Cải cách các chính sách thương mại và thủy sản, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, nâng cao nhu cầu của người tiêu dùng đối với quản lý bền vững ngành thủy sản: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam

Tiêu thụ là một mắt xích quan trọng trong chu trình sản xuất. Thông qua tiêu thụ, HÀNG chuyển đổi thành TIỀN và tạo ra LỢI NHUẬN cho người sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Do tính đặc thù của sản phẩm thủy sản và sản xuất thủy sản ở Việt Nam, đặc biệt là của khai thác thủy sản: sản phẩm mau ươn, chóng thối; sản phẩm khai thác ngoài biển xa; quy mô sản xuất – kinh doanh nhỏ kiểu hộ gia đình, nên ngành Thủy sản nói chung, lĩnh vực khai thác thủy sản nói riêng là một ngành kinh tế có thị trường tiêu thụ sản phẩm rất đa dạng, sôi động, qua nhiều mắt xích và mang thuộc tính của thị trường hoàn hảo tương đối cao. Do tầm quan trọng của ngành Thủy sản trong việc cung ứng thực phẩm cho người dân và cân bằng cán cân thương mại xuất nhập khẩu, Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến việc duy trì sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Tuy nhiên thị trường thủy sản đến nay hoạt động vẫn chưa theo một hệ thống thống nhất, giá sản phẩm rất không ổn định, nhiều lúc mang tính chất “Ảo” gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế của cho các đơn vị sản xuất và người tiêu dùng. Việc nghiên cứu tiếp tục đổi mới chính sách thương mại và chính sách trong phát triển thủy sản là rất cần thiết để góp phần phát triển ngành thủy sản bền vững. Với sự hỗ trợ của tổ chức UNEP, một dự án nghiên cứu: “§æi míi chÝnh s¸ch th­¬ng m¹i vµ thñy s¶n, t¸i cÊu tróc chuçi gi¸ trÞ vµ t¨ng c­êng nhu cÇu ng­êi tiªu dïng cho qu¶n lý thñy s¶n bÒn v÷ng” được thực hiện. Báo cáo chuyên đề “Đánh giá chuỗi cung ứng thủy sản ở Việt Nam” thuộc khuôn khổ Dự án nghiên cứu này với phạm vi đánh giá chuỗi cung ứng cho sản phẩm khai thác hải sản (KTHS). Báo cáo chuyên đề được thực hiện nhằm đưa ra sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác hải sản, trên cơ sở phân tích và đánh giá các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS, sự biến động giá sản phẩm qua các khâu sản xuất và lưu thông, lợi ích và xung đột lợi ích giữa các bên liên quan đề xuất các giải pháp cải tiến chuỗi cung ứng nhằm nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững cho lĩnh vực KTHS.

doc39 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2983 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cải cách các chính sách thương mại và thủy sản, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, nâng cao nhu cầu của người tiêu dùng đối với quản lý bền vững ngành thủy sản: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản TỔNG QUAN CHUỖI CUNG ỨNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM (Bản dự thảo) Báo cáo chuyên đề của tiểu dự án: “Cải cách các chính sách thương mại và thủy sản, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, nâng cao nhu cầu của người tiêu dùng đối với quản lý bền vững ngành thủy sản: Trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam” Hợp phần: Trợ cấp và Thỏa thuận khai thác thủy sản Báo cáo xây dựng bởi: Phạm Thị Hồng Vân và Cộng sự  Tháng 12, 2008 MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 3 LỜI MỞ ĐẦU 4 I. KHÁI NIỆM VỀ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM 6 II. CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM KHAI THÁC HẢI SẢN 8 2.1 Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác thủy sản và vai trò của các bên liên quan 8 2.2 Lợi ích và xung đột giữa các bên liên quan 16 2.3 Phân tích một số trường hợp điển hình 22 2.4 Hiệu quả và tính cạnh tranh của chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS 30 III. GIẢI PHÁP CẢI TIẾN CHUỖI CUNG ỨNG NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 33 3.1 Tăng tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của khâu KTHS 33 3.2 Tăng tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh của khâu CBHS 34 3.3 Phát triển các mô hình dịch vụ mua bán đảm bảo tính minh bạch về giá cả và chất lượng sản phẩm. 34 3.4 Tăng cường các hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 35 3.5 Tăng cường các hoạt động quản lý và điều tiết của Nhà nước đối với chuỗi giá trị sản phẩm KTHS 35 3.6 Tăng cường hoạt động tuyên truyền, 35 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 37 TÀI LIỆU THAM KHẢO 38 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT KTHS  Khai thác hải sản   HTX  Hợp tác xã   NV  Nậu vựa   ATVSTP  An toàn vệ sinh thực phẩm   NNPTNT  Nông nghiệp và Phát triển nông thôn   KTBVNLTS  Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản   WTO  Tổ chức Thương mại quốc tế   VINAFIS  Hiệp hội nghề cá   VASEP  Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản   TAGS  Thức ăn gia súc   LỜI MỞ ĐẦU Tiêu thụ là một mắt xích quan trọng trong chu trình sản xuất. Thông qua tiêu thụ, HÀNG chuyển đổi thành TIỀN và tạo ra LỢI NHUẬN cho người sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Do tính đặc thù của sản phẩm thủy sản và sản xuất thủy sản ở Việt Nam, đặc biệt là của khai thác thủy sản: sản phẩm mau ươn, chóng thối; sản phẩm khai thác ngoài biển xa; quy mô sản xuất – kinh doanh nhỏ kiểu hộ gia đình, nên ngành Thủy sản nói chung, lĩnh vực khai thác thủy sản nói riêng là một ngành kinh tế có thị trường tiêu thụ sản phẩm rất đa dạng, sôi động, qua nhiều mắt xích và mang thuộc tính của thị trường