Các xu hướng cải cách tài chính tiền tệ Việt Nam

Mục lục: I Tiếp cận về tài chính tiền tệ. Trang 5 1.1. Tài chính công Trang 6 1.1.1 Ngân sách nhà nước: Trang 6 + Thu ngân sách nhà nước: Trang 6  Thuế  Phí và lệ phí  Vay nợ của chính phủ (trong và ngoài nước) + Chi ngân sách nhà nước: Trang 6  Chi đầu tư phát triển  Chi thường xuyên  Chi trả nợ gốc tiền do chính phủ vay 1.1.2 Các định chế ngoài ngân sách: Trang 9  Quỹ dự trữ nhà nước  Quỹ hỗ trợ nhà nước  Bảo hiểm xã hội 1.2. Tài chính tư: bao gồm tài chính doanh nghiệp và các định chế tài chính. Trang 9 1.2.1 Khái niệm về trung gian tài chính. Trang 9 1.2.2 Vai trò của trung gian tài chính. Trang 10 1.2.3 Đặc điểm của trung gian tài chính. Trang 11 + Ngân hàng + Các định chế phi ngân hàng:  Quỹ tín dụng  Quỹ đầu tư  Công ty tài chính  Công ty bảo hiểm II Thực trạng thị trường tài chính tiền tệ Việt Nam . Trang 12 2.1 Tài chính công. Trang 12 2.1.1 Thuế. Trang 12 2.1.2 Vay nợ của chính phủ. Trang 14 2.1.3 Chi đầu tư phát triển (Đầu tư công, cổ phần hóa) . Trang 15 2.1.4 Bảo hiểm xã hội. Trang 21 2.2 Tài Chính Lĩnh Vực Tư Nhân. Trang 22 2.2.1 Ngân hàng. Trang 22 2.2.2 Bảo hiểm. Trang 24 2.2.3 Chứng khoán. Trang 25 III Các định hướng cải cách tài chính tiền tệ Việt Nam. Trang 28 3.1 Tài chính công. Trang 28 3.1.1 Thuế. Trang 28 3.1.2 Xu hướng cải cách quá trình vay nợ của chính phủ. Trang 30 3.1.3 Chi đầu tư phát triển (Đầu tư công, cổ phần hóa). Trang 31 3.1.4 Bảo hiểm xã hội. Trang 33 3.2 Tài Chính Lĩnh Vực Tư Nhân 3.2.1 Ngân hàng. Trang 34 3.2.2 Bảo hiểm. Trang 35 3.2.3 Chứng khoán. Trang 36

pdf36 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2468 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các xu hướng cải cách tài chính tiền tệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng vốn không hiệu quả”, báo cáo giám sát của uỷ ban Tài chính – ngân sách kết luận. Ngoài ra, thất thoát về giá trị thương hiệu cũng là vấn đề lớn.. 2.1.4 Bảo hiểm xã hội (BHXH): Thực trạng BHXH: Theo báo cáo của Chính phủ về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội (BHXH) trong 2 năm 2007 và 2008 trình Quốc hội, số người tham gia BHXH ngày càng tăng, từ 6,7 triệu người năm 2006, 8,1 triệu người năm 2007 lên 8,7 triệu người năm 2008, dự kiến hết năm 2009 số người tham gia BHXH bắt buộc đạt gần 9 triệu người (tăng hơn ba lần so với năm 1995 và đạt khoảng 82% số đối tượng phải tham gia), bình quân mỗi năm số tham gia BHXH mới tăng hơn 400 nghìn người. Với việc từng bước mở rộng đối tượng BHXH tự nguyện, đến nay có gần 50 nghìn người tham gia. 22 Công tác chi trả các chế độ BHXH được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đã đảm bảo ổn định đời sống cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH thường xuyên, công nhân lao động khi ốm đau, thai sản hoặc gặp các rủi ro khác... Năm 2008, hơn 120.000 người (năm 2007 là 106.200 người) được hưởng BHXH hàng tháng, trong đó hưởng lương hưu có gần 98.600 người (năm 2007 là 84.860 người), chiếm 82% tổng số người hưởng BHXH hàng tháng. Số lượng hồ sơ được tiếp nhận và giải quyết BHXH một lần, trợ cấp một lần cũng tăng mạnh, từ 204.000 người năm 2007 lên 382.000 người năm 2008, tăng 87%. Về BHYT, đến nay số người tham gia BHYT đã tăng nhanh, đến cuối năm 2008 đã có 39,7 triệu người tham gia, chiếm 45,5% dân số, trong đó tham gia BHYT tự nguyện là 10,69 triệu người. Dự tính đến hết năm 2009 có khoảng 47 triệu người tham gia BHYT, đạt 55% dân số cả nước. Ðối với chính sách BH thất nghiệp, đến nay BHXH Việt Nam đã chuẩn bị đầy đủ các điều kiện và hầu hết đã lập đầy đủ danh sách tham gia. Việc đầu tư của quỹ BHXH hiệu quả chưa cao, chủ yếu thực hiện mua trái phiếu của Chính phủ, cho các ngân hàng thương mại của Nhà nước vay; Chưa phải là nguồn chủ yếu để điều chỉnh tăng lương hưu cho người về hưu, gia tăng mức thụ hưởng cho người lao động, góp phần bảo đảm sự bền vững của quỹ BHXH, thực hiện an sinh xã hội như quy định của Luật BHXH. Do vậy, cần có biện pháp khắc phục ngay từ bây giờ. Nhận thức về trách nhiệm và tính tuân thủ pháp luật về BHXH của người lao động và người sử dụng lao động đã có chuyển biến tích cực. Công tác giải quyết chế độ BHXH cho người lao động từng bước được đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin; thực hiện cải cách hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện chế độ, chính sách BHXH xuất hiện một số vướng mắc cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, ban hành văn bản hướng dẫn như việc giám định mức suy giảm khả năng lao động; quy định giữ lại 2% tiền lương, tiền công đóng BHXH của đơn vị để chi trả cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ ốm đau, thai sản và thực hiện quyết toán hàng quý với tổ chức BHXH (hầu hết các doanh nghiệp đều không muốn giữ lại); chế độ đối với cán bộ xã thuộc đối tượng tham gia BHXH theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP đã nghỉ việc hoặc chuyển sang làm việc khác nhưng chưa có quy định về tính thời gian đóng BHXH. 2.2 Tài Chính Lĩnh Vực Tư Nhân 2.2.1 Ngân hàng: Trên công cụ tỷ giá Trong giai đoạn từ năm 2004-2006, Việt Nam đồng (VNĐ) giảm giá xoay quanh 1%. Từ ngày 1/1/2007, NHNN ( Ngân hàng nhà nước) quyết định thay đổi biên độ dao động tỷ giá USD/VNĐ được mở rộng cộng/trừ 5%, đồng VN đã đảo chiều tăng giá, tỷ giá giảm 0,3%.Trong điều kiện bình thường , việc điều chỉnh biên độ tỷ giá theo hướng tăng thường được hiểu là sẽ dẫn đến mở rộng tốc độ giảm giá của VNĐ so với USD. Đây là lần đầu tiên diễn biến tỷ giá đã không tăng lên, thậm chí còn tiếp tục giảm thêm sau khi NHNN công bố tăng biên độ tỷ giá. Đến tháng 5/2007, xu hướng tăng giá nội tệ được chặn lại vào những tháng tiếp đó, đồng VN đã giảm giá trở lại khoảng 0,6 % so với USD. Tỷ giá bình quân liên NH ngày 15/8 của Sở Giao dịch NHNN là 16.213 VNĐ và các ngân hàng TM khác bán ra mức là 1 USD= 16.213 VNĐ (trên thị trường tự do 1 USD=16.290 VNĐ). Tính từ đầu năm đến thời điểm 15/8/2007 đã tăng khoảng 0,98%, sát với mức 1% mà NHNN dự kiến cho cả năm. 23 Sự đảo chiều này là do từ tác động mua vào mạnh mẽ của NHNN và doanh nghiệp. Trong thời điểm này, các ngân hàng đều có cùng nhu cầu là vay ngoại tệ của DN tăng mạnh; với mức lạm phát là 6.2% trong 7 tháng đầu năm 2007 thì có thể dẫn đến tỷ giá lên 17.000 VNĐ. Tuy nhiên do chính sách tỷ giá của NHNN được trung hoà, do đồng USD đã bị giảm giá trên thị trường quốc tế nên tỷ giá USD/VND được giữ mức hiện tại. Sau ngày 15/8/2007, tỷ giá USD/VNĐ đã giảm giá trở lại cho đến cuối quý I/2008, tình trạng thừa USD trong thị trường do chuyển vào từ kiều hối và vốn đầu