Đặt Vấn Đề.
Trên thực tế hiện nay đã có rất nhiều tại nạn nằm ngoài sự chị phối, điều khiển của con người đe dọa tới an toàn về sức khỏe, tính mạng, tài sản . của của chúng ta mà nguyên nhân thì ta có thể kể đến như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Để chỉ những sự vật như vậy pháp luật đã có quy định gọi chung là nguồn nguy hiểm cao độ.
Khi có thiệt hại xảy ra thì vấn đề bồi thường thiệt hại được đặt ra và với nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cũng không phải là một ngoại lệ. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Thực tế hiện nay bồi thường thiệt hại nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho con người, tài sản , ngay cả những vấn đề lý luận thế là là nguồn nguy hiểm cao độ, hay thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được phát sinh trên cơ sở những điều kiện gì và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được giải quyết như thế nào?
Để cùng tìm hiểu và góp phần làm rõ các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, em xin được trình bày trong bài sau đây.
MỤC LỤC
A: Đặt Vấn Đề. ,,,,,, .1
B: Giải Quyết Vấn Đề. ., . 1
I : Một số vấn đề lý luận. . 1
1:Nguồn nguy hiểm cao độ. . 1
2: Các loại nguồn nguy hiểm cao độ. 2
3: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 5
4. Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. 7
5. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. .8
II: Thực tiễn vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
1.Một số tình huống . . 11
2: Một số kiến nghị về nguồn nguy hiểm cao độ do pháp luật quy định. .18
C: Kết Luận. 20
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3261 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A: Đặt Vấn Đề.
Trên thực tế hiện nay đã có rất nhiều tại nạn nằm ngoài sự chị phối, điều khiển của con người đe dọa tới an toàn về sức khỏe, tính mạng, tài sản…. của của chúng ta mà nguyên nhân thì ta có thể kể đến như máy móc, phương tiện, hệ thống điện, dây chuyền sản xuất trong nhà máy… bản thân hoạt động của nó luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh. Mặc dù con người luôn tìm mọi cách kiểm soát, vận hành nó một cách an toàn nhưng vẫn có những thiệt hại khách quan bất ngờ có thể xảy ra nằm ngoài sự kiểm soát đó. Để chỉ những sự vật như vậy pháp luật đã có quy định gọi chung là nguồn nguy hiểm cao độ.
Khi có thiệt hại xảy ra thì vấn đề bồi thường thiệt hại được đặt ra và với nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cũng không phải là một ngoại lệ. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Thực tế hiện nay bồi thường thiệt hại nguồn nguy hiểm cao độ gây ra đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cho con người, tài sản.., ngay cả những vấn đề lý luận thế là là nguồn nguy hiểm cao độ, hay thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được phát sinh trên cơ sở những điều kiện gì và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được giải quyết như thế nào?
Để cùng tìm hiểu và góp phần làm rõ các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, em xin được trình bày trong bài sau đây.
B: Giải Quyết Vấn Đề.
I : Một số vấn đề lý luận.
1:Nguồn nguy hiểm cao độ.
Điều 623 BLDS 2005 có quy định:
“1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.
Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.
2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.
Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.”
Theo quy định trên nguồn nguy hiểm cao độ được coi là những vật thú giữ.. có tiềm ẩn nguy cơ gây ra thiệt hai bất ngờ cho con người hoặc gây thiệt hại về tài sản mà không phải bao giờ con người cũng có thể lường trước và ngăn ngừa được.
Nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại phải được hiểu là chính sự hoạt động tự thân (tự tại) của nó gây ra mà, mà không có sự tác động bởi hành vi có lỗi của con người. Máy bay đang bay bị rơi, xe vận tải đang vận hành thì bị chết máy…Nguuồn nguy hiểm chỉ được xác định đối với người xung quanh, người không có quan hệ lao động liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ.
2: Các loại nguồn nguy hiểm cao độ.
Điều 623, BLDS 2005 quy định: “ Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”.
Theo quy định tại điều 623 thì có các loại nguồn nguy hiểm cao độ sau đây:
- Phương tiện giao thông vận tải sơ giới: hiện nay chưa có một văn bản pháp luật chính thức nào chính thức đưa ra khái niệm “phương tiện giao thông vận tải cơ giới”. Khoản 18, Điều 3, Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định: “ Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ( sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi ró moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo: xe ô tô hai bánh; xe ô tô ba bánh; xe gắn máy; (kể cả xe điện) và các loại xe tương tự”. Tuy nhiên, phương tiện giao thông vận tải sơ giới không chỉ giới hạn ở đường bộ mà còn có thể có phương tiện giao thông vận tải đường sắt, phương tiện giao thông cơ giới đường thủy và phương tiện giao thông cơ giới đường hang không.
Tuy nhiên trên thực tế có nhiều loại phương tiện đang nằm ngoài sự kiểm soát của pháp luật khi quy định về “ nguồn nguy hiểm cao độ”, chẳng hạn như xe đạp điện, xe Babetta, Java, hay máy thi công máy xúc, máy ủi-có thể coi đây là những loại xe tương tự sự liệt kê tại khỏan 18 điều 13, Luật giao thông đường bộ năm 2008.
