Các vấn đề cơ bản về lãi suất ngân hàng và vai trò của nó đối với doanh nghiệp

Việc gỡ bỏ đồng bộ trần lãi suất ngân hàng cả đầu vào và đầu ra còn giúp loại bỏ những loại bỏ các doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, các dự án vay không mang tính thị trường hay có tính đầu cơ cao; đồng thời tăng nguồn vốn đầu tư cho những dự án kinh doanh sản xuất hiệu quả; Gia tăng lợi ích của người gửi tiền vào ngân hàng và kích thích tiết kiệm chi tiêu xã hội, giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, hạn chế đầu cơ không có lợi vào các hoạt động kinh doanh khác, như chứng khoán, bất động sản, góp phần giảm lạm phát, tăng luông vốn đổ vào trong nước trong nước từ các nguồn vốn rẻ trên thế giới Ngoài ra, việc bãi bỏ trần LSHĐ bất chấp những điều kiện chưa chín muồi cũng có thể phát sinh những hệ quả bất lợi khó lường định, như có thể gia tăng các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảo và quá trình dịch chuyển nguồn vốn bất thường, nếu kiểm soát không tốt lại có thể t ạo những làn sóng rút tiền và gửi tiền theo tâm lý đám đông, tạo vòng xoáy xáo trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và các kế hoạch kinh doanh của các ngân hàng, cũng như của vốn đầu tư xã hội. Để sớm thực hiện và góp phần kiềm toả những mặt trái, phát huy những tác động tích cực của việc bãi bỏ trần LSHĐ, cần thực hiện điều chỉnh thường xuyên hơn việc mềm hoá biên độ trần LSHĐ theo sát với lãi suất cho vay thoả thuận và cân đối cung-cầu, cũng như bảo đảm tính thanh khoản trong hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời, cần thúc đẩy chuẩn hoá và lành mạnh hoá các ngân hàng theo kế hoạch tái cơ cấu và yêu cầu chung, sát nhập các các ngân hàng không đủ vốn điều lệ theo pháp định và kiên quyết loại bỏ các cá thể yếu, cũng như thúc đẩy hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát, xử lý các rủi ro tài chínhngân hàng; tăng cường các hoạt động thanh tra, các hoạt động thông tin, chủ động phòng ngừa và xử lý các yếu tố tâm lý và tin đồn, đầu cơ, lũng đoạn và gây nhiễu, cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành ngân hàng; cũng như tăng cường giáo dục cho các bên kiến thức và trách nhiệm cá nhân và xã hội khi vay và cho vay.

pdf19 trang | Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các vấn đề cơ bản về lãi suất ngân hàng và vai trò của nó đối với doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 1 ĐỀ TÀI CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT NGÂN HÀNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP GIẢNG VIÊN: PGS – TS TRẦN HUY HOÀNG THỰC HIỆN NHÓM 4 – NHĐ5 – K 18 1. HUỲNH TRUNG HIẾU 2. NGUYỄN HỮU HOÀN 3. NGUYỄN THÁI BÌNH DƯƠNG 4. PHAN THỊ TUYẾT OANH Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 2 MỤC LỤC CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT ................... 5 I. KHÁI NIỆM :........................................................................................................... 5 II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH LÃI SUẤT : .................................................................. 5  Quan hệ cung cầu về vốn tín dụng trong từng thời kỳ nhất định : ........... 5  Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế:..................................................................... 5  Hiệu quả hoạt động sản xuất- kinh doanh- dịch vụ của doanh nghiệp: .. 6  Chính sách động viên và phân phối của nhà nước:..................................... 6 III. CÁC LOẠI LÃI SUẤT : ...................................................................................... 6  Đứng trên góc độ điều hành chính sách tiền tệ :.......................................... 6  Đứng trên góc độ giao dịch liên ngân hàng : ................................................ 6  Đứng trên góc độ huy động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại : .............................................................................................................. 6 IV. DIỄN BIẾN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT :........................ 7 CHƯƠNG II - VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP ................................................................... 10 I. ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ CUNG CẦU VỐN CỦA NỀN KINH TẾ NÓI CHUNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NÓI RIÊNG..................................................... 10 II. CẦU NỐI GIỮA SẢN PHẨM NGÂN HÀNG - KHÁCH HÀNG :.............. 11 III. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ SỐ LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP:................................................................................................................ 11 IV. TÁC ĐỘNG ĐẾN DOANH LỢI CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH NGHIỆP:12 CHƯƠNG III - NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TỒN TẠI TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT............................. 13 I. CÁC CÁCH QUẢN LÝ LÃI SUẤT: ................................................................... 13 a. Cố định lãi suất : ................................................................................................ 13 b. Thả nổi lãi suất :................................................................................................. 13 Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 3 II. THUẬN LỢI - KHÓ KHĂN VÀ CÁC MẶT TỒN TẠI TRONG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT ............................................................................................................................... 