hoàn hảo tương đối cao. Do tầm quan trọng của ngành Thủy sản trong việc cung ứng thực phẩm cho người dân và cân bằng cán cân thương mại xuất nhập khẩu, Chính phủ Việt Nam đã rất quan tâm đến việc duy trì sự phát triển bền vững của ngành thủy sản. Tuy nhiên thị trường thủy sản đến nay hoạt động vẫn chưa theo một hệ thống thống nhất, giá sản phẩm rất không ổn định, nhiều lúc mang tính chất “Ảo” gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh tế của cho các đơn vị sản xuất và người tiêu dùng. Việc nghiên cứu tiếp tục đổi mới chính sách thương mại và chính sách trong phát triển thủy sản là rất cần thiết để góp phần phát triển ngành thủy sản bền vững. Với sự hỗ trợ của tổ chức UNEP, một dự án nghiên cứu: “§æi míi chÝnh s¸ch th­¬ng m¹i vµ thñy s¶n, t¸i cÊu tróc chuçi gi¸ trÞ vµ t¨ng c­êng nhu cÇu ng­êi tiªu dïng cho qu¶n lý thñy s¶n bÒn v÷ng” được thực hiện. Báo cáo chuyên đề “Đánh giá chuỗi cung ứng thủy sản ở Việt Nam” thuộc khuôn khổ Dự án nghiên cứu này với phạm vi đánh giá chuỗi cung ứng cho sản phẩm khai thác hải sản (KTHS). Báo cáo chuyên đề được thực hiện nhằm đưa ra sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác hải sản, trên cơ sở phân tích và đánh giá các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS, sự biến động giá sản phẩm qua các khâu sản xuất và lưu thông, lợi ích và xung đột lợi ích giữa các bên liên quan đề xuất các giải pháp cải tiến chuỗi cung ứng nhằm nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững cho lĩnh vực KTHS. Trong phạm vi nghiên cứu của báo cáo chuyên đề này được giới hạn trong phân tích chuỗi cung ứng của sản phẩm khai thác hải sản và chỉ phân tích đánh giá chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS đến người tiêu dùng cuối cùng cho các sản phẩm tiêu dùng trong nước và đến các nhà nhập khẩu cho các sản phẩm xuất khẩu. Trong quá trình nghiên cứu thực hiện chuyên đề, đã áp dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp chuyên khảo - Phương pháp chuyên gia - Phương pháp điều tra khảo sát điển hình - Phương pháp phân tích các bên liên quan - Phương pháp phân tích mô tả Báo cáo chuyên đề sẽ bao gồm các nội dung chính sau: I. Khái niệm về chuỗi cung ứng II. Chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác hải sản Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác hải sản và vai trò của các bên liên quan Lợi ích và xung đột giữa các bên liên quan Phân tích một số trường hợp: Chuỗi cung ứng mực đông lạnh Chuỗi cung ứng cá cơm 2.4 Hiệu quả và tính cạnh tranh của chuỗi cung ứng thủy sản III. Giải pháp cải tiến chuỗi cung ứng nhằm nâng cao sức cạnh tranh và phát triển bền vững. Kết luận và khuyến nghị I. KHÁI NIỆM VỀ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM Chuỗi cung ứng sản phẩm là chuỗi của các hoạt động từ khâu sản xuất, qua lưu thông (có thể qua chế biến) và đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Sản phẩm đi qua tất cả các hoạt động của chuỗi theo thứ tự và tại mỗi hoạt động sản phẩm luôn có sự thay đổi về giá cả và có thể có những thay đổi nhất định về giá trị vì luôn có các chi phí xảy ra trong suốt các hoạt động. Chính vì vậy, các bên liên quan trong chuỗi cung ứng luôn có được các lợi ích nhất định và sự xung đột lợi ích giữa các bên liên quan là tính chất tất yếu của chuỗi cung ứng sản phẩm trong cơ chế kinh tế thị trường. Trong chuỗi cung ứng thì mỗi thành viên của chuỗi là người mua hàng của người trước và là nhà cung cấp cho người sau, các thành viên trong chuỗi có chung một mục đích và cùng nhau làm việc để đạt được mục đích đó. Mỗi thành viên của chuỗi có thể độc lập với nhau, nhưng lại phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi thành viên góp thêm giá trị tại mắt xích cuối của chuỗi bằng cách đóng góp vào sự thỏa mãn của khách hàng. Chuỗi cung ứng có sự hợp tác giữa tất cả các nhà sản xuất trong chuỗi cung cấp để đảm bảo giảm thiểu sự thất thoát giá trị của sản phẩm nếu như có một mắt xích nào đó hoạt động kém trong chuỗi này. Chuỗi cung ứng là một liên minh giữa những bộ phận liên kết dọc để đạt những vị thế xứng đáng hơn trên thương trường. Sự hợp tác tạo ra những giá trị và giảm những chi phí. Khách hàng cần hướng đến chuỗi cung ứng, bởi vì mỗi khách hàng yêu cầu những tiêu chuẩn cụ thể. Những bên liên quan trong chuỗi cung ứng độc lập về mặt pháp lý, nhưng trở thành phụ thuộc lẫn nhau bởi vì họ có những mục tiêu chung và hoạt động để đạt được điều đó. Họ cùng làm việc với nhau trong thời gian dài, cùng thảo luận vấn đề và giải quyết những vấn đề cùng nhau. Điều này gắn kết các bên liên quan hơn cả những hợp đồng lâu dài. Những thay đổi trong nông nghiệp vài thập niên vừa qua cho thấy sự liên kết dọc trong nông nghiệp là cần thiết cho sự thành công về mặt kinh tế của các sản phẩm nông nghiệp. Một lý do khác là ngày càng tăng lên về những yêu cầu truy cứu nguồn gốc sản phẩm một cách đầy đủ, đo đó xây dựng chuỗi cung ứng với sự gắn kết chặt chẽ giữa các bên liên quan là phương pháp để đạt được sự liên kết dọc kết hợp nhiều mắt xích riêng lẻ cùng làm việc với nhau với mục tiêu chung thông qua sự hợp tác và phụ thuộc lẫn nhau trong khi vẫn duy trì sự độc lập của mình. Mục tiêu chung đó là tối đa hóa giá trị và giá cả cho tất cả các bên liên quan trong chuỗi cung ứng. Một chuỗi cung ứng mà hội nhập dọc hoàn toàn sẽ cải tiến chất lượng, làm tăng hiệu quả, cho phép tạo ra những sản phẩm khác biệt và làm tăng lợi nhuận. Những lợi ích chính của chuỗi cung ứng kiểu này bao gồm