Tàu biển được cũng được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Theo bộ luật hàng hải thì : “ Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di động khác chuyên dùng hoạt động trên biển”. Đối với tàu bay là phương tiện vận chuyển hàng trên không. Phương tiện giao thông đường sắt là đầu máy, toa xe, toa xe động lực, phương tiện chuyên dùng di chuyển trên đường sắt, nếu các phương tiện thô sơ di chuyển trên đường sắt thì không coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
- Hệ thống tải điện: Luật điện lực 2004 không đưa ra khái niệm hệ tải điện mà chỉ đưa ra khái niệm lưới điện ( hệ thống đường dây tải điện, máy biến áp và trang thiết bị phụ trợ để truyền dẫn điện) và thiết bị đo đếm điện ( thiết bị đo công suất, điện năng, dòng điên, điện áp, tần số, hệ số công suất, bao gồm các loại công tơ, các loại đồng hồ đo điện và các thiết bị, phụ kiện kèm theo). Tuy nhiên trong hệ thống truyền tải điện còn có thể có trang thiết bị máy phát điện nên cũng được xếp vào nguồn nguy hiểm cao độ.
- Nhà máy công nghiệp bao gồm nhà máy công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ…
Phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp chỉ được coi là nguồn nguy hiểm cao độ khi “ đang hoạt động”. Đối với hệ thống tải điện: Phải có dòng điện chạy qua. Đối với nhà ,máy công nghiệp: Phải đang trong quá trình vận hành sản xuất. Đối với phương tiện giao thông vận tải cơ giới: Hoạt động của xe cơ giới có thể là hoạt động di chuyển ( cơ học hoặc điều khiển) hoặc không di chuyển nhưng thiết bị đang được vận hành. Tất cả các loại tài sản trên trong trạng thái tĩnh thì không gây nguy hiểm cho những người xung quanh, ví dụ: xe ô tô dừng đỗ trên đỉnh dốc nhưng theo quán tính trượt xuống chân dốc gây thiệt hại; cột điện bị đổ trong lúc đang thi công, chưa có điện; thú dữ chết thối rữa gây dịch bệnh…
- Vũ khí có thể hiể là những vật dụng có thể dùng vào việc chiến đấu, có khả năng gây sát thương, vũ khí bao gồm: vũ khí thể thao, vũ khí quân dụng, súng săn, công cụ hỗ trợ… Chất cháy, chất nổ là chất rắn, chất lỏng, chất khí.. dễ gây ra cháy nổ.
- Chất độc là những chất có độc tính cao, rất nguy hiểm cho sức khỏe tính mạng của con người, động vật, cũng như đối với môi trường xung quanh.
- Chấp phóng xạ là “chất ở thể rắn, lỏng hoặc khí có hoạt động phóng xạ lớn hơn 70 kilo Beccơren trên kilogram. Chất phóng xạ là những nhân tố sát thương của vũ khí hạt nhân gồm những đồng vị khồng bền của những nguyên tố hóa học ( urani, rađi..), có khả năng phát ra những chum tia phóng xạ không nhìn thấy gây bệnh hoặc ô nhiễm đối với con người, động vật và môi trường sống.
- Thú dữ là động vật bặc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, to lớn, rất dữ và có thể làm hại con người, Vídụ Hổ, Báo..Đối với vật nuôi trong gia đình gây thiệt hại trong trường hợp nó hung dữ thì không được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Trong trường hợp nếu không có sự quản lý ( ở môi trường tự nhiên, thiên nhiên hoang dã) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại không phát sinh. Ong bò vẽ, rắn độc mặc dù không phải là “thú dữ” (theo các định nghĩa trong từ điển) nhưng phải coi là nguồn nguy hiểm cao độ vì đây là loại động vật còn mang tính hoang dã, chưa được thuần hóa và có tính chất nguy hiểm lớn.
Vì liệt kê các loại tài sản được coi là nguồn nguy hiểm cao độ chứ không đưa ra khái niệm nguồn nguy hiểm cao độ nên điều 623 BLDS còn đề cập “nguồn nguy hiểm cao độ khác” do pháp luật quy định. Như vậy, đây là quy định mang tính “ mở” của pháp luật liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu có văn bản pháp luật khác quy định bổ sung về nguồn nguy hiểm cao độ thì nguồn nguy hiểm cao độ còn được xác định theo các văn bản này.
3: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
3.1. Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ.
Pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi chủ thể trong xã hội và các quan hệ pháp luật. Việc gây thiệt hại trái pháp luật là những thiệt hại do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật không cho phép. Những thiệt hại về quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể trong xã hội do chính sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ.Thiệt hại phải do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ hoặc do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm gây ra.
Việc xác định thiệt hại là do “tác động của người” hay “tác động của vật” có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Những trường hợp thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhưng do “tác động của con người”, do hành vi của con người gây ra thì chỉ cần áp dụng nguyên tắc chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Hầu hết các vụ tai nạn, thiệt hại đều có sự tham gia của vật với vai trò trung gian như là công cụ, phương tiện mà con người sử dụng để gây thiệt hại như: đặt mìn để gây thiệt hại cho người khác, để đánh cá; dùng súng sát thương người khác; lái xe phóng nhanh, vượt ẩu gây tai nạn; dùng chất độc để đầu độc người khác; dùng nguồn điện để gài bẫy trộm; nhốt người vào chuồng hổ cho con thú tấn công… Những trường hợp này thiệt hại hoàn toàn do hành vi có chủ ý của con người chứ không phải do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại.
