Các vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thương mại

Nghiên cứu các vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài cùng với việc tìm hiểu, so sánh, với hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới, từ đó đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn.

doc58 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8317 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trọng tài giải quyết không có lợi cho mình, mặc dù trước đó đã công nhận hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Do đó, cần quy định cụ thể, rõ ràng hậu quả của việc ký kết thỏa thuận trọng tài không đúng thẩm quyền và nguyên tắc “mặc nhiên ủy quyền” trong pháp luật về trọng tài. Ở Pháp, thực tiễn xét xử đã áp dụng thuyết “thẩm quyền đại diện bề ngoài” Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), sđd, tr.325. . Theo đó, nếu một người hành động mà người ngoài có lý do tin rằng họ có thẩm quyền đại diện cho một người thì người này (người được đại diện) chịu sự ràng buộc, người này không được viện dẫn các quy định về vượt quá hay không có thẩm quyền để từ chối hệ quả pháp lý của thỏa thuận trọng tài. Có một án lệ tại Pháp về vấn đề này như sau: một trong những giám đốc (công ty có nhiều giám đốc mà họ không phải là đại diện theo pháp luật như giám đốc điều hành một lĩnh vực) của một công ty ký thỏa thuận trọng tài nhưng lại không được ủy quyền làm việc này. Khi xảy ra tranh chấp, theo Tòa Thượng thẩm Paris, giả thiết rằng công ty không chính thức ủy quyền cho giám đốc này thì công ty vẫn chịu sự ràng buộc về thỏa thuận trọng tài vì đối tác đã tin một cách chính đáng là người này có thẩm quyền ký thỏa thuận trọng tài. Pháp luật Cộng đồng Châu Âu cũng đã theo hướng của án lệ Pháp. Năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài Chủ thể ký kết thỏa thuận trọng tài là một vấn đề quan trọng bởi không phải bất kỳ ai cũng có thể được ký kết thỏa thuận trọng tài. Khoản 3 Điều 18 LTTTM quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “người xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự”. Có những trường hợp một bên ký kết thỏa thuận trọng tài là pháp nhân không tồn tại trên thực tế, vì vậy mà thỏa thuận trọng tài đã ký không còn hiệu lực pháp lý nữa. Trường hợp này cho thấy rõ ràng pháp nhân đã không có năng lực dân sự. Như vậy “người xác lập” quy định trong LTTTM nên được hiểu là cá nhân trực tiếp ký thỏa thuận trọng tài hoặc cũng có thể chính là pháp nhân mà cá nhân đó đại diện. Theo quy định tại BLDS 2005 “năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự” còn “năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Điều 86 BLDS 2005 cũng quy định về năng lực pháp luật của pháp nhân như sau: “Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân là khả năng của pháp nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự phù hợp với mục đích hoạt động của mình”. Đối với cá nhân, năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự là hai khái niệm khác nhau, phát sinh ở những thời điểm khác nhau. Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự nhưng không phải ai cũng có năng lực hành vi dân sự. Đối với pháp nhân, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật như một chủ thể bình đẳng, độc lập với các chủ thể khác, cho nên pháp nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Nhưng khác với năng lực chủ thể của cá nhân, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của pháp nhân phát sinh đồng thời và tồn tại tương ứng cùng với thời điểm thành lập và đình chỉ pháp nhân. Như vậy, khi không có năng lực pháp luật dân sự thì đương nhiên pháp nhân sẽ không có năng lực hành vi. Khoản 3 Điều 10 Pháp lệnh quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “một bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”. Nghị quyết 05/2003/NQ- HĐTP cũng đã có hướng dẫn về trường hợp này: “Đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 10 Pháp lệnh, thì theo quy định của Bộ luật Dân sự người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; do đó, để chứng minh người ký thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải có giấy tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Toà án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự”. Dường như cả Pháp lệnh và Nghị quyết 05/2003/NQ- HĐTP đều chỉ đề cập đến năng lực chủ thể đối với người trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài mà quên đi vấn đề năng lực dân sự của pháp nhân. Tranh chấp dưới đây là một ví dụ cho trường hợp này. Đó là tranh chấp giữa Công ty TNHH Thủ Đô II và Công ty PT VINDOEXIM (INDONESIA) (Quyết định số 207/205/QĐ- TANDTC ngày 13-10-2005 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội) Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), sđd, tr.104. . Tranh chấp giữa hai bên đã được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Ngày 24-9-2004 Công ty TNHH Thủ Đô II yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hủy quyết định trọng tài vì cho rằng Công ty PT VINDOEXIM không có thật trên đất nước INDONESIA, việc ông Phan Bá Hưng đã nhân danh là Giám đốc Công ty PT VINDOEXIM là không đúng. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử không xem xét về sự tồn tại của Công ty PT VINDOEXIM mà chỉ căn cứ vào việc ông Phan Bá Hưng không có văn bản nào chứng minh được Công ty PT VINDOEXIM ủy quyền ký kết thỏa thuận trọng tài nên theo Khoản 2 Điều 10, Khoản 2 Điều 54 Pháp lệnh chấp nhận đơn yêu hủy quyết định trọng tài. Sau đó, đại diện theo ủy quyền của ông Phan Bá Hưng là ông Lê Trường Sơn đã kháng cáo toàn bộ Quyết định hủy quyết định trọng tài của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Xét nội dung đơn kháng cáo của ông Lê Trường Sơn và các tài liệu do ông Lê Trường Sơn xuất trình, Hội đồng xét xử thấy không đủ căn cứ để xác định tư cách pháp nhân (năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân) của Công ty PT VINDOEXIM là chủ thể trong quan hệ thương mại theo quy định tại Điều 3 Luật Thương mại và Điều 832 BLDS 1995. Bởi lẽ các tài liệu này là các tài liệu do cơ quan có thẩm quyền nước Cộng hòa INDONESIA lập, cấp và xác nhận bằng tiếng INDONESIA hoặc tiếng Anh nhưng lại không được hợp pháp hóa lãnh sự hoặc có hợp pháp hóa lãnh sự thì lại đều là bản photocopy, không có bản