Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài tập lớn dân sự A. MỞ ĐẦU Trong thực tế, có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống tải điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy . mà bản thân hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã tìm mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Vậy, nguồn nguy hiểm cao độ là gì ? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được xác định như thế nào ? Và trên thực tế, việc áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề này còn những điểm gì đáng quan tâm ? MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU 1 B. NỘI DUNG 2 I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 2 1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 2 2. Đặc điểm và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 4 2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 4 2.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 6 3. Xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 8 3.1. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ: 8 3.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại : 11 3.3. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật : 13 II. Thực tế các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật : 14 1. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 15 2. Áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Một số vấn đề còn tồn tại và hướng khắc phục : 16 C. KẾT LUẬN 20

doc21 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3833 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. MỞ ĐẦU Trong thực tế, có những sự vật như máy móc, phương tiện, hệ thống tải điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy ... mà bản thân hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đã tìm mọi cách phòng ngừa, vận hành chúng an toàn nhưng thực tế vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Vậy, nguồn nguy hiểm cao độ là gì ? Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được xác định như thế nào ? Và trên thực tế, việc áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan đến vấn đề này còn những điểm gì đáng quan tâm ? B. NỘI DUNG I. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 1. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được đề cập đến từ rất sớm trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, phải đến khi BLDS 1995 ra đời, thì các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới được quy định một cách chi tiết. Trên cơ sở đó, BLDS 2005 đã kế thừa và phát triển, tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các quy phạm liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có trường hợp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.” (1) : Theo TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010, tr 191. Theo quy định tại Điều 604 BLDS 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi người có hành vi trái pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ; đồng thời trong một số trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định, trách nhiệm này phát sinh cả khi không có lỗi của người gây thiệt hại. Từ khái niệm tổng quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 623 BLDS 2005, có thể hiểu : “ Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ và do sự hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không có lỗi.” (2) : Theo TS. Phùng Trung Tập, Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2009, tr 259. Như vậy, có thể thấy, để áp dụng quy định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tại Điều 623 BLDS 2005, cần làm rõ khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ. Khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ được ghi nhận tại đoạn 1 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005; trên cơ sở này, Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong đó có hướng dẫn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã xác định: “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.” (3) : Trích khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263. Như vậy, pháp luật không đưa ra khái niệm tổng quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ định nghĩa dưới dạng liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào tính chất của sự vật như mức độ nguy hiểm cũng như khả năng kiểm soát của con người đối với sự vật đó, có thể hiểu: “ Nguồn nguy hiểm cao độ là những vật chất nhất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối.” (4) : Theo TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2010, tr 208. Ví dụ phương tiện giao thông vận tải cơ giới bao gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không như xe ô tô, xe gắn máy, tàu thủy, tàu hỏa, máy bay,... là nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên để xác định những phương tiện giao thông cơ giới nào là nguồn nguy hiểm cao độ cần dựa trên các quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật có liên quan khác như Luật Giao thông đường bộ 2008, Luật Hàng hải 2005, Luật Đường sắt 2005,... Hệ thống tải điện cũng được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ. Căn cứ theo khoản 10 Điều 3 Luật Điện lực 2004: “ Hệ thống tải điện Quốc gia là hệ thống các trang thiết bị phát điện, lưới điện, các trang thiết bị phụ trợ được liên kết với nhau và được chỉ huy thống nhất trong phạm vi cả nước.” (5) : Theo khoản 10 Điều 3 Luật Điện lực 2004. , có thể hiểu khái quát thế nào là hệ thống tải điện để từ đó xác định những trang thiết bị điện như: máy biến áp, đường dây tải điện, đèn cao áp, ... cũng nằm trong danh mục nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định tại khoản 1 Điều 623 BLDS 2005. Ngoài ra, cũng theo quy định tại điều luật này, thú dữ như hổ, báo, sư tử,... các loại vũ khí quân dụng, vũ khí thể thao; nhà máy công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ; thuốc nổ, pháo, thuốc súng; chất độc bảng A, chất phóng xạ;... đang trong quá trình vận hành cũng được liệt kê vào danh sách nguồn nguy hiểm cao độ. 2. Đặc điểm và điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, để xác định trường hợp nào áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại nói chung theo Điều 604 BLDS 2005, trường hợp nào áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cần căn cứ vào đặc điểm riêng, sự khác biệt cũng như điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 2.1. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Trên thực tế, việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những vấn đề hết sức khó khăn, phức tạp. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi thỏa mãn các điều kiện sau : Một là, những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động như: phương tiện giao thông đang tham gia giao thông trên đường; cháy, chập hệ thống tải điện; nhà máy công nghiệp đang hoạt động; ... bởi chỉ trong tình trạng vận hành, hoạt động, những đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ mới thực sự tiềm ẩn mối đe dọa gây nguy hiểm lớn cho người, vật và môi trường xung quanh và khi đó, con người mới không thể hoàn toàn điều khiển, chế ngự được chúng, sự cố xảy ra gây thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái hoạt động nằm ngoài khả năng kiểm soát của con người. Nếu thiệt hại xảy ra khi nguồn nguy hiểm cao độ đang ở trạng thái không hoạt động ( trạng thái tĩnh ) ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh thì không thể coi đó là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Hai là, có thiệt hại thực sự xảy ra do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ mà không phải là do sự tác động bới hành vi có dấu hiệu lỗi của con người. Nghĩa là mối quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ với thiệt hại xảy ra phải là mối quan hệ phổ biến, biện chứng. Đây là trường hợp hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn độc lập với ý chí, nằm ngoài sự kiểm soát, chế ngự của con người. Ví dụ : xe máy đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật… sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra tại Điều 623 BLDS 2005. Điều kiện này đòi hỏi hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ phải là nguyên nhân tất yếu, có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do tác động của con người, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ba là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh” - là những người bị thiệt hại mà không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. 2.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Xuất phát từ hai điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, có thể khẳng định, về đặc điểm, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm dân sự về tài sản và trách nhiệm dân sự này không cần điều kiện lỗi. Thứ nhất, cũng giống như điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được xác định khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế. Thiệt hại theo khái niệm chung được hiểu là sự giảm bớt những lợi ích vật chất của cá nhân, pháp nhân, tổ chức hoặc Nhà nước về sức khỏe, tính mạng, tài sản, uy tín, danh dự, nhân phẩm, thi thể, mồ mả... được xác định bằng một khoản tiền và những chi phí hợp lí, phù hợp nhằm khắc phục những tổn thất về vật chất, tinh thần cho chủ thể bị thiệt hại. Tuy nhiên, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ mang tính chất thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe chứ không bao gồm thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín hay thi thể, mồ mả... Bởi xuất phát từ chính đối tượng gây thiệt hại là nguồn nguy hiểm cao độ được xác định theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 như: phương tiện giao thông cơ giới, hệ thống tải điện, thú dữ, vũ khí,... đồng thời thiệt hại xảy ra do bản thân nội tại nguồn nguy hiểm cao độ đang trong tình trạng hoạt động chứ không phải bởi hành vi trái pháp luật có yếu tố lỗi của con người nên rõ ràng, nguồn nguy hiểm cao độ chỉ có thể gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản chứ không thể dẫn tới thiệt hại về uy tín, danh dự, nhân phẩm. Thứ hai, nếu lỗi là một trong các điều kiện cơ bản làm phát sinh trách nhiệm trường hợp bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra lại dựa trên sự suy đoán trách nhiệm của chủ sở hữu hay người quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Xuất phát từ việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại xảy ra do nội tại nguồn nguy hiểm cao độ đang trong tình trạng vận hành, nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của con người và đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại thì theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005: “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây: a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” (6) : Theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263. Như vậy, chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp chứng minh được họ không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ. Tuy nhiên, quy định này của pháp luật cũng không loại trừ khả năng thiệt hại xảy ra do một phần lỗi của chủ sở hữu, người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ; nhưng hành vi để xảy ra thiệt hại này của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến việc xảy ra thiệt hại. Ví dụ : trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt… Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại... Từ những lập luận trên, có thể thấy, nếu căn cứ vào yếu tố lỗi và cho nó là điều kiện bắt buộc để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và nếu trong mọi trường hợp xảy ra thiệt hại đều buộc người bị hại dẫn chứng lỗi từ phía gây thiệt hại thì thực sự là việc quá khó khăn, gần như không thực hiện được. Từ đó không thể đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho chủ thể bị thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Do đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra sẽ phát sinh mà không cần điều kiện lỗi. Như vậy, bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh là trách nhiệm pháp lý nâng cao không nhất thiết đòi hỏi phải