Trường hợp thiệt hại xảy ra do hoạt động nội tại của nguồn nguy hiểm cao độ, hoàn toàn độc lập và nằm ngoài sự quản lý, kiểm soát của con người thì sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra như: xe ô tô đang chạy với tốc độ cao đột nhiên mất phanh, mất lái hoặc nổ lốp gây ra thiệt hại; cháy, chập đường dây tải điện; cháy nổ trong nhà máy do trục trặc kỹ thuật…
Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ phải có tính trái pháp luật. Hoạt động của xe cần trục, xe ủi… khi phá dỡ các công trình xây dựng trái phép không thể coi là trái pháp luật. Có nhiều trường hợp do đặc tính của nguồn nguy hiểm cao độ mà việc gây thiệt hại của những phương tiện này không bị coi là trái pháp luật. Ví dụ, để bảo đảm an toàn giao thông đường sắt, những thiệt hại trên đường sắt do tàu hỏa gây ra cho các chủ thể khác không bị coi là trái pháp luật và ngành đường sắt không có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh đó, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng loại trừ các trường hợp thiệt hại xảy ra do lỗi cố ý của người bị thiệt hại hoặc do sự kiện bất khả kháng, tình thế cấp thiết (Theo Điều 623 Bộ luật dân sự). Nói tóm lại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là trách nhiệm đối với sự kiện gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ chứ không phải thiệt hại do hành vi của con người.
3.2. Nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho “người xung quanh”.
Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Có những chủ thể do mối quan hệ sở hữu, lao động mà họ trực tiếp tiếp xúc với nguồn nguy hiểm cao độ. Đối với chủ sở hữu, họ phải tự chịu mọi rủi ro đối với thiệt hại do tài sản của mình gây ra. Đối với người bị thiệt hại trong khi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động, họ sẽ được hưởng bồi thường theo chế độ bảo hiểm tai nạn lao động. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”- là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này.
Do đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là những loại tài sản có khả năng gây ra thiệt hại trong quá trình vận hành, sử dụng chúng, thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ có thể là những thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe. Thiệt hại về danh dự, uy tín, nhân phẩm – là những thiệt hại chỉ có thể phát sinh do hành vi của con người nên không thuộc phạm vi tác động của nguồn nguy hiểm cao độ.
3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra.
Điều kiện này đòi hỏi hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ là nguyên nhân tất yếu, nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn đến thiệt hại và thiệt hại xảy ra là kết quả của hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điểm mấu chốt quan trọng là xác định thiệt hại đó do nguyên nhân nào gây ra. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng.
4. Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Khi có việc gây thiệt hại, người bị thiệt hại được bảo đảm bồi thường ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có lỗi. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một trong những trường hợp đặc biệt, theo đó, trách nhiệm bồi thường phát sinh khi không cần xem xét đến điều kiện lỗi. Khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự quy định “Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗ, trừ các trường hợp sau đây.
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Nếu như các trường hợp bồi thường thiệt hại thông thường dựa trên sự suy đoán lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dựa trên sự suy đoán trách nhiệm đối với người có nghĩa vụ quản lý nguồn nguy hiểm cao độ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ được áp dụng khi hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ nằm ngoài khả năng kiểm soát, điều khiển của người chiếm hữu, vận hành và là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thiệt hại. Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của con người trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này mà sẽ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không loại trừ khả năng thiệt hại cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ nhưng hành vi của người trông giữ, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ không phải nguyên nhân có tính quyết định đến thiệt hại. Chủ sở hữu, người đang chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ không được miễn trừ trách nhiệm bồi thường kể cả trong trường hợp họ chứng minh được mình không có lỗi trong việc trông giữ, bảo quản, vận hành nguồn nguy hiểm cao độ. Chúng tôi đồng tình với quan điểm này bởi lẽ yếu tố lỗi không phải là một điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Dấu hiệu quan trọng nhất để xác định trách nhiệm này là hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ chính là nguyên nhân trực tiếp, là yếu tố quyết định dẫn đến thiệt hại. Hoạt động gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ có thể hoàn toàn không có lỗi của con người (như xe đang chạy trên đường bất ngờ nổ lốp trước dẫn đến đổi hưởng đột ngột gây thiệt hại) hoặc cũng có thể có một phần lỗi của người quản lý, điều khiển, tuy nhiên lỗi ở đây chỉ đóng vai trò thứ yếu đối với thiệt hại (như trước khi xuống dốc, lái xe không kiểm tra lại phanh; lốp mòn nhưng chưa thay do chủ quan nghĩ rằng xe vẫn vận hành tốt…). Nếu thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi, do hành vi của người điều khiển nguồn nguy hiểm cao độ thì không áp dụng trách nhiệm này.
5. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 623 Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Bộ luật dân sự 2005 và Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có thể được áp dụng với các chủ thể sau:
Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nêu Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng “khoản 2 phần III. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623 BLDS)” có nêu :
-Người được chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trừ trường hợp giữa chủ sở hữu và người được giao chiếm hữu, sử dụng có thoả thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường.