những cơ hội tiếp thị duy nhất, thị trường được đảm bảo, cơ hội tạo ra những giá trị lớn hơn từ một thị trường chung, chống lại việc cạnh tranh ở cấp độ toàn cầu và tăng khả năng quản lý rủi ro. Để có thể thực hiện phân tích đánh giá chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS, trong khuôn khổ nghiên cứu này, sẽ thực hiện đánh giá chuỗi cung ứng của sản phẩm KTHS và các bên liên quan thông qua việc phân tích đánh giá sự biến đổi của giá cả, giá trị sản phẩm và các bên liên quan. II. CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM KHAI THÁC HẢI SẢN 2.1 Sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác thủy sản và vai trò của các bên liên quan Với đặc trưng của ngành Thủy sản Việt Nam vẫn là quy mô nhỏ đang được hiện đại hóa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế nên thị trường các sản phẩm của ngành thủy sản nói chung, của lĩnh vực khai thác hải sản nói riêng, rất đa dạng và luôn sôi động. Nếu chỉ xét theo luồng sản phẩm từ người khai thác đến người tiêu dùng cuối cùng, sản phẩm KTHS được tăng thêm giá cả hoặc giá trị qua rất nhiều khâu trung gian, sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm khai thác hải sản có thể được hình dung như sau:  SƠ ĐỒ CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM KHAI THÁC HẢI SẢN Do đặc điểm nghề cá Việt Nam là đa loài và có chu kỳ sinh trưởng ngắn nên đối tượng đánh bắt được của một mẻ lưới thường rất đa dạng, ngoại trừ một số nghề mang tính đặc thù cao (vây cá cơm, ...) nên thông thường phần lớn các tàu KTHS đều có các sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng có qua chế biến và không qua chế biến. Những người mua bán trung gian cũng đa chức năng và qua rất nhiều cấp. Chuỗi cung ứng của các sản phẩm khai thác không qua chế biến đã phức tạp, chuỗi cung ứng của các sản phẩm khai thác qua chế biến còn phức tạp hơn. Nhưng vì những người mua bán trung gian, trừ người bán lẻ, thường mua cả các sản phẩm khai thác không qua chế biến và sẽ qua chế biến, nên theo sơ đồ trên, để giảm bớt sự phức tạp và dễ theo dõi sự biến đổi của chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS cũng như các bên liên quan, có thể phân chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS thành ba giai đoạn: Cung ứng sản phẩm từ khâu khai thác Dòng sản phẩm trong khâu trung chuyển: dòng sản phẩm trung chuyển sẽ bao gồm cả sản phẩm khai thác có qua chế biến và sản phẩm khai thác không qua chế biến Cung ứng sản phẩm đến tay người tiêu dùng 2.1.1 Cung ứng sản phẩm từ khâu khai thác và các bên liên quan Để thấy rõ các bên liên quan trong việc quyết định giá cả sản phẩm trong khâu khai thác cần phải biết một số hình thức tổ chức sản xuất KTHS. Nghề khai thác hải sản có rất nhiều thành phần kinh tế tham gia: hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp. Trong mỗi thành phần kinh tế lại có nhiều loại hình tổ chức sản xuất khác nhau: có tổ chức chỉ thực hiện khai thác, tổ chức khác vừa khai thác vừa chế biến. Đối với các sản phẩm khai thác, giá cả của phẩm khai thác được quyết định bởi hai nhóm đối tượng: người bán và người mua. Người bán ở đây có thể là: Chủ tàu: gồm hai loại: + Chủ tàu cũng là ngư dân: Đối với KTHS quy mô hộ gia đình, chủ tàu thuê một số lao động cùng đi khai thác và chủ tàu quyết định việc bán sản phẩm. + Chủ tàu không là ngư dân: Đối với doanh nghiệp KTHS, chủ tàu có nhiều tàu và thuê thuyền trưởng cùng các ngư dân đi khai thác, sản phẩm khai thác mang về do chủ tàu quyết định bán. Chủ tàu kiêm ngư dân: gồm 2 loại: + Đối với KTHS quy mô hộ gia đình, nhưng ở đây là các cổ đông góp vốn cùng mua sắm trang thiết bị, cùng đi khai thác và cùng quyết định việc bán sản phẩm. + Đối với các hợp tác xã (HTX) thực hiện khoán cho đội tàu: Tàu và trang thiết bị là của HTX, chi phí và bán sản phẩm cho chuyến biển do đội KTHS lo, đội KTHS có trách nhiệm nộp phần nhận giao nộp khoán sản phẩm cho HTX. Ban Chủ nhiệm HTX: thường là đối với các HTX KTHS. Hợp tác xã có Ban Chủ nhiệm HTX được xã viên bầu ra và đại diện cho toàn thể xã viên quyết định các hoạt động của HTX. Toàn bộ trang bị tàu thuyền KTHS và chi phí chuyến biển do HTX chịu, đội tàu KTHS chỉ có trách nhiệm thực hiện hoạt động KTHS, việc bán sản phẩm mang về do Ban Quản lý HTX quyết định. Chủ Nậu vựa (NV): Nậu vùa lµ mét ng­êi hoÆc mét tæ chøc mua b¸n s¶n phÈm khai th¸c h¶i s¶n trung gian gi÷a ng­ d©n vµ c¸c bé phËn mua b¸n trung gian kh¸c, NËu Vùa cã thÓ ®Çu t­ cho chñ tµu hoÆc cã c¸c tµu khai th¸c h¶i s¶n vµ c¬ së chÕ biÕn. (Dự án ALMRV, nghiên cứu Nậu Vựa, 2005). Chủ NV với tư cách là người bán sản phẩm khai thác là những chủ NV có tàu KTHS, thường bán sản phẩm cho các chủ NV khác ở trong tỉnh hoặc ngoài tỉnh, các cơ sở chế biến thủy sản và sử dụng sản phẩm khai thác cho chính cơ sở chế biến của họ. Người mua ở đây có thể là: (1) Người tiêu dùng: việc bán trực tiếp sản phẩm khai thác đến tay người tiêu dùng cuối cùng không phổ biến, thường chỉ xảy ra đối với những sản phẩm khai thác ở những thuyền gắn máy nhỏ, cập bến cá địa phương, có một phần sản phẩm được bán cho bà con trong xóm. (2) Người bán lẻ: việc bán trực tiếp sản phẩm khai thác đến tay người bán lẻ ở các chợ địa phương cũng không phổ biến, thường chỉ xảy ra đối với những sản phẩm khai thác ở những thuyền gắn máy nhỏ, cập bến cá địa phương, có một phần sản phẩm được bán cho người mua buôn để bán lẻ ở các chợ trong huyện, xã. (3) Người bán buôn (bán sỉ): người bán buôn gồm nhiều loại có quy mô hoạt