14 CHƯƠNG IV - KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG........................................................... 16 Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 4 PHẦN MỞ ĐẦU Khi nói đến hoạt động của ngân hàng và hoạt động của doanh nghiệp thì chúng ta không thể không đề cập đến một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan mật thiết giữa ngân hàng và doanh nghiệp đó chính là lãi suất ngân hàng. Bất kể một quốc gia nào trên thế giới dù nền kinh tế đang ở trình độ phát triển nào đi chăng nữa thì chính sách lãi suất của ngân hàng đối với hoạt động doanh nghiệp có một sự tác động quan trọng. Lãi suất không chỉ đơn giản là khoản giá cả phải trả cho việc sử dụng một khoản tiền mà còn thể hiện ở tầm cao hơn đó chính là công cụ vĩ mô điều hành chính sách t iền tệ một quốc gia, tác động trực tiếp đến sự hoạt động và phát triển của doanh nghiệp nói riêng, sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Thực tiễn đã chứng minh ở Việt Nam, từ thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lãi suất còn mang tính bao cấp, nên Ngân hàng nhà nước đã thực thi chính sách lãi suất có sự phân biệt và áp dụng chi tiết cho từng ngành kinh tế, thành phần kinh tế với mục đích t ác động sự phát triển của từng ngành, thành phần kinh tế. Đến giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới (1988-1992) do lạm phát phi mã nên Ngân hàng nhà nước đã thực thi chính sách "lãi suất âm" với mức lãi suất huy động danh nghĩa rất cao, nhằm thu hút mạnh tiền vào hệ thống ngân hàng, từ đó giảm bớt tổng phương tiện thanh toán để ổn định và giữ vững giá trị đồng tiền nội tệ đồng thời duy trì lãi suất cho vay ở mức độ hợp lý, các Doanh nghiệp có thể chịu đựng được nên đã đưa nền kinh tế thoát khỏi cơn suy thoái trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Giai đoạn từ tháng 6/1992 đến cuối năm 1994 sau khi nền kinh tế đã thoát khỏi lạm phát phi mã, Ngân hàng nhà nước đã điều hành chính sách "lãi suất dương" vừa đảm bảo lợi ích của ngân hàng, vừa đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp gởi tiền tại ngân hàng và kích thích doanh nghiệp tiết kiệm, sử dụng vốn có hiệu quả. Giai đoạn 1996 đến tháng 7/2000, Ngân hàng nhà nước điều hành lãi suất theo lãi suất trần và từ tháng 8/2000 đến nay điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản nhằm giải quyết tốt mối quan hệ cung cầu vốn tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, thể hiện vai trò tác động và sự ảnh hưởng hết sức quan trọng đến hoạt động các Doanh nghiệp. Giải quyết vấn đề này phải có nhiều ngành, nhiều cấp tham gia, trong đó có ngân hàng nhà nước. Đây cũng là một vấn đề hết sức bức xúc, bài toán khó cho Ngân hàng nhà nước Việt nam. Bởi vì trong tình hình kinh t ế – tài chính hiện nay lạm phát tăng nhanh sẽ gây áp lực rất lớn đối với lãi suất và tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên trong thực tế cách điều hành chính sách lãi suất và cách quản lý lãi suất của ngân hàng cũng có những thuận lợi, khó khăn cũng như những tồn tại nhất định tác động đến hoạt động Doanh nghiệp, chính vì vậy mà cần phải có những giải pháp tốt để điều hành chính sách lãi suất tốt nhằm đảm bảo và phát huy được công cụ điều hành tiền tệ vĩ mô của nền kinh tế, đồng thời tác động thúc đẩy hoạt động của Doanh nghiệp. Với những kiến thức lý luận được tiếp thu từ Thầy (Cô)- Giảng viên các trường Đại học, từ bài giãng môn Quản Trị Ngân Hàng của Thầy Trần Huy Hoàng kết hợp nhận thức thực tiễn từ quá trình công tác, tôi đã chọn đề tài " Vai trò của chính sách lãi suất đối với hoạt động Doanh nghiệp ". Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 5 CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT I. KHÁI NIỆM : Lãi suất là một phạm trù quan trọng nhất của hoạt động ngân hàng. Các dịch vụ kinh doanh ngân hàng cung cấp cho khách hàng rất đa dạng và hoạt động ngân hàng như một trung gian tài chính: thanh toán lãi suất cho phần tiền gởi của khách hàng và tính lãi suất đối với tài khoản tiền cho khách hàng vay. Từ đó có khái niệm về lãi suất (Interest rate): Lãi suất là tỷ lệ % giữa tiền lãi (hay chi phí phải trả) trên một số lượng t iền mặt nhất định để được sở hữu và sử dụng tiền ấy trong khoảng thời gian đã thỏa thuận trước. Mặt khác sự vận động tổng quát của tín dụng là T-T', trong đó T'= T+ T. Với một số lượng tiền mà ngân hàng đưa ra cho vay sau một thời gian sẽ quay trở về với người sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm đó là lợi tức. Như vậy lợi tức tín dụng là khoản chênh lệch giữa số vốn thu về và số vốn đã cho vay; được xem là giá cả của vốn vay, đây là khoản người đi vay phải trả cho người vay sau một thời gian sử dụng vốn vay. Lợi tức tín dụng được biểu hiện thông qua lãi suất tín dụng. II. CƠ SỞ HÌNH THÀNH LÃI SUẤT : Để thấy rõ được tác động của chính sách lãi suất đối với hoạt động doanh nghiệp, cần nghiên cứu những cơ sở hình thành lãi suất: Lãi suất là giá cả của vốn tiền tệ, là một chỉ số kinh tế tổng hợp, chịu tác động bởi nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô, tài chính- tiền tệ ở trong nước và ngoài nước. Các ngân hàng thương mại (NHTM) ấn định lãi suất kinh doanh (huy động và cho vay vốn) dựa trên cơ sở cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng trung ương (NHTW), xu hướng cung – cầu vốn thị trường, lạm phát, mức độ rủi ro và lãi suất thị trường quốc tế. Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính – tiền tệ thế giới có sự phát triển vượt bậc về quy mô và chiều sâu, cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các nước thay đổi theo hướng tự do hoá. Quan hệ cung cầu về vốn tín dụng trong từng thời kỳ nhất định : Nếu cung vốn tín dụng lớn hơn cầu vốn tín dụng, lãi suất tín dụng sẽ giảm; ngược lại nếu cung nhỏ hơn cầu về vốn tín dụng thì lãi suất tín dụng sẽ tăng. Cơ sở này rất quan trọng nếu nhu vầu về vốn tín dụng của các doanh nghiệp lớn vượt cả nguồn cung vốn tín dụng của ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ chịu lãi suất tín dụng cao, như vậy chi phí trả lãi vốn vay cấu thanh trong giá thành sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tăng cao. Tỷ lệ lạm phát trong nền kinh tế: Tỷ lệ lạm phát có ảnh hưởng và tác động nhất định đến lãi suất tín dụng. Đây là mối quan hệ đã được kiểm chứng trong thực tiễn các nước theo hướng lãi suất tín dụng sẽ tăng cao trong thời kỳ có tốc độ lạm phát t ăng cao và ngược lại sẽ giảm khi tốc độ lạm phát giảm. Ta có công thức: Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát. Trong cơ cấu lãi suất nếu không t ính đến yếu tố này thì cả ngân hàng và khách hàng đều gặp bất lợi. Bởi vì đối với lãi suất cho vay thì khoản lạm phát này là của người cho vay (ngân hàng ) mà người đi vay (khách hàng) cũng phải bằng lòng trả khoản đó; ngược lại đối Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 6 với lãi suất tiền gửi, khách hàng ký thác cũng được tính thêm tỷ lệ này và rõ ràng đây cũng là điều hợp lý. - Tỷ lệ lãi suất = tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực bằng không. - Tỷ lệ lãi suất < tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực là âm. - Tỷ lệ lãi suất > tỷ lệ lạm phát, thì lãi suất thực là dương. Hiệu quả hoạt