Ví dụ: Các thoả thuận sau đây là không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không nhằm trốn tránh việc bồi thường:
- Thoả thuận cùng nhau liên đới chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại; Thoả thuận chủ sở hữu bồi thường thiệt hại trước, sau đó người được giao chiếm hữu, sử dụng sẽ hoàn trả cho chủ sở hữu khoản tiền đã bồi thường; Ai có điều kiện về kinh tế hơn thì người đó thực hiện việc bồi thường thiệt hại trước.
Trong trường hợp chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ không theo đúng quy định của pháp luật mà gây thiệt hại, thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: Chủ sở hữu biết người đó không có bằng lái xe ô tô, nhưng vẫn giao quyền chiếm hữu, sử dụng cho họ mà gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại.
-Nếu chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đã giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác mà gây thiệt hại thì phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Ví dụ: A là chủ sở hữu xe ô tô đã giao xe ô tô đó cho B. B lái xe ô tô tham gia giao thông đã gây ra tai nạn và gây thiệt hại thì cần phải phân biệt:
- Nếu B chỉ được A thuê lái xe ô tô và được trả tiền công, có nghĩa B không phải là người chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà A vẫn chiếm hữu, sử dụng; do đó, A phải bồi thường thiệt hại. Nếu B được A giao xe ô tô thông qua hợp đồng thuê tài sản, có nghĩa A không còn chiếm hữu, sử dụng xe ô tô đó mà B là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp; do đó, B phải bồi thường thiệt hại. Nếu trong trường hợp này được sự đồng ý của A, B giao xe ô tô cho C thông qua hợp đồng cho thuê lại tài sản, thì C là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó; do đó, C phải bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý một số trường hợp sau:
Thứ nhất: Người được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng thiệt hại xảy ra không phải trong lúc người đó thực hiện nhiệm vụ mà người sử dụng lao động giao cho thì ai sẽ bồi thường. Ví dụ: Anh A là lái xe theo hợp đồng của Công ty X, có nhiệm vụ trở hàng đi giao. Trên đường đi giao hàng, A tranh thủ lái xe đi chơi bạn gái. Xe bị mất lái trong lúc A điều khiển xe đi chơi dẫn đến gây thiệt hại. Trong trường hợp này, thiệt hại xảy ra không phải trong lúc A đang thực hiện nghĩa vụ lao động vì lợi ích của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Vì vậy, A à người đang thực tế chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ hai: Giữa người lao động và người sử dụng lao động có thỏa thuận người lao động phải chịu mọi trách nhiệm khi nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại.
+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự.
- Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, Bộ luật dân sự 2005 phân định thành 2 trường hợp.
+ Nếu chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ hoàn toàn không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu, người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ sẽ được giải trừ khỏi trách nhiệm bồi thường nếu họ chứng minh được đã tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ trong việc bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo quy định của pháp luật.
+ Trường hợp chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường cùng người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
- Ngoài những trường hợp pháp luật quy định, trên thực tế có trường hợp chủ sở hữu bắt buộc phải chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác theo quy định của pháp luật, ví dụ: người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước trưng dụng tài sản của các cá nhân, tổ chức khi cần thiết để bảo vệ lợi ích chung; hoặc tạm thu giữ tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền… Trong những trường hợp này, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ bắt buộc chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo chúng tôi, pháp luật nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng được chuyển giao cho cơ quan nhà nước đó.
II: Thực tiễn vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Để cùng làm rõ vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ xin được đi vào tìm hiểu 1 số ví dụ xảy ra trong cuộc sống.
1.Một số tình huống .
1.1 Tình huống thứ nhất: thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại
1) Nội dung vụ án như sau: Công ty cổ phần An Sinh (CTCPAS) có trụ sở tại quận Cầu Giấy, TP Hà Nội ký hợp đồng với Xí nghiệp Xây dựng công trình 1 thuộc Công ty Cầu 75 (XNXDCT1). Theo đó, CTCPAS cho XNXDCT1 thuê một chiếc xe ô tô chở bê tông với thời gian thuê là 12 tháng, kể từ ngày 18/5/2006 đến hết ngày 18/5/2007 với giá 22 triệu đồng/tháng, giá này đã bao gồm thuế VAT, lương lái xe. Đồng thời CTCPAS điều động Nguyễn Trung Dĩ (là lái xe của CTCPAS, có ký hợp đồng lao động với CTCPAS từ ngày 11/5/2005 đến hết ngày 11/5/2008) đi lái chiếc xe mang biển số 29U – 4578 để vận chuyển bê tông cho XNXDCT1.
