Các sản phẩm làm từ cá và các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực

Mục Lục CHƯƠNG I: KHÁT QUÁT TÌNH HÌNH “CÁ” Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI 3 1.1 Tình hình cá trong nứơc. 3 1.1.1 Tình hình về nguồn cá tự nhiên: 3 1.1.2 Tình hình về nuôi trồng, đánh băt cá ở nứơc ta. 4 Những thành tựu và khó khăn trong ngành đánh bắt cá ở nứơc ta hiện nay. 5 2.1 Tình hình cá trên thế giới. 6 CHƯƠNG II: CÁC SẢN PHẨM LÀM TỪ CÁ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẢM BẢO AN NINH LƯƠNG THỰC CHO TƯƠNG LAI. 7 2.1 Thành phần dinh dưỡng của cá: 7 2.2. Các sản phẩm thực phẩm làm từ cá và các yêu điểm của chúng. 8 2.3. Một số loại cá độc cần luư ý trong quá trình chế biến thực phẩm. 12 2.4. Cá và các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực cho tương lai. 15 2.4.1.Vấn đề toàn cầu hoá thương mại thuỷ sản và sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản Việt Nam. 15 2.4.2. Một số gợi ý cho chính sách phát triển bền vững thủy sản Việt Nam 16 2.4.3. Các vấn đề đáng quan tâm ở các Đại Hội về đảm bảo an ninh lương thực cho tuong lai và các địa điểm Đại hội quan tâm. 17 2.5. Tầm quan trọng của nghề “cá” và mục tiêu phấn đấu phát triển dân giàu, nước mạnh 28 CHƯƠNG III: KẾT LUẬN 33 TÀI LIỆU THAM KHẢO 34 (34 trang)

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2750 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các sản phẩm làm từ cá và các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khoáng hơn cá nước ngọt, cá biển chứa lượng Iod khá cao, như cá thu chứa 1,7-6,2 ppm Iod. Chất chiết xuất ở cá thấp hơn thịt, do vậy tác dụng kích thích tiết dịch vị của cá ít hơn thịt. EPA và DHA rất dễ hòa tan trong dầu mỡ và bị phân hủy ở nhiệt độ cao, bởi vậy cá không nên rán mà nên hấp, luộc hoặc nấu để bảo toàn 2 chất quý này. Trong dinh dưỡng học người ta đã biết cá là một món ăn quý có nhiều protein, nhiều chất khoáng quan trọng và có gần đủ các loại vitamin, đặc biệt nhiều vitamin A và D. Ngày nay, các nhà khoa học đã cho thấy trong cá, nhất là cá biển có 2 chất dinh dưỡng rất quý đối với sức khỏe con người, đó là các acid béo omega 3 (EPA và DHA). Chất DHA (Docosahexaenoic Acid) có nhiều trong acid béo chưa bão hòa của cá. Nó giữ vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng của tế bào não và hệ thần kinh, có ảnh hưởng tới năng lực tìm tòi, phán đoán, tổng hợp của não. Nếu cơ thể thiếu DHA, bộ não sẽ trì trệ, trí nhớ giảm sút, kém thông minh. Chất EPA (Eicosapentaenoic Acid) cũng có nhiều trong acid béo chưa bão hòa của cá, có nhiều ở giống cá lưng xanh. EPA giúp phòng chống bệnh xơ vữa động mạch và nhồi máu cơ tim. 2.2. Các sản phẩm thực phẩm làm từ cá và các yêu điểm của chúng. Cá thật tốt cho bạn giống như mọi thứ xuất phát từ biển. Ngay cả dầu cá cũng chứa nhiều axit béo tốt, cũng như chứa nhiều protein tốt, phospho, sắt, vitamin B và nhiều dưỡng chất khác. Và thậm chí dầu cá cũng chỉ chứa hàm lượng calo dưới mức trung bình. Do đó, để tốt cho sức khỏe và vóc dáng của mình, bạn nên đưa cá vào thực đơn ít nhất là 2 lần mỗi tuần! Sau đây Tạp chí ẩm thực xin giới thiệu các món ăn từ cá để các bạn tham khảo. Món ăn từ cá nước ngọt: Cá nước ngọt không chỉ là thực phẩm truyền thống quen thuộc mà còn có tác dụng như những dược phẩm quý. Nghề nuôi cá nước ngọt ngày càng phát triển mạnh, hướng tới tiêu thụ nội địa và dần có giá trị dinh dưỡng cao trong các bữa ăn gia đình. Sau đây là một số món ăn rất ngon, rất dinh dưỡng và đặt sắc đựoc chế biến từ các loại cá: Cá chép sống ở nước ngọt, cung cấp thịt ngon, là món ăn của nhiều vùng dân cư. Cá chép không chỉ sống tự nhiên trong các ao hồ mà còn được nuôi làm thực phẩm phục vụ đời sống.    Cá chép nấu canh măng   Cá chép kho riềng Súp cá chép đầu to   Cá lóc hấp bầu. Món ăn từ cá nước mặn:  Cá nước mặn rất đa dạng và phong phú. Chúng tôi xin giới thiệu một số món ăn từ các loại cá nước mặn phổ biến nhất. Trong các loài cá biển, cá thu được nhiều người ưa thích vì là một thức ăn ngon và có giá trị dinh dưỡng cao. Nguồn chất đạm và chất béo phong phú của cá thu rất tốt đối với sức khỏe.Hãy thưởng thức hương vị mới của các món ăn từ cá thu với chúng tôi. Cá ngừ (tuna) thuộc nhóm cá biển có thịt nạc nhiều, ít chất béo, rất ngon và bổ dưỡng, với điều kiện thịt cá phải còn tươi. Tuy nhiên, chúng thuộc loại cá ăn thịt (ăn động vật sống) nên ruột và thịt cá chứa rất nhiều enzym (để tiêu hoá thức ăn động vật).   Cá hồi chứa rất nhiều dưỡng chất có lợi cho sức khỏe. Có lẽ quan trọng nhất là axit omega 3 cung cấp cho cơ thể giúp da mịn màng và tốt cho tim mạch. Vì thế lần sau khi nhâm nhi lát cá hồi phi lê, hãy nghĩ về nó như món ăn bổ dưỡng nhất cho bạn. 2.3. Một số loại cá độc cần luư ý trong quá trình chế biến thực phẩm. Trong quá trình bảo quản cần lưu ý tránh sử dụng những loại cá có ướp hóa chất dùng trong bảo quản tươi lâu hoặc các loại cá tự thân có độc tố gây ngộ độc chết người thường xảy ra trong các hộ gia đình nông thôn. - Cá ướp Ure và kháng sinh kết hợp với nước đá để bảo quản trong có vẻ tươi lâu hơn, ít biến đổi về màu sắc và mùi vị, dễ gây ảnh hưởng, nguy cơ hại đến sức khỏe của người tiêu dùng. - Cá nóc, mực bạch tuộc... có độc tố tetrodotoxin không bị hủy diệt với nhiệt độ cao nên dù nấu chín kỹ vẫn gây ngộ độc thực phẩm. + Cá nóc: không có vảy rõ như các loại cá khác. Thân cá nóc thô ráp, sần sùi, có nhiều đốm màu khác nhau. Mình cá ngắn với lưng lởm chởm đầy gai. Con dài nhất không quá 25cm và nặng không quá 1kg và thường dưới 0,5kg. Bụng cá phình tròn ra, than tròn, đuôi nhỏ dần. Độc tố trong cá nóc có thành phần chủ yếu là tetrodotoxins, thuộc nhóm độc tố thần kinh cực kỳ nguy hiểm, tỉ lệ gây tử vong khá cao. Độc tố này là hợp chất có tính bền nhiệt, không bị phân hủy trong quá trình nấu chín. Và đặc biệt là hoàn toàn chưa có thuốc giải đặc hiệu cho các trường hợp ngộ độc cá nóc. Biện pháp chữa trị chỉ là súc rửa dạ dày hoặc dùng than hoạt tính (active charcoal) để thải loại bớt chất độc, hô hấp nhân tạo, truyền dịch nhằm tăng cường sức chống chịu của cơ thể... Hiện ở VN chưa có thống kê hoàn chỉnh công bố về các loài cá nóc độc tại vùng biển nước ta, nên việc ăn cá nóc rất nguy hiểm cho sức khoẻ và tính mạng con người. Do đó trước mắt phải có những cảnh báo, khuyến cáo rộng rãi không những về mức độ nguy hiểm của ngộ độc từ cá nóc mà còn về nhận dạng các loài cá nóc độc nhằm giúp người dân tránh mua hoặc sử dụng nhầm cá nóc. Mặt khác, về lâu dài cần những đầu tư thích đáng cho các nghiên cứu khoa học cặn kẽ và đầy đủ về độc tố cá nóc cũng như các đặc tính sinh học, sinh hóa học của chúng, tạo cơ sở khoa học cho việc quản lý, sử dụng hợp lý nguồn lợi thủy sản và bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, sức khỏe cộng đồng. HYPERLINK "" \o "Phóng lớn"  + Mực bạch tuộc: Trong giống như mực nang nhưng thân ngắn, tròn hơn mực ống, khi chế biến thì gần như giống nhau cả về hương vị lẫn màu sắc. Nguy hiểm nhất là bạch tuộc đốm xanh, còn gọi là mực tuộc xanh hoặc mực tuộc đốm xanh, có những vòng xanh lốm đốm rất đẹp trên da. Đây là loài mực nhỏ, cân nặng trung bình khoảng 50 gr, thân dài không quá 50 mm, có 8 tay bám dài chừng 8-10 cm.Loài này sống ở các vùng triều san hô chết và các rạn san hô ven bờ vùng Bình Thuận, Khánh Hòa, Côn Đảo.Trong cơ thể chúng có một độc tố thần kinh rất mạnh là Tetrodotoxin.  