Một trường hợp khác là việc tái chế của công ty Kittel và Recolta. Trong đó các chủ
thể cung cấp hàng hóa vi phạm gian lận trong giao dịch. Sự việc xảy ra ở Bỉ và theo qui định
của luật những hợp đồng buôn bán có thể bị từ chối quyền miền giảm thuế. Trong trường hợp
đó, hai đối tượng chịu thuế không thể biết giao dịch của mình có bị xem là gian lận hay
không. Do họ biết là hàng hóa đầu vào của họ đã có giấu hiệu gian lận thuế mà họ vẫn tiến
hành thu gom sau đó bán lại để hưởng chênh lợi. Cơ quan thuế cho rằng không thể xác định
chính xác mục tiêu của đối tượng do đó họ từ chối những quyền giảm trừu được qui định
trong luật.
Còn rất nhiều trưởng hợp được xem xét trong một nghiên cứu khác năm 2012 [6] bao
gồm quyền thay đổi mức thuế suất, quyền yêu cầu chỉnh sửa hóa đơn và chi trả lại thuế,
quyền yêu cầu bảo mật đối với việc chi trả thuế. Tất cả những ví dụ được khảo sát cho thấy
quyền quyết định của cơ quan thuế trong một số trường hợp mà chủ thể chịu thuế không làm
rõ được mục tiêu của họ có bao gồm việc tránh, giảm trừ và miễn thuế hay không.
15 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2080 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các vấn đề khi áp dụng cơ sở tính thuế giá trị gia tăng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
CÁC VẤN ĐỀ KHI ÁP
DỤNG CƠ SỞ TÍNH
THUẾ GTGT
TIỂU LUẬN MÔN HỌC: PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ
Tháng 8 năm 2012
GVHD: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
HV: NGUYỄN PHƯƠNG DUY
LỚP: NGÂN HÀNG ĐÊM 6
Mục lục
1. Những lý luận chung về thuế GTGT ................................................................... 4
1.1. Khái niệm và đặc điểm ................................................................................. 4
1.1.1. Khái niệm .................................................................................................. 4
1.1.2. Đặc điểm của thuế GTGT ......................................................................... 4
1.2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT ................................................................. 4
1.2.1. Cơ sở tính thuế .......................................................................................... 4
1.2.2. Phạm vi thuế GTGT .................................................................................. 5
1.2.3. Phương pháp tính thuế GTGT ................................................................... 5
2. Xem xét tác động của thuế VAT lên hoạt động xuất nhập khẩu ........................ 7
3. Thực trạng áp dụng thuế GTGT ........................................................................... 8
3.1. Vấn đề thuế GTGT một mức thuế suất ......................................................... 8
3.1.1. Khái niệm của việc áp dụng ấn hành thuế suất cố định ............................ 9
3.1.2. Việc xác định qui mô .............................................................................. 10
3.1.3. Khả năng tiếp nhận và sử dụng dịch vụ .................................................. 10
3.1.4. Xác định nơi cung cấp dịch vụ ................................................................ 10
3.2. Vấn đề trốn thuế, tránh thuế ....................................................................... 12
3.2.1. Dịch vụ vận chuyển hàng hóa (Transport Service NV) .......................... 12
3.2.2. Vụ việc ông R (Mr. R) ............................................................................ 12
3.2.3. Việc từ chối quyền miễn trừ thuế VAT ................................................... 13
4. Kết luận .............................................................................................................. 13
Danh sách hình
Hình 1 Ví dụ về việc lên kế hoạch VAT ........................................................................ 9
1. Những lý luận chung về thuế GTGT
1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Khái niệm
Theo luật thuế GTGT: “Thuế GTGT là thuế gián thu tính trên khoản giá trị tăng thêm
của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Trong
đó giá trị tăng thêm là một bộ phận của giá trị sản xuất, bằng chênh lệch giữa giá trị sản xuất
và chi phí trung gian. Thuế GTGT đánh vào người tiêu dùng cuối cùng. Trong trường hợp
không phải người tiêu dùng cuối cùng thì đối tượng nộp thuế sẽ được hoàn thuế [1].
1.1.2. Đặc điểm của thuế GTGT
Tất cả các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu
thuế GTGT ở Việt Nam không phân biệt ngành nghề, hình thức tổ chức kinh doanh (gọi
chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT
(gọi chung là người nhập khẩu) đều là đối tượng nộp thuế GTGT.
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ bao gồm :
Các tổ chức kinh doanh được thành lập và đăng ký kinh doanh theo luật
doanh nghiệp, luật DNNN và luật hợp tác xã.
Các tổ chức kinh tế của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức sự
nghiệp và các tổ chức khác;
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia
hợp tác kinh doanh theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (nay là Luật
đầu tư); các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động kinh doanh ở Việt
Nam nhưng không thành lập pháp nhân tại Việt Nam.
Cá nhân, hộ gia đình, nhóm người kinh doanh độc lập và các đối tượng
khác có hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu.
Tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh tại Việt Nam mua dịch vụ (kể cả
trường hợp mua dịch vụ gắn với hàng hóa) của tổ chức nước ngoài không
có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng
không cư trú tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân mua dịch vụ là người nộp
thuế.