Đêm ngày 24/1/2007, Nguyễn Trung Dĩ thực hiện nhiệm vụ điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 29 U – 4578 để chở bê tông cung cấp cho công trình thi công trụ sở tỉnh uỷ Hà Nam. Đến 2h15 phút ngày 25/1/2007, Nguyễn Trung Dĩ điều khiển xe theo hướng Phủ Lý đi Nam Định, đến Km số 4 + 600 thuộc quốc lộ 21A thuộc địa phận thôn Văn Lâm, xã Liêm Tiết, huyện Thanh Liêm nơi có đường bộ và đường sắt giao nhau để đổ bê tông thừa xuống đường. Trên xe do Dĩ điều khiển ngoài Dĩ còn có Đào Xuân Ánh, Nguyễn Trọng Thám (công nhân XNXDCT1) và anh Nguyễn Văn Hồng (trú tại thôn Đại Cầu, xã Tiên Tân, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam). Khi việc xả đổ bê tông vừa hoàn thành, hai bánh trước của xe ô tô vẫn đứng trên đường sắt thì đầu máy D19E – 902 kéo tàu Thống Nhất II của Tổng Công ty đường sắt Việt Nam do anh Nguyễn Mạnh Hải ở Xí nghiệp đầu máy Hà Nội điều khiển chạy hướng Nam Định – Phủ Lý đi tới đã đâm vào xe ô tô 29U – 4578, hất xe ô tô đổ văng xuống đường quốc lộ 21A làm anh Hoàng Văn Cương (phụ lái tàu Thống Nhất II), Đào Xuân Ánh, Nguyễn Trọng Thám, Nguyễn Xuân Hồng bị thương và được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Hậu quả: Anh Đào Xuân Ánh, Nguyễn Trọng Thám bị chết (do vết thương quá nặng), Nguyễn Trung Dĩ, Nguyễn Văn Hồng và Hoàng Văn Cương bị thương, xe ô tô 29 U – 4578 và đầu máy D19E – 902 bị hư hỏng nặng.
Giải quyết của tòa.
Nguyễn Trung Dĩ bị VKSND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam truy tố về tội “Vi phạm các qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 3, Điều 202 – Bộ luật Hình sự năm 1999.
Ngày 26 tháng 9 năm 2007, TAND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam đã mở phiên toà xét xử đối với Nguyễn Trung Dĩ. Trong vụ án này, ngoài bị cáo Nguyễn Trung Dĩ thì TAND huyện Thanh Liêm xác định tư cách tố tụng như sau: Tổng Công ty đường sắt Việt Nam là nguyên đơn dân sự, XNXDCT1 thuộc Công ty Cầu 75 là bị đơn dân sự, CTCPAS là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Trung Dĩ rõ ràng, tại phiên toà bị cáo đã khai nhận tội. Tuy nhiên, điều đáng bàn trong vụ án này liên quan đến “phần dân sự” – đó là phần bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty đường sắt Việt Nam. Hội đồng xét xử đã căn cứ vào Điều 608 (thiệt hại do tài sản bị xâm phạm) và Điều 623 (Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra) của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) quyết định: Buộc XNXDCT1 thuộc Công ty Cầu 75 bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty đường sắt Việt Nam 152.763.000 đồng (bao gồm chi phí sửa chữa đầu máy, thời gian chậm tàu…) và XNXDCT1 phải chịu 7.122.000 đồng án phí.
Nhận xét về vụ việc.
Đối với phần dân sự trong vụ án này, việc Hội đồng xét xử áp dụng Điều 623 BLDS2005 để buộc XNXDCT1 thuộc Công ty Cầu 75 bồi thường thiệt hại cho Tổng Công ty đường sắt Việt Nam là không đúng qui định của pháp luật. Với vụ án này: Xe ô tô chở bê tông đúng là “nguồn nguy hiểm cao độ”, tuy nhiên thiệt hại trong trường hợp này lại không phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra mà là thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ, do hành vi trái pháp luật của con người gây ra. Nguyễn Trung Dĩ là lái xe của CTCPAS đã điều khiển xe ô tô đến địa phận đường bộ và đường sắt giao nhau, đỗ xe ở đó và đổ bê tông thừa là vi phạm qui định của Luật Giao thông đường bộ. Điều 16, Khoản 2, Luật Giao thông đường bộ qui định: “Cấm lùi xe ở khu vực cấm dừng, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường, nơi đường bộ giao nhau, đường bộ giao cắt đường sắt, nơi tầm nhìn bị che khuất, trong hầm đường bộ.” Như vậy, hành vi vi phạm của Nguyễn Trung Dĩ được xác định là trong khoảng thời gian thực thi nhiệm vụ của pháp nhân giao cho (CTCPAS điều động), do đó pháp nhân (CTCPAS) phải chịu trách nhiệm về hành vi của thành viên pháp nhân khi thành viên đó gây thiệt hại. Do đó, trường hợp này cần phải áp dụng Điều 618 BLDS 2005 (Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra) mới đúng. Hành vi trái pháp luật của con người ở đây là “hành vi có lỗi” để nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại chứ không phải là hành vi “sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ” là công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Nếu hành vi sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là công cụ, phương tiện gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định là trách nhiệm thông thường của hành vi trái pháp luật gây thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại của Nguyễn Trung Dĩ cho Tổng Công ty đường sắt Việt Nam là hành vi trái pháp luật, hành vi trái pháp luật của Dĩ gây ra liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ (ô tô chở bê tông), chứ không phải là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
2) Nguyễn Văn Nam là người quê Thanh Hóa hiện đang cư trú tại Nghệ An là người lái xe ôtô 3 tấn chuyên chở hàng đi giao cho các đại lí hàng tạp hóa ở thành phố Vinh, một hôm anh Nam đang đi trên đường Quang Trung với tốc độ 60km/h, bỗng nhiên trên đường giao thông có một người đang chạy ra từ 1 nhà dân thẳng ra đường đứng ngay trước mũi xe của anh đứng im không hề có ý định né tránh chiếc xe của anh với mục đích tự tử, anh Nam thấy vậy liền đột ngột kéo phanh để hãm tốc độ xe lại nhưng vừa mới phanh xe nhưng không kịp theo đà di chuyển xe tiến nên đâm thẳng vào gây ra cái chết cho chị Đào Thu Hương. Được tin báo con chết gia đình chị Hương bắt anh Nam là phải đền bù thiệt hại cho gia đinh về cái chết của chị Hương 70 triệu bằng không gia đình sẽ kiện anh ra tòa, anh Nam không biết thế nào nhưng qua lời kể của những người bán hàng chứng kiến ở đấy anh được biết Hương là người cư trú tại nơi đấy trong thời gian trước khi tai nạn Hương có cãi cọ to tiếng với ba mẹ “ba mẹ không cần đứa con này thì con cũng không muốn sống nữa.” Hương đã phi thẳng ra đường. Nghe được kể như vậy anh Nam nghĩ mình không có lỗi trong việc này nên không bồi thường. Gia đình chị Hương đã kiện anh ra tòa.