động sản xuất- kinh doanh- dịch vụ của doanh nghiệp: Nếu xét về góc độ vốn tín dụng phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh dịch vụ của doanh nghiệp thì về mặt lý thuyết lãi suất tín dụng sẽ nằm trong khoảng giới hạn sau: 0 < lãi suất tín dụng  tỷ suất lợi nhuận bình quân. Nếu lãi suất tín dụng thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp thì sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn vay có hiệu quả, ngược lại nếu lãi suất tín dụng lớn hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp thì không khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng và như vậy lãi suất sẽ không là đòn bẩy kích thích sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp. Chính sách động viên và phân phối của nhà nước: Nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn nhất định hoặc để phát triển một ngành, một lĩnh vực kinh tế nên nhà nước có chính sách động viên và phân phối nguồn lực của nhà nước hoặc quy định lãi suất ưu đãi mà các ngân hàng phải cho vay các doanh nghiệp thực hiện chủ trương đó. III. CÁC LOẠI LÃI SUẤT : Tùy theo tính chất và đặc điểm giao dịch vốn mà có nhiều loại lãi suất khác nhau. Phân loại lãi suất như sau : Đứng trên góc độ điều hành chính sách tiền tệ : Lãi suất được ngân hàng nhà nước (ngân hàng trung ương) sử dụng như là một công cụ điều hành chính sách tiền tệ, do đó ngân hàng trung ương áp dụng đối với các ngân hàng thương mại với tư cách là người cho vay cuối cùng thông qua các nghiệp vụ tái chiết khấu các thương phiếu, chứng từ có giá; nghiệp vụ tái cấp vốn. Có các loại lãi suất sau: - Lãi suất cơ bản - Lãi suất tái cấp vốn - Lãi suất tái chiết khấu - Lãi suất này cũng là cơ sở để các ngân hàng thương mại áp dụng hình thành nên lãi suất giao dịch với các doanh nghiệp, khách hàng. Đứng trên góc độ giao dịch liên ngân hàng : Lãi suất liên ngân hàng là loại lãi suất cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại được hình thành trên thị trường liên ngân hàng. Đứng trên góc độ huy động huy động vốn và cho vay vốn của các ngân hàng thương mại : a/ Đối với huy động vốn: Có các loại lãi suất sau: - Lãi suất tiền gởi có kỳ hạn - Lãi suất tiền gởi không kỳ hạn - Lãi suất tiền gởi của các đơn vị tổ chức kinh tế Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 7 - Lãi suất tiền gởi tiết kiệm của các tầng lớp dân cư - Lãi suất của các loại chứng từ có giá như kỳ phiếu, t ín phiếu, trái phiếu… b/ Đối với sử dụng vốn cho vay: Lãi suất cho vay bằng tiền (đồng Việt Nam, ngoại tệ) + Lãi suất cho vay ngắn hạn + Lãi suất cho vay trung, dài hạn Lãi suất cho vay cầm cố Lãi suất chiết khấu các chứng từ có giá Ngoài ra trong thực tế ngày nay các ngân hàng đã đa dạng hóa các loại hình sản phẩm dịch vụ, thanh toán phục vụ cho các khách hàng cho nên ngoài kênh thanh toán bằng tiền đã có phát sinh thêm kênh thanh toán bằng vàng nên ngân hàng nhà nước Việt Nam đã có quyết định 432/2000/QĐ-NHNN1 ngày 3/10/2000 ban hành quy định về việc huy động và cho vay bằng vàng hiện vật, cho vay VND bảo đảm giá trị theo vàng nên từ đó cũng đã hình thành lãi suất huy động và cho vay bằng vàng. IV. DIỄN BIẾN CỦA QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT : Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng hàng đầu trong việc thực thi chính sách t iền tệ của ngân hàng nhà nước , chính vì vậy lãi suất đã có vai trò tác động quan trọng đến hoạt động doanh nghiệp. Tuy nhiên trong từng thời kỳ phát triển kinh tế khác nhau mà Ngân hàng nhà nước đã có những chính sách lãi suất khác nhau và có những tác động nhất định đến các doanh nghiệp. Từ khi thực hiện đổi mới nền kinh tế đất nước đến nay, diễn biến của chính sách lãi suất thể hiện qua một số giai đoạn sau : Đối với lãi suất huy động vốn, NHNN quy định thông qua các lần điều chỉnh sau: - Lần nhất: Ấn định mức cố định từ ngày 01/10/1982 theo Nghị định 165/HĐBT ngày 23/9/1982; Lần hai: Khống chế chênh lệch bình quân giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay là 0,35%/tháng còn mức cụ thể giao cho các NHTM tự quy định theo Quyết định số 381/QĐ- NH1 ngày 28/12/1995; Lần 3: Đến ngày 28/6/1997, lãi suất huy động vốn đã thực sự tuân theo quy luật thị trường khi NHNN hoàn toàn trao quyền cho các NHTM quyết định để phù hợp với thời hạn của từng loại tiền gửi, địa bàn kinh doanh của từng tổ chức tín dụng; Và mới đây, ngày 16/5/2008, bằng Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN lãi suất huy động sẽ chính thức bị khống chế trong hạn mức không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy định. Đối với lãi suất cho vay, tính đến thời điểm này đã trải qua các giai đoạn chính sau: Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 8 Giai đoạn 1: Lãi suất cho vay được ấn định mức cụ thể (Từ ngày 01/10/1982 – 01/7/1987): Đặt nền tản cho quy định này là Nghị định số 165/HĐBT ngày 23/9/1982. Theo đó, Nghị định xác định hai chủ thể cho vay là Ngân hàng và Hợp t ác xã (HTX) tín dụng. Đối với Ngân hàng quy định gồm: Cho vay vốn lưu động Cho vay vốn cố định; Đối với HTX Tín dụng chia mức cho vay thành mức ngắn hạn và mức còn lại. Giai đoạn 2: Áp dụng mức trần và sàn đối với lãi suất cho vay (Từ ngày 01/7/1987– 01/01/1996): Vào ngày 29/6/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành N ghị định 99-HĐBT quy định: Cho vay vốn lưu động trong giới hạn 2,4% đến 6%/tháng Cho vay vốn cố định từ 2,1% đến 5,4%/tháng. Giai đoạn 3: Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 01/01/1996 – 05/8/2000): Với quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995, NHNN chính thức bỏ mức sàn mà chỉ áp dụng trần lãi suất cho vay. Giai đoạn 4: Lãi suất cho vay được vận dụng bằng cơ chế lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao động trong từng thời kỳ (Từ ngày 05/8/2000 – 01/6/2002). Theo quyết định số 241/2000/QĐ-NHNN1 ngày 02/8/2000, lãi suất cho vay của các NHTM không phải tuân theo mức trần. NHNN chính thức công bố định kỳ lãi suất cơ bản và biên độ giao động. NHTM sẽ tự mình đưa ra các mức lãi suất cho phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh. Giai đoạn 5: Lãi suất thỏa thuận (Từ ngày 01/6/2002 – 19/5/2008): Theo quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30/5/2002 lãi suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do thỏa thuận giữa bên đi vay và NHTM; Cũng cần nói thêm rằng, trước đó vào ngày 29/5/2001 NHNN đã chính thức thả nổi lãi suất cho vay bằng USD cho các NHTM theo