chứng minh yếu tố lỗi của chủ thể gây thiệt hại. 3. Xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 3.1. Chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ: “ Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình đối với tài sản nhưng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác” (7) : Theo Điều 165 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 77. đó là nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu được ghi nhận tại Điều 165 BLDS 2005. Đồng thời, với ý nghĩa luôn tiềm ẩn nguy cơ, khả năng gây thiệt hại cho con người và thế giới xung quanh của nguồn nguy hiểm cao độ nên đoạn 2 khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 cũng đưa ra quy định: “ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.” (8) : Trích khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263. . Do đó, khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ, trước tiên phải nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ trong việc tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại, vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác. Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nghĩa là “ ... đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ.” (9) : Trích khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe cho người khác, dù có lỗi của chủ sở hữu trong việc sử dụng, quản lý, trông coi nguồn nguy hiểm cao độ hay không thì căn cứ khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 cũng như khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại. Nếu chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao cho người khác theo ý chí của mình theo các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn hoặc chuyển giao theo nghĩa vụ lao động… thì theo quy định tại khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 và được cụ thể hóa trong khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, những người được chuyển giao quyền phải chịu trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác ví dụ“ thỏa thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; thỏa thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường; ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước...” (10) : Trích khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, có thể thấy, trong một số trường hợp chủ sở hữu chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng trên thực tế, chủ sở hữu vẫn có quyền kiểm soát về mặt pháp lý (chiếm hữu pháp lý) đối với tài sản. Khi đó, mặc dù không trực tiếp khai thác công dụng của tài sản nhưng đó cũng là một hình thức chủ sở hữu thực hiện quyền sử dụng tài sản, cụ thể là khai thác lợi ích kinh tế từ tài sản. Do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm đã được chủ sở hữu giao cho người khác thì cần “ phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại “ (11) : Trích khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. theo tinh thần tại khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Ví dụ : Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ theo hợp đồng lao động thì trong trường hợp này, người được chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ là những người làm công, ăn lương, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ để thực hiện nghĩa vụ lao động. Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đang trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì chủ sở hữu phải chịu trách nhiệm bồi thường khi có thiệt hại xảy ra. Bởi mặc dù lúc này, người lao động là người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hoàn toàn dưới sự quản lý, điều hành của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ và vì lợi ích của chủ sở hữu nên phải coi đây giống như trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng tài sản. Còn nếu, người làm công đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ mà gây tai nạn nhưng không nằm trong thời gian thực hiện nghĩa vụ lao động thì người làm công phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 623 BLDS 2005. Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự chuyển giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và chủ yếu thường thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn... thì khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường. Bởi khi chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu đã biết trước tính nguy hiểm mà tài sản của mình có thể gây ra đồng thời, về ý chí, chủ sở hữu hoàn toàn nhận thức được việc chuyển giao là không đúng quy định của pháp luật. Ví dụ: chủ sở hữu xe máy biết người thuê xe của mình chưa có giấy phép lái xe nhưng vẫn cho thuê và trong quá trình bên thuê sử dụng xe máy đã mất phanh gây ra thiệt hại. Trong trường hợp này, chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là chủ sở hữu chiếc xe máy ( bên cho thuê ). 3.2. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng, do lỗi cố ý của người bị thiệt hại : Về nguyên tắc chung, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi. Tuy nhiên, trách nhiệm bồi thường của các chủ thể này sẽ không được đặt ra khi thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại. “ Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không con cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn cần ngăn ngừa.” (12) : Theo khoản 1 Điều 16 BLHS 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2010. Do đó, để bảo vệ một lợi ích khác lớn hơn, để tránh những thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra, pháp luật dân sự Việt Nam tại khoản 3 Điều 623 quy định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết thì không phải bồi thường. Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện phát sinh bất ngờ, đột xuất, nằm ngoài ý thức, sự kiểm soát và lường trước của con người nói chung và của chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nói riêng. Trong tình huống bất khả kháng, con người chỉ có thể lựa chọn cách một cách xử lí nhất định nhằm giải quyết, khắc phục tương đối ổn thỏa nhất sự kiện đó. Đồng thời, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, do đó để đảm bảo quyền lợi cho chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, khoản 3 Điều 623 BLDS 2005 quy định trường hợp này những chủ thể này không phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, theo khoản c Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, đối với trường hợp thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng mà những văn bản pháp luật khác vẫn yêu cầu trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại lúc này phải áp dụng theo các quy định tại các văn bản pháp luật đó. Lỗi không phải điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường ngay cả khi không có lỗi. Tuy nhiên, nếu lỗi xuất phát từ phía người bị thiệt hại, thì trách nhiệm bồi thường sẽ không đặt ra cho chủ sở hữu hay người được chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo khoản 3 Điều 623 BLDS 2005. Ví dụ: Xe máy đang tham gia giao thông thì bất ngờ có người lao vào xe với ý định tự tử thì khi người này bị thương nặng hay thậm chí tử vong, chủ sở hữu hay người đang trực tiếp điều khiển xe lúc đó không phải bồi thường. 3.3. Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật : Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi chiếm hữu không có những căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005 như chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch dân sự vi phạm các điều kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS 2005; nguồn nguy hiểm cao độ có được do trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác; ... Khi nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 và khoản d Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định thành hai trường hợp sau : Thứ nhất, “ Người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật (đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật)” (13) : Theo khoản d Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Như vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp hoặc các hình thức chiếm đoạt tài sản khác ví dụ như xe máy có được do trộm cắp, tàu thuyền cướp được ... thì khi thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm bồi thường. Thứ hai, “ Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.” (14) : Trích khoản 4 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009, tr 263. Quy định này được hiểu là nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực hiện đúng các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dẫn đến việc nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật ví dụ: A là chủ gánh xiếc, không thực hiện đúng các quy định cất giữ, trông coi thú dữ dùng để biểu diễn xiếc dẫn đến thú dữ đã xổng mất và bị B là người cùng phố bắt giữ, sử dụng thì khi con thú này gây ra thiệt hại thì chủ sở hữu hợp pháp là A và người trên thực tế đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật B phải chịu trách nhiệm liên đới. Có thể thấy, trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra ngoài nguyên nhân chính là do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ còn có lỗi của chủ sở hữu cũng như có dấu hiệu chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật. Do đó, việc xác định trách nhiệm pháp lý liên đới được phát sinh trong trường hợp này là chính xác, hợp lý. II. Thực tế các quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật : 1. Ý nghĩa của việc pháp luật quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, những thành tựu mới trong quá trình công nghiệp hóa, cơ giới hóa đã làm thế giới ngày càng văn minh, hiện đại hơn; kéo theo đó, các tai nạn mang tính khách quan nhiều khi nằm ngoài sự chi phối, điều khiển của con người, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản… của các chủ thể trong xã hội cũng ngày một gia tăng. Ngoài ý nghĩa đáp ứng các nhu cầu, lợi ích cho con người thì tài sản còn luôn tiềm ẩn những nguy cơ, rủi ro nhất định mà bất cứ lúc nào thiệt hại do chính tài sản mang lại cũng có thể xảy ra mà con người ví dụ như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Xuất phát từ lý do này, dưới góc độ khoa học pháp lý, khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ độ được đưa ra với nhận định đó là những sự vật tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hại lớn. Trên cơ sở đó, cùng với việc xem xét mối quan hệ giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật dân sự Việt Nam đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Từ khi BLDS năm 1995 ra đời cho đến nay, BLDS 2005 với những quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng dân sự nói chung và chế định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nói riêng tại Điều 623 cùng với các Nghị quyết như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, ... đã trở thành hành lang pháp lí vững chắc, bao quát tương đối đầy đủ, phù hợp với các vụ việc, tình huống phát sinh trong thực tế. Nhờ có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh nên khi xảy ra thiệt hại có thể giải quyết nhanh chóng và chính xác; đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các chủ thể bao gồm người bị thiệt hại và cả chủ sở hữu, người được chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ; đồng thời khắc phục kịp thời những tổn thất về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người bị thiệt hại. Việc ghi nhận chế định bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự, kỉ cương xã hội, tăng cường việc xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 2. Áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Một số vấn đề còn tồn tại và hướng khắc phục : Mặc dù BLDS 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành bộ luật này ( như Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ) đều dành ra những quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, tuy nhiên vẫn còn nhiều quy định bất cập, gây ra những tranh cãi, quan điểm khác nhau dẫn đến việc áp dụng các điều khoản liên quan đến bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng còn khá nhiều vấn đề cần khắc phục. Thứ nhất, BLDS 2005 chỉ liệt kê