Nhận xét về vụ việc.
Ở đây anh Nam không phải bồi thường thiệt hại cho gia đình chị Hưởng bởi cái chết của chị Hương là do lỗi cố ý của chị Hương, cố tình lao vào xe ôtô của anh để tự tử. Ở đây chiếc xe ôtô là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ không được đặt ra. Bởi theo khoản 3 điều 623 BLDS “. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Theo như khoản này thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại mà cụ thể là ở đây là chị Hương, còn anh Nam không có lỗi gì anh vẫn đi đúng tốc độ và làn đường cho xe không hề vi phạm pháp luật về giao thông. Anh Nam sẽ không phải bồi thường cho cái chết chủa chị Hương. Theo như hướng dẫn tại nghị quyết số 03/HDTP năm 2006 quy định và hướng dẫn cụ thể đối với trường hợp này “Về nguyên tắc chung chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:
- Thiệt hại xảy ra là hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
Ví dụ: Xe ô tô đang tham gia giao thông theo đúng quy định của pháp luật, thì bất ngờ có người lao vào xe để tự tử và hậu quả là người này bị thương nặng hoặc bị chết. Trong trường hợp này chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe ô tô đó không phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ (xe ô tô) gây ra.” Tronng cuộc sống hiện nay tự tử lao vào xe ôtô đang đi trên đường là những trường hợp thường xảy ra chính vì vậy việc nghị quyết số 03 đưa ra ví dụ hướng dẫn việc này để dễ dàng cho việc áp dụng xử lý vụ việc 1 cách chính xác.
1.2: Thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi chủ sở hữu trực tiếp sử dụng, quản lý.
Khoảng 19h ngày 10/4/2009, trong lúc đoàn xiếc của Doanh nghiệp tổ chức biểu diễn nghệ thuật Hòa Bình đang tiến hành buổi biểu diễn xiếc thú nghệ thuật miễn phí cho trẻ em tại khu vực sân bóng xã Tân Tiến, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên thì đến phần biểu diễn xiếc voi, bất ngờ, con voi không nghe theo sự điều khiển của người quản lí mà đột nhiên lao về phía khán giả đang ngồi dưới. Con voi tiến lại phía Hương; nó đã dùng vòi cuốn lấy Hương lên vật quang ra đập vào trụ. Sợ hãi và hoảng hốt, sau khi con voi quật ngã Hương, người của đoàn xiếc Hòa Bình mới đến dẫn voi đi nơi khác rồi đưa Hương đến bệnh viện đa khoa huyện Vắn Giang xác định em bị gẫy tay và trấn thương cột sống xác định chi phí điều trị mất khoảng 70 triệu. Về phía đoàn xiếc Hòa Bình cho rằng việc em Hương bị thương tích là sự kiện bất ngờ con voi này nhiều năm được thuần hóa và rất hiền lành, việc gây thiệt hai hoàn toàn nằm ngoài tầm kiểm soát của nhân viên đoàn. Vì vậy, đoàn xiếc Sao Mai không có lỗi trong sự việc trên và theo đó và đoàn xiếc sẽ chỉ hỗ trợ một phần kinh phí cho việc chữa chạy cho em Hương. Trước thiệt hại lớn đối với gia đình em Hương, mà gia đình khó có khả năng chi trả hết gia đình đã yêu cầu đoàn xiếc phải bồi thường toàn bộ thiệt hại gây ra đối với em. Gia đình em Hương đã quyết định kiện ra tòa án nhân dân huyện Văn Giang.