tư vào thị trường chứng khoán gây khó khăn cho các DN xuất nhập khẩu. Các NHTM từ chối mua USD của khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, các NHTM lại tăng lãi suất huy động ngoại tệ này. Điều đó cho thấy thực chất các NHTM đang thiếu USD. Quý II/2008, tỷ giá đã đạt mức 16.900 vào ngày 27/5/2008 tại thị trường liên ngân hàng và có xu hướng tăng đến hiện nay. Như vậy, trong 3 năm liền điều chỉnh theo hướng để VNĐ giảm giá so với USD và hiện nay, là 3,44% vào ngày 26/11/2009. Giảm biên độ tỷ giá từ 5% xuống còn 30%, điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 5,44%, theo cách nói của Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước nay là cách điều chỉnh linh hoạt của tỷ giá nhưng thực chất nay là việc phá giá nhẹ đồng tiền Việt Nam. Bên cạnh xem xét về nhập khẩu, đã có chính sách ngăn chặn tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Mục tiêu điều chỉnh tỷ giá nhằm vào việc giảm tối đa chênh lệch của hai mức tỷ giá của hai thị trường chính thức và không chính thức, ổn định thị trường ngoại tệ đảm bảo cho cán cân thanh toán. Với lẽ đó, dưới sự can thiệp của NHNN việc liên minh giữa 8 ngân hàng lớn trong nước (Vietconbank, Vietinbank, BIDV, ACB, Techcombank, Sacombank,Agribank, Eximbank) cam kết cung ứng ngoại tệ đúng giá qui định đầy đủ, kịp thời cho những nhu cầu cần thiết. Trên công cụ lãi suất NHNN tăng lãi suất cơ bản từ 7% lên 8% áp dụng kể từ ngày 1/12/2009 duy trì trong 11 tháng để kích thích tiết kiệm, tăng đầu tư và sau đó sẽ giảm còn 7%. Sau khi quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước có hiệu lực, diễn biến lãi suất huy động VNĐ đã có sự thay đổi, mặt bằng lãi suất huy động là 10,5% năm. Chính phủ cũng yêu cầu thành lập đoàn thanh tra kiểm tra tất cả các ngân hàng có mức huy động trên 10,5% nhằm ổn định nguồn tiền tệ phân chia đều trong thị trường tiền tệ. Về dự trử bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước cũng đã điều chỉnh vào tháng 3/2009 theo hướng giảm đối với tiền đồng Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng. Giảm từ 5% xuống mức 3% áp dụng cho: Ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng TMCP ngoại thương VN, ngân hàng TMCP Đô Thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính. Mức 1% áp dụng cho: ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN (giảm từ 2% xuống còn 1%), ngân hàng TMCP nông thôn, Quỹ tín dụng NDTW, ngân hàng hợp tác. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng tỷ lệ dự trữ đôi khi có sự sai lệch theo hướng giảm xuống do cung-cầu tín dụng mất cân đối. Điều này thật nguy hiểm có thể làm mất khả năng thanh khoản của hệ thống. Bên cạnh sử dụng lãi suất cơ bản là điển hình, trong hệ thống ngân hàng còn sử dụng lãi suất chiết khấu tăng từ 5% lên 6% nhằm điều chỉnh cung cầu tiền tệ giữa các ngân hàng thương mại và các đơn vị vay vốn, đảm bảo khả năng thanh toán, tháo gở khó khăn nhất cho các ngân hàng TM nhằm đảm bảo sự an toàn của hệ thống ngân hàng. Nghiệp vụ thị trường mở 24 Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM): Do đặc điểm của NVTTM có thể làm thay đổi lãi suất, cơ sở tiền tệ; dễ sử dụng với bất kỳ qui mô nào; NHTW có thể chủ động kiểm soát lượng giao dịch; dễ đảo chiều; thực hiện nhanh chóng, nên được NHTW thực hiện tác động kịp thời điều tiết lượng cung tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất. Diển biến qua các thời kỳ như sau: +Từ năm 2000 đến năm 2005, số lượng giao dịch tăng từ 22 đến 129 phiên, tổng doanh số giao dịch đạt được từ 10.233 tỷ đến 77.520 tỷ và lãi suất trên thị trường mở từ 3,5% đến 4,9 %. +Năm 2006-2007, số phiên giao dịch tăng, sôi động nhất từ 200-280 phiên với tổng doanh số giao dịch từ 119.379 tỷ đến 127.000 tỷ 2.2.2 Bảo hiểm: Trong lĩnh vực bảo hiểm chúng tôi chia ra làm hai loại bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. * Bảo hiểm nhân thọ Thành tựu đạt được của bảo hiểm nhân thọ (BHNT) Việt Nam: Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết khi trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Việc mở cửa cho nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam đã đảm bảo đa dạng hóa lựa chọn và nâng cao chất lượng phục vụ người tiêu dùng. với sự góp mặt của các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài và các doanh nghiệp bảo hiểm một bên là các đối tác Việt Nam, một bên là các đối tác từ các quốc gia có nền tài chính và dịch vụ phát triển- đã góp phần cho thị trường Việt Nam một sắc thái mới, năng động hơn và cạnh tranh hơn, và thúc đẩy hoạt động của các công ty bảo hiểm. Trong 6 tháng đầu năm 2008, tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ đạt 5.027 tỷ đồng, tăng 13,58% so với năm 2007. Số phí bảo hiểm khai thác mới trong thời gian trên vẫn có mức tăng trưởng cao, đạt 997 tỷ đồng, so với cùng kỳ năm trước tăng 40%. Theo Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, mặc dù số lượng hợp đồng khai thác mới không tăng nhưng mức tăng trưởng nói trên của phí bảo hiểm các hợp đồng khai thác mới vẫn ấn tượng. Có được kết quả này là nhờ bảo hiểm nhân thọ luôn đưa ra được những sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu của người Việt Nam. Vượt qua khủng hoảng kinh tế toàn cầu, doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam nói riêng đã có những cú bứt phá ngoạn mục để đạt kết quả tăng trưởng quý II/2009 hết sức khả quan. Tăng trưởng tháng 6 là 42% so với tháng 4/2009 của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài đã nói lên sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Thống kê của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho thấy, tổng số hợp đồng khai thác mới của 11 công ty bảo hiểm nhân thọ đang hoạt động tại Việt Nam tăng trung bình 100%. Những mặt hạn chế của BHNT Việt Nam Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ khó hiểu nên bảo hiểm nhân thọ khó tiếp cận được người dân. Trình độ của nhân viên tư vấn bảo hiểm cũng như hiểu biết của người dân về bảo hiểm nhân thọ chưa cao. Khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ chưa được hoàn thiện *Bảo hiểm phi nhân thọ: Tình hình thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam 6 tháng đầu năm 2009: Toàn thị trường đạt doanh thu 6.442 tỉ đồng, tăng 15,8%, trong đó bảo hiểm xe cơ giới dẫn đầu doanh thu với 2.147 tỉ đồng, tăng 26,3%, Bảo Việt dẫn đầu với 584 tỉ đồng, Bảo Minh 313 tỉ đồng, PJICO 305 tỉ đồng. Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự chủ tàu đạt doanh thu 771 tỉ đồng, tăng 28.2%, trong đó PVI đạt 253 tỉ đồng, Bảo Việt 223 tỉ đồng, Bảo Minh 130 tỉ đồng. 25 Bảo hiểm y tế và tai nạn con người đạt doanh thu 714 tỉ đồng, tăng 22,3%, trong đó Bảo Việt 297 tỉ đồng, Bảo Minh 161 tỉ đồng, PVI 69 tỉ đồng. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt đạt doanh thu 707 tỉ đồng, tăng trưởng 54,7%, Trong đó PVI 187 tỉ đồng, Bảo Việt 123 tỉ đồng, Bảo Minh 120 tỉ đồng. Các nghiệp vụ bảo hiểm giảm bao gồm bảo hiểm hàng hóa vận chuyển giảm 12%, trong đó Bảo Việt 135 tỉ đồng, PJICO 46 tỉ đồng, Bảo Minh 44 tỉ đồng. Bảo hiểm hàng không giảm 47%, trong đó Bảo Việt 97 tỉ đồng, VNI 94 tỉ đồng, Bảo Minh 14 tỉ đồng. Bảo hiểm cháy nổ giảm 65%, trong đó Bảo Việt 150 tỉ đồng, PVI 124 tỉ đồng, Bảo Minh 108 tỉ đồng. Các doanh nghiệp có doanh thu cao là Bảo Việt 1.667 tỉ đồng (tăng 0,54%); PVI đạt 1.520 tỉ đồng (tăng 35,2%), Bảo Minh đạt 909 tỉ đồng (giảm 8,8%), PJICO đạt 542 tỉ đồng (tăng 6,2 %). Toàn thị trường đã giải quyết bồi thường 2.130 tỉ đồng trong đó các Doanh nghiệp có tỉ lệ bồi thường cao là AIG 88,6%, QBE 61,83%, các nghiệp vụ có tỉ lệ bồi thường cao là bảo hiểm sức khỏe và tai nạn 56%, trong đó tỉ lệ bồi thường của PJICO 92%, ACE là 87,5%, BIC 87,1%, Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển 58%, trong đó Bảo Minh 67%, AIG 65%. Bảo hiểm hàng hóa XNK của Việt Nam trong 6 tháng qua đạt ước trên 160 tỷ VND phí- tăng 21% so với cùng kỳ này năm trước. Sở dĩ nghiệp vụ này có tốc độ tăng trưởng cao là do năm nay hàng hóa XNK của ta đạt tương đối cao (XK đạt 11,8 tỷ USD tăng 19,8%, nhập khẩu đạt 14,169 tỷ USD tăng 14,7%), tỷ lệ hàng được bảo hiểm có xu hướng tăng hơn năm trước. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam có phát triển chưa cơ bản, chưa vững chắc, chưa đồng đều, vẫn còn ở tình trạng “đánh trống bỏ dùi" và đặc biệt là chưa thành nếp. Một trong những nguyên nhân chính là bảo hiểm vẫn là một lĩnh vực quá mới mẻ. Để thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam xứng đáng là tấm lá chắn của nền kinh tế, tiếp tục tăng trưởng ổn định theo định hướng của Chính phủ đã đề ra thì các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cần hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm phủ kín toàn bộ địa bàn, thỏa mãn đầy đủ các nhu cầu bảo hiểm của xã hội, đặc biệt là lưu tâm đến những nghiệp vụ mang tính chất phục vụ. 2.2.3 Thị trường chứng khoán Các mốc Phát triển chính - Ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời. - Ngày 28-7-2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh chính thức đi vào hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động. - Ngày 8/3/2005 Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức hoạt động. - Năm 2006 : Năm đột phá của TTCK Việt Nam, TTCK Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, chỉ số Vn-Index tại TTGDCK TP. Hồ Chí Minh ) tăng 144% năm 2006, tại TTGDCK Hà Nội (Hastc) tăng 152,4%, khối lượng vốn hoá tăng gấp 15 lần trong vòng 1 năm. - Năm 2007: thị trường chứng khoán bùng nổ, VNIndex đạt đỉnh 1.170,67 điểm HASTC-Index chạm mốc 459,36 điểm. TTGDCK TP.Hồ Chí Minh(HOSE) đổi tên thành Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (SGDCK) đánh dấu bước phát triển mới. VNIndex 26 đạt được mức tăng trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2%. Khối lượng giao dịch bùng nổ. - Năm 2008 TTCK sự sụt giảm mạnh: 02 chỉ số chứng khoán tại HoSE và HaSTC liên tiếp giảm điểm. Trong 86 phiên giao dịch tại HoSE, 49 phiên VNIndex mất điểm. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008. VNIndex giảm mất 239,52 điểm, tương đương 43,15%. Khối lượng giao dịch giảm mạnh. Lợi nhuận các công ty năm 2008 giảm tới 30%. - Năm 2009: Hai tháng đầu năm 2009 Vnidex tiep tuc suy giảm tháng 1 giảm 22% so với đầu năm, tháng 2 giàm 18.75 % so với cuối tháng 1, tình hình kinh doanh các công ty tiế tục suy yếu. Thảng 3 VN-Index đã tăng lên 280,67 điểm, tăng 14%. Chỉ số HASTC tăng 17% lên 98,37. Ngày 24-6 , thị trường UPCoM - sàn giao dịch cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa niêm yết sẽ chính thức đi vào hoạt động.Đồng thời đổi tên HASTC index thành HNX index. Thành tựu phát triển - Thị trường chứng khoán(TTCK) là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại, được coi như phong vũ biểu của nền kinh tế các nước, sự phát triển của thị trường chứng khoán của các nước đóng vai trò quan trọng trong việc là thước đo sự phát triển và sức mạnh kinh tế của các nước. - TTCK Việt Nam sau gần 10 năm phát triển đã có những bức phát triển vượt bậc về quy mô và hoạt động, từ phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với quy mô chỉ 5 công ty niêm yết trên cả hai Trung tâm giao dịch chứng khoán và một vài trái phiếu chính phủ chỉ chiếm 0.28% GDP năm 2000. Đến tháng 11/2009, đã có 425 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ được niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán TP HCM và Hà Nội, trong đó tại sở giao dịch chứng khoán TP HCM là 193 loại cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, trên sở giao dịch chứng khoán Hà Nội là 232. Tổng giá trị vốn hoá thi trường niêm yết tại hai sàn lên tới hơn 669 nghìn tỷ đồng (39 tỷ USD), tương đương 55% GDP của năm 2008,( so với 10- 15% GDP theo mục tiêu của chính phủ). Bên cạnh đó số lượng công ty chứng khoán và quy mô giao dịch không ngừng tăng lên theo bảng thống kê sau: Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009* Cty Niêm yết 5 5 20 22 26 41 193 249 345 430 Vốn hóa %GDP 0.28 0.34 0.48 0.39 0.64 1.21 22.7 40 18.7 55 Cty chứng Khoán 3 8 9 11 13 14 55 74 102 105 Số Tài khoản 2.908 8.774 13.520 15.735 21.616 31.316 95.000 260.000 366.000 730.000 Nguồn: TTGDCK Tp. HCM và TTGDCK Hà Nội (* Tính đến 31/11/2009, %GDP trong 11 tháng 2009 tính trên GDP năm 2008) - Số lượng cá quỹ đầu tư và lượng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam không ngừng gia tăng đến tháng 11/2009 đã có 46 công ty quản lý quỹ và 382 quỹ đầu tư nước ngoài, 8 ngân hàng lưu ký và hơn 13 ngàn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài đang giao dịch tại thì trường chứng khoán Việt Nam. - Thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng, từ quá trình sơ khai các giao dịch nhỏ lẻ dần đã có những giao dịch phức tạp hơn, Quá trình phát hành chứng khoán mới, công tác chia tách cổ tức ngày càng được tính toán và thực hiện 27 chuyên nghiệp..., Các chỉ số chứng khoán đã thể hiện các yếu tố kinh tế vĩ mô như GDP, CPI…các yếu tố xã hội như dân số, độ tuổi…các yếu tố chính trị…đã có những ảnh hưởng chính trực tíêp đến thị trường chứng khoán Việt Nam. - Hành lang pháp lý cho hoạt động chứng khoán ngày càng được hoàn thiện, luật chứng khoán ra đời cùng với các nghị định và thông tư hướng dẫn ngày càng thể hiện tính công bằng và hiệu lực ( Luật chứng khoán 2007 và các nghị định thông ưt hương dẫn) hoàn thiện dần hoạt động của các thành phần tham gia trên thị trường. Các công cụ quản lý nhà nước và biện pháp quản lý của UBCKNN ngày càng hoàn thiện và hiệu quả tránh những mặt trái của thị trường ( tiêu biểu là sự quản lý và tham gia vào thị trường từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 9/2208 để tránh nguy cơ bóng bóng tài sản). Hệ thống thông tin truyền thông về thị trường chứng khoán ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. - Các Công ty niêm yết ngày càng lớn về quy mô chẳng hạn NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam (VCB) vốn hoá hơn 51ngàn tỷ đồng (gần 2,833 triệu USD ,TG 18000đ/USD), NHTMCP Công thương Việt Nam(CTG) hơn 27 ngàn tỷ đồng (1,500 triệu USD)…Ngoài ra các công ty niêm yết đã niêm yết ở các thi trường chứng khoán quốc tế như FPT, Vinamilk, Kinh Đô…đang niêm yết trên thị trường CK Singapore. Trình độ quản lý của các công ty niêm yết ngày càng được nâng cao, tính minh bạch trong các báo cáo và thông tin ngày càng được cải thiện. Các công ty đa quốc gia và các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới ở nhiểu lĩnh vực đang là đối tác chiến lược của các công ty niêm yết. - Trên thị trường tham gia đầu tư của các tổ chức nước ngoài ngày càng nhiều đến nay đã có hơn 40 công ty quản lý quỹ và gần 400 quỹ đầu tư tham gia đầu tư tại thị trường Việt Nam, trong đó một số quỹ có vốn đầu tư nước ngoài và đã niêm yết tại thị trường nước ngoài. Các nhà đầu tư cá nhân ngày càng chuyên nghiệp và có sự hiểu biết về thị trường, tính chuyên nghiệp ngày càng được thể hiện số tài khoản của các nhà đầu tư đã lên con số hơn 730 ngàn tài khoản. Những mặt hạn chế: Bên cạnh những thành tựu đạt được khả quan quá trình phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam còn nhiều hạn chế: - Số lượng công ty niêm yết đã gia tăng ấn tuợng nhưng xét về các ngành nghề vẫn còn hẹp, số lượng so với so lượng đang đang hoạt động trong thị trường còn nhỏ thị trường chứng khoán vẫn chưa thể hiện là một phong vũ biểu thật sự của nền kinh tế. Số lượng tài khoản giao dịch gia tăng nhưng hơn 730 ngàn nhưng so với quy mô dân số còn quá nhỏ bé. - Các công ty chứng khoán gia tăng nhanh về số lượng bên cạnh làm gia tăng các tiện ích và tính thanh khoản cho thị trường, các công ty này đã gia tăng dẫn đế tình trạng dư thừa, đa số các công ty này lại yếu kém về năng lực quản trị các tiện ích gia tăng không cao, các sản phẩm về chứng khoán tư vấn còn thiếu hụt báo cáo nghiên cứu không tốt…Xuất hiện nhiều tình trạng các công ty cạnh tranh thu hút khách hàng không lành mạnh. - Công ty niêm yết bên cạnh một số công ty có quy mô lớn khả năng quản trị hoạt động rủi ro tốt đa phần các công ty còn lại quy mô nhỏ năng lực quản trị còn kém. Tình trạng minh bạch thông tin yếu đang tạo ra những tín hiệu không tính cực và tính công bằng giữa các nhà đầu tư. - Qui mô thị trường đã tăng cao, song quan hệ cung và cầu chứng khoán nhiều lúc mất cân đối gây nên những biến động cho thị trường, do vậy TTCK hoạt động chưa thực sự ổn định vững chắc, vẫn thể hiện một sự không ổn định trong hoạt động giao dịch của thị trường mà nguyên nhân chính vẫn phụ thuộc vào tâm lý đầu tư ngắn hạn. 28 - Chính sách về phát triển thị trường vẫn còn chậm được thực thi và hiệu quả thi hành còn kém, các chế tài vẫn chưa đủ sức răn đe. Minh bạch trong chính sách về thị trường chứng khoán chưa tốt tạo ra tâm lý hoang mang và gây hạn chế phát triển của thị trường. Các chính sách hành chính vẫn được sử dụng thường xuyên. Năng lực hoạt động và khả năng giám sát của cơ quan quản lý vẫn còn yếu. Hệ thống tuyên truyền phát triển nhanh chóng nhưng bên cạnh đó do sự thiếu hiểu biết và đưa tin không chính của cơ quan thông tin và tuyên truyền đã gây ra những ngộ nhận trong dân chúng và nhà đầu tư về rủi ro và hoạt động của thị trường. - Các nhà đầu tư nước ngoài bên cạnh một số nhà đâu tư dài hạn đa phần là lướt sóng ngắn hạn các luồng vốn gián tiếp ra và vào thị truờng có thể đảo chiều nhan chóng đang đặt ra tính ổn định và tăng trửơng lâu dài cho thị trường. Các nhà đầu tư cá nhân trong nước đã có những cải thiện nhất định về tiềm lực tài chính, sự hiểu biết thị trường nhưng do tính minh bạch thị truờng và tâm lý chưa ổn đinh vẫn thể hiện tâm lý bầy đàn, kinh doanh theo tin đồn gây thiệt hại cho mình và làm thị trường vận động không binh thường. Bên cạnh đó đang lưu ý là các nhà đầu tư lớn trong nứơc như các tập đòan kinh tế và tổ chức có mối quan hệ với các công ty quan chức nhà nước đã lợi dụng ưu thế cùa mình tạo ra lợi nhuận cho mình là méo mó hoạt động thị trường và làm mất tính công bằng giữa các nhà đâu tư trên thị trường . - Hành lang pháp lý đang đựợc hoàn thiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế tạo ra những khe hở dễ bị lợi dụng để trục lợi. - Hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt về hệ thống công nghệ thông tin của các Trung tâm GDCK, công ty chứng khoán cho thấy có bất cập trước sự phát triển quá nhanh của thị trường đòi hỏi cần phải có sự đầu tư, nâng cấp hệ thống theo hướng trước mắt và lâu dài. - Khả năng giám sát, cưỡng chế thực thi còn hạn chế một phần do công nghệ tin học, một phần do cơ sở pháp lý và lực lượng cán bộ còn mỏng. Sự phối hợp giữa tài chính, chứng khoán, ngân hàng trong chính sách điều hành quản lý thị trường còn hạn chế III Các định hướng cải cách tài chính tiền tệ Việt Na 3.1 Tài chính công 3.1.1 Thuế Sự hội nhập buộc Chính phủ VN phải làm nhiều nỗ lực trong việc cải cách chính sách, đặc biệt là chính sách thuế. Bởi lẽ, chính sách này liên quan đến nhiều mặt kinh tế xã hội, không những đến sự củng cố nguồn lực tài chính công, kích thích tăng trưởng kinh tế mà còn góp phần tăng cường khả năng cạnh tranh và hội nhập của nền kinh tế. Mặc dù đã từng bước được cải cách và hoàn thiện, nhưng hiện nay chính sách thuế vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục cải cách, sửa đổi để có thể đáp ứng mục tiêu khi gia nhập WTO, có thể cạnh tranh công bằng, lành mạnh trên đấu trường quốc tế. Là một công cụ của chính sách quản lý kinh tế, chính sách thuế phải hướng vào thực hiện các mục tiêu tổng thể của chính sách kinh tế mà Đại hội Đảng lần thứ IX của VN đề ra: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại .  Trước tiên, chính sách thuế phải đơn giản, rõ ràng, nhất quán, tránh thay đổi liên tục để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách và tạo được lòng tin nơi dân chúng. Mục tiêu quan trọng để ổn định, phát triển các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, giúp nền kinh tế nhanh chóng thoát khỏi suy thoái kinh tế trong giai đoạn hiện tại và lớn mạnh trong 29 tương lai. Chính sách phải hình thành một cơ cấu thuế hợp lý nhằm tăng cường nguồn thu và vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước. Cải cách thuế cần tập trung vào việc thu hẹp những bóp méo của thuế, đi đôi với việc mở rộng cơ sở thuế và hạ thấp thuế suất. Đồng thời, chính sách thuế phải bao quát hết tất cả nguồn thu, cần đưa vào áp dụng các loại thuế mới để quản lý nguồn thu và năng cao vai trò điều tiết: như thuế tài sản, thuế môi trường. Thuế tài sản được ban hành từ hơn một thập kỷ trước, nhưng chính sách về thuế tài sản tại Việt Nam đang ngày càng lộ rõ nhiều bất cập. Do đó, thực tế yêu cầu hoàn thiện chính sách thuế này ngày càng đặt ra cấp bách hơn. Cơ quan quản lý phải tiến hành nghiên cứu và xây dựng Luật thuế tài sản để đáp ứng yêu cầu hội nhập, góp phần đắc lực vào yêu cầu quản lý, phù hợp với cơ chế thị trường:  Cần phải minh bạch rõ ràng giữa thuế tài sản và phí, lệ phí  Khai thác hơn nữa về thuế tài sản, đặt biệt là thuế nhà ở. Nhưng để thực hiện được công tác công bằng trong cách thu thuế này, phải có môt bộ phận định giá nhà ở độc lập, nhà nước có thể tin tưởng vào kết quả này để thực thi quá trình thu thuế. Thuế môi trường chưa được ban hành, chỉ mới là dự thảo nhưng nếu được thực thi sẽ mang đến một nguồn thu không nhỏ cho NSNN, giải quyết vấn đề môi trường. Cơ cấu của hệ thống thuế phải có những thay đổi thích hợp cho phù với sự phát triển kinh tế. Trong xu hướng hội nhập, thuế đánh vào thương mại quốc quốc tế sẽ giảm dần, thay vào đó chính sách thuế cần nỗ lực gia tăng thuế thu nhập cá nhân để tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước. Đồng thời thuế GTGT cần được tăng cường và kết hợp với thuế TTĐB để điều tiết sản xuất - tiêu dùng và đảm trách tốt vai trò bảo hộ sản xuất trong nước.  Chính sách động viên của thuế cần tôn trọng kỷ luật tài chính tổng thể. Nguồn lực tài chính của nền kinh tế là giới hạn, do vậy mức huy động của thuế cũng phải có sự giới hạn. Với thực trạng là một quốc gia đang phát triển, nhu cầu chi tiêu của ngân sách rất lớn và áp lực cân đối ngân sách là không nhỏ, nhưng không phải thế là tận thu để bao chi. Làm như vậy sẽ phá vỡ tính kỷ luật tài chính tổng thể, gây kìm hãm, không kích thích đầu tư, tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và dân cư. Thuế không vì mục tiêu cân đối ngân sách trước mắt, mà quan trọng phải hướng vào mục tiêu cao hơn và xa hơn đó là thúc đẩy đầu tư, vực dậy nền kinh tế, thoát khỏi tình trạng yếu kém và đuổi kịp các nước trong khu vực. Đối với một quốc gia, mức thu của thuế bao nhiêu là hợp lý. Thật ra cho đến nay, lý thuyết thuế tối ưu cung cấp rất ít hướng dẫn thực tế để xác định mức thuế hợp lý cho một quốc gia. Chúng ta thừa hiểu rằng, không thể tiếp tục thu bằng các nguồn 30 bên ngoài mà chủ yếu là tận dụng nguồn bên trong. Ngay từ đầu, một luật thuế đưa ra, hầu hết đều bị phản ứng từ phía dân chúng, nhưng từ từ hành động nộp thuế sẽ trở thành thói quen, thành nghĩa vụ, Tuy nhiên, nhà nước cần phải uyển chuyển trong việc thực thi, bằng cách từ từ ban hành, tránh ban hành cùng lúc nhiều loại thuế, gây sốc trong lòng dân.  Cuối cùng, không ngừng hoàn thiện cơ chế hành thu, tạo ra sự chuyển biến về chất trong chính sách thuế và tương đồng với khu vực về trình độ quản lý. Từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý thuế, qua đó xác lập hệ thống dữ liệu về thuế liên tục, chính xác, kịp thời. Tiêu chuẩn hóa cán bộ thuế gắn liền với chế thưởng phạt nghiêm minh. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế cho phù với yêu cầu đổi mới chính sách thuế, trong đó xác lập cơ chế phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế và các cơ quan công quyền để nâng cao hiệu quả công tác hành thu. Tăng cường sự giáo dục tuyên truyền; nâng cao ý thức của công chúng về ý thức chấp hành chính sách thuế; từng bước đưa thuế trở thành chuẩn mực đạo đức trong cuộc sống xã hội. Trên cơ sở đó, tiến tới thay đổi cơ chế hành thu thuế theo hướng nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của người nộp thuế trong việc kê khai và nộp thuế cho Nhà nước, đi đôi là kiên quyết thực hiện các biện pháp xử lý về vi phạm nộp thuế để giảm bớt những xói mòn của thuế. Cơ quan hành thu có đầy đủ quyền lực để tăng cường thực thi luật thuế. 3.1.2 Vay nợ của chính phủ Thứ nhất, cơ sở hạ tầng cần được nâng cấp nhanh chóng, đặc biệt là các cảng biển và nhà máy điện. Mạnh dạn hơn nữa trong việc cho phép và khuyến khích doanh nghiệp tư nhân tham gia phát triển hạ tầng, nhất là những công trình hạ tầng đang xây dựng dở dang và đã kéo dài nên được hoàn thành tránh sự lãng phí không đáng có. Tránh tình trạng các công trình dự án xây dựng xong không đưa vào vận hành được do hệ thống cơ sở hạ tầng (như điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc…) không đủ đáp ứng nhu cầu cần thiết. Đặc biệt cần có quy trình xử lý chất thải đảm bảo an toàn vệ sinh môi trường. Thứ hai, rất nhiều ý kiến từ phía các doanh nghiệp và các đối tác nước ngoài có liên quan đều lo ngại về những luật lệ và quy định mới, do đó cần xoá bỏ những giấy phép không cần thiết, đẩy mạnh cải cách hành chính, bãi bỏ các thủ tục không cần thiết, tạo sự đồng bộ, nhất quán trong việc hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình cấp giấy phép và triển khai dự án. Ngoài ra, công tác quy hoạch giải phóng mặt bằng cho dự án cũng hết sức quan trọng, cần có các dự án tái định cư phù hợp cho các hộ dân cư. Cần cân nhắc kỹ các ngành nghề, sản phẩm đang thực sự cần thiết cho thị trường để đầu tư, cần đề ra các nguyên tắc lựa chọn dự án ưu tiên sử dụng vốn ODA, tránh đầu tư dàn trải, phân tán không hiệu quả, không đúng thời gian quy định và kiên quyết từ chối các khoản ODA vay xét thấy không hiệu quả hoặc hiệu quả thấp tránh tình trạng dự thừa, lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp, chuyển hướng các khoản vay này vào các hạng mục hiệu quả hơn Thứ ba, cần công khai, minh bạch mọi chính sách, cơ chế quản lý. Trong đó, cần rà soát lại các văn bản pháp quy liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế, sửa đổi các văn bản cho phù hợp với quy định của WTO. Nâng cao hiệu quả, hiệu lực của các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là các ban quan lý dự án (PMU), hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng tiêu cực; cần gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ quan quản 31 lý trong việc thực hiện dự án và có chế tài đủ mạnh để xử lý. Tăng cường vai trò kiểm tra, thanh tra của bộ chủ quản, các bộ có chức năng quản lý và các cơ quan thanh tra, kiểm toán đối với việc thực hiện dự án và đối với hoạt động quản lý của chủ đầu tư, các ban quản lý dự án (PMU). Nâng cao trình độ, năng lực của cơ quan và cán bộ thẩm định dự án ở các bộ ngành, địa phương đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật và ngoại ngữ cũng như kinh nghiệm quản lý. Thứ tư, quản lý chặt chẽ, tiết kiệm tài sản mua sắm phục vụ hoạt động dự án. Chẳng hạn về tiêu chuẩn định mức mua sắm ô tô phục vụ cho các dự án có thể không dùng vốn vay nước ngoài như hiện nay và sử dụng luân chuyển cho nhiều dự án cho đến khi từng chiếc xe hết giá trị sử dụng. Thứ năm, từng bước đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo để phát triển nguồn nhân lực. Phải xác định cho đúng những đối tượng cần được đào tạo và đào tạo lại, tránh tình trạng đào tạo tràn lan mà không biết sử dụng vào việc gì. Cần cải cách chương trình đào tạo cho tương xứng với trình độ nước ngoài. Đẩy mạnh việc xây dựng đội ngũ lao động đảm bảo đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, có chất lượng và tay nghề cao phục vụ cho nhu cầu của cả nước và xuất khẩu. 3.1.3 Chi đầu tư phát triển 3.1.3.1 Xu hướng cải cách đầu tư công: *Cải cách hướng tới hạn chế tình trạng thất thóat vốn, cải thiện hiệu quả của đầu tư công: Thứ nhất: Chú ý đến hiệu quả hơn là quy mô và mức độ bao phủ của đầu tư công Cần nhận thức lại vai trò đầu tư công trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở Việt Nam. Sự đề cao thái quá vai trò chi đầu tư có thể dẫn đến cho ra đời nhiều dự án đầu tư công kém hiệu quả và nạn tham nhũng cao, trong khi các nguồn lực đầu tư từ khu vực tư còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác triệt để phục vụ cho tăng trưởng bền vững. Với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam mạnh thời gian qua cũng như sự phát triển của khu vực tư nhân, đây là lúc thích hợp để Chính phủ điều chỉnh cơ cấu đầu tư công. Thay vì đầu tư theo bề rộng, dàn trải, Chính phủ nên tập trung vào hiệu quả thực chất, rút bớt nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ra khỏi những lĩnh vực không cần thiết. Vốn đầu tư từ ngân sách chỉ nên tập trung vào những mục tiêu, lĩnh vực then chốt nhất mà không thành phần kinh tế nào, khu vực đầu tư nào có thể làm được ( hệ thống điện quốc gia, hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng các cầu cảng sân bay... Những lĩnh vực còn lại, ngay như cơ sở hạ tầng cũng có thể giao cho các thành phần kinh tế tư nhân trong và ngoài nước thực hiện.(hệ thống câu đường, các công trình công cộng..) Sự rút vốn ra khỏi những lĩnh vực không cần thiết sẽ giúp Chính phủ có điều kiện tập trung hoạch định những vấn đề vĩ mô, giúp hình thành cơ cấu đầu tư có lợi cho tăng trưởng, có năng lực thích nghi với kinh tế thế giới. Ta muốn cắt giảm đầu tư công thì phải đánh giá lại hiệu quả của các dự án. Phải thống kê được các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước đã nhận bao nhiêu tiền đầu tư và thu lợi nhuận về được bao nhiêu, đã tạo bao nhiêu công ăn việc làm. Có thể thống kê là thấy ngay tổng số tiền đầu tư công rót cho các tổng công ty, tập đoàn kinh tế nhà nước mang lại hiệu quả kém. Chính phủ muốn cắt giảm đầu tư công thì cắt giảm ở đâu? Những hạng mục công trình lớn Quốc hội đã 32 phê chuẩn thông qua nay Chính phủ muốn dừng hay cắt giảm thì phải được sự chấp thuận của Quốc hội. Cái thứ hai là ở khâu kỹ thuật. Định nghĩa cho được thế nào là kém hiệu quả. Nhiều công trình đã được thẩm định nhưng cũng còn nhiều công trình không được thẩm định. Đó là chưa nói tới việc đầu tư công của nước ta vẫn chưa tính đến yếu tố lạm phát ở khâu tổ chức các công trình mà mới chỉ tính đến yếu tố trượt giá. Sau khi cắt giảm đầu tư công, Chính phủ sẽ làm gì với số tiền cắt giảm này? Nên chuyển số tiền đó sang hỗ trợ vốn cho khối tư doanh. Trước đây khối doanh nghiệp nhà nước đã được hưởng nhiều lợi thế nên “lấn lướt” khối tư doanh - chỉ chiếm 35%/tổng đầu tư toàn xã hội. Cho nên nay chính phủ chuyển sang hỗ trợ cho khối doanh nghiệp tư doanh năng động sẽ giúp khối này tái cơ cấu. Việc làm này sẽ giúp chính phủ đạt được hai mục tiêu là vừa giải quyết lạm phát mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thứ hai: Cần thiết phải xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá (Monitoring & Evaluation ) nhằm tạo ra các công cụ kiểm soát từ phía xã hội và công chúng đối với các hoạt động đầu tư và cung cấp dịch vụ công của Chính phủ. Đồng thời, cần thành lập một hội đồng thẩm định đầu tư công độc lập để đánh giá toàn diện các dự án công. Thực hiện tốt điều này sẽ làm giảm đáng kể tình trạng tham những tại các dự án đầu tư XDCB của nhà nước trong các khâu đấu thầu, chỉ đình thầu… Thứ ba, cần hướng đến minh bạch hóa quản lý ngân sách đầu tư công, gắn kết trách nhiệm người quản lý và người sử dụng vốn đầu tư. Tất cả dự án đầu tư lớn phải có phân tích chi phí lợi ích và phải được công bố công khai. Công khai các dự án công cần tập trung vào các tiêu chí: kết quả mong đợi của dự án; xác định chi tiết và đo lường chi phí của dự án; đầu ra của dự án; các nguồn lực tài trợ cho dự án. Thứ tư: việc phân bổ vốn đầu tư của ngân sách cần kết hợp chặt chẽ giữa chính sách chi đầu tư mới và chính sách chi bảo dưỡng các công trình cơ sở hạ tầng. Có thể xem đây là giải pháp để giới hạn nguồn vốn ngân sách dành cho đầu tư, tránh tình trạng công trình vừa hoàn thành đưa vào sử dụng đã có dấu hiệu xuống cấp cần phải tu bổ sửa chửa. Đầu tư phải gắn với bảo dưỡng thì mới khai thác hết năng suất của công trình đầu tư trong dài hạn. Để kiểm soát chặt chẽ vốn đầu tư công, trong quản lý tài chính công cần tiến tới áp dụng khuôn khổ quản lý chi tiêu trung hạn. Mô hình này một mặt thiết lập kỷ luật tài khóa tổng thể, mặt khác đề xuất sắp xếp thứ tự ưu tiên phân bổ nguồn lực cho từng lĩnh vực và từng nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính sách trong từng lĩnh vực; phân tích và đưa ra giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhất việc phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính công trong thời gian trung hạn (3 – 5 năm). *Cải cách tài chính công phải phù hợp với yêu cầu mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế: Giảm thiểu tíến tới xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp: Mặc dù đã hơn 20 năm đổi mới, nhưng cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn chưa hoàn toàn bị xóa bỏ. Nhiều hoạt động của nền kinh tế rất có thể "nhân danh" vì lợi ích chung, vì thực hiện vai trò quản lý của Nhà nước mà tài chính công bị lợi dụng và lạm dụng. Vì thế, để đổi mới tài chính công có hiệu 33 quả, cần nắm vững quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường. Cải cách tài chính công phải phù hợp với yêu cầu mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, mà trước hết là cải cách tài chính công theo các cam kết WTO của Việt Nam. Việt Nam phải tuân thủ những luật chơi chung đã cam kết với các tổ chức khu vực và quốc tế. Điều đó đòi hỏi phải có những cải cách về mặt hành chính, trong đó có cải cách tài chính công sao cho phù hợp với những quy định và cam kết quốc tế, bảo đảm nâng cao năng lực quản lý nhà nước về kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và của nền kinh tế là vấn đề có ý nghĩa sống còn. 3.1.3.1 Xu hướng cải cách cổ phần hóa.  