Chất độc này không bị nhiệt phá hủy nên dù có sấy khô, nấu chín cũng không thể loại bỏ nó. Khi ăn phải, chỉ trong vòng 5 - 10 phút, độc chất Tetrodotoxin đã vào máu và sau 20 phút đạt nồng độ cao nhất trong máu. Sau vài giờ, các dấu hiệu ngộ độc xuất hiện như tê môi, lưỡi, miệng, tê ngón tay, bàn tay, bàn chân, đau đầu, vã mồ hôi, đau bụng, buồn nôn, nôn và tăng tiết nước bọt, liệt cơ, trong đó có cơ hô hấp dẫn đến ngừng thở. Bệnh nhân tụt huyết áp, có thể chết rất nhanh trong vòng 4 - 24 giờ. Nên cảnh giác với món bạch tuộc. Mặt khác, trong các loại bạch tuộc có những vi sinh vật gây bệnh cho người, thường gặp là Coliform (gây tiêu chảy), Staphylococus (gây ngộ độc với các dấu hiệu buồn nôn, nôn, tiêu chảy dữ dội...), Salmonella (gây sốt nhẹ, nhức đầu, nôn, tiêu chảy, hoặc gây ra sốt thương hàn). Ngoài ra, bạch tuộc chết còn có một tác nhân gây ngộ độc, dị ứng là histamin. Chất này chịu được nhiệt nên dù nấu chín, nó vẫn còn trong món ăn. Bạn sẽ bị ngộ độc nếu nồng độ chất này quá cao hoặc các enzyme phân hủy histamin của cơ thể bị ức chế. Triệu chứng xuất hiện sau ăn một vài giờ, gồm đỏ mặt, nôn, tiêu chảy, đau đầu, nóng ran miệng và ngứa toàn thân. Làm gì khi ngộ độc bạch tuộc? Khi có những dấu hiệu ngộ độc như tê môi, tê tay..., cần tiến hành ngay các biện pháp sơ cứu, gồm kích thích gây nôn, nếu có than hoạt tính thì cho uống ngay (người lớn uống 30 gr than hoạt hòa với 250 ml nước chín, trẻ 1 -12 tuổi uống 25 gr than hoạt với 100 - 200 ml nước chín, trẻ dưới một tuổi cho 1 gr than hoạt cho mỗi kg cân nặng pha với 50 ml nước chín.  Than hoạt có tác dụng hấp phụ chất độc và hơi độc ở đường tiêu hóa. Nếu cho uống sớm trong vòng một giờ sau khi ăn, hiệu quả sẽ cao hơn. Nếu nạn nhân rối loạn ý thức, thở yếu hoặc ngừng thở, phải nhanh chóng thổi ngạt miệng - miệng hoặc miệng - mũi. Nếu ngộ độc do vi sinh vật, tiêu chảy nhiều, cần  bù nước bằng dung dịch Oresol hoặc nước muối đường. Trong mọi trường hợp, phải tìm mọi cách nhanh chóng chuyển nạn nhân đến bệnh viện gần nhất để được áp dụng các biện pháp điều trị cấp cứu tích cực. 2.4. Cá và các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực cho tương lai. Dưới đây là các cuộc hội thảo, hội nghị về cá và các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực cho tương lai: 2.4.1.Vấn đề toàn cầu hoá thương mại thuỷ sản và sự phát triển bền vững của ngành thuỷ sản Việt Nam. Bài trả lời phỏng vấn của PGS-TS Nguyễn Thị Kim Anh,Trưởng khoa Kinh tế, Trường Đại học Nha Trang       Là người điều hành buổi thảo luận về chính sách Việt Nam tại IIFET-2008, bà cho biết những chủ đề chính được đặt ra trong hội thảo lần này đối với ngành Thủy sản Việt Nam là gì? Bà cho biết: Hệ sinh thái là thiết yếu đối với sự tồn tại của hàng triệu người dân sống ven biển ở Việt Nam là vấn đề cấp thiết.cần phải được bàn luận . Ý nghĩa bao hàm của các MPA không chỉ nói lên cơ hội để phát triển một mạng lưới các MPA, cả về khía cạnh môi trường sống lẫn sự đa dạng loài , mà còn thông qua nghề cá và giá trị ngành du lịch nói lên hiệu quả chức năng MPA. Trong nghiên cứu về sự hỗ trợ nghề cá và nuôi trồng, những lợi ích có ý nghĩa nhất là các MPA có thể cung cấp thông qua các mạng lưới MPA mở rộng, truyền tải thông tầng rằng cho phép các loài có giá trị cao được cung cấp môi trường sống rộng lớn ( vd: như loài di trú và những loài với thức ăn cung cấp chuyên biệt). Liệu có hay không các khu bảo tồn biển là một hướng tốt cho quản lý nghề cá ngày nay?Việc tạo ra thu nhập thay thế và giáo dục một cách hiệu quả để đạt được sự tuân thủ từ những cộng đồng địa phương là một trong số những biện pháp quan trọng đưa đến sự thành công của khu bảo tồn biển. Nhấn mạnh tầm quan trọng của sản phẩm thủy sản: nguồn cung cấp thực phẩm, nguồn thu ngoại tệ, tạo công ăn việc làm, an ninh lương thực. Toàn cầu hóa TMTS dẫn đến đánh bắt quá mức, phân phối không công bằng…Các nước đang phát triển, kể cả các nước có thu nhập thấp và thiếu hụt lương thực ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thương mại thủy sản thế giới. Ở những nước này thủy sản là nguồn cung cấp dinh dưỡng chính - quan tâm đến vấn đề xã hội, thu nhập, môi trường và an ninh lương thực của các nước đó - phát triển bền vững.  Muốn phát triển bền vững phải xác định mục tiêu của ngành thủy sản là gì và phải sắp xếp theo thứ tự ưu tiên. Một số mục tiêu phát triển thủy sản : -  Thực phẩm -  Công ăn việc làm -  Tạo nguồn thu ngoại tệ Vì tính thương mại cao của sản phẩm thủy sản nên nếu mục tiêu của ngành thủy sản là tạo nguồn thu ngoại tệ thông qua xuất khẩu thủy sản thì cần thiết phải xây dựng chiến lược phát triển dựa trên chuỗi giá trị sản phẩm thủy sản toàn cầu. Chuỗi giá trị SPTS toàn cầu là chuỗi dẫn đạo bởi bởi người mua, những nhà sản xuất quy mô nhỏ ở các nước đang phát triển đang ở tận cùng của chuỗi. Vì vậy, cần phải đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng ở các nước NK cũng như những yêu cầu các nhà bán buôn, bán lẻ. Người tiêu dùng ngày càng yêu cầu khắt khe hơn về an toàn và chất lượng sản phẩm, sự tiện lợi trong khi sử dụng, mùi vị và đặc biệt là truy xuất nguồn gốc xuất xứ, sản phẩm thân thiện với môi trường. Đó là những yêu cầu khá cao đối với các nhà SX quy mô nhỏ. 2.4.2.  Một số gợi ý cho chính sách phát triển bền vững thủy sản Việt Nam + Nếu sản xuất thủy sản theo định hướng thị trường cần có sự hợp tác giữa các nhà SX quy mô nhỏ (hộ gia đình) thành lập thành các hiệp hội mới có thể đáp ứng yêu cầu của thị trường vì sẽ tiết kiệm chi phí, đầy đủ thông tin, kiểm soát đầu vào… + Cần có sự hợp tác dọc giữa các chủ thể trong chuỗi cung ứng sản phẩm: nhà cung ứng, nhà sản xuất, nhà chế biến, nhà nhập khẩu cùng với các tổ chức liên quan như Viện Nghiên cứu, Trường Đại học, Ngân hàng, Bảo hiểm, trong đó xây dựng cơ chế hợp tác thông qua Hợp đồng. +  Vai trò của Nhà nước trong chuỗi hợp tác dọc và ngang rất quan trọng thông qua việc ban hành các văn bản pháp lý liên quan đến cả hệ thống cung ứng, sản xuất, chế biến, thương mại, chẳng hạn như GAP, BMP, Bộ quy tắc ứng xử nghề cá có trách nhiệm của FAO gọi tắt là CoC… 2.4.3. Các vấn đề đáng quan tâm ở các Đại Hội về đảm bảo an ninh lương thực cho tuong lai và các địa điểm Đại hội quan tâm. Đại hội thành lập Hiệp hội cá ngừ Việt Nam lần thứ nhất(20/12/2010) Ngày 27/11/2010, tại Nha Trang, Đại hội thành lập Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam lần thứ nhất (nhiệm kỳ 2010 - 2015) đã được tổ chức. Thứ trưởng Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Thị Xuân Thu và Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam Nguyễn Việt Thắng đã đến dự.   