Hướng giải quyết của tòa
Căn cứ điểm a điều 1 mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, có thể xác định thú dữ là nguồn nguy hiểm cao độ. “Thú dữ là động vật bậc cao, có lông mao, có tuyến vú, nuôi con bằng sữa, to lớn, rất dữ, có thể làm hại người.” Voi dù đã được thuần hóa để sử dụng biểu diễn xiếc nhưng voi thực sự vẫn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây thiệt hại của voi. Tòa đã xác định voi là nguồn nguy hiểm cao độ. Thiệt hại về sức khỏe của em Hương xảy ra trong trường hợp này hoàn toàn do sự tác động của bản thân con voi – là nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Theo quy định tại khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 và điểm a điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tòa đã ra quyết định chủ thể phải bồi thường thiêt hại trong trường hợp này là Doanh nghiệp tổ chức biểu diễn nghệ thuật Hòa Bình và đồng thời áp dụng khoản 2.1; 2.2 và điểm a khoản 2.4 Điều 2 Mục II Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Nhận xét về vụ việc:
Đây là thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, Voi dù đã được thuần hóa nhưng con người không thể hoàn toàn làm chủ được bản tính hoang dã vẫn còn trong chúng. Vấn đề con voi gây thiệt hại về sức khỏe cho em Hương ở đây do tự thân con voi mà không có sự điều khiển của con người hay sự tác động nào, Theo như khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 và điểm a điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: “ Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Chủ sở hữu đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ là đang thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hôi; khai thác công dung, hưởng hoa lợi, lợi tức từ nguồn nguy hiểm cao độ, thì gánh xiếc là chủ thể của quan hệ pháp luật có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho em Hường vì gánh xiếc trực tiếp quản lí con voi và thu lợi nhuận từ hoạt động biểu diễn xiếc của con voi.
1.3. Tự chịu rủi ro.
Vào buổi tối ngày 29/10 năm 2010, anh Vũ đang điều khiển chiếc môtô với tốc độ cho phép 45km/h, bánh xe trước của môtô vấp phải hòn đá có đừng kính khoảng 7 cm trên đường và hoàn đá bật bắn nên bay thằng vào mặt anh Huy đang đi bộ trên đường, hoàn đá bắn thẳng vào mắt khiến anh Huy bị ở mắt vào viện điều trị chi phí xác định được hết 10 triệu đồng. Anh Huy đòi anh Vũ phải bồi thường cho mình, anh Vũ lại cho rằng đây là lỗi vô ý tôi không hề biết, và tôi cũng không có thù oán hay quan hệ gì với anh nên việc gây thiệt hại là ngoài ý muốn chứ không có lỗi, việc này chỉ là rủi ro không may, anh Huy đã kiện anh Vũ ra tòa để được bồi thường.
Nhân xét về vụ việc.
Anh Vũ không có trách nhiệm phải bồi thường cho anh Huy, bởi sự kiện xảy ra theo tình huống trên là thuộc sự kiện bất ngờ, Xe môtô là nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng thiệt hại ở đây lại không phải do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và cũng không có hành vi trái pháp luật của anh Vũ, anh Vũ vấn đi bình thường trên đường. Vấn đề trách nhiệm bồi thường ở đây không được đặt ra. Trong tình huống này anh Huy chịu rủi ro và không thể yêu cầu anh Vũ bồi thường.
1.4: thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra nhưng bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật.
Thấy nhà An đang dựng xe vespa trước cổng đi vào trong nhà, do bận lấy tài liệu An để chìa khóa ngay trên bàn uống nước và chỉ cài của ngõ. Bình quan sát chú ý rất kĩ, thấy An đi lên tằng 2 Bình liền mở cổng lấy trộm chiếc chìa khóa xe máy ra mở xe máy ăn trộm chiếc xe máy của An. Đang đi xe trên đường bỗng xe nổ lốp, Bình bị mất tay lái liền qua chạm vào xe đang đi bên cạnh là chị Lan đang đi xe đạp ngã văng ra bị gẫy tay vào viện điều trị mất 8 triệu đông. Bình bị tịch thu xe và xe được trả lại cho anh An, Chị Lan yêu cầu Bình bồi thường nhưng Bình không chịu nhất quyết cho rằng đây là vô ý không do lỗi của mình nên không chấp nhận phải bồi thường.
Nhận xét tình huống:
Có thể thấy chiếc xe máy của An là phương tiện giao thông, được quy định trong BLDS là nguồn nguy hiểm cao độ. An là chủ sở hữu chiếc xe máy đó nhưng Bình là người chiếm hữu sử dụng trái pháp luật chiếc xe đó. Nên trong trường hợp này Bình phải bồi thường thiệt hại cho C theo khoản 4 Điều 623 BLDS năm 2005.
Tuy nhiên, trong trường hợp chủ sở hữu có lỗi trong việc trông coi, vận chuyển, quản lý, sử dụng để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải chịu bồi thường liên đới với người chiếm hữu sử dụng trái pháp luật cả khi chủ sở hữu, người được giao chiếm hữu, sử dụng không có lỗi trong việc gây tai nạn. Tùy theo mỗi loại nguồn nguy hiểm cao độ mà mức độ, phạm vi, biện pháp trông coi, quản lý, vận chuyển , sử dụng khác nhau. Do vậy để nhận định thế nào là có lỗi trong việc trông coi, vận chuyển, sử dụng phải căn cứ vào các quy định liên quan đến việc trông coi , bảo quản, vận chuyển, sử dụng một đối tượng nguồn nguy hiểm cao độ cụ thể ( xe máy thì bảo quản, trông coi theo quy định Luật giao thông đường bộ; thuốc nổ, vũ khí thì trông coi, bảo quản theo quy định của Nghị định 175…). Ví dụ : A là chủ xe máy, A dừng xe ngay trên vỉa hè đi vào siêu thị nhưng vẫn để khóa xe, B trộm xe A, mở khóa, điều khiển xe chạy thì bị đuổi bắt và xe B gây tai nạn cho C. Trường hợp này A và B liên đới bồi thường cho C.
2: Một số kiến nghị về nguồn nguy hiểm cao độ do pháp luật quy định.
