẳng định, chứ không thể “ hình như” hoặc “nhìn giống như” người đã thực hiện tội phạm để tránh dẫn đến việc bắt nhầm người không thực hiện tội phạm.
Thứ hai, xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó bỏ trốn. Những căn cứ cho rằng người phạm tội bỏ trốn thường là:
Đang có hành động bỏ trốn; đang chuẩn bị trốn;
Không có nơi cư trú rõ ràng;
Có nơi cư trú nhưng ở quá xa;
Là đối tượng lưu manh, côn đồ, hung hãn;
Chưa xác định được nhân thân của người đó ( căn cước lí lịch không rõ ràng).
Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
Việc bắt người trong trường hợp này cần đảm bảo hai điều kiện sau:
Thứ nhất, khi thấy dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm. Những dấu vết của tội phạm được tìm thấy có thể là những vật chứng như công cụ phương tiện phạm tội, đối tượng của tội phạm… cũng như dấu vết của tội phạm trên cơ thể người bị nghi thực hiện tội phạm. Việc tìm thấy dấu vết của một tội phạm chỉ được coi là một điều kiện để bắt khẩn cấp.
Thứ hai,cần ngăn chặn người bị nghi thực hiện tội phạm trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Những căn cứ cho rằng người bị nghi thực hiện tội phạm bỏ trốn cũng tương tự như căn cứ cho rằng người phạm tội trong những trường hợp khẩn cấp thứ hai bỏ trốn. Tuy nhiên, nếu xác định được người bị nghi thực hiện tội phạm không bỏ trốn nhưng lại có căn cứ cho rằng người đó đang tiêu hủy chứng cứ hoặc đang có hành vi làm giả chứng cứ làm sai lệch các tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội nhằm gây khó khăn cho việc điều tra xác định tội phạm thì những hành vi đó vẫn được coi là điều kiện để bắt khẩn cấp.
Thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Khoản 2 Điều 81 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định những người sau đây có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp.
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp
Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp về cơ bản cũng được Bộ luật TTHS quy định và áp dụng tương tự như thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng có một số điểm khác.
Lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp không cần sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Việc phải có phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với lệnh bắt khẩn cấp trước khi thi hành sẽ là một sự “trì hoãn” làm mất đi tính cấp bách của trường hợp bắt người này.
Sau khi đã bắt người, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản cùng các tài liệu liên quan để xét và phê chuẩn. Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.
Trong trường hợp khẩn cấp được bắt người vào bất kì lúc nào, không kể ban ngày hay đêm.
Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. (Điều 82 Bộ luật TTHS năm 2003)
Bắt người phạm tội quả tang
Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt.
Phạm tội quả tang có đặc điểm là hành vi phạm tội cụ thể, rõ ràng không cần phải điều tra, xác minh.
Điều 82 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định những trường hợp phạm tội quả tang bao gồm:
Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.
Người đang thực hiện tội phạm là người đang thực hiện hành vi phạm tội được quy định trong BLHS nhưng chưa hoàn thành tội phạm hoặc chưa kết thúc việc phạm tội thì bị phát hiện. Hành vi đang thực hiện tội phạm có thể đã gây ra hậu quả vật chất như đã hủy hoại được một phần tài sản của người khác và vẫn đang hủy hoại tiếp. Trong trường hợp hành vi đang thực hiện một tội phạm có cấu thành hình thức thì mặc dù hậu quả vật chất chưa xảy ra vẫn coi là hành vi đang thực hiện tội phạm.
Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện
Khi vừa thực hiện tội phạm xong, người phạm tội chưa kịp chạy trốn hoặc đang cất giấu công cụ, phương tiện, đang xóa những dấu vết của tội phạm trước khi chạy trốn thì bị phát hiện. Trong trường hợp người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện ngay thì mặc dù không có vật chứng để lại cũng được coi là phạm tội quả tang.
Đang bị đuổi bắt
Người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện nên đã chạy trốn và bị đuổi bắt. Việc đuổi bắt phải liền ngay sau khi chạy trốn thì mới có cơ sở xác định đúng người phạm tội tránh bắt nhầm phải người không thực hiện tội phạm. Nếu việc đuổi bắt bị gián đoạn về thời gian so với hành vi chạy trốn thì không được bắt quả tang mà có thể bắt theo trường hợp khẩn cấp.
Bắt người đang bị truy nã
Trước đây, pháp luật Việt Nam quy định việc bắt người đang bị truy nã là một trường hợp bắt người phạm tội quả tang vì có quan niệm không chính xác khi cho rằng người đang bị truy nã là người phạm tội quả tang. Bộ luật TTHS năm 2003 không quy định người đang bị truy nã là trường hợp phạm tội quả tang mà là một trường hợp riêng biệt. Tuy vậy, trong thực tế việc ngăn chặn ngay người đang bị truy nã trốn tránh pháp luật cũng mang tính cấp bách như đối với việc ngăn chặn người phạm tội quả tang nên Bộ luật TTHS quy định thẩm quyền, thủ tục bắt người đang bị truy nã cũng được áp dụng như bắt người phạm tội quả tang.
Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Bộ luật TTHS năm 2003 quy định bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất.
Thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã không cần lệnh của cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức nào.
Sau khi bắt người phạm tội người bắt pahir giải ngay người bị bắt đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Việc bắt người phạm tội là người thuộc cơ quan dân cử như đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp ngoài việc tuân theo quy định ở các điều 80, 81 và 82 Bộ luật TTHS năm 2003 còn phải đảm bảo một sood thủ tục quy định trong Hiến pháp và một số đạo luật khác.
B – ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TTHS VỀ BẮT NGƯỜI
Từ nghiên cứu thực tiễn và tham khảo một số tài liệu, chúng ta có thể sửa đổi hoàn thiện một số quy định bắt người trong Bộ luật TTHS hiện hành để đảm bảo tính thống nhất, tạo điều kiện cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác như sau:
Một là, Bộ luật TTHS 2003 chưa có điều luật nào quy định việc bắt người là đại biểu dân cử; đảng viên; cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân; người có chức sắc trong các tôn giáo; người thủ lĩnh, người có danh tiếng, có uy tín lớn trong các dân tộc ít người; tri thức, nhân sĩ có tên tuổi, văn nghệ sĩ có tiếng tăm được trong nước và thế giới chú ý tới và người nước ngoài. Trong khi đó việc bắt những “đối tượng đặc biệt” này được quy định trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước, văn bản của Đảng và Bộ Công an, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị về phạm vi, trách nhiệm, quyền hạn giữa các cấp ủy Đảng với Đảng ủy Công an, Ban cán sự Đảng Viện Kiểm sát nhân dân, Ban cán sự Đảng Tòa án nhân dân trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên…. Vì vậy, cần phải ban hành văn bản hướng dẫn thống nhất, chi tiết việc bắt các đối tượng nêu trên cho phù hợp.
Hai là, việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam được quy định tại Điều 80 Bộ luật TTHS, với tên gọi của chế định này là: “Bắt bị can, bị cáo để tạm giam” nên đã dẫn đến cách hiểu: “Bắt người là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam”. Cách hiểu như vậy là không đúng bởi lẽ nếu coi “bắt bị can, bị cáo để tạm giam” là một biện pháp để thực hiện lệnh tạm giam thì việc cưỡng chế bị can, bị cáo thực hiện lệnh tạm giam dựa trên căn cứ pháp lý nào? Vì vậy xác định tên gọi của chế định này là “bắt tạm giam bị can, bị cáo”.
- Thực tế cho thấy việc bắt người bị kết án để thi hành bản án mà trước đó họ chưa bị tạm giam cũng gặp nhiều bất cập. Vì vậy cần ban hành mẫu lệnh bắt thống nhất “Lệnh bắt người bị kết án để thi hành án” theo thẩm quyền của Tòa án, giao cho lực lượng Cảnh sát hỗ trợ tư pháp thực thi theo thủ tục chung.
- Về hình thức lập pháp theo quy định tại Điều 80 Bộ luật TTHS đối với trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam chưa quy định căn cứ bắt cho trường hợp này và những trường hợp không bắt tạm giam. Đối chiếu với quy định về các trường hợp bắt khác quy định như vậy là chưa thống nhất. Nên cần bổ sung quy định này vào Điều 80 BLTTHS như: “ Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng; bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” và “đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp: Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia”.
- Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù dưới 2 năm thì không bị bắt để tạm giam; nhưng đối với các trường hợp bị can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở cách xa Cơ quan điều tra hoặc có tiền án tiền sự hoặc là lưu manh chuyên nghiệp có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bắt tạm giam. Mặc dù, quan điểm hiện nay nên giảm thiểu các trường hợp bắt bị can, bị cáo để tạm giam, nhưng việc quy định bắt tạm giam đối với đối tượng này là cần thiết cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra.
- Khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định “Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại các Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này” là chưa chính xác, không thống nhất mà phải quy định rõ “không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm”.
Với đề xuất như trên có thể sửa đổi bổ sung Điều 80 Bộ luật TTHS như sau:
“ Điều 80. Bắt tạm giam bị can, bị cáo
1. Bắt tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù dưới 2 năm không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có nơi cư trú nhưng ở cách xa Cơ quan điều tra hoặc có tiền án tiền sự hoặc có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra thì có thể bắt tạm giam.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ ràng thì không bắt tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
3. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân và Viện Kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp: Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện Kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
Hồ sơ vụ án phải được gửi kèm theo lệnh bắt và tạm giam bị can, bị cáo sang Viện Kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Sau khi nhận được những văn bản trên, Viện Kiểm sát phải nghiên cứu ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt và tạm giam bị can, bị cáo trong đó ghi rõ lý do phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.
4. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bị bắt. Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt bị can, bị cáo tại nơi người đó cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt bị can, bị cáo tại nơi người đó làm việc phải có đại diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt bị can, bị cáo tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
5. Không được bắt tạm giam bị can, bị cáo vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người theo quyết định truy nã”.
Ba là, về khoản 4 Điều 81 Bộ luật TTHS có quy định về thẩm quyền xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp thuộc về Viện Kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh bắt khẩn cấp là “Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới” và “Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng” quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này thì rất khó xác định được Viện Kiểm sát cùng cấp như khi tàu bay đang bay trên bầu trời, tàu biển đang ở ngoài biển... Do đó, cần quy định bổ sung trong khoản 4 Điều 81 với nội dung “đối với trường hợp quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều luật này, thẩm quyền để xét phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp là Viện Kiểm sát nơi có sân bay hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký” . Quy định như vậy mới kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn chặn hành động gây khó khăn cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
Bốn là, Bộ luật TTHS 2003 quy định việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã trong cùng một điều luât tại Điều 82 Bộ luật TTHS. Việc bắt người trong hai trường hợp này quy định: “ Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Cơ quan Công an, Viện Kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất”. Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng quy định này cho thấy: Quy định chung việc bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã vào cùng một điều luật là không phù hợp, vì đối tượng và thủ tục áp dụng, những việc cần làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong hai trường hợp này không giống nhau.
Trước hết về đối tượng: Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang chưa phải là bị can, bị cáo; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã là người đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù thì bỏ trốn mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã.
Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang họ có thể bị giam giữ hoặc không bị giam giữ theo Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2003; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã thì sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam đối với họ.
Điều 82 Bộ luật TTHS hiện hành chỉ quy định thủ tục bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã mà thiếu các quy định về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người bị bắt, các vấn đề cần phải giải quyết sau khi tiếp nhận người bị bắt. Những nội dung này lại được quy định trong Điều 83 Bộ luật TTHS: Khoản 1 quy định những vấn đề cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang; khoản 2 quy định những việc cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã. Nên quy định các nội dung này trong một điều luật cho rõ căn cứ bắt, thẩm quyền, thủ tục bắt trong từng trường hợp và những việc cần làm sau khi bắt. Việc làm này bảo đảm tính khoa học về mặt kỹ thuật lập pháp, góp phần hạn chế được những thiếu sót khi xây dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Mặt khác, khoản 2 Điều 82 Bộ luật TTHS chỉ quy định: “khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt” , trong khi trên thực tế nhiều trường hợp người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thường có vũ khí và rất dễ chống trả ngay nếu bị bắt giữ. Cho nên, nếu không quy định quyền này một cách chính xác, chặt chẽ thì rất khó khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì vậy, cần quy định thêm nội dung bất kỳ người nào cũng có quyền “lục soát tước vũ khí, hung khí của người bị bắt” trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, để phân biệt với biện pháp khám người theo quy định tại Điều 182 Bộ luật TTHS.
Về tên gọi trường hợp bắt người đang bị truy nã theo quy định tại Điều 82 Bộ luật TTHS, nên quy định tên điều luật là “bắt người theo quyết định truy nã” sẽ chính xác hơn.
III – KẾT LUẬN
Bắt người trong TTHS là một biện pháp ngăn chặn được quy định từ rất sớm trong pháp luật TTHS của Nhà nước ta. Tuy nhiên, việc vận dụng các quy định nói trên trong một thời gian dài mà ít có sự thay đổi đã không thể tránh khỏi nhiều hạn chế, vướng mắc do sự phát triển không ngừng của đất nước và những diễn biến phức tạp của xã hội nói chung và tình hình tội phạm nói riêng. Việc quy định và áp dụng biện pháp này trong thực tế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm. TÌm hiểu về vấn đề này giúp chúng ta có thể hiểu ra hơn về các quy định của pháp luật cũng như tình hình thực tiễn áp dụng biện pháp bắt người nhằm đóng góp nhỏ bé vào quá trình hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về biện pháp này, đồng thời nâng cao hiệu quả áp dụng chúng trong thực tiễn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, 2006.
Bộ luật TTHS năm 2003
Các biện pháp ngăn chặn trong TTHS Việt Nam – Luận án thạc sỹ khoa học luật học. Nguyễn Văn Điệp.
Bắt người trong tố tụng hình sự Việt Nam – Luận án thạc sỹ luật học. Vũ Gia Lâm.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các quy định của luật tths về bắt người trong tths_đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật tths về bắt người.doc