Thông qua Đại Hội đã nói ra đựoc tầm quan trong của nghề “cá” như thế nào: Nghề khai thác cá Ngừ đại dưong tập trung chủ yếu ở 3 tỉnh Phú Yên, Bình Định và Khánh Hòa với đội tàu hơn 1.000 chiếc, là đội tàu khai thác xa bờ lớn nhất Việt Nam. Sản lượng khai thác hàng năm đạt hơn 10.000 tấn. Cá Ngừ đã trở thành mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Năm 2009, kim ngạch xuất khẩu cá Ngừ đạt hơn 175 triệu USD và 10 tháng đầu năm 2010 đạt hơn 250 triệu USD. Sau 3 năm vận động, thông qua việc thành lập các chi hội cơ sở, đến năm 2010, Bộ Nội vụ và Bộ Nông nghiệp & PTNT đã có quyết định thành lập Hiệp hội Cá ngừ Việt Nam. Hiệp hội có nhiệm vụ tổ chức các hình thức liên kết, hợp tác, phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khai thác, nuôi trồng, bảo quản, vận chuyển, chế biến và tiêu thụ cá ngừ đại dương; tham gia tổ chức các mô hình hậu cần trên biển, đảo, quần đảo nhằm tăng sản lượng, giá trị sản phẩm của cá ngừ Việt Nam. Hiệp hội còn có trách nhiệm xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu, xúc tiến thương mại thông qua các hội nghị, hội thảo, hội chợ quốc tế trong và ngoài nước; tăng cường khả năng cạnh tranh, chống “rào cản” thương mại của các nước, bảo vệ uy tín và lợi ích cho cá ngừ Việt Nam. Ngoài ra, Hiệp hội cũng thực hiện chuyển giao, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất cho người khai thác, chế biến và tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trên thị trường thế giới; Kiến nghị Nhà nước về các cơ chế, chính sách liên quan đến quy hoạch, sản xuất, nghiên cứu khoa học, đào tạo, thương mại thị trường và các vấn đề khác trên biển có liên quan đến ngư dân; Đồng thời là kênh chuyển tải các chính sách hỗ trợ của Chính phủ cho nghề sản xuất CNĐD của ngư dân và các doanh nghiệp; Tổ chức hỗ trợ nhau trong phòng, chống bão, cứu hộ, cứu nạn trên biển và tham gia bảo vệ an ninh quốc phòng trên biển. Từ đó Đại hội đã bầu Ban chấp hành nhiệm kỳ 2010 – 2015 gồm: KHÁNH HOÀ: Khánh Hoà phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển chiếm 55 - 60% GDP toàn tỉnh, tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế biển chiếm 65 - 70%, doanh thu từ du lịch biển đạt 7.000 tỷ đồng… Đồng thời, tiếp tục triển khai xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh tại vịnh Vân Phong, TP. Nha Trang và TP. Cam Ranh. Trong đó, định hướng chiến lược phát triển kinh tế biển là ưu tiên cho kinh tế hàng hải, gồm: Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa tàu biển, kinh tế du lịch biển - đảo, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Những năm gần đây, nghề nuôi trồng, khai thác và chế biến thủy sản đang là thế mạnh của Khánh Hòa. Toàn tỉnh có hơn 10.100 tàu, thuyền lắp máy; trong đó có gần 500 tàu công suất 100CV trở lên, có khả năng đánh bắt dài ngày trên biển. Đặc biệt, với 44 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu thủy sản, Khánh Hòa đang là tỉnh đứng thứ 4 cả nước với kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt hơn 300 triệu USD. Hiện Khánh Hòa là trung tâm cung cấp tôm post giống cho cả nước, mỗi năm sản xuất 3,5 tỷ con tôm giống. Toàn tỉnh có gần 5.000ha đìa nuôi trồng thủy sản, năng suất bình quân đạt 1,5 tấn/ha. Những năm gần đây, ngư dân Khánh Hòa đã khai thác triệt để vùng mặt nước ven biển để phát triền nghề nuôi tôm hùm lồng, cá mú, vẹm xanh, ốc hương…; toàn tỉnh hiện có gần 30.000 ô lồng nuôi tôm hùm với sản lượng bình quân 1.500 tấn/năm. Không thể phủ nhận, phát triển kinh tế biển ở Khánh Hòa bước đầu đạt được những kết quả nhất định, góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế vùng và thực hiện an sinh xã hội. Tuy nhiên, xét về tổng thể tiềm lực và sự cạnh tranh quốc tế trong chiến lược phát triển kinh tế biển, đảo vẫn còn những hạn chế, bất cập. Đó là hệ thống cơ sở hạ tầng cảng biển đang quá tải; trang thiết bị và trình độ quản lý yếu kém; năng lực xếp dỡ hàng hóa thấp, giải phóng tàu chậm so với khu vực. Sản phẩm kinh tế biển về lĩnh vực cảng biển, dịch vụ hàng hải, dịch vụ du lịch có thương hiệu rất hạn chế. Trong khai thác hải sản, phần lớn tàu thuyền có công suất nhỏ; thiết bị khai thác thô sơ, trang thiết bị hàng hải trên tàu còn thiếu, chưa đồng bộ, trình độ cơ giới hóa còn thấp. Trong nuôi trồng thủy sản, tiềm năng chưa được khai thác sử dụng hợp lý; hạ tầng phục vụ nuôi trồng, hệ thống thủy lợi chưa đáp ứng… Để khai thác lợi thế kinh tế biển một cách có hiệu quả, Khánh Hòa cần đầu tư đồng bộ kết cấu hạ tầng đủ mạnh, đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế biển với tầm nhìn lâu dài. Bên cạnh việc hoàn chỉnh quy hoạch các khu kinh tế, khu công nghiệp lớn, dải ven biển cần tập trung phát triển nhanh, bền vững các ngành công nghiệp, dịch vụ du lịch, nuôi trồng và đánh bắt hải sản; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng dịch vụ và đa dạng hóa sản phẩm du lịch… Bên cạnh đó, tỉnh cần xây dựng những chủ trương, chính sách hỗ trợ phù hợp, cụ thể cho từng ngành, từng lĩnh vực, để đủ sức thu hút đầu tư, khai thác các lợi thế từ biển. Ngoài ra, tỉnh cần tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư chiều sâu, cải tiến đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống quản lý các ngành, lĩnh vực kinh tế biển, đảm bảo đủ sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. HÀ NỘI Tại Hà Nội, Tổng cục Thủy sản đã tổ chức Hội nghị tổng kết thực hiện kế hoạch, nhiệm vụ năm 2010 và triển khai kế hoạch năm 2011. Tới dự có đại điện các Cục, Vụ và đơn vị thuộc Bộ Nông nghiệp & PTNT, các đơn vị trực thuộc Tổng cục Thủy sản và đại diện Hội Nghề cá Việt Nam và VASEP. Thứ trưởng Vũ Văn Tám, Tổng cục trưởng và các Phó Tổng cục trưởng Thủy sản Chu Tiến Vĩnh và Phạm Anh Tuấn đã chủ trì Hội nghị  Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, giai đoạn 2006 - 2010, diện tích nuôi trồng thủy sản tăng đều đặn qua từng năm, sản lượng tăng gấp 6 lần so với chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch đến năm 2010. Tốc độ tăng trưởng bình quân về diện tích 3,7%/năm, tốc độ tăng bình quân về