Trong thực tế vẫn còn những sự vật khác mà hoạt động của chúng luôn chứ đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường xung quanh, con người không thể hoàn toàn kiểm soát được nguy cơ gây hại đó ví dụ như xe đạp điện, xe máy dung tích dưới 50 cm3 khi đi với tốc độ cao vẫn có khả năng nguy hiểm hay như ong vò vẽ, rắn độc mặc dù không phải thú dữ nhưng vẫn mang tính hoang dã nên vẫn tiềm ẩn nhiều nguy hiểm... vì vậy ngoài những đối tượng được liệt kê trong khoản 1 điều 623 BLDS 2005, nên có có quy định xác định tiêu chí chung để được coi là nguồn nguy hiểm cao độ.
1: Về điều kiện áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Hiện nay chưa có quy định nào phân định cụ thể: khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và khi nào áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra dẫn đến có những cách hiểu và áp dụng không thống nhất trên thực tế. Thực tiễn cho thấy khi xét xử, nhiều trường hợp cứ thấy thiệt hại có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ là áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, bất kể nguyên nhân gây thiệt hại là do con người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Cần có quy định rõ ràng về việc trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra chỉ phát sinh khi thiệt hại là do sự tác động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
2: Cần phân định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác chiếm hữu, sử dụng, cụ thể là trường hợp chuyển giao theo quan hệ lao động và chuyển giao theo quan hệ dân sự:
+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác theo nghĩa vụ lao động: Nếu thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong quá trình người lao động quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nhiệm vụ được giao thì trách nhiệm bồi thường thuộc về chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. Nếu người được giao quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo nghĩa vụ lao động nhưng lại sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ vào mục đích khác không theo nhiệm vụ mà gây thiệt hại thì họ phải tự chịu trách nhiệm.
+ Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ được chuyển giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng theo một giao dịch dân sự. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước tiên căn cứ vào sự thỏa thuận giữa các bên khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận ai phải chịu trách nhiệm bồi thường thì áp dụng nguyên tắc chung của pháp luật, bên mượn, thuê, nhận cầm cố, nhận gửi giữ, được ủy quyền quản lý tài sản là những người chiếm hữu, sử dụng tài sản có căn cứ pháp luật, vì vậy họ có nghĩa vụ trông coi, quản lý nguồn nguy hiểm cao độ, không để tài sản mình quản lý gây thiệt hại cho người khác. Trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại khi đang thuộc quyền chiếm hữu, quản lý của họ thì họ phải chịu trách nhiệm bồi thường.
3: Hiện nay trách nhiệm bồi thường nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên chưa được đặt ra. Mặc dù những tài sản tự nhiên như vậy được quy định là thuộc sở hữu của nhà nước, các bộ ngành liên quan nhưng trên thực tế không có văn bản nào quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm bồi thường do vậy quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại không được đảm bảo. Vì thế cần phải bổ sung những văn bản pháp lí quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước hoặc các bộ ngành liên quan trong trường hợp thiệt hại cho chủ thể do nguồn nguy hiểm cao độ trong tự nhiên gây ra. Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong trường hợp cơ quan Nhà nước chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức để phục vụ lợi ích công cộng như: trưng dụng, tạm giữ…
C: Kết Luận.
Xã hội ngày một phát triển, khoa học kĩ thuật ngày càng tiên tiến, những vấn đề phát sinh trong đời sống cũng rất phức tạp đồng thời cũng kéo theo nhiều vấn đề mới từ bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và sự đa dạng của nó. Tuy nhiên trong thực tế những quy định pháp luật đã quy định gần như là hết mức có thể để hoàn thiện một cách đầy đủ nhưng không có gì là hoàn thiện tất cả. Khi xét sử các cụ kiên liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ cho thấy vẫn có nhiều vấn đề cần bàn luận thêm bởi các quan hệ xã hội rất đa dạnh và phức tạp, vấn đề đặt ra đòi hỏi pháp luật phải bắt kịp và có những quy định hoàn thiện hơn, và đầy đủ để đảm bảo đúng quyền và lợi ích của các chủ thể trong xã hội.
MỤC LỤC
A: Đặt Vấn Đề. …………………………,,,,,,…...1
B: Giải Quyết Vấn Đề. ……………………….,….…1
I : Một số vấn đề lý luận. ………………………………………….…....1
1:Nguồn nguy hiểm cao độ. …………………………………………………...…..1
2: Các loại nguồn nguy hiểm cao độ. …………………………………………......2
3: Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. ………………………………………………………………………5
4. Lỗi đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.……………………………………………………………………………………7
5. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. ……………………………………………………………………………...........8
II: Thực tiễn vấn đề bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
1.Một số tình huống . …………………………………………………….…..11
2: Một số kiến nghị về nguồn nguy hiểm cao độ do pháp luật quy định. ...18
C: Kết Luận. …………………………...….20
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo.
1: Giáo Trình Luật Dân Sự Việt Nam 2 ( Trường đại học luật Hà Nội).
2: Giáo Trình Luật Dân Sự Việt Nam tập 2 (TS. Lê Đình Nghị).
3:
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA . (TS. VŨ THỊ HẢI YẾN – Khoa Pháp luật Dân sự)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ- các vấn đề liên quan đến bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.doc