chính; các bản dịch hầu hết không có công chứng, chứng thực hợp lệ… Hội đồng xét xử nhận định khi không có căn cứ pháp lý để xác định tư cách pháp nhân của Công ty PT VINDOEXIM theo pháp luật Việt Nam, thì đương nhiên việc xác nhận về tư cách đại diện của ông Phan Bá Hưng cũng không có giá trị pháp lý theo pháp luật Việt Nam. Do đó, tòa án đã bác kháng cáo của ông Lê Trường Sơn, giữ nguyên Quyết định hủy quyết định trọng tài của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Như vậy, rõ ràng trong trường hợp trên thoả thuận trọng tài vô hiệu do một bên tranh chấp là pháp nhân không xác định được tư cách pháp nhân hay nói cách khác là không có năng lực pháp luật dân sự. Tuy nhiên nguyên nhân này không được làm rõ trong Khoản 3 Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài cũng như trong Nghị quyết 05/2003/NQ- HĐTP. Như đã phân tích ở trên, cả hai văn bản này dường như chỉ đề cập đến năng lực hành vi của cá nhân. Chính vì không có cơ sở pháp lý rõ ràng, tòa án đã giải thích theo hướng khi không có cơ sở xác định sự tồn tại của pháp nhân thì người đại diện cũng không có tư cách đại diện nên thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo Khoản 2 Điều 10 Pháp lệnh. Khi Pháp lệnh không quy định rõ ràng thì cách “đi vòng” của tòa án như vậy thiết nghĩ cũng hợp lý. Như đã phân tích ở trên, khi xem xét năng lực chủ thể như một điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài nên xem xét năng lực chủ thể của cá nhân trực tiếp ký kết thỏa thuận trọng tài lẫn năng lực chủ thể của pháp nhân. Thay vì “một bên ký kết thỏa thuận trọng tài” trong Pháp lệnh, Luật đã thay bằng cụm từ “người xác lập thỏa thuận trọng tài”. Quy định như Luật đã không đề cập đến năng lực dân sự của pháp nhân, trong khi trên thực tế cũng đã xảy ra trường hợp này. Còn một vấn đề nữa là, với cụm từ “theo quy định của Bộ luật dân sự” quy định trên được hiểu là đối với người nước ngoài là một bên trong vụ tranh chấp trọng tài giải quyết, năng lực hành vi của người đó sẽ được xác định theo luật Việt Nam. Trong khi năng lực hành vi của một người thường được xác định theo pháp luật của nước người đó mang quốc tịch. Theo tác giả, nên quy định là “một bên xác lập thỏa thuận trọng tài không có năng lực dân sự”. Với cách quy định “không có năng lực dân sự” sẽ bao quát hơn vì nó bao gồm cả năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Vấn đề này cũng được quy định trong Luật Mẫu UNCITRAL và Công ước New York. Điều 34 Luật Mẫu UNICITRAL quy định: “Một quyết định chỉ có thể bị toà án theo qui định tại Điều 6 hủy bỏ trong trường hợp: Bên làm đơn yêu cầu đưa ra những bằng chứng khẳng định rằng: Một trong các bên ký kết thoả thuận trọng tài theo qui định tại điều 7 không đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của nước nơi quyết định được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ;”. Tương tự như Luật Mẫu UNICITRAL Điều 5 Công ước New York cũng quy định: “Việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó chuyển tới cơ quan có thẩm quyền nơi việc công nhận và thi hành được yêu cầu, bằng chứng rằng: Các bên của thỏa thuận nói ở điều II, theo luật áp dụng đối với các bên, không có đủ năng lực, hoặc thỏa thuận nói trên không có giá trị theo luật mà các bên chịu sự điều chỉnh, nếu không có chỉ dẫn về điều này, theo luật của Quốc gia nơi ra quyết định” Như vậy, các văn bản pháp luật quốc tế về trọng tài đều xem năng lực chủ thể là điều kiện để xem xét hiệu lực của quyết định trọng tài hay công nhận và cho thi hành quyết định trọng tài. Sự rõ ràng của thỏa thuận trọng tài Trọng tài là một thiết chế tài phán tư, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài. Thẩm quyền của trọng tài phụ thuộc rất lớn vào thỏa thuận trọng tài. Do vậy thỏa thuận trọng tài đòi hỏi sự rõ ràng về ý chí của các bên là muốn giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài chứ không phải thương lượng, hòa giải hay đưa tranh chấp ra tòa án giải quyết. Khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài đã quy định khi “thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có thỏa thuận bổ sung” thì thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu. Theo Pháp lệnh thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi thỏa mãn hai điều kiện: thỏa thuận trọng tài không rõ ràng về đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài và các bên không có thỏa thuận bổ sung. Vậy trong thỏa thuận trọng tài đối tượng pháp luật yêu cầu cần phải có sự rõ ràng là đối tượng tranh chấp và tổ chức trọng tài. Nghị quyết 05/2003/NQ- HĐTP hướng dẫn trường hợp này như sau: “Đối với trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 10 Pháp lệnh, là trường hợp nếu theo thoả thuận trọng tài thì không thể xác định được đối tượng tranh chấp cụ thể là gì hoặc không thể xác định được Hội đồng Trọng tài nào, Trung tâm Trọng tài nào của Việt Nam có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp này, nếu sau đó các bên không có thoả thuận hoặc không thoả thuận bổ sung được về việc xác định đối tượng tranh chấp cụ thể hoặc Hội đồng Trọng tài cụ thể nào của Việt Nam có thẩm quyền giải quyết. Ví dụ: Trong thoả thuận trọng tài các bên chỉ thoả tuận: "Trong trường hợp có tranh chấp nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì yêu cầu Trọng tài giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam". Trong trường hợp này thoả thuận trọng tài là vô hiệu bởi vì các bên không thoả thuận rõ việc giải quyết vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài các bên thành lập hay do Trọng tài viên duy nhất hay do Hội đồng trọng tài của một Trung tâm trọng tài cụ thể của Việt Nam, trừ trường hợp sau đó các bên có thoả thuận bổ sung về việc xác định Hội đồng trọng tài cụ thể của Việt Nam có thẩm quyền giải quyết.” Quy định này đã không được tiếp tục ghi nhận trong LTTTM. Bởi thực tiễn áp dụng quy định này đã nảy sinh nhiều vướng mắc. Quy định này đã hạn chế việc sử dụng trọng tài giải quyết tranh chấp. Đây chỉ là thiếu sót của các bên trong quá trình xác lập thỏa thuận trọng tài, ý chí của các bên vẫn mong muốn đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài. Pháp luật đã lấy thiếu sót của các bên trong việc không chỉ đích danh tên tổ chức trọng tài hoặc ghi tên tổ chức trọng tài không