Cần phải tăng cường công tác tuyên truyền chủ trương chính sách cho các công ty Nhà nước, cụ thể ở đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động, để họ hiểu rõ mục đích, yêu cầu cấp thiết của việc tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII. Đồng thời sớm rà soát lại tiêu chí sắp xếp, phân loại DNNN đã quy định trong Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trước đây, theo hướng chỉ giữ lại công ty có 100% vốn Nhà nước trong lĩnh vực an ninh quốc phòng và một số lĩnh vực mang tính chất cần thiết phải duy trì phục vụ công ích.  Nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc Quốc hội ban hành một pháp lệnh về việc chuyển DNNN thành Cty CP, trong đó quy định cụ thể về mục tiêu CPH DNNN, các ngành, các lĩnh vực phải được CPH triệt để, quy định trình tự, thủ tục, thời gian... phải hoàn thành việc CPH ở từng ngành, từng lĩnh vực và các chế tài đối với những hành vi cố tình trì hoãn việc CPH. Theo nhận định của các chuyên gia pháp lý, việc ban hành văn bản có giá trị pháp lý cao như vậy sẽ ngăn chặn được tình trạng tuỳ tiện thay đổi kế hoạch, kéo dài thời gian CPH nhằm những mục đích thiếu minh bạch.  Minh bạch hóa thông tin trong quá trình cổ phần hóa. Giải pháp này sẽ đem đến thông tin đầy đủ và rõ ràng cho nhà đầu tư, từ đó sẽ giúp nhà đầu tư có đầy đủ thông tin để ra quyết định đầu tư vào các DN Nhà nước.  Để giải quyết những bất cập về việc xác định giá trị Doanh nghiệp , nhiều ý kiến cho rằng nên thay Ban định giá bao gồm các chuyên gia từ nhiều bộ ngành như hiện nay bằng các đơn vị trung gian có kiến thức và kinh nghiệm trong công tác định giá để đảm bảo chính xác và khách quan, sát với giá thị trường. quá trình này phải được thực hiện nhanh chóng thông qua đấu thầu công khai, mở rộng, minh bạch.  Chỉ giữ cổ phần ở những lĩnh vực trọng yếu: Để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả sau CPH, thời gian tới, Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối tại các loại doanh nghiệp như: doanh nghiệp quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp công ích quan trọng; công ty mẹ của một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty hoạt động một trong những ngành, nghề liên quan đến an ninh quốc gia về kinh tế, quản lý, khai thác nguồn tài nguyên và khoáng sản quan trọng… 3.1.4 Bảo hiểm xã hội Bảo đảm an sinh xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng được Ðảng và Nhà nước thường xuyên quan tâm, nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà nền kinh tế nước ta bị tác động bởi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Trong việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội thì các loại hình Bảo hiểm xã hội (BHXH), Bảo hiểm y tế (BHYT) giữ vị trí quan trọng hàng đầu. 34 Hướng tới thực hiện BHYT toàn dân, việc phát triển, mở rộng BHYT không chỉ bảo đảm mục tiêu xã hội hóa công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân mà còn được coi là biện pháp cơ bản bảo đảm tính bền vững của chính sách BHYT. Thực hiện lộ trình mở rộng BHYT theo quy định của Luật BHYT, bắt đầu từ năm 2010 sẽ thực hiện đối với học sinh, sinh viên, từ năm 2012 sẽ thực hiện đối với người thuộc hộ gia đình nông dân; các đối tượng khác sẽ bắt đầu thực hiện từ năm 2014. Ðể giải quyết nhu cầu về chất lượng khám, chữa bệnh của nhân dân ngày càng cao, trong khi nguồn lực đầu tư cho y tế có hạn, Bộ Y tế cho biết, trước mắt, từ ngày 1-1-2010 thực hiện nghiêm chỉnh mức đóng mới theo quy định của luật để bảo đảm quyền lợi người bệnh. Ðồng thời bảo đảm nguồn ngân sách Nhà nước mua BHYT cho người nghèo, người dân tộc thiểu số vùng khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách khác. Ðồng thời ngân sách Nhà nước tiếp tục hỗ trợ mức đóng cho một số đối tượng tham gia BHYT. Cân đối quỹ BHXH, BHYT, Bộ Tài chính đề nghị cần xây dựng chiến lược phát triển BHXH theo hướng mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, đặc biệt là đối tượng làm công ăn lương trong khu vực doanh nghiệp tư nhân để đạt khoảng 90% đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc vào năm 2015. Từng bước triển khai thực hiện BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp một cách hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật; trên cơ sở đó xem xét, rút kinh nghiệm và tiếp tục cải cách, hoàn thiện cơ chế chính sách. Từ năm 2016 trở đi, tiếp tục tăng mức đóng góp vào các quỹ BHXH để bảo đảm sự bền vững của Quỹ. Thực hiện đóng BHXH trên thu nhập thực tế của người lao động ở các khối doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp. Mở rộng đối tượng tham gia BHYT, phấn đấu đến năm 2010 thực hiện BHYT cho 60% dân số và đến năm 2020 thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân cho hầu hết các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện bộ máy tổ chức BHXH Việt Nam Việc giao BHXH Việt Nam tổ chức thực hiện cả ba chế độ, chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp và BHYT như hiện nay là phù hợp quan điểm của Ðảng và yêu cầu cải cách hành chính. Ðiều đó được thể hiện ở chỗ: Tách được chức năng quản lý nhà nước với tổ chức và chức năng của đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công để hoạt động độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cụ thể là: Tách được chức năng quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội với hoạt động sự nghiệp thực thi chính sách, chế độ BHXH, bảo hiểm thất nghiệp; tách được chức năng quản lý nhà nước về BHYT của Bộ Y tế với hoạt động sự nghiệp thực thi chính sách, chế độ BHYT theo tinh thần các Nghị quyết Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ VIII, IX, X và yêu cầu của cải cách hành