1.2. Nội dung cơ bản của thuế GTGT
1.2.1. Cơ sở tính thuế
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất.
Giá tính thuế :
Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra hoặc cung ứng cho
đối tượng khác là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB là
giá bán đã có thuế TTĐB nhưng chưa có thuế GTGT.
Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập khẩu tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu,
giá nhập khẩu tại cửa khẩu làm căn cứ tính thuế GTGT được xác định theo các quy định về
giá tính thuế hàng hoá nhập khẩu. Trường hợp hàng hoá nhập khẩu được miễn, giảm thuế
nhập khẩu thì giá tính thuế GTGT là giá hàng hoá nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu xác
định theo mức thuế phải nộp sau khi đã được miễn giảm.
Đối với sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ cơ sở kinh doanh xuất để tiêu dùng không phục
vụ cho sản xuất, kinh doanh hoặc cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu
thuế GTGT thì phải tính thuế GTGT đầu ra. Giá tính thuế tính theo giá bán của sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ cùng loại.
Đối với dịch vụ do phía nước ngoài cung ứng cho các đối tượng tiêu dùng ở Việt nam,
giá tính thuế GTGT là giá dịch vụ phải thanh toán cho phía nước ngoài.
Dịch vụ cho thuê tài sản bao gồm cho thuê nhà, xưởng, kho tàng, bến bãi, phương tiện
vận chuyển, máy móc thiết bị.
Giá để tính thuế GTGT là giá cho thuê chưa có thuế. Trường hợp cho thuê theo hình
thức thu tiền từng kỳ hoặc thu trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì thuế GTGT tính trên
số tiền thu từng kỳ hoặc thu trước, bao gồm cả các khoản thu dưới hình thức khác như thu
tiền để hoàn thiện, sửa chữa, nâng cấp nhà cho thuê theo yêu cầu của bên thuê.
Đối với các hàng hoá, dịch vụ khác là giá do Chính phủ quy định.
Thuế suất:
Luật thuế GTGT hiện nay quy định 3 mức thuế suất : 0%, 5%, 10% trong đó :
Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu.
Thuế suất 5%, 10% đối với hàng hoá, dịch vụ.
1.2.2. Phạm vi thuế GTGT
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu.
Hoạt động sản xuất mặt hàng thuộc diện đánh thuế TTĐB.
Hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nói chung bao gồm cả sản xuất
nông nghiệp đang thuộc diện chịu thuế sử dụng đất nông nghiệp.
1.2.3. Phương pháp tính thuế GTGT
Thuế GTGT cơ sở kinh doanh phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp:
Phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT. Trường hợp cơ sở
kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế có hoạt động kinh
doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ thì cơ sở phải hạch toán riêng hoạt động kinh
doanh này để tính thuế trực tiếp trên GTGT.
Đối tượng áp dụng và việc xác định thuế phải nộp theo từng phương pháp sau :
Phương pháp khấu trừ thuế
Đối tượng áp dụng: Là các đơn vị, tổ chức kinh doanh bao gồm các doanh nghiệp Nhà
nước, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, các công ty cổ phần, hợp tác
xã và các đơn vị, tổ chức kinh doanh khác, trừ các đối tượng áp dụng tính thuế theo phương
pháp trực tiếp trên GTGT.
Xác định số thuế GTGT phải nộp
Số thuế GTGT
phải nộp
=
Thuế GTGT
đầu ra
-
Thuế GTGT
đầu vào
Trong đó:
Thuế GTGT đầu ra
=
Giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ chịu
thuế bán ra
x
Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá,
dịch vụ đó.
Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế khi bán
hàng hoá, dịch vụ phải tính thuế và thu thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ bán ra. Khi lập hoá
đơn bán hàng hóa, dịch vụ, cơ sở kinh doanh phải ghi rõ giá bán chưa có thuế, thuế GTGT và
tổng số tiền người mua phải thanh toán. Trường hợp hoá đơn chỉ ghi giá thanh toán, không
ghi giá chưa có thuế và thuế GTGT thì thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ bán ra phải tính
trên giá thanh toán ghi trên hoá đơn chứng từ.
Phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên GTGT
Đối tượng áp dụng [2]
Cá nhân sản xuất, kinh doanh là người Việt nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo luật đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế
toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế.
Cơ sở kinh doanh mua, bán vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ.
Xác định thuế GTGT phải nộp:
Số thuế GTGT phải
nộp
=
GTGT của hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế
x
Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá,
dịch vụ đó
Trong đó:
GTGT của hàng hoá, dịch
vụ
= Doanh số của hàng hoá, dịch vụ
bán ra
- Giá vốn của hàng hoá, dịch vụ
bán ra
Giá trị gia tăng xác định đối với một số ngành nghề kinh doanh như sau:
Đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh bán hàng là số chênh lệch giữa
doanh số bán với doanh số vật tư, hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho
sản xuất, kinh doanh. Trường hợp cơ sở kinh doanh không hạch toán được
doanh số vật tư, hàng hoá, dịchvụ mua vào tương ứng với doanh số hàng
bán ra thì được xác định như sau:
Giá vốn
hàng bán ra
=
Doanh số
tồn đầu kỳ
+
Doanh số
mua trong kỳ
-
Doanh số
tồn cuối kỳ
Đối với xây dựng, lắp đặt là số chênh lệch giữa tiền thu về xây dựng, lắp
đặt công trình, hạng mục công trình trừ (-) chi phí vật tư nguyên liệu, chi
phí động lực, vận tải, dịch vụ và chi phí khác mua ngoài để phục vụ cho
hoạt động xây dựng, lắp đặt công trình, hạng mục công trình.