sản lượng trung bình 27%/năm. Diện tích thả nuôi năm 2010 ước đạt 1,1 triệu ha, sản lượng ước đạt khoảng 2,8 triệu tấn. Trong năm 2010, thời tiết có nhiều biến đổi phức tạp, có 6 cơn bão và 4 cơn áp thấp nhiệt đới đã gây ra hiện tượng mưa kéo dài, lũ quét làm cho các tỉnh Trung bộ, Nam trung bộ ngập trong thời gian dài gây thiệt hại về người, tàu thuyền khai thác và nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó phải tiếp tục xử lý giải quyết các rào cản thương mại gặp phải liên quan đến các vụ kiện chống phá giá tôm, tên gọi catfish đối với cá tra, dư lượng trifluralin trong nuôi tôm và mới đây nhất là việc cá tra bị WWF một số quốc gia châu Âu đưa vào danh mục màu đỏ… Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng về cơ bản Tổng cục Thủy sản đã hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Tổng sản lượng khai thác thủy sản ước đạt gần 2,4 triệu tấn với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao như cá ngừ đại dương ở vùng biển miền Trung, cá hồng, cá hố, cá chim và mực ở ngư trường ngoài khơi tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, sứa ở ngư trường Vịnh Bắc Bộ, sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt gần 2,8 triệu tấn. Giá trị sản xuất thuỷ sản tăng 6,2% so với cùng kỳ năm trước (giá cố định 1994), trong đó, giá trị khai thác thủy sản tăng 6,5% và nuôi trồng thuỷ sản tăng 6% (Theo ước tính sơ bộ của Tổng cục Thống kê). Công tác bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản đã được đẩy mạnh thông qua các hoạt động đánh giá tổng kết 5 năm triển khai chương trình bảo vệ nguồn lợi thủy sản giai đoạn 2006 - 2010; Thực hiện dự án truyền thông về bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Phát hành Atlat các loại thủy sinh quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng tại Việt Nam. Bên cạnh đó, đã giải quyết một số vụ việc nhập khẩu sinh vật ngoại lai xâm hại vào Việt Nam như vụ việc rùa tai đỏ ở Vĩnh Long. Công tác kiểm tra, giám sát tàu cá hoạt động trên biển cũng đạt được những kết quả khả quan. Trong kế hoạch năm 2011, mục tiêu nuôi trồng thủy sản phấn đấu đạt 1,1 triệu ha diện tích nuôi trồng, sản lượng đạt 3 triệu tấn, trong đó nước lợ đạt 1,1 triệu tấn, nước ngọt đạt 1,8 triệu tấn, các loài thủy sản khác đạt 127 ngàn tấn. Tiếp tục hoàn thiện Nghị định về cá tra, xây dựng các quy phạm thực hành nuôi (GAP). Về khai thác, tập trung tổ chức thực hiện các chính sách, chú trọng công tác quản lý tàu cá và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, phát triển cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá. Phát biểu kết luận tại Hội nghị, Thứ trưởng Vũ Văn Tám, Tổng cục trưởng Thủy sản đã khẳng định, năm 2010, bên cạnh những thuận lợi vẫn còn tồn tại những khó khăn, Tổng cục vẫn duy trì được truyền thống của ngành trong thời gian qua, đảm bảo nề nếp hoạt động, tạo được sự kết nối chặt chẽ giữa các Cục, Vụ, Viện thuộc Bộ và các Hội Nghề cá, VASEP, quản lý chỉ đạo sát sao sản xuất, đảm bảo thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đặt ra trong kế hoạch 5 năm 2006 – 2010,. song đã. Hợp tác quốc tế đã đạt được những kết quả nổi bật, có nhiều triển vọng thu hút vốn ODA. Tuy nhiên, để thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch đề ra cho năm 2011, Tổng cục cần tạo sự chuyển biến về công tác điều tra nguồn lợi và thống kê, dự báo, quản lý thông tin về tàu thuyền thủy sản và chú trọng công tác bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản. Đối với nuôi trồng thủy sản cần sớm có lộ trình thay thế đàn cá Tra bố mẹ và các đối tượng chủ lực như tôm nước lợ, nhuyễn thể, quản lý tốt chất lượng các yếu tố đầu vào như giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, môi trường nuôi... Cần có các giải pháp đột phá để tăng cường vốn đầu tư cho thủy sản từ các nguồn ODA, FDI và trái phiếu Chính phủ. Đồng thời, khẩn trương rà soát và đơn giản hoá các thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý phát triển thủy sản, kiện toàn tổ chức bộ máy và bồi dưỡng nâng cao kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ CCVC đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Tổng cục. TẠI CAMPUCHIA: Thành phần đoàn làm việc của Việt Nam gồm đại diện các đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT (Tổng cục Thủy sản, Vụ Hợp tác quốc tế), đại diện một số Bộ ngành và tỉnh Kiên Giang (Sở NN&PTNT, Sở Ngoại vụ và Chi cục Khai thác và Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản). Đoàn đại biểu Tổng cục Thủy sản Căm-pu-chia do ông Sam Nuov, Phó Tổng cục trưởng làm trưởng đoàn. Tại buổi làm việc, hai bên đã trao đổi tình hình phát triển của ngành thủy sản hai nước, kinh nghiệm về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thủy sản, những kết quả đạt được trong thời gian qua và việc triển khai trong thời gian tới. Phía Căm-pu-chia đề xuất hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học, hệ sinh thái (san hô, cỏ biển), bảo vệ các loài động vật thủy sinh hiếm (Dugong); Hợp tác trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến, xuất khẩu, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học. Phía Việt Nam thống nhất với các nội dung đề xuất của Căm-pu-chia và đề xuất nội dung hợp tác trong lĩnh vực khai thác hải sản, bao gồm quản lý khai thác và hợp tác khai thác hải sản trong vùng biển của mỗi nước. Bên cạnh đó, phía Căm-pu-chia cũng mong muốn Việt Nam hỗ trợ trong việc xây dựng một Viện Nghiên cứu Thủy sản của nước này tại tỉnh Sihanoukville. Đề nghị này đã được đưa vào nội dung hợp tác của Ủy ban Liên chính phủ Việt Nam- Căm-pu-chia. Hai bên thống nhất sẽ cử ra Nhóm công tác chung để triển khai các nội dung hợp tác. Trong khuôn khổ chuyến công tác, đoàn Việt Nam đã làm việc với chính quyền tỉnh Kampot. Tổng cục Thủy sản Việt Nam và lãnh đạo tỉnh Kampot đánh giá cao các nội dung hợp tác giữa hai Kampot và Kiên Giang trong thời gian qua. Đồng thời đề nghị cơ quan thủy sản hai tỉnh tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong thời gian tới, đặc biệt là trong lĩnh vực khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đoàn đã đi khảo sát một số địa điểm cảng cá, khu vực bảo tồn cỏ biển, mô hình quản lý dựa vào cộng đồng của Căm-pu-chia. Với nỗ lực của địa phương và sự hỗ trợ nước ngoài thông qua một số các dự án do Đan Mạch, UNDP tài trợ, công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản của phía bạn đã đạt được nhiều kết quả tốt . Căm-pu-chia là nước xuất khẩu tôm hùm, cua, tôm và các loài cá nước ngọt đã chế biến sang Úc, Trung Quốc, Hong Kong, Hàn Quốc, Sin-ga-po, Thái Lan, Mỹ, Việt Nam và các thị trường khác. Năm 2009, Campuchia đã đánh bắt được 465.000 tấn cá