các đối tượng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ chứ không có văn bản hay nghị quyết nào định nghĩa về nguồn nguy hiểm cao độ vì vậy không bao quát hết được những sự vật khác mà hoạt động của chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con người không hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây hại. Khi xem xét sự vật có phải là nguồn nguy hiểm cao độ hay không, cần căn cứ vào tính chất của sự vật đó như: mức độ nguy hiểm; khả năng kiểm soát của con người đối với sự vật; quy định của pháp luật liên quan đến việc trông giữ, sử dụng. Ngoài những đối tượng được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ theo khoản 1 Điều 623 BLDS 2005 thì thực tế vẫn còn những sự vật khác mà hoạt động của chúng luôn chứ đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây hại đó ví dụ như xe đạp điện, xe máy dung tích dưới 50 cm3 khi đi với tốc độ cao vẫn có khả năng nguy hiểm hay như ong vò vẽ, rắn độc mặc dù không phải thú dữ nhưng vẫn mang tính hoang dã nên vẫn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm... vì vậy, pháp luật nên có điều khoản xác định tiêu chí chung của nguồn nguy hiểm cao độ. Thứ hai, đứng dưới góc độ nghiên cứu pháp luật, điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm gây ra được xác định là thiệt hại xảy ra trên thực tế do bản thân nội tại nguồn nguy hiểm gây ra khi đang trong tình trạng vận hành. Song, về thực tế pháp lý, BLDS 2005 chưa quy định các điều kiện này thành cụ thể thành một quy phạm pháp luật cũng như chưa có hướng dẫn các trường hợp áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung. Do đó, thực tiễn xét xử cho thấy, trong nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Từ những vấn đề còn tồn tại trong đời sống pháp luật nói trên, các Cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành các điều khoản hướng dẫn cụ thể trường hợp được áp dụng nguyên tắc bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra quy định tại Điều 623 BLDS 2005. Thứ ba, hiện nay trách nhiệm bồi thường nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên chưa được đặt ra. Ví dụ : thú dữ trong rừng tấn công gây thiệt hại cho người ... Mặc dù những tài sản như vậy là một loại tài nguyên thiên nhiên và thuộc sở hữu Nhà nước, thuộc sự quản lý của các bộ, ban, ngành có liên quan nhưng trên thực tế chưa có bất cứ văn bản nào quy định Cơ quan quản lý Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Như vậy, quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại không được đảm bảo. Vì thế cần phải bổ sung những văn bản pháp lí quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước hoặc các bộ ngành liên quan trong trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây ra. Thứ tư, ngoài những trường hợp xác định chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra theo các khoản 2, 3, 4 Điều 623 BLDS 2005, trên thực tế có trường hợp chủ sở hữu bắt buộc phải chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác theo quy định của pháp luật, ví dụ: người có thẩm quyền của Cơ quan Nhà nước trưng dụng tài sản của cá nhân, tổ chức khi cần thiết để bảo vệ lợi ích chung hoặc tạm thời thu giữ tài sản theo quyết định của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền… thì trong những trường hợp này, chủ sở hữu, người có quyền chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ bắt buộc phải chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản. Theo đó, pháp luật nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng phải được chuyển giao cho các Cơ quan Nhà nước đó. Thứ năm, cần phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo quan hệ lao động và chuyển giao theo quan hệ dân sự. Theo đó, trách nhiệm bồi thường sẽ được xác định như sau: Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác theo hợp đồng lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong quá trình người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người được giao quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vào mục đích khác so với nhiệm vụ được giao mà gây thiệt hại thì người lao động phải tự chịu trách nhiệm. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật : bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường. Cuối cùng, cần phải có một số biện pháp giáo dục, tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức pháp luật của người dân về nguồn nguy hiểm cao độ cũng như những thiệt hại mà nó có thể gây ra để có biện pháp phòng tránh. Vẫn biết những thiệt hại đó nằm ngoài sự kiểm soát của con người nhưng nếu mỗi người đều có trách nhiệm với tài sản của mình như bảo quản, sử dụng cẩn thận, thường xuyên kiểm tra… thì sẽ phần nào giảm bớt được nguy cơ thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Đồng thời, nên mở các lớp tập huấn cho các cán bộ tư pháp, hướng dẫn chi tiết cách thức xác định thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và áp dụng nguyên tắc xác định chủ thể nào phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong từng trường hợp để tránh xảy ra những sai sót không đáng có trong quá trình xét xử, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên chủ thế. C. KẾT LUẬN Xã hội và khoa học kỹ thuật đang ngày một phát triển. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến, các đối tượng được xác định là nguồn nguy hiểm cao độ cũng được mở rộng hơn với khả năng tiềm ẩn gây thiệt hại cho con người, môi trường xung quanh ở mức cao hơn. Chính vì vậy những đạo luật, văn bản, nghị quyết quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hai do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có ý nghĩa rất quan trọng, đó là căn cứ đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho chủ thể bị thiệt hại. Tuy nhiên trong thực tế, những quy định về trách nhiệm bồi thường vẫn chưa đầy đủ và còn nhiều tranh cãi, cách hiểu không thống nhất khi áp dụng pháp luật. Bởi vậy, tiếp tục xậy dưng, hoàn thiện pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là vấn đề quan trọng, cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.doc