Đối với hoạt động vận tải là số chênh lệch giữa tiền thu cước vận tải, bốc
xếp trừ (-) chi phí xăng dầu, phụ tùng thay thế và chi phí khác mua ngoài
dùng cho hoạt động vận tải.
Đối với hoạt động kinh doanh vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ, GTGT là số
chênh lệch giữa doanh số bán ra, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ trừ (-) giá
vốn của vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ bán ra.
2. Xem xét tác động của thuế VAT lên hoạt động xuất nhập khẩu
Các khảo sát ở phần trước đã cho thấy được những trường hợp qui định không rõ ràng
trong Liên minh châu Âu với các mức thuế khác nhau giữa các nước thành viên và bên ngoài.
Đây là một quan hệ đặc biệt cung cấp kinh nghiệm đối với các hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong phần này ta trở lại xem xét việc “hưởng” lợi từ thuế VAT.
Theo qui định VAT là thuế nhà nước dựa trên giá cả hàng hóa dịch vụ, và thường
được xem như cao hơn thuế môn bài ở Mĩ khoảng 10% hoặc cao hơn trong hầu hết các
trường hợp. Kết quả là, thuế ở Châu Âu và Mỹ có thể không đồng đều nếu so sánh ở mức giá
tại Mỹ. Do vậy, những đối tượng cá nhân và doanh nghiệp được xem xét liên minh ở các
nước có tính VAT và thường được hoàn thuế.
Một đôi giày giá 85$ ở Mỹ đã có thuế môn bài. Đôi giày giống vậy có thể được bán ở
Anh £50 tức là khoảng 100$. Nếu bạn là công dân Mỹ đã mua giày ở Anh và sau đó trở về
Mỹ mang theo chúng bạn sẽ được hoàn thuế VAT. Nếu tỷ lệ thuế VAT ở Anh là 20% thì bạn
chỉ phải trả cuối cùng là £40 tức 80$. Điều này giúp bạn tiết kiệm 5$ mỗi đôi giày.
Lý thuyết tương tự cũng có thể áp dụng trong kinh doanh. Nếu bạn đặt hàng nguyên
liệu từ một nhà cung cấp nước ngoài, bạn có thể đủ điều kiện để hoàn thuế khi hàng hóa được
tiêu thụ. Những công ty lớn thường thích phân tán việc kinh doanh ra nhiều chi nhánh để tổng
hợp những lợi ích gộp trên nhiều quốc gia để hưởng lợi từ chi phí cung cấp địa phương và lợi
ích thuế VAT.
Có một vài yếu tố để xem xét khi lựa chọn kinh doanh mở rộng. Sự ổn định của đồng
nội tệ, chi phí vận chuyển và chi phí cung cấp địa phương tất cả những ảnh hưởng việc có thể
mở rộng kinh doanh xuyên lục địa hoặc không [3]. Trong nhiều trường hợp, điều này có thể
đem lại lợi ích cho việc kinh doanh, ví dụ như việc cung cấp nguyên liệu thiết yếu có thể xem
nhập khẩu là ít tốn kém hơn sử dụng nội địa. Cần chú trọng các phí phải trả cho địa phương,
nhưng có nhiều dịch vụ tài chính cung cấp cho cả nước ngoài và nội địa, đặc biệt là quá trình
khai báo hoàn thuế.
Xem xét việc hoàn thuế khi mua hàng và rời khỏi nước chịu thuế
Nếu bạn sử dụng nguyên liệu nhập khẩu, ban có thể có được phần hoàn thuế khi mua sản
phẩm. Các công ty lớn thích mở rộng kinh doanh trên nhiều chi nhánh để kết hợp các lợi ích
về thuế. Tác động này có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố: sự ổn định của đồng nội tệ, chi phí
vận tải, chi phí cung cấp địa phương. Nếu bạn cần nhập khẩu hàng từ nước ngoài, ban phải
trả thuế VAT nhập khẩu, và duty (lưu ý duty tách biệt và dựa trên giá trị hàng hóa nhập khẩu,
các mức duty khac nhau phụ thuộc vào xuất xư và chủng loại hàng hóa).
Nhưng nếu hàng hóa có xuất xứ trong cùng khu vực EU thì không có thuế (không có
duty nếu hàng hóa được vận chuyên giữa các nước EU). Nếu bạn muốn xuất khẩu hàng hóa
sau khi đã chế biến. Hàng hóa chỉ chịu thuế nếu bạn chế biến và bán ở Anh. Để hoàn thuế
VAT nhập khẩu bạn phải điền mẫu đơn trong khoảng thời gian khi hàng hóa được nhập khẩu.