chính xác, không đầy đủ để vô hiệu hóa ý chí sử dụng trọng tài Nguyễn Đình Thơ (2008), tlđd, tr.51. . Việc quy định như trên đã tạo điều kiện cho một bên vì không hài lòng với quyết định trọng tài mà lợi dụng lý do này để yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài. Ngoài ra, tính ràng buộc của thỏa thuận trọng tài cũng bị ảnh hưởng. Bởi lẽ khi một bên vì lý do nào đó không muốn đưa ra trọng tài giải quyết tranh chấp nữa mặc dù trước đó đã xác lập thỏa thuận trọng tài, họ sẽ viện lý do này yêu cầu tòa án xem xét thẩm quyền của trọng tài. Căn cứ vào quy định tại Khoản 4 Điều 10 của Pháp lệnh có thể thấy tòa án hoàn toàn có quyền quyết định thỏa thuận trọng tài vô hiệu vì không rõ ràng. Tại Điều 17 Hợp đồng số BNCL 868 ngày 12-6-2008 giữa Công ty Novo Commodities Limited và Công ty Fillipino Mertals Corp (FMC) dịch ra tiếng Việt co nội dung: “Mọi tranh chấp liên quan đến hợp đồng này hoặc đến việc thực hiện hợp đồng này sẽ được giải quyết thông qua thương lượng thiện chí, trọng tài giữa hai bên. Trong trường hợp thương lượng bất thành, tranh chấp sẽ được giải quyết tại trọng tài bên cạnh phòng thương mại Việt Nam. Phí trọng tài do bên thua kiện chịu, trừ trường hợp Hội đồng Trọng tài quyết định khác”. Ngày 9-11-2009, Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (viết tắt là VIAC) ra quyết định về thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài giải quyết vụ tranh chấp giữa hai công ty nói trên. Nội dung quyết định là VIAC hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp nói trên. Không đồng ý với quyết định của Hội đồng Trọng tài nêu trên ngày 16-11-2009 Công ty Novo Commodities Limited có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xem xét lại quyết định của Hội đồng Trọng tài, yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Tòa án đã so sánh với nội dung điều khoản trọng tài mẫu của VIAC khuyến nghị đưa vào hợp đồng thương mại và Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC. Từ đó đưa ra nhận xét rằng Điều 17 Hợp đồng thương mại số BNCL 868 không nêu rõ ràng đích danh tổ chức trọng tài nào. Cụm từ trọng tài bên cạnh phòng thương mại Việt Nam không phải là danh từ riêng chỉ tên của cơ quan, tổ chức. Nội dung của thỏa thuận trọng tài này không thỏa mãn với phạm vi áp dụng, theo Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC. Các bên lại không có thỏa thuận bổ sung. Do đó, tòa án đã ra Quyết định số 07/2009/QĐ- GQYC Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), sđd, tr.64. xác định thỏa thuận trọng tài giữa hai bên vô hiệu. Như vậy, sự không rõ ràng thỏa thuận trọng tài đã loại trừ thẩm quyền giải quyết của trọng tài, mặc dù đây chỉ là sơ suất của các bên trong quá trình xác lập. Vô hình chung đã phá vỡ sự thỏa thuận tự nguyện đã có giữa các bên. Mặt khác Pháp lệnh lại không quy định rõ thế nào “không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài”. Việc xác định hoàn toàn phụ thuộc vào nhận định của tòa án. Trong vụ tranh chấp giữa Công ty TNHH Tràng Tiền và Ngân hàng phát triển Hàn Quốc- Chi nhánh Teagu, tại Điều 7 Hợp đồng mua bán giữa hai bên có thỏa thuận về cơ quan tài phán như sau: “Bất kỳ tranh chấp nào nảy sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng này mà không thể thỏa thuận giải quyết, sẽ được giải quyết bởi Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, quyết định của I.C.A sẽ là cuối cùng. Bên thua phải thanh toán lệ phí”. Tòa án cho rằng Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi Chính phủ, được thành lập bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam theo quyết định số 204/ttg ngày 28-4-1993 của Thủ tướng Chính phủ. Trung tâm có văn phòng liên lạc tại thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định thành lập số 112/PTM- TT ngày 20-4-1996 của Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Theo Quy chế hoạt động, Văn phòng liên lạc có nhiệm vụ: “…tiến hành tiếp nhận hồ sơ đơn kiện thụ lý vụ kiện nếu được sự ủy quyền bằng văn bản của Trung tâm…”; “…chuẩn bị các tài liệu cần thiết để tổ chức các phiên xét xử tại địa phương theo yêu cầu của Ủy ban Trọng tài hoặc của Trung tâm”. Như vậy, rõ ràng việc các bên thỏa thuận với nhau tại Điều 7 Hợp đồng rằng “Tranh chấp sẽ được giải quyết bởi Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh” là một thỏa thuận không rõ ràng về tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp; và theo đó nếu như giữa hai bên không có thỏa thuận bổ sung thì căn cứ vào Khoản 4 Điều 10 phải coi thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trong một vụ tranh chấp khác, tại hợp đồng hai bên có thỏa thuận rõ: “Mọi phát sinh tranh chấp, trong quá trình thực hiện hợp đồng… Nếu hai bên không đạt được thỏa thuận dàn xếp tranh chấp sẽ do Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam ở số 33 Phố Bà Triệu, Hà Nội giải quyết. Quyết định của Trung tâm sẽ là cuối cùng và hai bên có nghĩa vụ tuân theo”. Hội đồng xét xử nhận định đây là một thỏa thuận trọng tài rõ ràng. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam trước đây có trụ sở tại 33 phố Bà Triệu, Hà Nội nhưng sau đó được chuyển về địa chỉ số 9 Đào Duy Anh. Ở Việt Nam chỉ có một Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam còn địa chỉ đặt trụ sở có thay đổi không ảnh hưởng đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Qua hai vụ tranh chấp trên có thể thấy việc phân định giữa rõ ràng và không rõ ràng không hề đơn giản. Trong vụ việc thứ nhất rõ ràng các bên muốn chọn Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Ở Việt Nam lại chỉ có một Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam. Việc các bên có thỏa thuận thêm là “tại thành phố Hồ Chí Minh” có thể được hiểu là các bên thỏa thuận địa điểm xét xử tại Hồ Chí Minh. Thỏa thuận rõ ràng hay không hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm của người áp dụng. Nếu ủng hộ trọng tài, chúng ta có thể cho rằng đây chỉ là sơ suất, ý chí của các bên vẫn muốn đưa tranh chấp ra Trung tâm Quốc tế Việt Nam giải quyết. Còn nếu không ủng hộ trọng tài thì cho rằng thỏa thuận này không rõ ràng vì như phân tích của tòa án, tại thành phố Hồ Chí Minh chỉ có chi nhánh của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, mà chi nhánh thì không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Mặt