động khác nhau: + Người bán buôn quy mô nhỏ: Có một lực lượng người bán buôn cung cấp cho những người bán lẻ và hệ thống các nhà hàng đây là người mua bán trung gian có cơ sở kinh doanh tại các chợ nhưng quy mô không lớn, thường không có quan hệ tài chính với chủ tàu cũng như với đối tượng mua hàng của họ. + Người bán buôn là các chủ nậu vựa cấp 1: là các chủ NV quan hÖ mua hàng trùc tiÕp víi ng­ d©n sau đó sẽ chuyển tiếp cho các đối tượng mua hàng khác, chủ yếu là chuyển hàng cho các chủ NV cấp 2 (trong hoặc ngoài tỉnh), nhà máy chế biến. (4) Cơ sở chế biến: thông thường các cơ sở chế biến cũng cử người về tận các cảng, bến cá để mua nguyên liệu trực tiếp của chủ tàu để hạ giá thành sản phẩm chế biến. (5) Hợp tác xã dịch vụ khai thác hải sản: Một số tỉnh hình thành các HTX làm dịch vụ thu mua hải sản trên biển, có vai trò như các chủ NV cấp I nhưng vốn kinh doanh do một nhóm xã viên HTX đóng góp và hoạt động theo Luật HTX. Giá cả sản phẩm - trong khâu KTHS (G1) được quyết định thông qua sự thỏa thuận giữa chủ tàu và người mua, kể cả đối với những chủ tàu có quan hệ tài chính với các chủ NV (vay tiền, được đầu tư trang thiết bị, ứng chi phí sản xuất cho chuyến biển …). Có các dạng thỏa thuận giá cả sản phẩm như sau: a) Mua đứt bán đoạn: Chủ tàu bán toàn bộ sản phẩm khai thác cho người mua (có phân loại hoặc không phân loại) theo giá được thỏa thuận tại thời điểm giao hàng. Tiền bán sản phẩm được trả ngay đối với những đối tượng mua hàng nhỏ, lẻ và không thường xuyên. Tiền bán sản phẩm có thể được trả sau 7 – 10 ngày đối với người mua hàng là các chủ NV/HTX thường xuyên. Trong trường hợp này, người mua hàng có thể bị rủi ro nếu không bán được hàng với giá cao hơn giá mua. b) Bán sản phẩm thông qua chủ NV: Chủ NV là người môi giới trung gian giữa chủ tàu và người có nhu cầu mua hàng, chủ NV chịu trách nhiệm trong thỏa thuận giá cả giữa chủ tàu và người mua hàng, tín chấp để trả tiền cho chủ tàu. Sau khi thanh toán tiền, chủ NV hưởng một phần hoa hồng từ giá sản phẩm, từ 100 – 1.000 – 3.000 đồng/kg sản phẩm, tùy thuộc vào giá trị sản phẩm cao hay thấp. Bán sản phẩm thông qua chủ NV gồm hai loại: b.1 Không có quan hệ tài chính: đối với những sản phẩm đang khan hiếm, chủ NV giảm mức hoa hồng thu lại của chủ tàu so với giá thị trường, đối với những sản phẩm dư thừa, chỉ mua khi các chủ tàu có quan hệ tài chính hết sản phẩm và tăng mức hoa hồng thu lại của chủ tàu so với giá thị trường. b.2 Có quan hệ tài chính: Mức hoa hồng luôn theo thị trường. Nếu chủ tàu có quan hệ tài chính với chủ NV tìm được nơi bán sản phẩm cao hơn thì vẫn có thể bán cho đối tượng đó nhưng vẫn phải trả mức hoa hồng cho chủ NV có quan hệ tài chính bằng với thị trường. Tuy nhiên sự thỏa thuận giá cả ở đây chỉ mang tính chất tương đối vì sản phẩm thủy sản thuộc loại mau ươn, chóng thối; bên cạnh đó lại mang nặng tính chất mùa vụ và thời điểm khai thác; trang thiết bị bảo quản trên tàu thô sơ – không lưu giữ sản phẩm được lâu khi cập bến nên chủ tàu thường là bên chịu thiệt trong việc thỏa thuận giá cả, nhất là những lúc chính vụ và tàu cập bến nhiều. Đây là khâu rất cần thiết có sự can thiệp mang tính chất vĩ mô của Nhà nước đối với lĩnh vực KTHS để giảm bớt rủi ro cho các chủ tàu và ngư dân trực tiếp đầu tư, tham gia KTHS. Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm cũng rất cần phải được đề cập đến trong giai đoạn này. Một mặt do thiết bị bảo quản thô sơ, chi phí đầu vào tăng cao, trong khi giá sản phẩm đầu ra tăng chậm, rất dễ không bù đắp nổi chi phí đầu vào, mặt khác do các nhà máy chế biến không khó tính khi mua nguyên liệu nên các chủ tàu chấp nhận sử dụng các loại thuộc bảo quản rẻ tiền để đảm bảo độ tươi của sản phẩm, bỏ qua các quy định, yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm. Bên cạnh đó vấn đề truy xuất nguồn gốc, cấp giấy chứng nhận sản phẩm bền vững cho các sản phẩm KTHS là rất khó khăn, ngoại trừ các đối tượng khai thác là nhuyễn thể sống tương đối tập trung và ít di chuyển như: nghêu, điệp … 2.1.2 Dòng sản phẩm trong khâu lưu thông trung gian và các bên liên quan Giá cả và giá trị sản phẩm KTHS trong khâu lưu thông trung gian, bao gồm cả khâu chế biến, là biến động nhiều nhất và phức tạp nhất. Trong khâu lưu thông trung gian này, đối tượng tham gia nào cũng đều thực hiện 2 chức năng mua và bán, hoạt động rất đa dạng. Theo sơ đồ chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS, có thể phân thành các nhóm đối tượng như sau: Người bán buôn: gồm Người bán buôn quy mô nhỏ: là nguời mua bán trung gian các sản phẩm KTHS có quan hệ với rất nhiều đối tác: từ chủ tàu, người bán lẻ, chủ NV, cơ sở chế biến, người bán buôn này chỉ không quan hệ với người tiêu dùng. Người bán buôn quy mô nhỏ này mua hàng của chủ tàu, chủ NV mang bán cho người bán lẻ, các cơ sở chế biến Chủ NV các cấp: Chủ NV cấp 1 – thường có cơ sở tại bến cảng cá - là NV mua hàng trực tiếp từ chủ tàu hoặc tự khai thác sản phẩm. Chủ NV cấp 1 có quan hệ rất chặt chẽ với chủ NV cấp 2 – thường có cơ sở tại các thành phố lớn. Các chủ NV cấp 2 có quan hệ chặt chẽ với chủ NV cấp 1 để mua hàng và quan hệ chặt chẽ với hệ thống những người bán buôn quy mô nhỏ tiêu thụ hàng thủy sản tươi sống và các cơ sở chế biến thủy sản để tiêu thụ sản phẩm KTHS tươi sống. Nhà hàng, khách sạn: Hệ thống các nhà hàng, khách sạn là một khâu trung chuyển quan trọng sản phẩm KTHS tới tay người tiêu dùng, cả các sản phẩm qua chế biến và không qua chế biến. Các nhà hàng, khách sạn