3. Thực trạng áp dụng thuế GTGT
3.1. Vấn đề thuế GTGT một mức thuế suất
Cách thức tính thuế GTGT là một mức thuế suất áp dụng trên tất cả giao dịch và
khách hàng chịu thuế và người cung cấp dịch vụ nộp thuế. Các qui định này không quan tâm
đến giao dịch diễn ra ở đâu, qui định áp dụng ở nơi diễn ra giao dịch hay nơi thành lâp của
các đối tác trong giao dịch. Điều này có một số vấn đề đối với các giao dịch có qui mô rộng
như người khách hàng và người cung cấp dịch vụ ở hai địa phương (quốc gia khác nhau),
giao dịch diễn ra ở một nơi khác nữa. Khi không qui định rõ những chi tiết này thì việc áp
dụng mức thuế ở những địa phương khác nhau sẽ tạo nên những mức thuế khác nhau. Trong
phần này chúng ta xem xét những vấn đề liên quan đến việc làm thế nào để ấn định một mức
thuế suất cố định trong các trường hợp như trên.
Người đóng thuế có thể sử dụng các công cụ lên kế hoạch cho các giao dịch xuyên
biên giới để tối ưu dòng thuế của họ. Việc nay là đặc biệt quan trọng cho một số ngành tài
chính vốn phải chịu việc không hoàn trả thuế VAT. Các kĩ thuật lên kế hoạch VAT để gia
tăng khoản hoàn thuế VAT và làm giảm xuống chi phí VAT tại nơi mua bán lại. Một trong
những công cụ lên kế hoach VAT cho các dịch vụ xuyên bên dưới là đối phó với các mức
thuế cố định cho việc mua bán và phân phối dịch vụ. Các công ty có thể linh động chọn nơi
cung cấp các dịch vụ và phân bổ chúng đến nhưng nơi khác nhau với có các qui định khác
nhau để đảm bảo kết quả tính thuế GTGT có lợi nhất. Điều này có thể thực hiện được bởi
việc tồn tại những qui chế tham khảo khác nhau cũng như sự linh hoạt nhất định tại những
điều khoản về nhà cung cấp dịch vụ với ví dụ tham khảo điều luật 44 chỉ dẫn VAT (VAT
directive) của EU. Xét chỉ dẫn trong quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh (B2B-
business2bussiness), nơi áp dụng qui định với nhà cung cấp có thể được chuyển đổi đến nơi
phát sinh giao dịch với khách hàng (cụ thể là chỉ dẫn Directive 2006/112/EC về nơi cung cấp
dịch vụ). Điểm này có thể được chú ý bởi có khác biệt với thực tế trước đó như khi điều luật
COJ lại qui định sự ưu tiên đối với nơi thành lập của người cung cấp trong giao dịch. Để
minh họa, xét ví dụ ở EU với một công ty trụ sở chính ở Đức và có chi nhánh ở Ý:
Hình 1 Ví dụ về việc lên kế hoạch VAT
(công ty có trụ sở ở Anh và chi nhánh ở Pháp)
Trong ví dụ vửa mô tả, công ty Đức áp đặt nơi thành lập ở pháp để giảm phần thuế
VAT không hoàn trả. Nếu các dịch vụ được yêu cầu bởi ngân hàng Anh sẽ được thực hiện
bằng cách phân phối lại cho chi nhánh ở Pháp, thuế VAT đầu vào có thể làm tăng chi phí
ngân hàng. Một số nước thành viên (EU) cho phép các tổ chức tài chính tránh việc lan truyền
các khoản thuế VAT đầu vào không được khấu trừ bằng cách xây dựng danh mục thuế.
3.1.1. Khái niệm của việc áp dụng ấn hành thuế suất cố định
Khái niệm áp dụng ấn hành thuế suất cố định được diễn giải đồng nhất ở các nước
thành viên. Chỉ dẫn thuế VAT không áp đặt việc sử dụng CỌ trong đó qui định mức thuế suất
cố định bắt buộc phải dựa trên số lượng, sự hiện diện và kĩ thuật cần thiết cho việc cung cấp
dịch vụ. Những trường hợp khác của COJ được qui định theo hướng mở rộng định nghĩa này.
Việc sử dụng mức thuế suất cố định không phụ thuộc vào hình thức pháp qui của qui định áp
dụng, một thương hiệu không dù là tư cách pháp nhân hay một công ty con vẫn được xem xét
như nhau. Những qui định của COJ cho phép một công ty hoạt động đại diện cho công ty mẹ
với nguồn nhân lực và kĩ thuật đặc thù có thể được xem như ấn định một mức thuế suất cố
định tương không có tách biệt. Do vậy việc sử dụng các thương hiệu, hay các chi nhánh vẫn
được xem xét mức thuế suất cố định cho thuế VAT.