Quyết định số 718/2001/QĐ-NHNN. Giai đoạn 6: Áp dụng mức trần lãi suất cho vay (Từ ngày 19/5/2008 đến đầu năm 2010) Cũng như quy định tại quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28/12/1995 về mức trần cho vay nhưng tại Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5/2008 NHNN đưa ra cách xác định mức trần có khác đó là lãi suất cho vay không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN quy định. Giai đoạn từ tháng 02/2010 đến nay: áp dụng lãi suất cho vay thỏa thuận. Ngày 26/02/2010NHNN đã có Thông tư 07/2010/TT-NHNN quy định về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa thuận của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Tiếp đó, ngày 9-4, NHNN có Công văn số 2651/NHNN-CSTT yêu cầu các NHTM cung cấp mức lãi suất cho vay thỏa thuận bằng VND. Hầu hết các ngân hàng thương mại sẽ Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 9 áp lãi suất cho vay VND theo cơ chế thỏa thuận tối đa dưới 15%/năm, cá biệt có trường hợp là 18%/năm. Ngân hàng nhà nước trung ương sử dụng lãi suất tái chiết khấu để tác động gián tiếp tới lãi suất tiền gởi, lãi suất tiền vay của các ngân hàng trung gian. Trên cơ sở đó các ngân hàng trung gian tùy tình hình thị trường mà áp dụng lãi suất t iền gởi, tiền vay đối với các doanh nghiệp nhưng thường là cao hơn lãi suất chiết khấu. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, điều đó có nghĩa là ngân hàng trung ương muốn hạn chế sự tăng thêm tiền ra lưu thông. + Ở các nước đang phát triển: Ấn định mức lãi suất tiền gởi, tiền vay ở mức tối đa và giao cho ngân hàng trung ương quyền điều chỉnh mức lãi suất đó. Lý do không thể cho thị trường quyết định mức lãi suất là vì thị trường tiền tệ trong nước chưa đủ sức cạnh tranh. Tuy nhiên qua nghiên cứu thực tế của ngân hàng thế giới cho thấy lãi suất trần cứng ngắc đã làm cản trở sự tăng trưởng về tiết kiệm tài chính và giảm thiểu hiệu năng của đầu tư. Do đó nhiều nước đã thực hiện lãi suất chịu sự quản lý của nhà nước có thể có hại, không có tác động tích cực đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng. Do đó họ có khuynh hướng để cho thị trường có tiếng nói lớn hơn. Trong điều kiện sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa được thiết lập, nhà nước có thể quản lý lãi suất. + Ở Việt Nam chính sách lãi suất hiện đang được cải tiến. Đây chính là yếu tố quan trọng để góp phần cải cách lĩnh vực tài chính. Về nguyên tắc cơ chế thị trường có sự cạnh tranh thì tốt nhất là lãi suất nên để cho thị trường quyết định thông qua lãi suất cơ bản. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, khi t ình hình kinh tế vĩ mô chưa được ổn định và các NHTM quốc doanh làm chủ thị trường, thì chính phủ không tránh khỏi việc áp dụng chính sách lãi suất tích cực. Chính sách lãi suất hiện nay có tác động: + Khuyến khích tích lũy và là trung gian tài chính + Hướng các nguồn tài chính vào các hoạt động có tỷ suất lợi nhuận cao nhất. + Lãi suất t ín dụng đươc sử dụng như một công cụ để vận hành cơ chế tạo tiền. * Nếu muốn hạn chế việc tạo tiền của các ngân hàng thương mại, Ngân hàng nhà nước sẽ tăng lãi suất tái cấp vốn, từ đó kéo theo lãi suất trên thị trường giữa các ngân hàng tăng lên, vốn khả dụng giảm, N gân hàng nhà nước sẽ thận trọng trong việc cấp tín dụng, do đó tín dụng được cấp cho doanh nghiệp rất ít. Mặt khác về phía các doanh nghiệp khi lãi suất tín dụng tăng sẽ giảm nhu cầu tín dụng, khối lượng tín dụng cấp ra giảm đi có nghĩa là nguồn vốn đối ứng tạo tiền cũng sẽ giảm đi. * Lãi suất trên thị trường tiền tệ luôn tăng nên lãi suất trên thị trường tài chính tăng lên, thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư sẽ dùng ngoại tệ mua nội tệ, do đó thu hẹp lượng nội tệ trong lưu thông. Ngược lại, nếu N gân hàng nhà nước muốn mở rộng việc tạo tiền (cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế) thì thực hiện ngược lại tức là giảm lãi suất tín dụng đối với các NHTM. Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 10 CHƯƠNG II - VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP Lãi suất ngân hàng trung ương luôn gắn với trình độ của một nền kinh tế và phản ảnh thực trạng của nền kinh tế đó. Vì vậy nó có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động doanh nghiệp. Nếu có một chính sách lãi suất tốt phù hợp thì tạo điều kiện phát triển doanh nghiệp hoạt động tốt, ngược lại thì hoạt động doanh nghiệp sẽ đi vào chiều hướng xấu. I. ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ CUNG CẦU VỐN CỦA NỀN KINH TẾ NÓI CHUNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NÓI RIÊNG a. Thực chất vai trò lãi suất ở đây là tập trung và phân phối lại vốn tiền t ệ nhằm cân bằng quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế và để bảo vệ giá trị thực của tài sản tiền tệ và khả năng hoạt động của đồng nội tệ. Do đó chính sách lãi suất sẽ tập trung thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp chưa sử dụng vào ngân hàng đồng thời qua đó sẽ cung ứng vốn cho các doanh nghiệp thiếu vốn để phục vụ cho quá trình sản xuất- kinh doanh-dịch vụ .. . b. Điều chỉnh quan hệ cung cầu vốn, đòi hỏi phải có chính sách lãi suất huy động, lãi suất cho vay được hiểu là "giá mua" và "giá bán" của vốn. Khi "giá mua" tăng lên tất y ếu giá bán phải tăng lên để đảm bảo có lợi nhuận. Nhưng thực ra, viêc ấn định giá mua và giá bán như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Có thể giá bán thấp để tranh thủ các khách hàng lớn, có t ín nhiệm để t iếp thị thu hút khách hàng. Có thể bán giá cao để làm nản lòng những khách hàng thiếu tín nhiệm, hoặc để mạo hiểm đầu tư vào những thương vụ có lợi nhuận siêu ngạch, mặc dù phải chấp nhận rủi ro cao. c. Thông thường trong thực tế những doanh nghiệp thừa vốn tức là có nguồn cung về vốn tiền tệ; những doanh nghiệp thiếu vốn - cần có vốn, tức là có cầu về vốn tiền tệ nhưng họ khó có thể gặp nhau để giải quyết được các quan hệ cung cầu này hoặc họ thiếu thông tin, nhưng không gặp được nhau, nhưng nếu có thông tin đi chăng nữa nhưng giữa cung và cầu về vốn không thể đáp ứng cho nhau được nên họ phải cần đến ngân hàng và như vậy chính sách lãi suất của ngân hàng là cơ sở để giải quyết mối quan hệ cung cầu vốn này là rất quan trọng. Những doanh nghiệp tạm thời thừa vốn, chưa sử dụng đền có thể gởi vào ngân hàng và tùy tính chất nguồn vốn doanh nghiệp có thể gởi có kỳ hạn hoặc không kỳ hạn hoặc đầu tư vào các tín phiếu ( chứng từ có giá) do ngân hàng phát hành để được hưởng lợi tức thay vì doanh nghiệp phải đầu tư vào các lĩnh vực khác có nhiều rủi ro. Ngược lại các doanh nghiệp thiếu vốn, đang có nhu cầu về vốn họ sẵn sàng đến ngân hàng nơi có nhiều sản phẩm dịch vụ thanh toán đáp ứng được cho nhu cầu của họ. Tùy vào số lượng nhu cầu vốn, thời gian sử dụng vốn mà họ có thể vay nhiều, ít, vay ngắn hạn, trung dài hạn; vay VND hoặc vay ngoại tệ. Doanh nghiệp có thể cân nhắc lựa chọn đồng tiền vay, số lượng vốn vay, thời gian vay để sử dụng sao cho hiệu quả nhất. Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 11 II. CẦU NỐI GIỮA SẢN PHẨM NGÂN HÀNG - KHÁCH HÀNG : a. Lãi suất ngân hàng là yếu tố quan trọng để có thể quyết định được việc nối kết giữa sản phẩm ngân hàng với khách hàng. Thực vậy, các doanh nghiệp hoạt động không chỉ bằng nguồn vốn tự có của mình mà thông thường còn phải nhờ vào nguồn vốn đi vay. Nếu lãi suất tín dụng của ngân hàng quá cao, sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp đi vay để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, do họ thấy rằng chi phí trả lãi đã giảm đi nhiều lợi nhuận của họ, thậm chí lợi nhuận làm ra không đủ trả lãi vay. Điều này không chỉ gây bất lợi cho từng doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng đến việc tạo công ăn việc làm cho lực lượng xã hội, cũng như đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. b. Sản phẩm của ngân hàng rất phong phú đa dạng mhằm tạo tiện ích và đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng, dịch vụ thanh toán cho các doanh nghiệp các khách hàng. - Về huy động vốn: ngân hàng có các hình thức huy động vốn có thời hạn, không thời hạn, phát hành kỳ phiếu (VND, ngoại tệ, vàng) với các mức lãi suất khác nhau. - Về cho vay: + Cho vay bổ sung vốn lưu động phục vụ cho quá trình sản xuất -kinh doanh - dịch vụ như chi phí, thanh toán mua bán hàng hóa trong nước, nguyên vật liệu sản xuất. + Cho vay vốn cố định; phục vụ cho việc mua sắm tài sản cố định, đầu tư, đổi mới trang thiết bị, dây chuyền công nghệ. . . + Cho vay thanh toán hàng nhập từ nước ngoài thông qua các phương thức thanh toán quốc tế như : L/C trả chậm, L/C atsight, thanh toán trực tiếp, thanh toán nhờ thu (D/A, D/P. . .)….. c. Để các sản phẩm trên đến được với khách hàng và khách hàng chấp nhận được thì vấn đề lãi suất là yếu tố rất quan trọng và đòi hỏi ngân hàng phải có chính sách lãi suất phù hợp. Nếu lãi suất của ngân hàng vượt quá lãi suất thực của doanh nghiệp mang lại do hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ, trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế đất nước thì doanh nghiệp sẽ không đến với ngân hàng; ngược lại lãi suất của ngân hàng thấp hơn lãi suất thực của doanh nghiệp thì họ sẽ tìm đến ngân hàng. Lãi suất ngân hàng cũng không nên có khoảng cách quá xa giữa "giá mua vào" và "giá bán ra", đảm bảo tạo được hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng, đồng thời giá mua vào của ngân hàng phải phù hợp với thực tế, không quá thấp, bằng hoặc cao hơn chỉ số lạm phát thì mới khuyến khích các doanh nghiệp gởi tiền vào ngân hàng. Cần phải chú ý đến những yếu t ố tạo nên khoảng cách nhằm tạo điều kiện cho nền kinh tế chịu đựng nổi, nếu không sẽ đẩy đến tình trạng ngân hàng sẽ không có khách hàng do doanh nghiệp không gởi, không vay. Doanh nghiệp có gởi nhiều hoặc doanh nghiệp có vay nhiều thì xem như sản phẩm của ngân hàng được khách hàng chấp nhận và lúc này yếu tố lãi suất thực sự là cầu nối giữa sản phẩm ngân hàng và khách hàng. III. NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ SỐ LỢI NHUẬN BÌNH QUÂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP: a. Lãi suất ngân hàng cao hay thấp thường được so sánh với lợi tức bình quân của doanh nghiệp trong từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Những giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế thường kéo theo những lợi tức doanh nghiệp khác nhau. Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 12 Thực tiễn kinh nghiệm của nhiều nước, trong quá trình phát triển đã cho thấy rằng lợi tức doanh nghiệp luôn tỷ lệ nghịch với trình độ và mức độ phát triển của nền kinh tế ở mọi quốc gia. M ột quốc gia đang ở giai đoạn kém phát triển, dần từng bước tiến vào giai đoạn phát triển thì lợi tức doanh nghiệp thường ở mức cao và nền kinh tế còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác hết. Nhưng khi quốc gia đó bước vào giai đoạn phát triển, tài nguyên đươc khai thác một cách đầy cạnh tranh, thì lợi tức doanh nghiệp sẽ giảm dần. Như vậy lợi tức doanh nghiệp là một đại lượng bất định, giảm dần theo mức độ phát triển của nền kinh tế. Vì vậy chính sách lãi suất là điều hết sức quan trọng và điều cần duy trì để tạo sự tăng trưởng ổn định. Nhưng mức lãi suất này cũng phải thay đổi theo từng thời kỳ tương ứng với sự thay đổi của lợi tức doanh nghiệp. b. Lợi nhuận ròng của doanh nghiệp liên quan mật thiết đến lãi vay ngân hàng. Động cơ kích thích doanh nghiệp mở rộng sản xuất mạnh hay không hoàn toàn tùy thuộc vào lợi nhuận mà họ có thể hưởng. Đó là lý do tại sao một mức lãi suất thấp luôn là phương sách tốt cho sức bật của nền kinh tế. Thực tế cho thấy số lãi phải trả vay ngân hàng là một yếu tố chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy nếu lãi suất cho vay cao, dẫn đến chi phí trả lãi cao, giá thành sản phẩm hàng hóa dịch vụ của doanh nghiệp cao, giá bán sẽ tăng theo, nên khó bán được sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; nếu để cạnh tranh được trong cơ chế thị trường, buộc doanh nghiệp phải hạ giá bán xuống, từ đó làm cho lợi nhuận ròng của doanh nghiệp thấp, không khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Ngược lại nếu lãi suất cho vay thấp, theo quy trình trên thì lợi nhuận ròng của doanh nghiệp tăng cao, khuyến khích họ đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. IV. TÁC ĐỘNG ĐẾN DOANH LỢI CHỨNG KHOÁN CỦA DOANH NGHIỆP: Chính sách lãi suất là một yếu tố tác động đến đầu tư chứng khoán của doanh nghiệp. Thực tế giữa lãi suất và doanh lợi chứng khoán có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp ngoài vốn tự có, vốn trong thanh toán, vốn vay ngân hàng, doanh nghiệp còn có phát hành chứng khoán ra thị trường; về sử dụng vốn ngoài vốn đầu tư hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ còn có đầu tư vào chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Do đo, lãi suất trong chừng mực nào đó cũng sẽ tác động đến doanh lợi chứng khoán của doanh nghiệp khi thị trường chứng khoán hoạt động, việc duy trì một mức lãi suất hợp lý, không được diễn biến tăng giảm quá đáng là điều kiện cần thiết, bằng không những biến động trong chính sách lãi suất của Ngân hàng nhà nước tất yếu sẽ dẫn đến những biến động trong thị trường tài chính. Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường tài chính. Nếu lãi suất của ngân hàng trả cho nguồn huy động tiền gởi tiết kiệm cao, doanh nghiệp sẽ thích gởi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao và rủi ro thấp hơn là đầu tư mua chứng khoán với lãi suất thấp, nhưng rủi ro lại cao. Lãi suất là giá cả trên thị trường vốn và có diễn biến tăng giảm theo hướng cung vốn tăng thì lãi suất giảm, nếu cầu vốn tăng thì lãi suất tăng. Nhưng thị trường vốn có hình thức song hành: hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán. Hai thị trường này bổ sung cho nhau, nhưng lại có hai yếu tố khác nhau quyết định: đó là lãi suất tín dụng (tiền gởi và cho vay) trên thị trường ngân hàng và doanh lợi trên thị trường chứng khoán, khi lãi suất tăng Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 13 nhanh hơn doanh lợi, người ta sẽ bán chứng khoán để gởi tiền ký thác vào ngân hàng. Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý là mức doanh lợi ở đây tùy thuộc theo sự đánh giá chủ quan và sự tiên đoán của từng người, sẽ phản ảnh qua giá cổ phiếu, có thể không đúng với thực tế. Nên khi nào lãi suất thay đổi ở mức độ đáng kể ( như khi ngân hàng tăng lãi suất để giảm lạm phát, hay giảm lãi suất để kích cầu đầu tư) thì mới tác động đến thị trường chứng khoán. CHƯƠNG III - NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TỒN TẠI TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT I. CÁC CÁCH QUẢN LÝ LÃI SUẤT: Trong quá trình điều hành chính sách lãi suất theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, Ngân hàng nhà nước đã thực hiện hai cách quản lý lãi suất : a. Cố định lãi suất : Theo cách này, Ngân hàng nhà nước đưa ra các thang lãi suất đã lập sẵn để thông báo cho khách hàng khi có nhu cầu vay vốn từ ngân hàng và khách hàng chỉ chấp nhận khi muốn vay tiền. Cách này có những ưu, nhược điểm sau : - Ưu điểm: + Giúp ngân hàng tính toán khá chính xác được lợi nhuận từ mỗi khoản vay. + Chủ động tính được lãi suất cần đưa ra để huy động tiền gởi và các loại tài sản nợ khác. - Nhược điểm: + Cố định lãi suất làm cho ngân hàng tự hạn chế về khả năng cho vay đầu tư. N gân hàng không thể cho vay dưới mức ấn định, do đó có tình trạng nhiều khi ngân hàng thừa vốn mà không thể hoặc không dám đầu tư do lãi suất không đạt được yêu cầu của doanh nghiệp. + Do lãi suất cố định nên không có sự thương lượng giữa ngân hàng và doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp chấp nhận được thì vay, nếu không thì doanh nghiệp không thể vay và ngân hàng cũng không thể cho vay được. + Cố định lãi suất sẽ làm cho ngân hàng khó đầu tư vào chứng khoán, vì hầu hết chứng khoán ngày nay đều để lãi suất do cung cầu quyết định. + Việc quản lý lãi suất cố định trên thế giới chỉ thịnh hành từ thập niên 60 trở về trước, còn ở Việt Nam vẫn còn áp dụng cho đến đầu năm 1996. Từ đầu năm 1996 đến 1998 Ngân hàng nhà nước đã thay đổi cách điều hành lãi suất từ qui định lãi suất chi tiết tiền gởi, tiền vay đến việc qui định trần, sàn, chênh lệch lãi suất. Từ cuối năm 1998 đến cuối tháng 7/2000 chỉ còn qui định trần lãi suất. b. Thả nổi lãi suất : - Các nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển mạnh thực hiện thả nổi lãi suất theo thị trường. Với cách thả nổi lãi suất này có nhiều ưu điểm. - Nhiều doanh nghiệp sẽ tìm đến ngân hàng, không tình trạng ngân hàng tìm khách hàng đơn phương nữa, bởi lẽ cả hai đều thấy có nhiều lợi ích qua việc thực hiện lãi suất thả nổi trên. - Lãi suất luôn luôn được hình thành theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường, hạn chế được rủi ro cho doanh nghiệp cũng như cho ngân hàng . Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 14 - Tuy nhiên ở Việt Nam chưa thực hiện cơ chế thả nổi hoàn toàn theo cung cầu thị trường mà vẫn có sự điều tiết của Ngân hàng nhà nước Việt Nam thông qua lãi suất cơ bản. II. THUẬN LỢI - KHÓ KHĂN VÀ CÁC MẶT TỒN TẠI TRONG ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN - Nếu điều hành lãi suất theo lãi suất thực âm thì có lợi cho nhà sản xuất, kích thích doanh nghiệp đầu tư. Tuy nhiên, nó không khuyến khích những người gởi tiền dẫn đến ngân hàng thiếu vốn để thỏa mãn nhu cầu đầu tư của nền kinh tế, do đó hoạt động kinh tế cũng sẽ suy giảm. - Nếu điều hành theo lãi suất thực dương thì có lợi cho người gởi tiền, khuyến khích họ gởi tiền vào ngân hàng, nguồn cung vốn của ngân hàng tăng, nhưng ngược lại nó sẽ trở nên cao so với tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, sẽ tác động hạn chế đầu tư. - Nếu điều hành lãi suất theo hướng phân biệt lãi suất theo từng loại hình kinh tế, sở hữu kinh tế về mặt lý thuyết thì sự phân biệt trên dựa theo đặc điểm tính chất hoạt động của doanh nghiệp, dựa trên tỷ suất lợi nhuận mà loại hình doanh nghiệp đó mang lại nên có sự công bằng, nhưng thực tế có khó khăn trong điều hành lãi suất của ngân hàng, do có quá nhiều loại lãi suất ; đồng thời về phía khách hàng sẽ thiếu sự năng động do có sự ỷ lại vào mức lãi suất áp dụng cho mình còn mang tính bao cấp. - Nếu điều hành lãi suất theo hướng trần, sàn lãi suất có chênh lệch lãi suất đầu vào, đầu ra. Tuy cách điều hành lãi suất này khắc phục các tồn tại của các điều hành lãi suất như đã nêu ở trên nhưng vẫn chưa tạo được mặt hoàn toàn chủ động của các ngân hàng trong việc tự mình án định lãi suất cho vay các doanh nghiệ, các khách hàng; hơn nữa chưa theo được tín hiệu thị trường về cung cầu vốn tín dụng nên cũng chưa khuyến khích doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất hoặc doanh nghiệp có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi gởi vào ngân hàng. - Điều hành lãi suất theo lãi suất cơ bản: Cách điều hành lãi suất này cho đến nay là cách điều hành hoàn thiện nhất, phản ảnh được quan hệ cung cầu và theo tín hiệu thị trường. Khi giao dịch các ngân hàng thương mại được phép cộng hoặc trừ theo một biên độ cho phép. Nhưng đến nay cách điều hành lãi suất cơ bản này vẫn gặp những khó khăn nhất định. - Giai đoạn hiện nay nền kinh tế đang tăng trưởng chậm lại, nếu lãi suất cơ bản được nâng cao lên thì không thể kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng để tăng trưởng kinh tế được. - Nếu lãi suất cơ bản giảm xuống thấp, thì lãi suất huy động đầu vào của ngân hàng cũng giảm thấp, không khuyến khích doanh nghiệp, khách hàng, dân cư gởi tiền vào ngân hàng, dẫn đến nguồn cung vốn qua ngân hàng bị giảm thấp, trong khi tỷ giá USD luôn biến động tăng tạo nên sự chuyển dịch từ đồng Việt Nam sang ngoại tệ (USD) làm cho tình trạng khan hiếm tiền đồng xảy ra ở các ngân hàng. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ TỒN TẠI a. Thành tựu : Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 15 Vào năm 1999 với việc áp dụng công cụ trần lãi suất cho vay thay vì khống chế lãi suất cho vay của các NHTM là cơ sở để các tổ chức tin dụng tăng lãi suất huy động vốn , tạo điều kiện cho việc huy động đủ vốn nhằm đáp ứng các yêu cầu về phát triển kinh tế xã hội , đồng thời phù hợp với quan hệ cung - cầu về vốn tín dụng đối với nền kinh tế. Sau này , với việc từ bỏ lãi suất trần huy động vốn và áp dụng mức lãi suất cơ bản đã tạo ra một mặt bằng lãi suất ổn định trên thị trường , giúp ngăn ngừa những biến động lớn trên thị trường tiền tệ và tín dụng . Nó là cơ sở để các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh của mình và đưa hoạt động tín dụng đi theo đúng khuôn khổ pháp luật. Nó cũng giúp chấm dứt cuộc đua lãi suất giữa các NHTm diễn ra gay gắt trong thời gian trước đó . Ngoài ra , cơ chế này còn giúp xua đi những tín hiệu xấu về tình hình tài chính của các NHTM và phản ánh tình hình tài chính của các NH này. b. Tồn tại Chính sách lãi suất như hiện nay chưa khuyến khích được các tổ chức t ín dụng cho vay trung và dài hạn . Thực tế cho thấy , cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng số nguồn vốn cho vay của các ngân hàng . Do đó các dự án trung và dại hạn thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ N gân hàng. Ngoài ra, các chính sách điều chỉnh lãi suất của NHTW còn chưa linh hoạt, thường chậm hơn so với các diễn biến của nền kinh tế và do đó chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Lấy ví dụ như tình trạng lạm phát diễn ra trong năm 2007 với mục tiêu kiềm chế tốc độ lạm phát thấp hơn tăng trưởng kinh tế , tuy nhiên khi tình trạng lạm phát diễn ra ( lên đến 12.63% ) thì NHNN vẫn duy trì mức lãi suất cơ bản như năm 2006 là 8,25% trong khi mức độ lạm phát năm 2006 chỉ là 6,6% . Tiếp đó vào thời điểm lạm phát được kiểm soát vào khoảng cuối năm 2008 thì lãi suất cơ bản không những không giảm mà còn tiếp tục tăng lên ( lên đến 14% năm ) , điều này đã đẩy nhiều Doanh nghiệp vào thế khó khi lãi suất quá cao gây khó khăn cho việc vay vốn trong khi giá sản phẩm đã giảm xuống do t ác động của lạm phát đã được đẩy lùi . Mặt khác , nếu NHNN thi hành ngay việc tăng lãi suất cơ bản vào cuối năm 2007 thì lạm phát đã không thể bùng phát mạnh mẽ như vậy và kéo dài sang cả năm 2008. Thêm nữa , trong ngành nông nghiệp dù được sự quan tâm của Nhà nước thì việc cho vay đối với từng hộ gia đình là điều cần thiết . Tuy nhiên , thực tế đây lại là một khu vực nhạy cảm , có mức độ rủi ro cao , nợ gốc khó đòi nên dễ gây thua lỗ cho các Ngân hàng, ảnh hưởng đến tâm lý đối với các cán bộ tín dụng và làm ảnh hưởng đến các hoạt động của Ngân hàng. Chính sách hỗ trợ lãi suất của ngân hàng Nhà nước vào năm nay cũng chưa đạt được hiệu quả mong muốn bởi vì trên thực tế thủ tục cũng khá phức tạp lại không được hướng dẫn cụ thể từ phía Ngân hàng nhà nước , và các ngân hàng thương mại lo ngại rằng khi đoàn thanh tra của Ngân hàng Nhà nước kết luận họ cho vay không đúng đối tượng sẽ không nhận được tiền hỗ trợ lãi suất của Ngân hàng nhà nước. Mặt khác, các Doanh nghiệp cũng không mấy mặn mà bởi hàng tồn trong kho còn nhiều nên họ cũng không mấy hào hứng mở rộng sản xuất, hơn nữa đối tượng hỗ trợ lãi suất chỉ là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ với lượng vốn vay ít nên mức giảm này cũng không nhiều ý nghĩa đối với chi phí bỏ ra để giải trừ hàng tồn kho. Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 16 CHƯƠNG IV - KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG Chính sách lãi suất của ngân hàng thực sự có vai trò rất quan trọng, tác động đến hoạt động, phát triển và đi lên của doanh nghiệp nói riêng và là công cụ để điều hành chính sách tiền tệ để phát triển nền kinh tế nói chung. Do đo, chính sách lãi suất phải được điều hành phù hợp theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Lãi suất ngoại tệ hiện nay đã được điều hành theo cơ chế thả nổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường, Do đó vấn đề còn lại phải làm là cơ chế điều hành lãi suất đồng Việt Nam phải có phương pháp điều hành thích hợp theo từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Từ thực tế thị trường tài chính-ngân hàng và quản lý của NHNN thời gian gần đây cho phép rút ra ba bài học mới sau: Thứ nhất, cần mạnh dạn giảm bớt can thiệp mang tính hành chính, đồng thời nâng cao hơn tính chỉ đạo và kiểm soát vĩ mô của NHNN trong hoạt động quản lý Nhà nước đối với khu vực ngân hàng, nhất là thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ, như thị trường mở, lãi suất chiết khấu, dự trữ bắt buộc và các hoạt động thanh, kiểm tra các giám sát từ xa để điều tiết thị trường và hướng thị trường đến lãi suất mục tiêu. NHNN cũng nên thực hiện tăng cung tiền một cách có trọng điểm, có điều kiện đối với đối tượng tiếp nhận. Với các NHTM đã huy động được vốn kỳ hạn ngắn, thì NHNN có thể thực hiện Swaps kỳ hạn đối với các nguồn vốn huy động, nhằm hỗ trợ cho các NHTM này thực hiện các khoản cho vay trung và dài hạn đối với các dự án phát triển kinh tế-xã hội được NHNN định hướng lựa chọn theo mục tiêu của Chính phủ đặt ra. Thứ hai, tăng cường sự linh hoạt và đồng bộ của các công cụ chính sách và các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan trong sự đồng thuận và dựa trên luật pháp. Nhất là lựa chọn đúng các mục tiêu ưu tiên phù hợp cho từng thời kỳ chính sách, không khiên cưỡng áp đặt mục tiêu bằng mọi giá, đồng thời không kỳ vọng vào quá nhiều mục tiêu cho một chính sách đang triển khai. Đặc biệt, sự đồng bộ về chính sách lãi suất với tỷ giá và quản lý ngoại tệ trong thời gian qua đã giúp ổn định hoá và giảm áp lực cân đối cả vốn ngoại tệ và nội tệ trên thị trường tài chính trong nước đã là minh chứng tốt cho cho bài học này, cũng như cho thấy rõ hơn những thành công trong hoạt động điều hành của