trong đó có 390.000 tấn cá nước ngọt. Sản lượng xuất khẩu khoảng 25.000 tấn, đạt giá trị 25 triệu USD, trong đó có 17.000 tấn cá nước ngọt và 8.000 tấn cá đã chế biến.TẠI TÂY VÀ TRUNG THÁI BÌNH DƯƠNG: Tại Honolulu (Ha-oai, Hoa Kỳ), đoàn công tác của Bộ NN&PTNT do Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản Chu Tiến Vĩnh làm trưởng đoàn đã tham dự Hội nghị Thường niên lần thứ 7 của Ủy ban Nghề cá Tây và Trung Thái Bình Dương (WCPFC7). Đây là Hội nghị thường niên của WCPFC tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động trong năm 2010 và xây dựng kế hoạch công tác năm 2011. Trong đó, nội dung quan trọng được thảo luận và quyết định tại Hội nghị này là đánh giá hiệu quả thực hiện và đề xuất sửa đổi bổ sung các biện pháp bảo tồn và quản lý nguồn lợi đàn cá di cư xa (CMM) của Ủy ban; xem xét và phê duyệt đơn đăng ký mới của thành viên mới, đăng ký lại của các nước chưa phải thành viên nhưng có hợp tác (CNM) năm 2010. Trong năm 2010, WCPFC cấp cơ chế CNM cho 7 quốc gia bao gồm Belize, E-qua-đo, El Salvado, Mexico, Senegal và Việt Nam. Năm 2011, WCPFC xem xét đơn đăng ký lại của 7 nước nói trên. Ngoài ra, năm nay có 3 quốc gia cũng đăng ký mới cơ chế CNM với WCPFC là CHĐCN Triều Tiên, Pa-na-ma và Thái Lan. điều này cho thấy, ngày càng có nhiều nước quan tâm và thấy được lợi ích của việc hợp tác với WCPFC. Năm 2010, với việc trở thành quốc gia chưa phải thành viên nhưng có hợp tác (CNM) với WCPFC, Việt Nam bước đầu đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận là có những nỗ lực chung tham gia cùng khu vực và quốc tế để bảo tồn và quản lý nguồn lợi cá di cư xa, đặc biệt là cá ngừ. Trên cơ sở đó, hàng thủy sản đánh bắt tự nhiên của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường lớn không gặp các rào cản kỹ thuật. Do đó Việt Nam mong muốn tiếp tục duy trì cơ chế CNM trong năm 2011. Trong năm 2010, thông qua dự án Quản lý nghề cá đại dương ở Tây Thái Bình Dương và Đông Á do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tài trợ thông qua WCPFC tại In-đô-nê-xia, Philippines và Việt Nam, Việt Nam đã chứng tỏ mong muốn và cam kết của mình trong việc phối hợp với các quốc gia trong khu vực và thế giới để cùng bảo tồn và quản lý nguồn lợi hải sản di cư xa (đặc biệt là cá ngừ). Một phần kết quả của dự án cũng đã giúp các nước thành viên của WCPFC hiểu rõ hơn về nghề cá Việt Nam và có những nhận xét, đánh giá đúng trong quá trình xem xét cấp cơ chế CNM cho Việt Nam. Theo quyết định của WCPFC, năm 2011, WCPFC cấp lại cơ chế CNM cho 9 quốc gia, gồm Belize, Ecuador, El Salvador, Indonesia, Mexico, Senegal và Việt Nam, cấp mới cho Thái Lan, Panama. CHĐCN Triều tiên cưa được chấp nhận vì không có đại biểu tham dự. Hội nghị WCPFC7 cũng thông qua kiến nghị của Tiểu ban Tài chính và Hành chính (FAC) về việc yêu cầu các nước CNM đóng góp tài chính bắt buộc. Tuy nhiên, mức đóng góp của các nước CNM được thống nhất sẽ bằng 50% so với cách tính mức đóng góp đối với các thành viên đầy đủ. Theo đó, mức đóng góp của Việt Nam sẽ vào khoảng gần 14.000 USD cho năm 2011. Tham dự Hội nghị WCPFC 7, Đoàn công tác đã có sự chuẩn bị kỹ về nội dung và phương thức tiếp cận với các nước để trao đổi, chia sẻ thêm với các nước thành viên WCPFC thông tin liên quan về ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và nghề khai thác cá ngừ đại dương Việt Nam nói riêng. TẠI MIANMA. Trong chuyến làm việc tại Mi-an-ma từ ngày 24/7 đến ngày 31/7/2010, Tổng cục Thủy sản do Phó Tổng cục trưởng Chu Tiến Vĩnh làm trưởng đoàn đã trao đổi các điều kiện, thủ tục đưa tàu cá của ngư dân Việt Nam sang khai thác tại vùng biển Mi-an-ma. Đoàn đã làm việc với Tổng cục Thủy sản Mi-an-ma do ông Khin-Ko-Lay, Tổng cục trưởng làm trưởng đoàn. Hai bên đã nhất trí triển khai một số nội dung chính trong đó có việc thiết lập các nhóm công tác chung với 7 thành viên của mỗi bên là lãnh đạo các Vụ, Cục và chuyên viên của Tổng cục Thủy sản Mi-an-ma và Tổng cục Thủy sản Việt Nam. Nhóm công tác sẽ dự thảo quy chế làm việc và thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất của Nhóm (dự kiến tổ chức tại Việt Nam vào quý I năm 2011). Hội nghị của nhóm công tác chung sẽ được tổ chức mỗi năm ít nhất một lần và luân phiên tại mỗi nước. Việc tổ chức đưa tàu cá của ngư dân Việt Nam sang khai thác tại vùng biển đặc quyền kinh tế của Mi-an-ma (EEZ) cũng như nội dung cụ thể về số lượng tàu cá, vùng hoạt động, nghề khai thác và các vấn đề liên quan sẽ do nhóm công tác chung tiến hành, thảo luận, trình cấp có thẩm quyền quyết định. Phía Mi-an-ma sẽ tổ chức các đoàn sang học tập kinh nghiệm của Việt Nam trong nuôi trồng thủy sản, khuyến ngư và nghiên cứu khoa học thủy sản.           Trong những ngày làm việc tại Mi-an-ma, đoàn đã làm việc với 9 thành viên hội nghề cá Mi-an-ma gồm Hiệp hội Tôm, Hội nuôi cá, Hội chế biến và xuất khẩu, Hội thức ăn thủy sản, Hội Hải sản, Hội Khai thác thủy sản nước ngọt, Hội doanh nghiệp Cua, Hội doanh nghiệp Lươn, Hội cá cảnh. Phía bạn rất quan tâm đến khả năng hợp tác với các doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực chế biến thủy sản. Đồng thời, qua những chuyến đi khảo sát tại các cảng cá, khu nuôi trồng thủy sản, các nhà máy chế biến thủy sản, đoàn đã nhận thấy tiềm năng về khai thác, nuôi trồng và chế biến của Mi-an-ma là rất lớn với diện tích nuôi trồng lớn, thuận lợi, nhân công rẻ. Hiện nay, sản phẩm thủy sản xuất khẩu chính của Myanma là cá trôi Ân độ, cá da trơn, cá biển các loại, tôm sú. Tổng sản lượng xuất khẩu thủy sản năm 2008-2009 là 324.710 tấn, đạt giá trị hơn 483 triệu USD, trong đó xuất khẩu cá đạt 273 triệu USD, tôm đạt 88 USD. Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Singapore, Trung Quốc, Thái Lan, các nước Nam Á, Trung Cận ĐôngTẠI QUÃNG NGÃI: Tại Quãng Ngãi có bài báo viết về niềm hạnh phúc “trúng đậm” của ngư dân. Mấy ngày nay, ngày nào bến cá Sa Kỳ (Quảng Ngãi) cũng chật ních tàu thuyền chở cá về bến. Những con nục suôn, dài, tươi óng làm mát lòng người đi biển. Cá về đầy khoang, khuôn mặt ngư dân rộn lên nụ cười: Trúng đậm! 30 ngày kiếm 800 triệu đồng! 10 giờ sáng 29/9/2010, tàu cá mang số hiệu 995411 TS QNg do anh Huỳnh Văn Phán làm thuyền trưởng từ biển khơi trở về cập bến cảng Sa Kỳ. Gió biển lồng lộng. Khuôn mặt hàng chục ngư dân trên tàu sau nhiều đêm mất ngủ giữa trùng khơi mà nụ cười vẫn tươi rói. Vừa cột xong dây neo, cả chục ngư dân bật nắp hầm cá, đưa vợt xuống vớt từng mẻ cá đưa lên bờ. Những con nục bằng cổ tay căng tròn, sáng óng, khiến ai cũng trầm trồ, ngạc nhiên. Thuyền trưởng Huỳnh Văn Phán cho chúng tôi biết: "Tàu anh cứ đi độ một con trăng cỡ 30 ngày là trở về, khai thác được ngót nghét gần 30 tấn cá nục. Giá