Định nghĩa mức thuế suất cố định có thể được tìm thấy trong các qui định của chỉ dẫn
VAT (Implementing Regulation) bắt đầu có hiệu lực tử 1/7/2011. Theo những tài liệu hướng
dẫn thực thi, mức thuế suất cố định có thể được xác định nhằm áp dụng đồng nhất cho tất cả
các điều luật luên quan áp dụng trên các giao dịch chịu thuế. Các điều khoản đó có thể hoặc
là xác đinh mức ấn định thuế suất tại giao dịch của khác hàng hoặc một số điều luật áp dụng
tại nơi giao dịch của người cung cấp dịch vụ. Trong trường hợp đối với khách hàng, việc ấn
định phải dựa trên một cơ sở ổn định có tính lâu dài cũng như nguồn nhân lực và kĩ thuật để
có thể tiếp nhận và sử dụng hàng hóa cho nhu cầu của họ. Trong trường hợp kia thì việc ấn
định thuế suất có cùng những đặc điểm nhưng với mục tiêu hướng đến khả năng cung cấp
dịch vụ của người sản xuất (cung cấp dịch vụ). Thực tế cũng cho thấy việc xác định một chỉ
số định danh VAT không giống như việc xem xét đối tượng đóng thuế trong việc ấn định
thuế suất cố định. Việc định nghĩa nơi cung cấp dịch vụ cần xác định dựa trên những nhận
biết về khả năng cung cấp hoặc tiếp nhận dịch vụ. Do vậy, cần lưu ý thuật ngữ "ấn định mức
thuế suất cố định" có thể được diễn giải theo mục tiêu của nó có thể sử dụng những tham
khảo đến nhưng qui định về việc cung cấp dịch vụ.
Nhà cung cấp dịch vụ Chi nhánh Ý
Công ty Đức
không thuế VAT
dịch vụ + VAT
3.1.2.Việc xác định qui mô
Việc xác định qui mô được mô tả sau đâu gồm những thuộc tính để ấn định mức thuế
suất cố định cho người cung cấp và sử dụng dịch vụ được làm rõ thông qua các ví dụ liên
quan. Đầu tiên là khả năng cung cấp dịch vụ, theo đó việc ấn dịch cơ sở thuế trong VAT dựa
trên mức thuế suất cố định ở một mức độ sao cho đảm bảo tác động ổn định lên nguồn lực về
con người (nhân lực) và kĩ thuật cần thiết cho việc cung cấp dịch vụ lâu xài. Khả năng cung
cấp dịch vụ có thể được xác định dựa trên việc phân tích dữ liệu có định hướng để kết luận
mức ấn định về lâu dài có tác động đến cung cấp dịch vụ đó không. Ví dụ như điều khoản
Aro Lease (C-190/95 ARO lease của Amsterdam - Hà Lan) qui định mức thuế suất ấn định
trên một công ty cung cấp xe hơi của Hà Lan dưới hợp đồng thuê khoán của Bỉ. Để phân tích
mức thuế suất cố định, cơ quan thuế phải xem xét các trường hợp sau đây. Cơ quan thuế xác
định dịch vụ cung cấp bao gồm quá trịnh đàm phán, xác định, kí kết và quản lý những thỏa
thuận để sản xuất phụ tùng xe hơi thuộc sở hữu công ty thuê khoán được cung cấp (vật lý)
cho khách hàng. Cơ quan thuế đi đến kết luật mức ấn định thuế suất cố định không thể áp
dụng trong trưởng hợp công ty thuê khoán không được đặt tại các nước thành viên (Liên
minh châu Âu) thì hoặc là sự thỏa thuận nhưng điểm khung sườn hoặc quyết định quản lý cho
phép dịch vụ được cung cấp dựa trên những cơ sở độc lập. Những yếu tố và các giao dịch
được thực thi tại Bỉ có thể được xem xét như là sự bổ sung và phụ trợ cho dịch vụ cho thuê.
Việc xác định qui mô bao gồm các bước phân tích chính như sau:
Xác định mục tiêu và nội dung dịch vụ được cung cấp.
Xác định nguồn lực và con người để dịch vụ được thực hiện.
Xác định những mức ấn định liên quan đến những nguồn lực đặc thù.
3.1.3.Khả năng tiếp nhận và sử dụng dịch vụ
Các tiêu chí về khả năng tiếp nhận và sử dụng dịch vụ được thông qua như một tiêu
chuẩn để xác định sự hợp lý của mức thuế suất cố định (qui định trong Qui định thực thi
Implementing Regulation). Không có hướng dẫn chi tiết nhưng nhưng gì được xem xét khả
năng áp dụng mức thuế suất cố định ảnh hưởng đến việc tiếp nhận và sử dụng dịch vụ cũng
như trong hiện tại cũng không phải lúc nào cũng có các trưởng hợp cũng điển hình như COJ.
Việc xem xét điều luật 44 trong chỉ dẫn thuế VAT đề cập ở trên nhấn mạnh nơi cung cấp dịch
vụ trong giao dịch giữa hai đối tác cần hiểu chính xác về khả năng tiếp nhận và sử dụng dịch
vụ để xác định được các tính toán ra mức thuế suất cố định có thể được kiểm soát. Tại nơi
dịch vụ được tiếp nhận có thể cho phép việc sử dụng dịch vụ tạo ra những khoản chịu thuế
được kết hợp vào nền tảng tạo nên hàng hóa và dịch vụ. Đến đây chúng ta đã làm rõ việc áp
dụng mức thuế suất cố định có hai dạng áp dụng cho đối tượng cung cấp dịch vụ hoặc đối
tượng tiếp nhận và sử dụng dịch vụ cho mục đích của họ. Trong phạm vi đề tại, thuật "ngữ
tiếp nhận và sử dụng dịch vụ" có thể được sử dụng thống nhất không tách biệt bởi cả hai đều
cần thiết cho áp dụng sau này.