quan hệ chủ yếu với nhóm những người bán buôn quy mô nhỏ để mu sản phẩm KTHS đã qua chế biến hoặc chưa qua chế biến để phục vụ khách hàng tiêu dung của mình. Cơ sở chế biến và hệ thống tiêu thụ sản phẩm chế biến (các công ty kinh doanh, các đại lý, các người bán buôn, bán lẻ, nhà hàng, khách sạn, …) là khâu trung gian rất quan trọng trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS, tỷ lệ nguyên liệu sản phẩm KTHS đưa vào chế biến để nâng cao giá trị sản phẩm (G2), tạo thuận lợi cho người tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu của thị trường tiêu thụ ngày một tăng. Các cơ sở chế biến nói chung, bao gồm cả chế biến đông lạnh, chế biến khô, chế biến các loại mắm, cả chế biến các sản phẩm xuất khẩu (XK) và chế biến sản phẩm tiêu thụ nội địa, đều là nơi thu mua một số lượng lớn sản phẩm KTHS làm nguyên liệu đầu vào cho các sản phẩm chế biến. Để thu mua nguyên liệu đầu vào, các cơ sở chế biến quan hệ mua sản phẩm với các chủ NV, chủ tàu, người bán buôn. Trải qua quá trình chế biến, làm tăng giá trị cho sản phẩm KTHS, hệ thống tiêu thụ các sản phẩm hải sản chế biến cũng đa dạng và năng động như hệ thống tiêu thụ hàng thủy sản tươi sống. Ở đây hệ thống các chủ NV không có vai trò quan trọng như giai đoạn trước nhưng lại xuất hiện thêm nhiều đối tượng mới và rất quan trọng: hệ thống các công ty kinh doanh hàng thủy sản qua chế biến, các đại lý, hệ thống nhập khẩu sản phẩm của nước ngoài; đối với sản phẩm chế biến khô vẫn tồn tại hệ thống chủ NV sản phẩm KTHS chế biến khô cho tiêu thụ nội địa và cho xuất khẩu; và vẫn tồn tại hệ thống bán buôn, bán lẻ sản phẩm thủy sản chế biến, các siêu thị, nhà hàng, khách sạn, trường học, … là hệ thống trung chuyển các sản phẩm chế biến đến tay người tiêu dùng cả trong và ngoài nước. Các Hợp tác xã dịch vụ và thu mua sản phẩm KTHS: các Hợp tác xã dịch vụ và thu mua sản phẩm KTHS trong giai đoạn này cũng có vai trò như hệ thống chủ NV cấp 1, các HTX cũng bán sản phẩm của mình thu mua được tới các cơ sở chế biến, tới cả các chủ NV. Người bán lẻ: thông thường người bán lẻ là người mua bán trung gian cuối cùng đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Trong chuỗi giá trị sản phẩm KTHS, do nghề KTHS mang nhiều đặc trưng của quy mô nhỏ và “nghề cá nhân dân” nên người bán lẻ cũng có thể là khâu mua bán trung gian đầu tiên đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Ở đây, người bán lẻ tùy theo vị trí trong khâu lưu thông trung gian có thể gồm 3 nhóm: Nhóm trung chuyển sản phẩm trực tiếp từ khai thác đến người tiêu dùng; nhóm trung chuyển sản phẩm tươi sống từ người buôn đến người tiêu dùng; nhóm trung chuyển sản phẩm đã qua chế biến từ người bán buôn, các đại lý hàng thủy sản chế biến đến tay người tiêu dùng. Giá cả sản phẩm trong khâu mua bán trung gian này tương đối ổn định hơn trong khâu khai thác về khía cạnh thời gian vì giá cả đã theo các loại sản phẩm được thị trường tiêu thụ chấp nhận. Giá cả sản phẩm trong khâu này thường được thỏa thuận thông qua đàm thoại bằng điện thoại; chi phí vận chuyển thường do bên bán chịu; tiền bán hàng được thanh toán chậm sau 7-10 ngày, thậm chí 15 ngày đối với hàng thủy sản tươi, sống, làm nguyên liệu cho cơ sở chế biến; chậm 15 – 30 ngày đối với sản phẩm đã qua chế biến và xuất khẩu. Trong giai đoạn này người mua hàng đồng thời là người bán hàng, họ nắm rất chắc thông tin thị trường nên ít chịu rủi ro hơn các chủ tàu và chủ NV cấp 1 trong giai đoạn trước. Hiện nay giai đoạn này gần như hoàn toàn do tư nhân đảm nhiệm, chỉ có một phần sản phẩm rất nhỏ, không đáng kể, do HTX đảm nhiệm lưu thông. Ở giai đoạn này hầu như không có sự hỗ trợ của Nhà nước, ngoại trừ có một số khóa tập huấn, tuyên truyền cho việc giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường. Ở giai đoạn này cũng không tránh khỏi những rủi ro về vệ sinh an toàn thực phẩm. Cũng vì mục đích bảo quản sản phẩm tươi, cộng với sự dễ dãi của các nhà máy chế biến, sự không đủ nguồn lực để kiểm tra kiểm soát nên vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) và truy xuất nguồn gốc không được thực hiện tốt, ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng. Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, với những hàng rào VSATTP ngày càng gắt gao, sự không đảm bảo VSATTP và truy xuất nguồn gốc để cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm KTHS ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh tế, uy tín của khâu XKTS – mắt xích quan trọng, tạo động lực thúc đẩy lĩnh vực kinh tế thủy sản phát triển nói chung, lĩnh vực KTHS nói riêng. Hiện nay, vấn đề nhãn mác sản phẩm trong giai đoạn này đang được quan tâm, đặc biệt đối với những sản phẩm của các cơ sở chế biến thủy sản. Tuy nhiên đây đang là một thách thức lớn đối với sản phẩm KTHS nói chung trong thị trường tiêu thụ, cả nội địa và xuất khẩu. Đây cũng là vấn đề ảnh hưởng nhiều tới khả năng cạnh tranh của các sản phẩm KTHS trong xu thế hội nhập. 2.1.3 Cung ứng sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng Người tiêu dùng sản phẩm KTHS cuối cùng bao gồm cả người tiêu dùng trong nước và nước ngoài. Trong khuôn khổ nghiên cứu này, như đã nói ở trên: chỉ phân tích đánh giá chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS đến tay người tiêu dùng cuối cùng đối với sản phẩm tiêu thụ nội địa và đến tay nhà nhập khẩu đối với sản phẩm xuất khẩu. Qua rất nhiều khâu trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS, sản phẩm KTHS đến tay người tiêu