bán hiện nay khoảng 45.000 đồng/kg, tính ra trừ hao tổn, chủ tàu kiếm được 800 triệu đồng". Anh Phán còn cho biết thêm, việc tiêu thụ cá nục đang rất thuận lợi. Cá chưa vào đến bờ đã có các công ty đặt mua, cân cá là trả tiền ngay. "Mấy tháng nay tàu mình trúng được mấy mẻ như thế này rồi. Năm nay ngó vậy mà ngư dân lại làm ăn được" - anh Phán cười tươi rói. Hôm chúng tôi đến cảng cá Sa Kỳ, nhiều tàu cá của ngư dân các xã Bình Châu, Tịnh Kỳ dù chỉ vừa vào bờ 3 hôm, nhưng lại gấp rút mua nhiên liệu, đá cây, thực phẩm... tiếp tục nhổ neo giong buồm ra khơi. "Phải tranh thủ không thì qua mất cơ hội. Ngư trường tốt, thời tiết thuận lợi, giá bán hợp lý thì còn gì bằng. Đời sống ngư dân có khá lên được là cũng nhờ các yếu tố này đấy" - anh Phán vừa nói dứt câu là điện thoại ngay cho chủ cơ sở sản xuất đá cây, cửa hàng xăng dầu, cửa hàng bán thực phẩm để lo chuyến đi mới cho tàu mình. Bù đắp từ biển khơi Ngắm thành quả từ những giọt mồ hôi của ngư dân, ông Nguyễn Thế Hùng, ở xã Tịnh Kỳ (Sơn Tịnh) tấm tắc: "Cá nhiều và đẹp quá. Ngắm hoài chẳng thấy mỏi mắt". Ông Hùng thời trẻ cũng là thuyền trưởng, vừa là tay lưới cừ khôi, được nhiều người mệnh danh "Hùng sát cá". Chuyến nào ông Hùng cầm lái ra khơi là chuyến ấy lưới trĩu nặng. Ông đã buông tay lưới chục năm rồi, nhưng lòng vẫn cồn cào nhớ đại dương xanh, ngày ngày giong xe ra bến cảng ngắm cá cho thỏa. Với kinh nghiệm đi biển, ông Hùng bảo: "Thường thì cứ sau mỗi đợt ngư dân bị mất mát, thiệt hại do bão, thì sau đó lại trúng mùa. Đó dường như là sự bù đắp từ biển cho ngư dân vậy. Bởi thế dù có giông bão, cuồng phong, thì ngư dân vẫn bám biển". Sau bão Côn - Sơn (cơn bão số 1 - năm 2010) hơn 2 tháng, xóm Gành Cả (thôn Châu Thuận Biển - xã Bình Châu - huyện Bình Sơn) vẫn còn những đau thương mất mát. Trong cơn cuồng phong trên quần đảo Hoàng Sa đêm ngày 16 rạng sáng 17/7/2010, xóm Gành Cả đã mất đi 6 chiếc tàu và 2 ngư dân. Những mái nhà chịu tổn thất này đến nay chưa "đứng dậy" được. Nhưng tại đây sau hơn 2 tháng, biển đã tặng cho ngư dân đến vài chục tỉ đồng từ những con nục suôn dài, xanh óng. Chúng tôi đến xóm Gành Cả không gặp được ngư dân, vì họ đi biển chưa về. Ông Bùi Hồng Vân - Chủ tịch Hội nghề cá xã Bình Châu, cho biết: "Khoảng 7 tàu cá trong tổng số 70 tàu của xóm Gành Cả đã trúng đậm. Mỗi chuyến đi biển kéo dài vài chục ngày kiếm cả tỷ bạc. Trúng mùa, được giá, ngư dân càng thêm vững tâm bám biển hơn". Khát vọng bám biển Một số tàu trúng cá đợt này đã quay sang giúp đỡ gia đình bị thiệt hại nặng trong cơn bão Côn - Sơn sửa lại tàu, mua sắm ngư cụ nhanh chóng đưa tàu hạ thủy. "Ở xóm Gành Cả này, tình người - tình biển là như thế đó. Có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia" - ông Nguyễn Thành Nam - người chuyên làm công việc trực canh tại tổng đài I-COM xã Bình Châu nói với chúng tôi. Không chỉ nghe ông Nam nói, chúng tôi cũng đã được chứng kiến việc người dân Gành Cả đóng góp giúp gia đình bị thiệt hại trong bão Côn - Sơn. Đó có thể là bữa cơm, chục kilôgam gạo, mấy chục ngàn đồng... Người nhận - người trao nước mắt rơi bởi sự "đồng cảm" cùng nhau. Tuy vậy sự giúp đỡ ấy vẫn chưa đủ "lực" để vực dậy cuộc sống nhọc nhằn của 105 nhân khẩu mất việc, mất thu nhập từ sau bão Côn - Sơn ở xóm Gành Cả. Phó Chủ tịch UBND xã Bình Châu, Nguyễn Thanh Hùng, cho chúng tôi biết: "Xã mới lập tờ trình đề nghị UBND tỉnh có biện pháp hỗ trợ cho 4 tàu cá, với 105 lao động có điều kiện đóng lại tàu thuyền tiếp tục thựchiện khát vọng vươn khơi bám biển...". Báo Quảng Ngãi, 06/10/2010 Chương trình, dự án nhiều Hơn mười năm trở lại đây, ngành thủy sản đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khối nông, lâm nghiệp và thủy sản (năm 2009 là 4,28%). Ðến nay, thủy sản Việt Nam có vị trí cao trong nghề cá thế giới, đứng thứ 12 về khai thác thủy sản, thứ ba về nuôi thủy sản và thứ sáu về giá trị xuất khẩu thủy sản. Năm 2009, mặc dù có nhiều khó khăn do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, thiên tai, lũ lụt và dịch bệnh, ngành thủy sản vẫn duy trì được nhịp độ sản xuất, sản lượng thủy sản đạt 4,85 triệu tấn, tăng 5,8% so với năm 2008. Giai đoạn 1991- 2000, tốc độ tăng sản lượng thủy sản trung bình là 7,31%, giai đoạn 2001- 2009, tốc độ tăng sản lượng thủy sản là 10,20%. Ðến năm 2009, sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã có mặt tại gần 160 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới, trong đó có những thị trường quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc và Nga. Ðể đạt được những thành quả đó, thời gian qua, ngành thủy sản đã triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chương trình mục tiêu, kế hoạch phát triển để duy trì nhịp độ tăng trưởng ổn định của ngành cả trong khai thác, nuôi trồng và xuất khẩu thủy sản. Các chương trình quan trọng như chủ trương phát triển khai thác xa bờ, ổn định khai thác vùng ven bờ triển khai trong các năm từ 1997 đến 2000, tập trung đóng tàu công suất hơn 90CV; Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999- 2010 (Quyết định 224/1999/QÐ-TTg, ngày 8-12-1999)... Ðặc biệt, ngày 16-9-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 1690/QÐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020 với dự kiến kinh phí thực hiện khoảng 57.400 tỷ đồng được huy động từ các nguồn: Ngân sách Nhà nước, các doanh nghiệp, người dân, vốn ODA, FDI và các nguồn khác theo khuôn khổ pháp luật Việt Nam. Mục tiêu là đến năm 2020, kinh tế thủy sản đóng góp 30-35% GDP trong khối nông- lâm- ngư nghiệp, tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành thủy sản từ 8 đến 10%/năm. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 8 - 9 tỷ USD. Tổng sản lượng thủy sản đạt 6,5-7 triệu tấn, trong đó nuôi trồng chiếm 65-70% tổng sản lượng. Tạo việc làm cho năm triệu lao động nghề cá có thu nhập bình quân đầu người cao gấp ba lần so với hiện nay, hơn 40% tổng số lao động nghề cá qua đào tạo. Mức đầu tư thấp Có thể nói, các chương trình, dự án là động lực lớn để đưa ngành thủy sản phát triển nhanh và mạnh. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, mức đầu tư để thực hiện các chương trình mục tiêu cho ngành thủy sản còn chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu đầu tư của Nhà nước. Nhiều chương trình chưa đạt được mục tiêu đề ra. Thí dụ, chương trình phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản đến năm 2010 có nhiều dự án nhưng không triển khai được do không có nguồn kinh phí. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2009, vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước cho ngành thủy sản chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu vốn đầu tư chung. Theo đó, tổng vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước là 287,534 tỷ đồng, gồm nguồn ngân sách Nhà nước chiếm 64,3% (184.941 tỷ đồng), nguồn vốn vay chiếm 14,1% và vốn của các doanh nghiệp Nhà nước và nguồn khác chiếm 21,6%. Trong đó, vốn đầu tư cho thủy sản là 1.480 tỷ đồng (đầu tư cho nông nghiệp và lâm nghiệp là 15.450 tỷ đồng), chiếm tỷ trọng 0,51% trong tổng vốn đầu tư năm 2009 (nông nghiệp và lâm nghiệp chiếm tỷ trọng 5,37%) và 8,74% tổng vốn đầu tư cho khối nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong kế hoạch năm 2010 trực tiếp cho ngành thủy sản dự kiến là 132,7 tỷ đồng, cũng chỉ chiếm 2,48% vốn thực hiện đầu tư của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.  Mức đầu tư thấp đó dẫn đến những bất cập và hạn chế cho phát triển thủy sản. Cơ sở hạ tầng nghề cá gồm hạ tầng thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản, hệ thống cảng cá, chợ cá, chợ thủy sản đầu mối, khu neo đậu tránh bão cho tàu thuyền... đều chưa được đầu tư đúng mức, làm ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng của ngành và thu nhập, đời sống của ngư dân. Cộng thêm những khó khăn từ nhiều phía khiến ngành thủy sản đang phải đối mặt với quá nhiều thách thức như: xuất khẩu ngày càng bị áp lực cạnh tranh, rào cản kỹ thuật các nước gia tăng, trong khi chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm chưa đồng bộ. Vấn đề nuôi trồng, đánh bắt xa bờ vẫn còn quy mô nhỏ, lạc hậu. Ứng dụng khoa học - kỹ thuật hạn chế, phát triển mô hình công nghiệp còn ít. Ảnh hưởng biến đổi khí hậu đẩy nước mặn xâm nhập sâu vào đất liền đe dọa nghề nuôi thủy sản. Rõ ràng đã đến lúc không chỉ tập trung khai thác nguồn lợi sẵn có, tận dụng những lợi thế của một đất nước có bờ biển dài và nguồn lợi thủy sản phong phú, mà đã đến lúc chúng ta phải nghiêm túc đầu tư vào sự phát triển của ngành theo chiến lược dài hạn. Ðiều đó không chỉ quan trọng đối với sự phát triển bền vững của ngành mà còn là bảo đảm cho mục tiêu nâng cao đời sống của cộng đồng ngư dân. 2.5. Tầm quan trọng của nghề “cá” và mục tiêu phấn đấu phát triển dân giàu, nước mạnh Nghề cá đã được đánh giá là một ngành quan trọng đóng góp đáng kể cho an ninh lương thực ở nhiều quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Nhằm mục đích giải quyết các vấn đề quan trọng liên quan đến phát triển nghề cá bền vững, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông Nam Á (SEAFDEC) đã đồng tổ chức Hội nghị về Nghề cá bền vững cho an ninh lương thực trong Thiên niên kỷ mới: “Cá cho con người”. Trong đó, “Nghị quyết” và “Kế hoạch hành động” về Nghề cá bền vững vì an ninh lương thực khu vực ASEAN được các Bộ trưởng phụ trách nghề cá thuộc các nước thành viên ASEAN-SEAFDEC thông qua và những công cụ này đã được sử dụng như một khung chính sách và quy tắc hướng dẫn phát triển nghề cá bền vững trong khu vực. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện trạng nguồn lợi thuỷ sản đang xấu đi và nhiều vấn đề và sáng kiến liên quan đến nghề cá được đặt ra trong thập kỷ qua cần được giải quyết, ASEAN và SEAFDEC sẽ tổ chức “Hội nghị ASEAN – SEAFDEC về Nghề cá bền vững cho an ninh lương thực đến năm 2020” từ ngày 13 – 17/6/2011 tại Băng Cốc, Thái Lan. Trên cơ sở quá trình thực hiện “Nghị quyết” và “Kế hoạch hành động” được thông qua năm 2001, Hội nghị “Cá cho mọi người đến 2020” sẽ tiếp tục ưu tiên giải quyết các vấn đề đang cản trở sự đóng góp bền vững của nghề cá đến an ninh lương thực trong khu vực. Hy vọng Hội nghị sẽ đưa ra được khung chính sách khu vực và nguyên tắc hướng dẫn nhằm hướng tới nghề cá bền vững vì an ninh lương thực trong những thập kỷ tới thích ứng với biến đổi môi trường. Mục tiêu Hội nghị nhằm mục tiêu xây dựng “Nghị quyết thập kỷ và Kế hoạch hành động về Nghề cá bền vững vì an ninh lương thực trong khu vực ASEAN (hướng tới năm 2020)” thông qua giải quyết các vấn đề quan tâm đến hiện trạng nghề cá và những vấn đề cản trở sự phát triển nghề cá bền vững và đóng góp của nghề cá đến an ninh lương thực cũng như sức khoẻ và hạnh phúc của con người trong khu vực Đông Nam Á. Thời gian và địa điểm Hội nghị sẽ được tổ chức từ ngày 13 đến 17 tháng 6 năm 2011 tại Khách sạn Sofitel Centara Grand Bangkok, Thái Lan. Các chủ đề chính của Hội nghị Chủ đề 1:  Nâng cao quản lý nghề cá  Làm thế nào để nghề cá quy mô nhỏ và nghề cá thương mại cùng tồn tại? Quản lý năng lực khai thác bao gồm tăng cường theo dõi, giám sát và kiểm soát, chống khai thác bất hợp pháp – IUU (bao gồm nâng cao hệ thống theo dõi, thống kê và ghi chép thông tin về tàu thuyền, cư ngụ..) Quản lý nghề cá dựa vào cộng đồng/đồng quản lý Áp dụng các văn kiện quốc tế và các thoả thuận khu vực Chủ đề 2: Phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững Hài hoà các thách thức về xã hội và kinh tế trong nuôi trồng thuỷ sản Chất lượng con giống cho nuôi trồng thuỷ sản bền vững Nuôi trồng thuỷ sản sạch và năng suất (bao gồm an toàn thực phẩm, các sản phẩm giàu dinh dưỡng...) Duy trì môi trường toàn vẹn thông qua nuôi trồng thuỷ sản có trách nhiệm (bao gồm sử dụng đa mục đích nguồn lợi đất và nước) Chủ đề 3:  Quản lý nghề cá dựa vào hệ sinh thái Các can thiệp vào hệ sinh thái (ví dụ, khu bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, khu vực cấm, kết hợp và hài hoà quản lý nghề cá và quản lý môi trường sống, đa dạng sinh học...) Phục hồi nguồn lợi và cải thiện môi trường sống (ví như tái tạo nguồn lợi, rạn nhân tạo, tái tạo rừng ngập mặn, rạn san hô, cỏ biển, vùng đất ngập nước, các thuỷ vực nước ngọt v.v..) Giảm tác động của hoạt động khai thác lên môi trường biển và ven bờ Chủ đề 4:  Bảo quản sau thu hoạch và an toàn sản phẩm thuỷ sản Nâng cao kỹ thuật thu giữ, chế biến và bảo quản Hệ thống kiểm soát chất lượng, vệ sinh cho sản phẩm thuỷ sản Nâng cao các sản phẩm truyền thống, chất lượng, thị trường và thương mại Chủ đề 5:  Các yêu cầu đặt ra đối với thương mại sản phẩm thuỷ sản Các hoạt động yêu cầu, bắt buộc (bao gồm truy xuất nguồn gốc, tăng cường theo dõi, cấp giấy chứng nhận, chứng nhận khai thác) Hỗ trợ thương mại/chuỗi cung cấp, bao gồm các kế hoạch tự nguyện, nhãn sinh thái, nhãn (xúc tiến các nhãn hàng hoá cụ thể), chứng chỉ thương mại công bằng Chủ đề 6:  Giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu theo hướng an ninh lương thực Tác động của biến đổi khí hậu đối với nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản (bao gồm các tác động sau này đến bảo tồn sinh vật biển và các sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản, các tác động sau này đến sinh kế) Thích ứng với biến đổi khí hậu (phục hồi và duy trì vùng bảo vệ ven bờ/nội địa và các cảnh quan/môi trường sống, đánh giá và cải thiện tiêu