3.1.4.Xác định nơi cung cấp dịch vụ
Khi việc cung cấp được quản lý bởi nơi của khách hàng nó bắt buộc người cung cấp
phải xác định nơi giao dịch với khách hàng để định ra các giao dịch chịu thuế và ai sẽ là
người chịu thuế (dĩ nhiên là nhà cung cấp vẫn sẽ là người chịu trách nhiệm thực thi đóng
khoản thuế đó). Dĩ nhiên những thảo luận ở trên đã nhấn mạnh mã số thuế VAT không còn
được xem xét dựa trên nơi thành lập của khách hàng (các qui định cũ mà trong đề tài này
đang quan tâm giải quyết những tình huống mới hơn). Cơ quan thuế có thể đưa ra giả định
nơi diễn ra giao dịch là điểm tham khảo chính để định hướng các vấn đề liên quan. Cách này
có thể linh hoạt áp dụng các mức thuế cố định tại nhưng nơi bên ngoài EU, có một kết luận
liên quan đến vấn đề này "việc áp dụng địa điểm giao dịch giúp tránh được một số kết quả
không hợp lý hoặc giảm bới các tình huống trung lập khi mà thuế VAT không thể được áp
dụng ở tất cả các địa điểm". Như chúng ta đề cập ở đầu phần này các địa điểm bao gồm nơi
thành lập của khách hàng, nhà cung cấp dịch vụ và nơi diễn ra giao dịch. Dĩ nhiên một qui
định mới có thể ảnh hưởng theo nhiều chiều hướng khác nhau. Như trong điều 44 chỉ dẫn
thuế, địa điểm ấn định thuế cố định có thể là nơi diễn ra giao dịch nếu đó là giao dịch cho
thuê hoặc giao dịch diến ra ở một nơi khác với nơi thành lập của nhà cung cấp dịch vụ. Điều
này cũng đảm bảo nguyên tắc chung của việc áp dụng thuế VAT tức là người sản xuất là
người đóng thuế không quan tâm tới ai sử dụng dịch vụ được cung cấp đó (người chịu thuế)
và đây cũng phù hợp áp dụng trong trường hợp người cung cấp dịch vụ và khách hàng không
ở cùng một địa phương. Việc xác định chính xác nơi cung cấp dịch vụ cũng là một vấn đề khi
áp dụng trong việc xây dựng văn bản về thuế. Trong một nghiên cứu mới đây của Senyk
(2011) [4] cũng nghiên cứu về các trường hợp này, ví dụ như một nhà sản xuất ở khối Liên
minh châu Âu muốn xem xét việc cung cấp dịch vụ (hàng hóa) để có được mức áp thuế suất
bên ngoài châu Âu của khách hàng của họ (nhằm né thuế VAT ở châu Âu). Bằng cách thành
lập chi nhánh chuyển dịch vụ của họ ra ngoài, thì trụ sở chính của họ ở châu Âu không chịu
mức thuế nào cả. Như vậy ở đây có một vấn đề về tính xác thực của việc không chi trả thuế
VAT. Đối chiếu với các điều luật của Liên minh châu Âu trong chỉ dẫn thuế (điều 205, điều
262 và điều 196) xác định các giao dịch có các đối tác không xác định rõ hoặc có một số nghi
vấn sẽ bị giới hạn bằng việc áp đặt giao dịch như giữa các đối tác trong các nước thành viên.
Đây cũng là một vấn đề có nhiều điểm giống như việc chống chuyển giá.
Ngoài ra cũng cần xem xét các giao dịch chỉ có một đối tác tham gia trong đó người
đóng thuế cũng là người chịu thuế và nằm trong phạm vi điều chỉnh của thuế VAT. Chúng ta
quay trở lại xem xét một liên minh với nhiều chi nhánh khác nhau mà ở đầu phần này thông
thường được xem như nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của thuế VAT. Nhưng ở đây vấn đề
được đặt ra khi có những giaod ịch diến ra ở các nước cùng là thành viên Liên minh châu Âu
nhưng diễn ra trên nhiều nước. Những qui định trong COJ cũng có những cho phép việc áp
dụng nhiều cách thức tổ chức kinh doanh để đạt hiệu quả. Dĩ nhiên, phương án không đánh
thuế có ưu điểm mạnh trong các trường hợp thuế VAT không thể hoàn trả nhưng việc không
đánh thuế dẫn đễn việc rò rỉ (thất thu) thuế VAT. Trong trưởng hợp đó, các dịch vụ được
cung cấp bên ngoài các nước EU lại bị chuyển hướng về các nước trong khối EU nhằm
hưởng lợi từ việc tránh thuê VAT của EU. Do vậy, các giao dịch có sự tham gia của các nước
không là thành viên EU bị chịu điều khoản áp dụng riêng và được xem như một hoạt động
xuất nhập khẩu. Cũng có nhiều nghiên cứu khác đang được tiến hành để xem xét việc liên
minh giữa các công ty nhằm né tránh việc bị áp đặt phạm vi điều chỉnh của thuế VAT. Để
tổng kết phần này, chúng ta trở lại xem xét vì sao lại chỉ nghiên cứu về dịch vụ ở đây mà
không đề cập đến hàng hóa. Cần lưu ý ở đây là việc vận chuyển hảng hóa giữa các chi nhánh
và trụ sở được xem như đương nhiên chịu điều chỉnh của thuế VAT chỉ có các dịch vụ mập
mờ giữa việc áp dụng hay không áp dụng các qui định điều chỉnh.