khác, khi thỏa thuận trọng tài giữa hai bên chưa được rõ ràng pháp luật cho phép hai bên có thỏa thuận bổ sung. Khi đã xảy ra tranh chấp giữa hai bên thì việc các bên cùng nhau ngồi lại để thống nhất về thỏa thuận bổ sung rất khó xảy ra. Trong khi Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn lại không có quy định cụ thể về hình thức thỏa thuận bổ sung. Do đó, lại có vướng mắc nữa là cần phải xác định giữa hai bên có thỏa thuận bổ sung hay không, những trường hợp nào được xem là có thỏa thuận bổ sung? Việc xác định này lại hoàn toàn phụ thuộc vào tòa án. Tại Quyết định số 1745/2007/QĐ- VDS ngày 20-9-2007 Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), sđd, tr.139 Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xem văn bản tự bảo vệ của một bên gởi trung tâm trọng tài đồng ý chọn trung tâm trọng tài giải quyết tranh chấp là một hình thức thỏa thuận bổ sung. Vụ việc cụ thể như sau: Giữa Công ty Cổ phần nước và môi trường và Công ty TNHH xây dựng và thương mại Xuân Thành có xác lập một hợp đồng thầu phụ. Tại điều 9 của hợp đồng hai bên có thỏa thuận trong trường hợp phát sinh tranh chấp hai bên sẽ giải quyết trên tinh thần hợp tác, nếu không giải quyết được tranh chấp sẽ do Trọng tài kinh tế tại thành phố Hồ Chí Minh phán quyết theo luật hiện hành. Sau đó, Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý và giải quyết vụ việc. Công ty Cổ phần nước và môi trường đã có đơn yêu cầu tòa án hủy quyết định trọng tài vì cho rằng tại thỏa thuận trọng tài cả hai bên đều không xác định cụ thể Trung tâm trọng tài kinh tế nào tại thành phố Hồ Chí Minh giải quyết vụ việc. Về vụ việc này cả đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố và tòa án đều cho rằng đây là một thỏa thuận trọng tài không quy định rõ tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, khi phát sinh tranh chấp, ngày 7-6-2006 Công ty Xuân Thành đã có văn bản yêu cầu Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí Minh là tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết. Tại văn bản tự bảo vệ gửi Trung tâm Trọng tài thương mại thành phố Hồ Chí Minh ngày 25-7-2006 Công ty Cổ phần nước và môi trường cũng đồng ý chọn trung tâm này giải quyết tranh chấp. Hội đồng xét xử cho rằng đây được xem là một trường hợp thỏa thuận bổ sung, Công ty Cổ phần nước và môi trường cũng không hề phản đối việc giải quyết tranh chấp của trung tâm này. Do vậy, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực. Qua những vụ tranh chấp cụ thể nêu trên, có thể thấy thực tiễn áp dụng quy định này gặp quá nhiều vướng mắc. Ngoài ra, Pháp lệnh quy định trường hợp vô hiệu này của thỏa thuận trọng tài đã mâu thuẫn với quy định tại Điều 4 Pháp lệnh. Pháp lệnh cho phép các bên được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài, đó là Hội đồng Trọng tài do trung tâm trọng tài tổ chức hoặc Hội đồng Trọng tài do các bên thành lập. Trong trường hợp các bên chọn Hội đồng trọng tài do các bên thành lập để giải quyết tranh chấp thì làm gì có tên trung tâm mà đòi hỏi phải quy định rõ ràng? Chính vì thế, LTTTM bỏ đi quy định này là phù hợp. Về vấn đề này, Luật Trọng tài Trung Quốc có quy định tương tự pháp luật trọng tài của Việt Nam. Điều 18 Luật Trọng tài Trung Quốc nêu rõ: “Nếu thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ vấn đề có thể được giải quyết bằng trọng tài hoặc về Hội đồng Trọng tài, hai bên có thể ký kết một thỏa thuận bổ sung. Nếu các bên không đạt được thỏa thuận bổ sung, thì điều khoản trọng tài đó sẽ không có hiệu lực”. Tuy nhiên, việc quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi không quy định rõ tổ chức trọng tài là không hợp lý và không phù hợp với pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật trọng tài quốc tế. Luật Mẫu UNICITRAL và luật trọng tài các nước trên thế giới đều không quy định về trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu nếu không quy định cụ thể tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trọng tài có thẩm quyền dựa trên sự thỏa thuận của các bên. Một khi tồn tại thỏa thuận trọng tài cho thấy rõ ý chí của các bên chọn trọng tài giải quyết tranh chấp thì pháp luật các nước đều ưu tiên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo Luật Trọng tài thống nhất của Hoa Kỳ 1955, một khi các bên đã có thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận đó sẽ có hiệu lực và không thể hủy bỏ (Điều 1); luật không quy định thỏa thuận đó phải chỉ rõ tên tổ chức trọng tài và khi giải quyết khiếu nại về vấn đề thẩm quyền của trọng tài, các Tòa án Hoa Kỳ cũng dựa trên nguyên tắc này. Bên cạnh đó, hầu hết các tổ chức trọng tài uy tín trên thế giới đều không đưa tên tổ chức mà chủ yếu là đưa Quy tắc tố tụng của mình vào điều khoản trọng tài mẫu. Ví dụ, Tòa án Trọng tài của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đưa ra điều khoản trọng tài mẫu như sau: “Tất cả các tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan tới hợp đồng này được giải quyết chung thẩm theo Quy tắc tố tụng trọng tài của Phòng thương mại quốc tế bởi một hoặc nhiều trọng tài viên được chỉ định theo Quy tắc nêu trên”. Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ có điều khoản trọng tài mẫu như sau: “Bất kỳ tranh cãi hoặc khiếu kiện nào phát sinh từ hoặc liên quan tới hợp đồng này được giải quyết bằng trọng tài theo Quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế của Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ”. Hình thức của thỏa thuận trọng tài Thỏa thuận trọng tài tồn tại dưới hai dạng có thể là một điều khoản trong hợp đồng hoặc là một thỏa thuận riêng biệt. Dù tồn tại ở bất kỳ dạng nào thỏa thuận trọng tài đều phải tuân thủ đúng theo hình thức do pháp luật quy định. Hình thức là sự thể hiện ra bên ngoài của thỏa thuận trọng tài. Hay nói cách khác đó chính là sự thể hiện ra bên ngoài ý chí của các bên. Hình thức của thỏa thuận trọng tài có chức năng khẳng định sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài trên thực tế, là bằng chứng chứng minh cho người thứ ba biết sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài giữa hai bên. Chính vì vậy, hình thức của thỏa thuận trọng tài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài phải được thể hiện ở hình thức nhất định đảm bảo thể hiện rõ nét nhất, trung thực nhất ý chí của các bên tranh chấp. Do đó, đòi hỏi hình thức của thỏa thuận trọng tài phải rõ ràng. LTTTM đã quy định: ““ Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản. Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như các hợp đồng, các chứng từ, Điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận”. LTTTM đã mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng tài so với Pháp lệnh Trọng tài. Pháp lệnh đã quy định: “Thoả thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản. Thoả thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thoả thuận trọng tài bằng văn bản”. Như vậy, pháp luật đã quy định hình thức bắt buộc của thỏa thuận trọng tài phải bằng văn bản. Nếu không tuân theo đúng hình thức này thì thỏa thuận trọng tài sẽ vô hiệu. Ở đây, Pháp lệnh đã không quy định rõ thế nào là các “hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết tranh chấp bằng trọng tài”. Như thế sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trên thực tế. Có thể lấy ví dụ tại Trọng tài bên cạnh Hiệp hội Ngân hàng Nga (vụ số 10/1994-6 theo tài liệu của Tòa kinh tế Tòa án tối cao Liên bang Nga) Nguyễn Trung Tín (2005), “Công nhận và thi hành các quyết định của Trọng tài thương mại tại Việt Nam”, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.41, 42. . Đó là trường hợp các bên ký hợp đồng không có điều khoản về trọng tài. Khi người vay tiền không thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo thỏa thuận trên, người cho vay đã đưa đơn kiện tới trọng tài của Hiệp hội Ngân hàng Nga. Cùng thời gian đó, nguyên đơn (người cho vay) gửi cho bên bị (người vay) một bức thư, yêu cầu bên bị đồng ý đưa tranh chấp ra trọng tài trên. Đại diện hợp pháp của bên bị ghi chú vào bức thư yêu cầu của bên nguyên là đồng ý đưa tranh chấp ra trọng tài của Hiệp hội Ngân hàng Nga. Đại diện bên bị ký và đóng dấu vào đó. Hội đồng trọng tài thuộc Hiệp hội Ngân hàng Nga đã coi bức thư trên là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản có giá trị pháp lý. Ngoài ra, hình thức văn bản khác ở đây có thể là điều lệ công ty. Ví dụ, Điều lệ công ty A có điều khoản ghi nhận rằng các tranh chấp phát sinh giữa các thành viên của công ty với nhau hoặc với công ty sẽ được đưa ra Hiệp hội trọng tài X giải quyết. Trong trường hợp đó, khi có tranh chấp xảy ra, thành viên công ty với tư cách là một bên tranh chấp có thể đưa tranh chấp ra Hiệp hội trọng tài trên để giải quyết và coi điều khoản trong điều lệ công ty A là thỏa thuận trọng tài bằng văn bản. Pháp luật trọng tài của một số nước có cách quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài tương tự như Việt Nam. Ví dụ như Điều 1031 Luật Trọng tài của Cộng hòa Liên bang Đức: “Thỏa thuận trọng tài phải được lập dưới hình thức một văn bản có chữ ký của các bên hoặc dưới hình thức thư trao đổi, fax, điện tín hoặc các hình thức trao đổi khác có ghi nhận sự thỏa thuận của các bên” Nguyễn Đình Thơ (2006), tlđd, tr.18. ; Điều 6 Luật Trọng tài Thái Lan cũng có quy định: “Một thỏa thuận trọng tài sẽ ràng buộc các bên chỉ khi có bằng chứng về việc này bằng văn bản hoặc nếu có một thỏa thuận dưới hình thức trao đổi bằng thư từ, điện tín hoặc văn bản tương tự khác” Nguyễn Đình Thơ (2006), tlđd, tr.18. . Về vấn đề này Luật Mẫu UNICITRAL cũng quy định hình thức bắt buộc của thỏa thuận trọng tài là bằng văn bản. Tuy nhiên khái niệm “hình thức văn bản” trong Luật Mẫu được hiểu rất rộng và được quy định hết sức rõ ràng. Khoản 2 Điều 7 Luật Mẫu UNICITRAL nêu rõ: “Thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Thoả thuận là văn bản nếu nó nằm trong một văn bản được các bên ký kết hoặc bằng sự trao đổi qua thư từ, telex, telegrams hoặc các hình thức trao đổi viễn thông khác mà ghi nhận thoả thuận đó hoặc qua trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. Việc dẫn chiếu trong hợp đồng tới một văn bản ghi nhận điều khoản trọng tài lập nên thoả thuận trọng tài với điều kiện hợp đồng này phải là văn bản và sự dẫn chiếu đó là một bộ phận của hợp đồng này”. Điều 2 Công ước New York cũng có quy định: “Mỗi Quốc gia thành viên sẽ công nhận một thỏa thuận bằng văn bản theo đó các bên cam kết đưa ra trọng tài xét xử mọi tranh chấp đã hoặc có thể phát sinh giữa các bên từ một quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không, liên quan đến một đối tượng có khả năng giải quyết được bằng trọng tài. Thuật ngữ "thỏa thuận bằng văn bản” bao gồm điều khoản trọng tài trong một hợp đồng hoặc một thỏa thuận trọng tài được các bên ký kết hoặc được ghi trong thư tín trao đổi”. Ghi nhận Luật Mẫu nhiều quốc gia cũng đã có những quy định tương tự. Đầu tiên phải kể đến Luật Trọng tài Quốc tế Singapore. Luật này quy định trong bất kỳ giai đoạn tố tụng nào, một bên khẳng định sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài trong bản bào chữa, giải trình hoặc trong bất kỳ tài liệu nào khác và yêu cầu bên kia cho ý kiến mà bên đó không có sự phản đối thì sẽ được coi là có thỏa thuận trọng tài giữa các bên trong quá trình tố tụng. Ngoài ra, luật này còn bổ sung vận đơn cũng có thể chứa đựng một thỏa thuận trọng tài: “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận bằng văn bản như quy định tại Điều 7 của Luật Mẫu và bao gồm các điều khoản trọng tài hợp thành hoặc được lập bằng việc tham chiếu trong vận đơn”. Khoản 2 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại quốc tế của Cộng hòa Liên bang Nga quy định: “Thỏa thuận trọng tài phải được ký bằng văn bản. Thỏa thuận trọng tài được coi là đã ký kết bằng văn bản nếu thỏa thuận đó có trong văn bản đã được các bên ký kết bằng cách trao đổi thư tín, hoặc bằng điện báo hoặc các phương tiện thông tin liên lạc khác cho phép lưu lại thỏa thuận đó, hoặc bằng cách trao đổi đơn kiện hoặc tự bào chữa đối với đơn kiện. Trong đó, một trong số các bên có xác nhận về việc có thỏa thuận trọng tài, mà phía bên kia không phản bác sự việc đó. Sự dẫn chiếu trong hợp đồng đến một văn bản mà văn bản này có thỏa thuận trọng tài cũng được coi là thỏa thuận trọng tài nếu hợp đồng được ký kết ở dạng văn bản và sự dẫn chiếu đó có ghi rõ rằng điều khoản trọng tài đã nêu là một bộ phận của hợp đồng” Nguyễn Đình Thơ (2006), tlđd, tr.18. . Về hình thức của thỏa thuận trọng tài không thể không nói đến Luật Trọng tài của