thụ năng lượng và xác định năng lực cần thiết để thích ứng với biến đổi khí hậu). Chủ đề 7:  Sinh kế trong cộng đồng nghề cá và triển vọng việc làm trong các hoạt động liên quan đến nghề cá – những lựa chọn cho việc cải thiện và theo dõi những biến đổi Những khía cạnh xã hội và kinh tế của việc tiếp cận hệ sinh thái trong nghề cá Theo dõi và ghi chép lại những khía cạnh xã hội, di chuyển của lao động (thuỷ thủ, lao động trong nhà máy, ngư dân..) Hài hoà những thách thức xã hội và kinh tế nâng cao năng lực thích ứng với sự thay đổi (xoá đói giảm nghèo, sinh kế thay thế và bổ sung, mỗi làng một sản phẩm...) Các quyền xã hội, an sinh xã hội và lao động (bao gồm quyền xã hội và an sinh xã hội trong các nghề cá quy mô nhỏ truyền thống và giữa các ngư dân di cư ở các tàu cá lớn) An toàn trên biển cho các tàu cá quy mô nhỏ Chủ đề 8:  Cung cấp thực phẩm bền vững từ nghề cá nội địa Nâng cao sức chống chịu của  hệ thống nghề cá nội địa Phát triển nghề cá nội địa bền vững Quản lý nguồn lợi thuỷ sản nội địa bền vững dựa vào cộng đồng Nghề cá tổng hợp với sử dụng đa mục đích nguồn nước nội địa Các sự kiện bên lề Hội nghị Các hoạt động được thực hiện song song với Hội nghị bao gồm: Triển lãm kỹ thuật/trưng bày do SEAFDEC và các nước thành viên ASEAN-SAEFDEC thực hiện Trưng bày các bức tranh đạt giải tại các cuộc thi do các nước thành viên tổ chức. Gặp mặt (phiên buổi tối được chuẩn bị bởi các cơ quam/tổ chức khác Thăm quan cuối Hội nghị ngày 16 tháng 6 (buổi chiều) và ngày 17 tháng 6 năm 2011 (cả ngày). Đăng ký và chi phí cho chương trình này (không bao gồm trong phí đăng ký tham dự Hội nghị) có thể được thực hiện trong quá trình tổ chức hội nghị. Kết quả dự kiến Các kết quả dự kiến đạt được thông qua quá trình chuẩn bị Hội nghị và trong khi tổ chức Hội nghị: Nghị quyết thập kỷ và Kế hoạch hành động về Nghề cá bền vững cho an ninh lương thực ở khu vực ASEAN 9 (hướng tới 2020), sẽ được sử dụng như nguyên tắc chính sách để đạt được nghề cá bền vững cho an ninh lương thực trong thập kỷ tới; Ý tưởng về Chương trình Hội nghị tiếp theo (kế hoạch 5 năm) phù hợp với Nghị quyết thập kỷ và Kế hoạch hành động; Nâng cao nhận thức của các nước thành viên ASEAN-SEAFDEC và các đại biểu về nghề cá bền vững và an ninh lương thực; Củng cố tình đoàn kết ASEAN và hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực nghề cá thông qua việc chấp thuận các văn kiện chính sách trên, phù hợp với Hiến chương của ASEAN với sự nhận thức rõ về cộng đồng ASEAN. Đại biểu tham dự Hội nghị bao gồm 3 phiên chính với thành phần đại biểu khác nhau : Phiên kỹ thuật(Bắt đầu từ 13/6 đến sáng 16/6/2011) : gồm các đại biểu là: Các nhà chính sách nghề cá và đại diện của các cơ quan quản lý nghề cá các nước thành viên ASEAN-SEAFDEC cũng như các khu vực khác; Các cơ quan quốc gia/quốc tế và khu vực liên quan đến nghề cá và an ninh lương thực; Các khối tư nhân và các bên liên quan nghề cá (ví dụ, các công ty, hiệp hội nghề cá và nuôi trồng thuỷ sản...) Cuộc họp quan chức cao cấp ASEAN –SEAFDEC(Phiên bế mạc, vào chiều 16 tháng 6 năm 2011): Phiên họp này dành cho các quan chức cao cấp phụ trách nghề cá của các nước thành viên ASEAN – SEAFDEC. Cuộc họp Bộ trưởng ASEAN-SEAFDEC(Phiên bế mạc, ngày 17 tháng 6 năm 2011): Phiên họp này dành cho các Bộ trưởng phụ trách nghề cá thuộc các nước thành viên ASEAN-SEAFDEC và các chuyên gia cố vấn. Theo Hiệp hội Chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), cá tra Việt Nam đã được gỡ bỏ trên tất cả các mạng đăng tải danh sách đỏ của Quỹ Quốc tế bảo vệ thiên nhiên thế giới (WWF) tại sáu nước châu Âu. Như vậy, sau hơn một tháng kể từ khi ông Mark Powell, người phụ trách thủy sản toàn cầu của WWF cam kết gỡ bỏ cá tra khỏi danh sách đỏ, đến ngày 27/1 vừa qua, cam kết này mới được thực hiện.Trước đó, bằng những dữ liệu thiếu thực tế, WWF đã đưa cá tra vào danh sách đỏ trong Cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng thủy sản lưu hành tại sáu nước châu Âu. Việc đó đồng nghĩa với việc khuyến cáo người tiêu dùng tại các nước này không nên sử dụng cá tra vì WWF cho rằng nghề nuôi cá tra Việt Nam có nguy cơ ảnh hưởng tới môi trường. Tuy nhiên, bằng những chứng cứ xác thực của nghề nuôi cá tra trong nước, Tổng Cục Thủy sản, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hội nghề cá Việt Nam đã chứng minh nhận định của WWF về nghề nuôi cá tra Việt Nam là thiếu trung thực, buộc WWF phải rút tên cá tra khỏi danh sách đỏ. WWF Thụy Điển là đơn vị cuối rút cá tra ra khỏi danh sách đỏ. Bà Lê Thị Thu Nguyệt, Tham tán Thương mại Việt Nam tại Thụy Điển cho biết WWF Thụy Điển đã đưa những thông tin mới và tích cực về cá tra Việt Nam. WWF tại Na Uy, Thụy Sỹ, Hà Lan, Bỉ cũng đã kịp thời rút tên cá tra ra khỏi danh sách đỏ trong Cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng thủy sản sau hơn một tháng kể từ buổi ký kết Biên bản Thỏa thuận hợp tác phát triển cá tra Việt Nam theo hướng bền vững vào ngày 17/12/2010, giữa tổ chức WWF quốc tế, WWF Việt Nam cùng VASEP và Hội Nghề cá Việt Nam. CHƯƠNG III: KẾT LUẬN Mục tiêu đến năm 2020, ngành thủy sản cơ bản được phát triển hiện đại theo hướng bền vững, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Từ đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của ngư dân, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và quốc phòng, an ninh vùng biển, đảo của Tổ quốc. Mức đầu tư cho ngành thủy sản là một trong những giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu này. Vì vậy chúng ta có thể thấy đựoc tầm quan trọng của “cá” như thế nào đối với đời sống của chúng ta nói chung và của ngư dân nói riêng và phát triển ngư nghiệp cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để đảm bảo những vấn đề an ninh lương thực thế giới nói chung và an ninh lương thực của Việt Nam nói riêng và làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chử văn minh. Trong quá trình tìm hiểu về đề tài này nhóm chúng em đã cố gắng nhưng chắc chắn sẽ có những thiếu sót mong Thầy và các bạn góp ý cho nhóm. Nhóm chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Những bài báo về “VẤN ĐỀ TOÀN CẦU HÓA THƯƠNG MẠI THỦY SẢN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT NAM” Lê Hoài Nam - Khoa Lý luận - Chính trị - 25/07/08-09:47:08 2. (Theo Vietnam+) 3. http:// vietbao.vn/khoa-hoc/hiem-hoa-tu-ca-noc/400013111/188/ 4. htpp//vi.wkipedia.org/wik/B%E1%BB%99_C%C3%A1_n%C3%B3C 5. http//www.tinmoi.vn/an-bach-tuoc-co-the-trung-doc-0526233.html 6.  HYPERLINK "" www.ff 2020.org 7. Chế biến xúc sản, thuỷ sản của trường ĐH Nha Trang.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác sản phẩm làm từ cá và các vấn đề đảm bảo an ninh lương thực.doc