NHNN. Tuy nhiên cần nhấn mạnh rằng, tính đồng thuận và các nguyên tắc thị trường trong kinh doanh ngân hàng không mâu thuẫn nhau, mà có thể hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau trong quá trình hoạt động của các ngân hàng trên cơ sở hài hoà các lợi ích trong hoạt động ngân hàng, nhất là lợi ích trong quản lý vĩ mô Nhà nước với lợi ích kinh doanh của NHTM, lợi ích của các ngân hàng, người gửi t iền với lợi ích doanh nghiệp. Tôn trọng thị trường là việc phải làm để tránh méo mó thị trường, để cung cầu vốn gặp nhau theo các kênh và điều kiện hợp lý và thuận lợi nhất, các lợi ích sẽ tự dung hoà và góp phần kiềm chế lãi suất một cách hợp lý, và lãi suất tất yếu sẽ giảm. Đồng thời, việc ra quyết định quyết đoán dựa trên các thông tin nghiệp vụ và thị trường đầy đủ, chính xác, cập nhật và xem xét các ý kiến phản biện đa chiều, nhất là của các NHTM, doanh nghiệp và các Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 17 nhà khoa học, là cần thiết cho hoạt động điều hàng của NHNN, cho phép nâng cao dần tính đúng đắn và hiệu quả của NHNN trong kinh tế thị trường ở nước ta. Thứ ba, cần cân nhắc đầy đủ tính hai mặt của quản lý theo trần lãi suất ngân hàng. Ngoài ra, để sớm hoàn thiện cơ chế thị trường trong quản lý khu vực ngân hàng, trong đó có quản lý lãi suất, cần sớm có sự hoàn thiện hơn cơ sở luật pháp cho hoạt động này. Thực tế cho thấy, việc áp dụng lãi suất cho vay thoả thuận, việc linh hoạt điều chỉnh trần LSHĐ sẽ có những tác động t ích cực đến thị trường tài chính-ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung, nhất là tạo thuận lợi cho việc tăng huy động vốn cho đầu tư xã hội thông qua hệ thống ngân hàng và nâng cao vị thế ngân hàng trong nền kinh tế; Bỏ trần LSHĐ sẽ giúp các cơ quan quản lý có thông t in về các động thái, diễn biến của thị trường chính xác, minh bạch, rõ ràng hơn và ra các quyết định quản lý thích hợp, hiệu quả hơn. Cơ chế thị trường sẽ sớm xác lập và hoàn thiện hơn, và do đó tăng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư trong nước với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; Gia tăng cơ hội và lợi ích cho doanh nghiệp trong tiếp cận nguồn vốn ngân hàng và trong đầu tư xã hội. Nguồn vốn ngân hàng huy động được dồi dào hơn và có t ính thanh khoản cao hơn; các doanh nghiệp sẽ có thể nhận được lãi suất cho vay của các ngân hàng thấp dần nhờ hệ quả của áp lực quy luật cung - cầu thị trường và áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàngcũng như sự hỗ trợ thích hợp của NHNN như đã nêu trên. Việc gỡ bỏ đồng bộ trần lãi suất ngân hàng cả đầu vào và đầu ra còn giúp loại bỏ những loại bỏ các doanh nghiệp kinh doanh yếu kém, các dự án vay không mang tính thị trường hay có t ính đầu cơ cao; đồng thời tăng nguồn vốn đầu tư cho những dự án kinh doanh sản xuất hiệu quả; Gia tăng lợi ích của người gửi tiền vào ngân hàng và kích thích tiết kiệm chi tiêu xã hội, giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, hạn chế đầu cơ không có lợi vào các hoạt động kinh doanh khác, như chứng khoán, bất động sản, góp phần giảm lạm phát, tăng luông vốn đổ vào trong nước trong nước từ các nguồn vốn rẻ trên thế giới… Ngoài ra, việc bãi bỏ trần LSHĐ bất chấp những điều kiện chưa chín muồi cũng có thể phát sinh những hệ quả bất lợi khó lường định, như có thể gia tăng các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảo và quá trình dịch chuyển nguồn vốn bất thường, nếu kiểm soát không tốt lại có thể t ạo những làn sóng rút tiền và gửi tiền theo tâm lý đám đông, tạo vòng xoáy xáo trộn luồng vốn, cơ cấu vốn và các kế hoạch kinh doanh của các ngân hàng, cũng như của vốn đầu tư xã hội. Để sớm thực hiện và góp phần kiềm toả những mặt trái, phát huy những tác động tích cực của việc bãi bỏ trần LSHĐ, cần thực hiện điều chỉnh thường xuyên hơn việc mềm hoá biên độ trần LSHĐ theo sát với lãi suất cho vay thoả thuận và cân đối cung-cầu, cũng như bảo đảm tính thanh khoản trong hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời, cần thúc đẩy chuẩn hoá và lành mạnh hoá các ngân hàng theo kế hoạch tái cơ cấu và yêu cầu chung, sát nhập các các ngân hàng không đủ vốn điều lệ theo pháp định và kiên quyết loại bỏ các cá thể yếu, cũng như thúc đẩy hoàn thiện cơ chế giám sát, kiểm soát, xử lý các rủi ro tài chính- ngân hàng; tăng cường các hoạt động thanh tra, các hoạt động thông t in, chủ động phòng ngừa và xử lý các yếu tố tâm lý và tin đồn, đầu cơ, lũng đoạn và gây nhiễu, cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành ngân hàng; cũng như tăng cường giáo dục cho các bên kiến thức và trách nhiệm cá nhân và xã hội khi vay và cho vay. Tăng cường hoàn thiện hơn Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 18 các công cụ quản lý khác như mức vốn điều lệ, hạn mức tín dụng, mức dự trữ, tỷ lệ nợ quá hạn, quy mô và cơ cấu huy động và cho vay, các báo cáo giám sát bắt buộc, hệ thống kế toán và năng lực quản trị và các tiêu chí an toàn thích hợp trong hoạt động ngân hàng. Việc tham khảo các kinh nghiệm của các tổ chức tế và quốc gia khác về quản lý các hoạt động ngân hàng nói chung là rất hữu ích, trong cả trước mắt và lâu dài. Ñeà taøi : Những vấn đề cơ bản về lãi suất Ngân hàng và vai trò của nó đối với Doanh nghiệp. 19 KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam phát triển theo kinh tế t hị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự hoạt động và phát triển của Doanh nghiệp đã góp phần quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế. M ặt khác sự thành công của Doanh nghiệp cũng chính là sự thành công của ngân hàng; sự thành công của ngân hàng càng tạo điều kiện góp phần tốt hơn cho sự phát triển của Doanh nghiệp. Mối quan hệ này được thực hiện cũng nhờ thông qua chính sách lãi suất của ngân hàng. Vì vậy chính sách lãi suất đã có một vai trò tác động hết sức quan trọng không thể thiếu được đối với hoạt động Doanh nghiệp trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu vốn của Doanh nghiệp, là cầu nối giữa sản phẩm ngân hàng, là nhân tố ảnh hưởng đến tỷ số lợi nhuận bình quân của các Doanh nghiệp tác động đến doanh thu và lợi nhuận. Do đó Ngân hàng nhà nước điều hành lãi suất phải đảm bảo phù hợp với trình độ phát triển nền kinh tế ở giai đoạn đó và phải đạt được mục tiêu phát triển doanh nghiệp nói riêng và của toàn nền kinh tế Việt Nam nói chung.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftieu_luan_qtnh_6839.pdf
Luận văn liên quan