Anh. Bởi hình thức của thỏa thuận trọng tài được pháp luật Anh thừa nhận ở phạm vi rất rộng. Điều 5 của Luật này quy định Nguyễn Đình Thơ (2006), tlđd, tr.19. : Có một thỏa thuận bằng văn bản khi: Thỏa thuận được lập bằng văn bản (cho dù nó có được các bên ký hay không); Thỏa thuận được lập bằng việc trao đổi các thông tin bằng văn bản hoặc; Thỏa thuận được chứng minh bằng văn bản. Nếu các bên có thỏa thuận khác không phải bằng văn bản bằng việc dẫn chiếu đến các điều khoản trong một văn bản thì coi như các bên đã có một thỏa thuận bằng văn bản. Một thỏa thuận được chứng minh bằng văn bản nếu thỏa thuận đó được xác lập không phải bằng văn bản nhưng được một trong các bên hoặc bên thứ ba ghi lại theo sự ủy quyền của các bên tham gia thỏa thuận. Việc trao đổi các văn bản nếu ý kiến trong tố tụng trọng tài hoặc tố tụng tư pháp trong đó sự tồn tại của một thỏa thuận không được xác lập bằng văn bản được một bên viện dẫn để chống lại bên kia và không bị bên kia phủ nhận trong phần trả lời của mình thì việc trao đổi đó tạo thành giữa các bên một thỏa thuận bằng văn bản có giá trị pháp lý như đã được viện dẫn. Dẫn chiếu tới phần này, bất cứ cái gì được viết hoặc được lập thành văn bản bao hàm cả các hình thức ghi lại chúng bằng bất kỳ phương thức nào. Tiếp thu Luật Mẫu và luật trọng tài của các nước, LTTTM của nước ta cũng đã sửa đổi điều luật quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài như đã đề cập ở trên. Như vậy, quy định về hình thức của thỏa thuận trọng tài ở nước ta đã tương đồng với pháp luật các nước trên thế giới. Tạo thêm điều kiện thuận lợi cho nước ta trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới. Hình thức văn bản của thỏa thuận trọng tài được mở rộng tạo điều kiện cho các bên trong việc thể hiện ý chí chọn trọng tài giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên mở rộng hình thức của thỏa thuận trọng tài đòi hỏi ở mỗi bên sự thống nhất về ý chí chọn cơ quan giải quyết tranh chấp trong các văn bản khác nhau. Cũng như hạn chế sự “bội ước” của một bên khi dựa vào căn cứ này để cho rằng thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Bởi với cách quy định trên thì trong quá trình tố tụng trọng tài hoặc tố tụng tòa án, nếu một thoả thuận không được xác lập bằng văn bản nhưng được một bên viện dẫn và bên kia không phủ nhận thì việc trao đổi đó tạo thành một thỏa thuận bằng văn bản có giá trị pháp lý. Ý chí của các bên khi ký kết thỏa thuận trọng tài Thỏa thuận trọng tài là sự thống nhất ý chí giữa các bên trong việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Khác với các thiết chế tài phán khác, trọng tài chỉ tham gia giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên nếu được các bên lựa chọn. Khi đã là thỏa thuận thì cần phải có sự tự nguyện của các bên trong quá trình xác lập. Chính vì vậy, ý chí của các bên là yếu tố mang tính chất quyết định, ảnh hưởng lớn đến hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài được xác lập dựa trên sự lừa dối hoặc đe dọa thì thỏa thuận đó sẽ không có hiệu lực. Điều này được thể hiện rõ trong LTTTM. Khoản 5 Điều 18 nêu rõ thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “một trong các bên bị lừa dối, bị đe doạ, bị cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu”. Không giống như những trường hợp vô hiệu khác của thỏa thuận trọng tài, trong trường hợp này thỏa thuận trọng tài chỉ vô hiệu khi bên bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Có thể thấy ý chí của các bên đã luôn được tôn trọng, ngay cả khi một bên biết mình bị lừa dối, đe dọa nhưng sau đó họ vẫn chấp nhận thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài sẽ không vô hiệu. Khoản 6 Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài cũng quy định thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi “bên ký kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu là sáu tháng, kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này”. Pháp lệnh quy định về thời hiệu yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu là “sáu tháng, kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của Pháp lệnh này”. Với cách quy định như vậy thì thời hiệu này được áp dụng cho cả sáu trường hợp vô hiệu hay chỉ trong trường hợp bên ký kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa? Nếu chỉ áp dụng cho trường hợp này thì các trường hợp còn lại có được hiểu là có thời hiệu vô thời hạn hay không? Theo kỹ thuật lập pháp cho thấy thời hiệu này chỉ áp dụng cho trường hợp bị lừa dối, bị đe dọa. Như vậy, để có thể yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi có sự lừa dối, đe dọa bên yêu cầu cần phải chứng minh 3 yếu tố: có lừa dối, đe dọa; việc yêu cầu tuyên bố thỏa thuận vô hiệu phải được tiến hành trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày ký thỏa thuận; và việc yêu cầu này phải trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 Pháp lệnh. Quy định như vậy là không hợp lý. Bởi thời hạn của hợp đồng có thể là 6 tháng nhưng cũng có thể còn dài hơn rất nhiều, trong quá trình thực hiện hợp đồng tranh chấp giữa hai bên có thể phát sinh khi đã qua thời hạn 6 tháng. Lúc này một bên muốn yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì phải làm như thế nào? Có thể thấy vướng mắc này trong vụ tranh chấp giữa Công ty TNHH công nghiệp chính xác Jackson và Công ty TNHH cơ khí xây dựng thương mại Đại Dũng (Quyết định giải quyết việc dân sự số 2637/2009/KDTM-QĐST ngày 11-9-2009 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh) Đỗ Văn Đại và Trần Hoàng Hải (2010), sđd, tr.176. . Công ty TNHH công nghiệp chính xác Jackson yêu cầu hủy quyết định trọng tài vì lý do: tại Điều 9 của hai bản hợp đồng thì Công văn số 51-07/HĐTC-DDC ký ngày 26-7-2007 và 55-07/HĐTC-DDC ký ngày 26-7-2007 được viết bằng tiếng Hoa và tiếng Việt quy định về việc thỏa thuận cơ quan giải quyết tranh chấp là không chính xác. Cụ thể: Phần tiếng Việt quy định: Tranh chấp sẽ được đưa ra Trung tâm Trọng tài Thương mại thành phố Hồ Chí Minh xét xử. Phần tiếng Hoa quy định: Tranh chấp sẽ được đưa ra cơ quan Tòa án thành phố Hồ Chí Minh xét xử. Công ty này cho rằng trong quá trình giải quyết Công ty không được thông tin đầy đủ, không được giải thích về việc nhầm lẫn ý nghĩa giữa tiếng Hoa và tiếng Việt trong phần thoả thuận cơ quan giải quyết tranh chấp dẫn đến trái ý chí của Công ty trong việc chọn cơ quan giải quyết tranh chấp. Công ty luôn cho rằng khi xảy ra tranh chấp sẽ do tòa án xét xử. Do đó, thỏa thuận trọng tài vô hiệu vì bị lừa dối. Tuy nhiên, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nhận định rằng Công ty TNHH công nghiệp chính xác Jackson không có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu trong 6 tháng kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài và trước ngày Hội đồng Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp theo quy định tại Khoản 6 Điều 10 Pháp lệnh Trọng tài. Thế nên, không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Ở đây, thỏa thuận trọng tài được lập vào năm 2007 nhưng đến năm 2009 Công ty TNHH công nghiệp chính xác Jackson mới phát hiện sự khác nhau giữa hai Công văn. Lúc này, nếu Công ty muốn yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì phải làm như thế nào? Luật đòi hỏi là phải yêu cầu trong thời gian 6 tháng kể từ ngày ký kết thỏa thuận nhưng trong thời gian này Công ty không phát hiện ra thỏa thuận trọng tài vô hiệu, mãi đến 2 năm sau mới phát hiện. Trong khi mong muốn này xuất phát từ ý chí của Công ty và hoàn toàn đúng pháp luật, nhưng lại không có cơ sở pháp lý để thực hiện. LTTTM đã giải quyết được vướng mắc này. Luật đã bỏ đi thời hiệu yêu cầu xem xét thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Mặt khác, Điều 43 Luật Trọng tài thương mại đã quy định trước khi xem xét vụ tranh chấp Hội đồng trọng tài phải xem xét về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài để đảm bảo về thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của mình là đúng đắn. Do đó, việc xem xét thỏa thuận trọng tài có vô hiệu hay không bây giờ đã trở thành trách nhiệm của Hội đồng Trọng tài, không nhất thiết phải có yêu cầu của các bên nữa.Với cách quy định mới như vậy đã giúp tiết kiệm được thời gian của các bên trong quá trình giải quyết tranh chấp. Vi phạm điều cấm của pháp luật Khoản 6 Điều 18 LTTTM đưa ra quy định mới về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Theo đó, thỏa thuận trọng tài vô hiệu khi vi phạm điều cấm của pháp luật. Pháp lệnh Trọng tài đã không hề đề cập đến vấn đề này. Theo tác giả, việc bổ sung này là cần thiết. Bởi về bản chất, thỏa thuận trọng tài được xem như một hợp đồng Xem thêm trang 12 của bài Khóa luận. . BLDS 2005 đã qui định vi phạm điều cấm của pháp luật là một trong những trường hợp làm cho hợp đồng vô hiệu. Tuy nhiên, khái niệm “vi phạm điều cấm của pháp luật” lại quá chung chung. Điều 128 BLDS 2005 đã đưa ra định nghĩa “điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Cách quy định này dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng, đó phải là các quy định cấm của pháp luật, chính xác hơn là những quy định cấm được ghi nhận trong các văn bản luật. Cách khác lại hiểu pháp luật theo nghĩa rộng hơn, bao gồm toàn bộ các quy định của pháp luật, cả thông lệ, tập quán, các văn bản hướng dẫn, kể cả các văn bản của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế. Trong trường hợp này bất cứ vi phạm quy định cấm nào của các văn bản trên cũng sẽ đưa đến vi phạm điều cấm của pháp luật Đỗ Văn Đại (2009), “Luật hợp đồng Việt Nam_Bản án và bình luận bản án”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.315. . Như vậy, thiết nghĩ khái niệm “vi phạm điều cấm của pháp luật” nên được quy định rõ ràng, cụ thể hơn. Tránh tình trạng một bên lạm dụng quy định này để yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Một số kiến nghị để hoàn thiện chế định pháp luật về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 qua sáu năm thực hiện đã bộc lộ không ít những bất cập. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay đang hội nhập nền kinh tế thế giới, việc ban hành Luật Trọng tài tạo hành lang pháp lý rộng rãi cho các tổ chức, cá nhân trong nước cũng như ngoài nước trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình kinh doanh là điều cần thiết. Sau một khoảng thời gian dài thảo luận, đóng góp ý kiến, tại Kỳ họp thứ bảy Quốc hội khóa XII ngày 17/6/2010 Quốc hội đã thông qua Luật Trọng tài thương mại. Sự ra đời của Luật Trọng tài thương mại nước ta góp phần tạo niềm tin cho các cá nhân, tổ chức đối với trọng tài, là cơ sở pháp lý vững chắc giúp cho cá nhân, tổ chức tự tin hơn khi lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp. Về vấn đề hiệu lực của thoả thuận trọng tài có những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn áp dụng Pháp lệnh Trọng tài nhưng dường như Luật mới vẫn chưa đề cập đến hoặc vẫn chưa giải quyết triệt để. Tác giả xin nêu một vài điểm còn bất cập đồng thời cũng xin đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện. Thứ nhất, về trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, LTTTM đã bổ sung trường hợp này. Điều 6 Luật quy định khi thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thì tòa án có thẩm quyền giải quyết. Những thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được thường gặp là: thỏa thuận về cơ quan giải quyết tranh chấp không rõ ràng (“có thể giải quyết bằng tòa án hoặc trọng tài”); hoặc thỏa thuận chỉ nêu chung chung là tranh chấp sẽ do trọng tài giải quyết mà không thỏa thuận rõ về hình thức trọng tài vụ việc hay trọng tài thường trực, không nêu rõ tên trung tâm trọng tài; hoặc thỏa thuận chọn trung tâm trọng tài này nhưng lại chọn quy tắc tố tụng của một trung tâm khác; hoặc thỏa thuận rõ trung tâm trọng tài giải quyết nhưng lại thỏa thuận thêm điều khoản bổ sung là phán quyết đó có thể bị đưa ra trung tâm trọng tài khác để xét xử lại một lần nữa… Có thể thấy những trường hợp thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được đa số xuất phát từ nguyên nhân các bên xác lập thỏa thuận trọng tài chưa có nhận thức đúng đắn về trọng tài- một phương thức giải quyết tranh chấp, việc mơ hồ về bản chất của hình thức giải quyết tranh chấp này đã vô tình làm cho trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Về cơ bản những thỏa thuận này hoàn toàn có thể khắc phục được. Trong những trường hợp này thiết nghĩ pháp luật nên có cơ chế hỗ trợ để các bên sửa chữa sai sót. Có một ý kiến đưa ra là nên quy định như sau: “Nếu vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài, mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài không thực hiện được hoặc không thể thực hiện được thì Tòa án nhận đơn và thông báo cho các bên biết để bàn bạc xác lập thỏa thuận trọng tài mới và nộp cho Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo; hết thời hạn này mà không có thỏa thuận mới thì Tòa án thụ lý vụ án giải quyết” Nguyễn Đình Thơ (2008), tlđd, tr.53. . Với việc quy định như trên đã tạo điều kiện cho các bên thể hiện đúng ý chí của mình. Khi thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, nếu vẫn muốn trọng tài giải quyết tranh chấp thì các bên hoàn toàn có quyền xác lập một thỏa thuận khác. Thứ hai, cần có chế tài phạt khi một bên không thực hiện đúng thỏa thuận trọng tài đã xác lập. Thỏa thuận trọng tài được xác lập dựa trên sự tự nguyện giữa các bên. Các bên hoàn toàn được tự do lựa chọn trước khi đưa ra quyết định. Do vậy, mỗi bên cần phải tôn trọng quyết định của chính mình thể hiện ở việc thực hiện nghiêm chỉnh thỏa thuận trọng tài. Không có lý do gì để một bên thoái thác thực hiện. Pháp luật nên quy định chế tài phạt dành cho bên không thực hiện theo đúng thỏa thuận trọng tài để răn đe, tránh tình trạng bội ước. Về bản chất thỏa thuận trọng tài cũng được xem như một hợp đồng. Khi vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận trong thỏa thuận trọng tài, cũng giống như hợp đồng, thiết nghĩ nên có chế tài phạt. Có ý kiến cho rằng nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ thỏa thuận trọng tài thì thỏa thuận trọng tài coi như vô hiệu và tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ kiện, kể cả trong trường hợp bên kia vẫn muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Ý kiến này hoàn toàn không hợp lý. Như thế việc xác lập thỏa thuận trọng tài đã không còn ý nghĩa khi hiệu lực của nó lại bị mất một cách dễ dàng như vậy. Thứ ba, về thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài tồn tại dưới hai dạng đó là: điều khoản trọng tài nằm trong hợp đồng và thỏa thuận trọng tài riêng biệt. Khi là điều khoản trọng tài nằm trong hợp đồng thì thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài cũng đồng thời là thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Nhưng khi là một thỏa thuận trọng tài riêng biệt thì thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài được xác định như thế nào? Cả Pháp lệnh và Luật đều không đề cập đến vấn đề này. Thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có vai trò quan trọng bởi đó là thời điểm các bên chịu sự ràng buộc và phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận trọng tài. BLDS 2005 có quy định rất rõ ràng về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng dân sự. Điều 405 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Theo đó, Điều 404 BLDS 2005 quy định về thời điểm giao kết hợp đồng dân sự như sau: “Hợp đồng dân sự được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết. Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản” Về thời điểm có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài riêng biệt có được áp dụng các quy định nêu trên của BLDS 2005 không? Thiết nghĩ, vấn đề này nên được làm rõ trong Nghị định hướng dẫn thi hành LTTTM. Thứ tư, về luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Như đã phân tích ở phần trên, thỏa thuận trọng tài hoàn toàn độc lập so với hợp đồng nên luật áp dụng đối với thỏa thuận trọng tài và luật áp dụng đối với hợp đồng là độc lập với nhau. Khi thỏa thuận trọng tài là một điều khoản trong hợp đồng thì thông thường luật áp dụng cho hợp đồng cũng chính là luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. Nhưng khi thỏa thuận trọng tài ở dạng một thỏa thuận riêng biệt thì vấn đề trở nên phức tạp hơn nhiều nhất là đối với các hợp đồng thương mại quốc tế. Các bên khi xác lập thỏa thuận trọng tài nên thỏa thuận rõ về vấn đề này để tránh những rắc rối có thể phát sinh sau này. Pháp luật không quy định rõ về vấn đề này tuy nhiên sự thỏa thuận này hoàn toàn hợp lý. Do đó, pháp luật cần quy định rõ về vấn đề này, theo đó tạo cơ sở pháp lý cho phép các bên tự do lựa chọn luật áp dụng cho thỏa thuận trọng tài. KẾT LUẬN Là một thiết chế tài phán tư, trọng tài có những điểm khác biệt so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác. Và thỏa thuận trọng tài chính là điểm khác biệt đầu tiên của phương thức giải quyết tranh chấp này. Bởi trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các bên nếu trước đó các bên có thỏa thuận trọng tài. Nhưng như vậy không có nghĩa là cứ có thỏa thuận trọng tài sẽ có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp hoàn toàn dựa trên sự tự nguyện của các bên nên thỏa thuận trọng tài phải là sự thể hiện trung thực, chính xác sự tự nguyện đó. Do vậy, chỉ những thỏa thuận trọng tài có hiệu lực pháp luật mới làm phát sinh thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Như vậy, hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài. Pháp luật cũng đã quy định hết sức chi tiết về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Theo đó, thỏa thuận trọng tài có hiệu lực khi tuân thủ các điều kiện về các loại tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài, năng lực ký kết thỏa thuận trọng tài, hình thức của thỏa thuận trọng tài, ý chí của các bên khi ký kết thỏa thuận trọng tài. Trong phạm vi bài Khóa luận, tác giả đã phân tích các văn bản pháp luật về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài có sự so sánh, đối chiếu giữa các văn bản pháp luật cũ và các quy định mới trong LTTTM cùng với việc phân tích các bản án để làm rõ thực tiễn áp dụng pháp luật về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Có thể thấy thực tiễn áp dụng vấn đề về điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận trọng tài đã nảy sinh khá nhiều vướng mắc gây không ít khó khăn cho các cá nhân, tổ chức kinh doanh và cả chủ thể áp dụng pháp luật. LTTTM đã khắc phục được phần lớn những bất cập của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003. Sự ra đời của Luật mới sẽ tạo thêm hành lang pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, mang lại vị thế mới cho tố tụng trọng tài. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác vấn đề pháp lý về hiệu lực của thỏa thuận Trọng tài thương mại.DOC
Luận văn liên quan