3.2. Vấn đề trốn thuế, tránh thuế
Chúng ta tiếp tục xem xét trong Liên minh Châu Âu vì đây là một đề tài thú vị bởi lẽ
các nước có một cơ sở tính thuế riêng trong khi mức thuế suất có sự khác biệt giữa các nước
trong và ngoài Liên minh. Các nước có thể liên kết với nhau nhằm chống lại khả năng trốn
thuế, tránh thuế và trục lợi thuế dựa trên những trừng phạt của các nhà lập pháp. Điều đó
cũng có nghĩa là các điều luật sẽ được xem xét nhằm đo lường và răn đe những hành vi
không phù hợp pháp luật làm biến tướng thuế VAT [5].
Xem xét khả năng từ chối giữa các nước trong Liên minh châu Âu trong việc cung
cấp hàng hóa.
3.2.1. Dịch vụ vận chuyển hàng hóa (Transport Service NV)
Trường hợp được đề cập là hai xe tải được bán tại Luxembourg. Dĩ nhiên những chiếc
xe này sẽ được giao tới Luxembourg. Cơ quan thuế của Bỉ sẽ nhận được khai báo về việc
cung cấp xe nhưng không phải là giữa đơn vị vận chuyển và khách hàng mà là một công ty Bỉ
khác có tên là BeaC. Chắc chắn là công ty BeaC phải trả phần thuế VAT do nó cung cấp. Có
một vấn đề là:
Liệu lý cơ sở pháp lý có xac định phần không tính trong giá trị tăng thêm được khai
bảo trong phần thuế VAT bổ sung bởi một cá nhân chịu thuế với đầy đủ hóa đơn một cách
chính xác vi theo điều luật số 39 về luật Thuế của Bỉ thì những chứng từ cho việc tính thuế
VAT được trả bởi người phát hành hóa đơn và được chuyển cho cơ quan quản lý thuế. Tuy
nhiên ở đây người bởi người cầm hóa đơn hóa liệu cũng là người dùng cuối đó.
Trong trường hợp đó, cơ quan thuế dựa trên luật của Liên minh châu Âu qui định
không câms cơ quan thuế xem những hóa đơn bất thường là một biểu hiện trốn thuế. Cơ quan
thuế quốc gia có thể quyết định đơn vị cung cấp xe có đáp ứng được những điều kiện giữa
các nước Liên minh về việc cung cấp hàng hóa hay không. Nếu không, hệ thống thuế cơ bản
được áp dụng cho từng giao dịch của sản phẩm hoặc tình trạng phân phối để xem xét việc
hoàn thuế như trong các điều khoản 2(mục 1 điểm a) và điều khoản 273 hướng dẫn. Các điều
khoản này chỉ mang tính chất minh họa không đi vào chi tiết nhưng nó cũng phản ánh được
những ý tưởng chính. Việc cho phép cơ quan thuế quyết định chấp nhận việc hoàn trả thuế
bởi người chịu thuế với hóa đơn cung cấp các hàng hóa được xem xét miễn thuế. Theo qui
định, cơ quan thuế có thể từ chối miễn thuế cho các cung cấp giữa các nước trong khối và
khôi phục việc đóng thuế chỉ khi các điều kiện về cung cấp hàng hóa không được đảm bảo
mặc dù việc này có thể không gây ra việc thất thoát thuế.
3.2.2. Vụ việc ông R (Mr. R)
Trường hợp tiếp theo gọi là R khi mà các điều kiện cung cấp hàng hóa được thỏa mãn
nhưng người cung cấp hàng hóa biết mình tham gia vào một giao dịch nhằm mục đích trốn
thuế. Sự việc diễn ra vào 7/12/2010, cơ quan thuế Bồ Đào Nha thông báo kết luậ của mình
cho một người quản lý gọi là ông R (Mr R) ở một công ty Đức tham gia một giao dịch mua
bán xe siêu sang. Người mua, do một vài lí do, tiến hành ở Bồ Đào Nha. Ông R thực hiện
hàng loạt hành động nhằm tránh việc phải nộp thuế GTGT ở Bồ Đào Nha bằng cách thực
hiện các giao dịch giữa các nhà cung cấp trong Liên minh châu Âu. Ông R trích dẫn các giao
dịch này trong báo cáo thuế của mình cho cơ quan hành chính. Cơ quan quan lý thuế dựa trên
điều khoản 28x và điều 138 để từ chối việc miễn thuế khi họ biết ông R tham gia vao một
giao dịch nhằm tránh thuế.