chính. Tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, người sử dụng lao động, người lao động và người dân trong việc tham gia đóng và thụ hưởng các chế độ BHXH, bảo hiểm thất nghiệp và BHYT vì chỉ phải đến một cơ quan là BHXH. Ðồng thời sẽ khai thác được nhiều người tham gia các chế độ BHXH bắt buộc do cùng đối tượng áp dụng và tiết kiệm được kinh phí vì chỉ phải chi quản lý bộ máy và đầu tư cơ sở vật chất cho một hệ thống tổ chức. Ðào tạo nguồn nhân lực cho BHXH Việt Nam nhu cầu nguồn nhân lực để thực hiện chính sách BHXH, BHYT của nước ta vẫn còn yếu về chất lượng và trong tương lai lại thiếu cả về số lượng. Thực tế này đặt ra một vấn đề rất lớn là phải đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cho ngành BHXH. Ðây là nhu cầu cấp thiết, vừa là trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài đối với toàn ngành mà chúng ta phải nhận thức được trong bối cảnh chung hiện nay. 3.2 Tài Chính Lĩnh Vực Tư Nhân 3.2.1 Ngân hàng 35 Việt Nam cần phải nhìn nhận rằng từ khi gia nhập WTO, cần phải điều chỉnh các công cụ tác động trên thị trường tiền tệ một cách linh hoạt hơn do hội nhập kinh tế đã tạo ra áp lực buộc phải thay đổi như: Chính sách tỷ giá của mình phải chấp nhận để cho đồng tiền có tính chuyển đổi trong thương mại lẫn đầu tư. Tỷ giá linh hoạt có nghĩa là sẽ bất ổn hơn do sức ép từ bên ngoài. Trong tương lai, Việt Nam được đánh giá là một trong số nước có nền kinh tế đáng chú ý trong các nhà đầu tư . Vì vậy, các nước khác xem ta như một đối thủ cạnh tranh mà tìm cách hạn chế bất lợi cho nhà đầu tư làm giảm cơ hội cho VN. Việt Nam cần mở rộng bên độ tỷ giá USD/VNĐ hơn do quá trình hội nhập. Tuy nhiên, cần có lộ trình thực hiện thả nổi tỷ giá, để cho các doanh nghiệp hiểu rỏ rủi ro và biện pháp phòng ngừa rủi ro. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải áp dụng thống nhất đối với tấc cả các tổ chức và loại tài sản nợ. Mức xử phạt sẽ được áp dụng nghiêm ngặt hơn trên số thiếu hụt bình quân cả kỳ. Tỷ lệ dự trữ này cần được giảm thấp hơn, việc trả lãi vượt mức qui định có nên trả toàn phần hay một phần. Việc tăng lãi suất cơ bản cũng phải cẩn trọng với việc lạm phát sẽ quay ngược trở lại. Tương tự với thuật ngữ’ “lãi suất thả nổi” thì “ tự do hoá lãi suất” sẽ phải dần dần dược áp dụng, nhà nước can thiệp nhưng sẽ sát với thị trường hơn. Về thị trường mở là biện pháp hiệu quả để cân đối cung cầu tiền tệ và sẽ được áp dụng ngày càng nhiều với mức lãi suất hấp dẫn hơn. Hiện nay, NHNN có nhiệm vụ điều hành thị trường tài chính tiền tệ, các định chế tài chính trung gian chịu sự tác động trực tiếp của chính sách này. Tuy nhiên để mục đích bình ổn nền kinh tế cũng như phát huy sức mạnh của chính sách, các định chế tài chính này phải trang bị cho mình đầy đủ những đặc điểm mạng tính cạnh tranh như: mở rộng mạnh lưới chi nhánh, nâng cao năng lực quản lý, năng lực tài chính, công nghệ quản lý, phát triển-chăm sóc thương hiệu và tạo mối liên kết giữa các ngân hàng với nhau. 3.2.2 Xu hướng cải cách Bảo hiểm Lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ: Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm nói chung và hợp đồng bảo hiểm nói riêng. Việc thông tin giáo dục về bảo hiểm cũng như pháp luật bảo hiểm cần được tăng cường và phổ biến rộng rãi( các phương tiện thông tin đại chúng, biên soạn và xuất bản các ấn phẩm có liên quan, biên soạn từ điển bảo hiểm…) Tạo điều kiện khuyến khích mạng lưới trung gian bảo hiểm phát triển dưới hình thức môi giới bảo hiểm, đại lý độc lập để giúp người dân tiếp cận bảo hiểm một cách dễ dàng và bảo vệ quyền lợi của người mua bảo hiểm. Lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ: Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đem đến nhiều thách thức nhưng cũng là thời điểm lịch sử để các khách hàng và các nhà đầu tư đánh giá đúng được giá trị thực của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Trong bối cảnh này, hầu hết các công ty bảo hiểm phi nhn thọ ở Việt Nam đặt nhiệm vụ trọng tâm là duy trì khả năng tài chính tốt để đảm bảo lợi ích cho khách hàng và các cổ đông. Các công ty bảo hiểm Phi nhơn thọ Việt Nam đã, đang và sẽ thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp để giữ vững tốc độ tăng trưởng, kinh doanh có hiệu quả, đó là: 36 - Hoàn thiện mô hình kinh doanh, đào tạo nâng cao tính chuyên nghiệp trong kinh doanh bảo hiểm để nâng cao chất lượng dịch vụ sao cho tất cả các khách hàng đều nhận được sự ưu việt và giá trị trong mỗi sản phẩm dịch vụ bảo hiểm . - Tập trung sức mạnh tổng hợp để xây dựng một chương trình tái bảo hiểm an toàn và hiệu quả, tăng cường nhận bảo hiểm từ các công ty chuyên ngành trong nước và quốc tế. - Điều tiết cơ chế kinh doanh linh hoạt làm động lực cho sự phát triển kinh doanh hiệu quả, cải cách chế độ lương thưởng để thu nhập xứng đáng với sự đóng góp, cống hiến của người lao động. - Điều chỉnh và cơ cấu danh mục đầu tư đảm bảo an toàn và hiệu quả, thoái vốn tại các dự án kém hiệu quả, đẩy nhanh các dự án khả thi có tính thanh khoản cao và phù hợp với qui mô của nguồn vốn . 3.2.3 Chứng khoán - Xây dựng một hành lang pháp lý hoàn thiện và ổn định đảm bảo sự công bằng và minh bạch giữa các chủ thể trong thị trường. Xây dựng chính sách dễ đoán và minh bạch công khai, giảm bớt những hạn chế tiến tới tự do hóa có kiểm soát họat động trên thị trường chứng khóan. - Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước tăng nhanh nguồn cung cho thị truờng. - Xây dựng các công cụ và phương án can thiệp thị trường tạo tính hài hoà hiệu quả cho thị trường. - Tái cấu trúc thị trường chứng khoán: Tái cấu trúc và phát triển thị trường có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do, Tạo tính chuyên nghiệp trong hoạt động của các công ty chứng khoán, nghiệp vụ lưu ký chứng khoán… - Nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian các ngân hàng thanh toán, quỹ đầu tư chứng khoán… - Tăng cường năng lực quản lý, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước cả về nguồn nhân lực, cơ sở vật chất thiết bị. Xây dựng UBCKNN thanh một tổ chức độc lập có năng lực. - Tăng cường tính công khai minh bạch và chất lượng quản trị công ty, siết chặt bắt buộc trong công bố thông tin và trách nhiệm về thông tin công bố. - Nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đả bảo vận hành ổn định và an toàn. - Nâng cấp hệ thống đào tạo hành nghề, đào tạo công chúng. Xây dựng hệ thống tuyên truyền và giáo dục có hiệu quả cho dân cư và các nhà đầu tư trên thị trường.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfCác xu hướng cải cách tài chính tiền tệ việt nam.pdf
Luận văn liên quan