Cơ quan Thuế xac định rằng việc miễn giảm cho các nhà cung cấp hàng hóa được áp
dụng khi hàng hóa thuộc sở hữu đã được chuyển giao cho người giao dịch và thực sụ (về mặt
vật lý) đã ra khỏi lãnh thổ của người cung cấp đó. Dĩ nhiên đây là điểm cũng khó khăn để cơ
quan thuế xác định được yêu cầu đáp ứng này. Việc trình các hóa đơn chứng minh việc buôn
bán nhưng lại không phản ánh chính xác giao dịch thực tế do vậy cơ quan thuế từ chối miễn
thuế khi không có sự tương ứng giữa hóa đơn và hàng hóa thực tế trong trường hợp này.
Cũng tương tự như ví dụ trước khi mà bán xe thì sự không thống nhất giữa hóa đơn và hiện
trạng hàng hóa trong các giao dịch đặc biệt này đang dựa vào quyết định của cơ quan thuế có
chápa nhận hai không.
3.2.3. Việc từ chối quyền miễn trừ thuế VAT
Các trường hợp miễn trừ thuế VAT có ở Đức trong một số giao dịch được qui định.
Vụ việc được gọi tên là Sudholz vào ngày 28/12/2000, cơ quan thuế của Đức ra quyết định
2000/186 không thi hành các điều 16 và 17 trong chỉ dẫn thuế để giảm trừ 50% thuế. Quyết
định này không áp dụng việc giảm trừ 50% thuế cho chiếc xe được mua bởi lẽ cơ quan thuế
cho rằng không thể biết chính xác mục đích sử dụng của chiếc xe cho mục tiêu phi thương
mại hay dùng để vận chuyển hàng hóa.
Một trường hợp khác là việc tái chế của công ty Kittel và Recolta. Trong đó các chủ
thể cung cấp hàng hóa vi phạm gian lận trong giao dịch. Sự việc xảy ra ở Bỉ và theo qui định
của luật những hợp đồng buôn bán có thể bị từ chối quyền miền giảm thuế. Trong trường hợp
đó, hai đối tượng chịu thuế không thể biết giao dịch của mình có bị xem là gian lận hay
không. Do họ biết là hàng hóa đầu vào của họ đã có giấu hiệu gian lận thuế mà họ vẫn tiến
hành thu gom sau đó bán lại để hưởng chênh lợi. Cơ quan thuế cho rằng không thể xác định
chính xác mục tiêu của đối tượng do đó họ từ chối những quyền giảm trừu được qui định
trong luật.
Còn rất nhiều trưởng hợp được xem xét trong một nghiên cứu khác năm 2012 [6] bao
gồm quyền thay đổi mức thuế suất, quyền yêu cầu chỉnh sửa hóa đơn và chi trả lại thuế,
quyền yêu cầu bảo mật đối với việc chi trả thuế. Tất cả những ví dụ được khảo sát cho thấy
quyền quyết định của cơ quan thuế trong một số trường hợp mà chủ thể chịu thuế không làm
rõ được mục tiêu của họ có bao gồm việc tránh, giảm trừ và miễn thuế hay không.
4. Kết luận
Rõ ràng việc áp các mức thuế cố định trên một vùng lãnh thổ hoặc các mức thuế khác nhau
giữa các vùng lãnh thổ đều gây ra những vấn đề tiêu cực nhất định trong vấn đề né tránh, lợi
dụng giảm trừ hay miễn thuế. Trong các nghiên cứu được khảo sát trong đây, Liên minh châu
Âu nổi bật do có chính sách khác biệt giữa các nước trong và ngoài Liên minh. Đây cũng là
điểm được các đối tượng chịu thuế tìm cách để có được một mức thuế có lợi cho họ bằng các
phương pháp thay đổi vị trí giao dịch, tiến hành các giao dịch qua nhiều trung gian. Mặc dù
các cơ quan lập pháp cũng đã có sự mở rộng sự linh động trong việc áp dụng các cơ sở tính
thuế dựa trên cả khách hàng và người cung cấp dịch vụ, hàng hóa tuy nhiên lỗ hổng vẫn được
lợi dụng.
5. Tài liệu tham khảo
[1]
"Luật thuế GTGT năm 2008".
[2]
P. S. Đ. T. &. T. B. T. M. Hoài, "Tài chính công và phân tích chính sách thuế,"
2010.
[3]
O. Lytvnenko, "Khảo sát bốn trường hợp về mối liên quan giữa VAT và nhập
khẩu, một số ảnh hưởng trong tương lai".
[4]
Senyk, "Lên kế hoạch thuế VAT cho các giao dịch xuyên quốc gia," 2011.
[5]
B. Moossdorff, "Lý thuyết hấp thụ và việc phòng chống việc lợi dụng giảm trừ và
miễn thuế," 2012.
[6]
E. Sutkaitis, "Giao dịch nội địa Liên minh châu Âu và giao dịch chuỗi liên tiếp
trong khung điều chỉnh bởi thuê EU VAT," 2012.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thuegtgt_npduy_6549.pdf