dùng cuối cùng bằng rất nhiều con đường. Có thể chia thành hai nhóm như sau: (1) Nhóm sản phẩm không qua chế biến: Đối với những sản phẩm không qua chế biến, giá trị sản phẩm trong khâu trung chuyển không tăng, chỉ giữ nguyên hoặc giảm nhưng do chi phí bảo quản sản phẩm và chi phí lưu thông nên giá cả sản phẩm tăng dần qua mỗi khâu trung chuyển. Nhóm sản phẩm không qua chế biến đến tay người tiêu dùng/nhà nhập khẩu gồm các sản phẩm cho tiêu thụ nội địa và các sản phẩm cho xuất khẩu. Các sản phẩm KTHS không qua chế biến tiêu thụ nội địa đến tay người tiêu dùng thường từ: người bán lẻ, các điểm đại lý quy mô nhỏ, các siêu thị, các nhà hàng, khách sạn, trường học; một số rất ít từ chủ thuyền khai thác quy mô nhỏ ven bờ. Giá cả sản phẩm đến tay người tiêu dùng, tùy theo khoảng cách vận chuyển, số lượng các khâu trung chuyển, giá trị sản phẩm mà giá sản phẩm được hình thành. Giá cả sản phẩm đến tay người tiêu dùng chủ yếu do người bán quyết định, người tiêu dùng thường chấp nhận giá cả do người bán đưa ra. Người tiêu dùng chỉ có tác động tới giá cả sản phẩm khi giá tăng quá cao, vượt hơn mức có thể chi tiêu, người tiêu dùng sẽ hạn chế chi tiêu và khi đó ở tầm vĩ mô của toàn nền kinh tế người tiêu dùng có thể tác động tới giá cả sản phẩm làm hạn chế sự tăng giá hoặc giảm giá. Giá cả sản phẩm chỉ thông qua 1 khâu trung gian - người bán lẻ - cũng thường tăng tối thiểu 10%. Các sản phẩm KTHS không qua chế biến xuất khẩu đến tay nhà nhập khẩu thường theo con đường xuất khẩu tiểu ngạch. Các sản phẩm không qua chế biến đến tay nhà nhập khẩu chủ yếu từ người mua buôn, một số rất ít đến tay nhà nhập khẩu trực tiếp từ chủ tàu – bán trao tay ngay trên biển. Giá cả sản phẩm đến tay nhà nhập khẩu thường lại được quyết định bởi các nhà nhập khẩu. (2) Nhóm sản phẩm qua chế biến: Đối với những sản phẩm qua chế biến, giá trị sản phẩm được tăng lên thông qua khâu chế biến và cũng do chi phí lưu thông nên giá cả sản phẩm tăng lên rất nhiều qua khâu chế biến và mỗi khâu trung chuyển. Nhóm sản phẩm qua chế biến đến tay người tiêu dùng/nhà nhập khẩu cũng gồm các sản phẩm cho tiêu thụ nội địa và các sản phẩm cho xuất khẩu. - Các sản phẩm KTHS qua chế biến tiêu thụ nội địa đến tay người tiêu dùng cũng thường từ: người bán lẻ, các điểm đại lý quy mô nhỏ, các siêu thị, các nhà hàng, khách sạn, trường học. Giá cả sản phẩm đến tay người tiêu dùng, tùy theo giá trị sản phẩm (chất lượng, loại sản phẩm) đã qua chế biến, khoảng cách vận chuyển, số lượng các khâu trung chuyển, mà giá sản phẩm được hình thành. Giá cả sản phẩm KTHS đã qua chế biến đến tay người tiêu dùng cũng chủ yếu do người bán quyết định, người tiêu dùng thường chấp nhận giá cả do người bán đưa ra và người tiêu dùng chỉ có tác động tới giá cả sản phẩm khi giá tăng quá cao, vượt hơn mức có thể chi tiêu, người tiêu dùng sẽ hạn chế chi tiêu và khi đó ở tầm vĩ mô của toàn nền kinh tế người tiêu dùng có thể tác động tới giá cả sản phẩm làm hạn chế sự tăng giá hoặc giảm giá. - Đối với sản phẩm KTHS qua chế biến xuất khẩu đến tay nhà nhập khẩu thường từ các cơ sở chế biến và xuất khẩu thủy sản (xuất khẩu trực tiếp), một số khác từ các công ty xuất khẩu thủy sản hoặc các công ty xuất khẩu nói chung (xuất khẩu ủy thác). Một số mặt hàng chế biến khô đến tay nhà nhập khẩu lại thông qua các chủ NV thu gom sản phẩm KTHS chế biến khô cho xuất khẩu. Chủ NV ở đây có vai trò tín chấp và thỏa thuận giá cả giữa các cơ sở chế biến sản phẩm KTHS khô cho xuất khẩu và nhà nhập khẩu. Giá cả sản phẩm KTHS qua chế biến xuất khẩu được quyết định chủ yếu từ phía nhà nhập khẩu, tuy nhiên tính chất quyết định giá cả sản phẩm của các nhà nhập khẩu đối với các sản phẩm KTHS qua chế biến không mạnh như đối với sản phẩm KTHS không qua chế biến cho xuất khẩu. Điều này là do lợi thế của các sản phẩm KTHS qua chế biến có thể bảo quản được thêm thời gian tương đối dài, trong khi nhu cầu về các sản phẩm này trên thị trường ngày một tăng nên cơ sở chế biến và chủ NV cho sản phẩm này cũng có lợi thế trong thỏa thuận giá cả với nhà nhập khẩu. 2.2 Lợi ích và xung đột giữa các bên liên quan - Chủ tàu Như trên đã phân tích về sự kém lợi thế của người KTHS, mà đại diện là chủ tàu, trong việc quyết định giá cả sản phẩm. Phần lớn những người KTHS đơn thuần - không tham gia mua bán sản phẩm – là bên được hưởng ít lợi nhuận nhất, có ít tích lũy nhất từ việc bán sản phẩm KTHS. Họ rất dễ bị rủi ro vì điều kiện tự nhiên, nguồn lợi và sự biến động của thị trường; bị tác động xấu nhiều nhất từ cả ba yếu tố này, cộng thêm sự không có tích lũy nên dễ dẫn đến việc phải vay vốn tiếp tục đầu tư sản xuất và sự lệ thuộc vào các chủ NV là tất yếu. Đối với chủ tàu không phải vay vốn của chủ NV, thì cũng vẫn phụ thuộc vào chủ NV vì phải thông qua các chủ NV để bán sản phẩm. Phần lớn các chủ tàu không thể đứng ra bán sản phẩm trực tiếp cho các đối tượng muốn mua hàng, một phần vì không có khả năng trong mua bán, phần khác vì không có mối hàng và một lý do khách quan là sản phẩm khai thác rất đa dạng, không thể tiến hành phân loại ngay trên tàu, trong khi mỗi đối tượng mua hàng lại chỉ mua những sản phẩm chuyên biệt. Và như vậy, đối với người KTHS, chuyến biển bị rủi ro nhất là không có sản phẩm hoặc có rất ít sản phẩm sẽ bị lỗ vốn chi phí chuyến biển. Có nhiều sản phẩm nhưng vào lúc mùa vụ rộ vẫn lo sợ thị trường không tiêu thụ hết (cùng nhiều hơn cầu), không bảo quản được, bán giá thấp cũng vẫn lỗ vốn (thu không bù đủ chi phí chuyến biển). May mắn nhất là sau khi bán sản phẩm, thu bù đủ chi và có một phần tích lũy cho chủ tàu (các chủ tàu) để phòng cho những rủi ro có thể gặp phải. Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các chủ tàu là: + Các chủ NV có thể không sinh lợi nhưng cũng không mất chi phí – không bị thiệt hại vì không mua thì cũng không bán hàng. Trên thực tế, mọi khoản tiền đầu tư của chủ NV cho chủ tàu là các khoản vay của chủ tàu, trừ khi vì chủ tàu bị rủi ro không thể hoàn vốn cho chủ NV và chủ NV xóa nợ cho chủ tàu thì chủ NV cũng bị thiệt hại. + Các cơ sở chế biến: có thể được lợi do giá nguyên liệu đầu vào thấp – trong khi hợp đồng giao sản phẩm chế biến đã được ký kết, hoặc có thể không có nguyên liệu sẽ bị thiệt hại do không bù đắp được chi phí khấu hao vô hình của các trang thiết bị đã đầu tư và phạt do không thực hiện được hợp đồng. + Các cơ quan quản lý: thu được hoặc không thu được thuế, phí. Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm: nếu chủ tàu bảo quản sản phẩm không tốt hoặc sử dụng các chất bảo quản không được phép thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho cơ sở chế biến, người tiêu dùng và trong tương lai không xa sẽ gây hậu quả cho chính chủ tàu trong quá trình phát triển: không có người mua hàng. - Người mua bán trung gian Người mua bán trung gian là những đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất do ít chịu rủi ro nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm KTHS vì họ luôn luôn có thông tin và thực hiện được nguyên tắc: bán hàng với giá cao hơn giá mua hàng. Tất nhiên, để thực hiện được nguyên tắc này những người mua bán trung gian cũng bỏ ra không ít hoạt động trí óc một cách năng động phù hợp với quy luật cạnh tranh của thị trường mà rất nhiều các HTX mua bán, các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản của Nhà nước đã không làm được. Các người mua bán trung gian, mà chủ yếu là các chủ NV cũng có thể gặp một số rủi ro: + Mất tiền đầu tư do chủ tàu làm ăn thua lỗ, gặp tai nạn không có khả năng hoàn trả vốn. + Bị chủ NV cấp 2 hoặc cơ sở chế biến thủy sản chiếm dụng vốn hoặc không trả tiền (có chủ NV không đòi được hàng trăm triệu đồng do cơ sở chế biến thủy sản ngoài tỉnh làm ăn thua lỗ không có khả năng thanh toán tiền mua nguyên liệu). + Bị các chủ tàu đã nhận đầu tư bỏ trốn (có chủ NV cũng mất hàng tỷ đồng đầu tư cho các tàu tỉnh ngoài, sau đó không lên bến nữa). + Đối với một số chủ NV thực hiện “mua đứt bán đoạn” có thể bị các chủ NV cấp 2 hoặc cơ sở chế biến thủy sản hạ giá sản phẩm thấp hơn giá mua của chủ tàu do tàu về nhiều hoặc do chất lượng sản phẩm không tốt. Đối với các đối tượng khác (buôn bán nhỏ, bán lẻ, siêu thị, đại lý, nhà hàng, ...) cũng có thể bị thua lỗ nhưng phần lớn do thiếu kinh nghiệm kinh doanh là chính. Bên liên quan chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả kinh doanh của những người mua bán trung gian là chủ tàu, nhà máy chế biến, người tiêu dùng trong nước và nhà nhập khẩu thủy sản tươi sống. Hệ thống những người mua bán trung gian hoạt động hợp lý, đều đặn sẽ tạo ra sự ổn định cho thị trường tiêu thụ và người KTHS, chủ tàu, tạo ra sự cân bằng lợi ích giữa các bên và là nền tảng cho sự phát triển. Ngược lại, nếu những người mua bán trung gian hoạt động không hợp lý, không đều đặn sẽ tạo ra sự rối loạn thị trường: giá sản phẩm quá thấp hoặc quá cao so với giá mà sản phẩm nên có phù hợp với thị trường cung cũng như câu và có thể sẽ gây nên phá sản đối với các chủ tàu. Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm: nếu những người mua bán trung gian bảo quản sản phẩm không tốt hoặc sử dụng các chất bảo quản không được phép thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho cơ sở chế biến, người tiêu dùng và trong tương lai không xa sẽ gây hậu quả cho chính những người mua bán trung gian trong quá trình phát triển: không có người mua hàng. Cho đến nay, nhiều cơ sở thu mua không chuyển lên thành doanh nghiệp mặc dù vốn rất lớn và địa bàn hoạt động rất rộng. Một phần do thói quen làm ăn cá thể, một phần khác có thể do chưa hiểu hết về luật doanh nghiệp nên họ sợ sẽ gặp phải những khó khăn trong thực hiện các thủ tục tài chính và hành chính khi thành doanh nghiệp. - Các nhà chế biến Trong chuỗi cung ứng thủy sản, các nhà chế biến là khâu thứ hai làm tăng giá trị sản phẩm thông qua sản xuất. Hiện nay các cơ sở chế biến đều đã thực hiện cổ phần hóa hoặc là các doanh nghiệp tư nhân nên họ đều có sự nghiên cứu thị trường, quan hệ bạn hàng, quyết định đầu tư hợp lý, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Thông qua khâu chế biến, giá trị sản phẩm KTHS được biến đổi rất mạnh, thông qua biểu hiện của giá cả, giá sản phẩm đầu ra thường gấp từ 2-3 lần giá nguyên liệu đầu vào tùy theo mặt hàng sản phẩm chế biến. Các cơ sở chế biến cũng có thể gặp phải một số rủi ro: + Người mua hàng chậm thanh toán tiền + Chậm hợp đồng bị người mua hàng trừ tiền + Sản phẩm không đảm bảo chất lượng, ATVSTP do nguyên liệu đầu vào không tốt nên không được thị trường chấp nhận: mất chi phí sản xuất và vận chuyển. Nếu xét về mặt bảo quản sản phẩm và ATVSTP: nếu những người chế biến không thực hiện tốt việc bảo quản sản phẩm và ATVSTP nếu gian lận được thì sẽ gây thiệt hại trước mắt cho người tiêu dùng và các nhà nhập khẩu nhưng sẽ bị phá sản tức thì do khi khách hàng phát hiện ra gian lận thì sẽ không có khách hàng và phá sản là điều tất yếu. Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các cơ sở chế biến là các chủ tàu: một mặt nếu các doanh nghiệp chế biến thất bại, sức ép lên giá cả sản phẩm trong khâu khai thác của những người mua bán trung gian sẽ càng lớn, mặt khác hạn chế đầu ra của các sản phẩm chế biến sử dụng nguyên liệu là sản phẩm KTHS cũng sẽ ảnh hưởng nhiều đến giá cả sản phẩm KTHS. Đối tượng chịu ảnh hưởng về lợi ích kinh tế thứ hai là người tiêu dùng: Khi sản phẩm chế biến khan hiếm, người tiêu dùng cũng sẽ phải mua với giá cao hơn. - Chính phủ Hiện nay, giá cả sản phẩm KTHS hiện đang “thả nổi”, theo hình thức cạnh tranh hoàn hảo: không có sự độc quyền và không có sự can thiệp của Chính phủ. Các cơ quan quản lý của Chính phủ chỉ thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà nước các hoạt động sản xuất kinh doanh và chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo pháp luật và các quy định hiện hành. Bao gồm các Bộ ở cấp Trung ương và các Sở ở cấp địa phương: Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT), Tổng cục Hải quan. Trong Bộ NNPTNT có các đơn vị chịu trách nhiệm về các lĩnh vực chuyên ngành chính gồm: + Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản (KTBVNLTS): chịu trách nhiệm đăng ký, đăng kiểm, hướng dẫn hoạt động KTHS và bảo vệ NLTS, quản lý các cơ sở hạ tầng cho nghề KTHS từ nguồn kinh phí Nhà nước, hướng dẫn và chỉ đạo hoạt động phòng, tránh, trú bão cho tàu thuyền KTHS … + Cục Quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm: chịu trách nhiệm hướng dẫn và quản lý vấn đề về vệ sinh an toàn thực phẩm cho các sản phẩm KTHS và chế biến thủy sản. + Cục Chế biến nông, thủy sản và nghề muối: chịu trách nhiệm hướng dẫn và quản lý vấn đề về chê biến sản phẩm KTHS. Bên cạnh đó còn có các tổ chức khác có liên quan đến phát triển lĩnh vực KTHS là Thanh tra Nhà nước, Viện nghiên cứu hải sản, Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản. Các bên liên quan của Chính phủ mặc dù không can thiệp trực tiếp đến sự hình thành giá cả cũng như các kênh phân phối sản phẩm thủy sản nhưng có sự can thiệp gián tiếp thông qua các quy định về hoạt động khai thác và tiêu thụ sản phẩm KTHS. Các cơ quan quản lý của Chính phủ hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, các Cục hưởng thêm một phần thu nhập từ các hoạt động quản lý chuyên ngành. Như vậy các tổ chức của Chính phủ sẽ được hưởng lợi từ sự hoạt động khai thác, chế biến, kinh doanh các sản phẩm KTHS thông qua hệ thống thu thuế, phí từ các hoạt động này. Các cơ quan quản lý của Chính phủ đang rất cố gắng tìm ra các giải pháp để phát triển lĩnh vực khai thác và tiêu thụ sản phẩm KTHS một cách bền vững, giảm bớt rủi ro cho người ngư dân – là khâu sản xuất đầu tiên và chịu nhiều thiệt thòi nhất trong chuỗi giá trị sản phẩm thủy sản, ổn định giá các sản phẩm KTHS cho tiêu dùng trong nước. Hiện nay, người KTHS đang được hưởng một số chính sách hỗ trợ trực tiếp như: miễn thuế tài nguyên và thuế thu nhập, chỉ còn phải nộp thuế môn bài; hỗ trợ giá xăng dầu theo cỡ loại công suất tàu thuyền trong năm 2008 do giá xăng dầu tăng đột biến quá cao. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng một số hỗ trợ gián tiếp từ Chính phủ như: xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng (cảng, bến cá, …), vay vốn với lãi suất ưu đãi để đóng tàu KTHS xa bờ, một số tập huấn về kỹ thuật khai thác và bảo quản sản phẩm, một số mô hình kỹ thuật khai thác sản phẩm hải sản. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý của Chính phủ cũng đang quan tâm đến việc đáp ứng các yêu cầu của tổ chức Thương mại quốc tế (WTO) và vượt qua các rào cản thương mại cũng như an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước trong sản xuất, chế biến và kinh doanh sản phẩm KTHS. Các cơ quan quản lý của Chính phủ đã rất tích cực thúc đẩy hoạt động đảm bảo đáp ứng các yêu cầu về VSATTP cho các sản phẩm KTHS chế biến xuất khẩu và bước đầu xúc tiến thực hiện cấp giấy chứng nhận cũng như đăng ký nhãn mác cho các sản phẩm chế biến từ nguyên liệu của KTHS: Nước mắm Phú Quốc, nghêu Bến Tre. Tuy nhiên do còn hạn chế về nguồn lực và tính đa dạng, sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ của nghề KTHS nên đây cũng đang là thách thức lớn đối với sản xuất, chế biến và kinh doanh sản phẩm KTHS, đặc biệt trong vấn đề truy xuất nguồn gốc và cấp giấy chứng nhận cho sản phẩm KTHS. Các hoạt động của Chính phủ có tác động mang tính chất vĩ mô tới lợi ích của các bên liên quan trong chuỗi giá trị thủy sản. Thị trường có “bàn tay vô hình” tác động đến các bên, Chính phủ có “bàn tay hữu hình” – thông qua các chính sách – để có thể điều tiết thị trường phát triển bền vững và có lợi một cách tương đối công bằng cho các bên liên quan. Tuy nhiên, do nguồn lực có hạn nên sự hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ Việt Nam tới chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS còn rất hạn chế nên chưa có sự thay đổi đáng kể nào khi Chính phủ ngừng sự hỗ trợ, kể cả hỗ trợ xăng dầu trong năm 2008. - Các hiệp hội + Hiệp hội nghề cá (VINAFIS): VINAFIS đã cố gắng để có các hoạt động trong việc tập hợp ngư dân vào tổ chức để có tiếng nói chung. Tuy nhiên đến nay, do nguồn lực hạn chế, VINAFIS chưa phát huy được vai trò của mình. Nếu tăng hiệu quả hoạt động của VINAFIS, VINAFIS sẽ trở thành một hiệp hội mạnh, bảo vệ được quyền lợi của những người khai thác, tăng khả năng cạnh tranh của người khai thác trong chuỗi giá trị sản phẩm KTHS, từ đó tăng lợi ích, giảm bớt rủi ro cho những người KTHS trong hoạt động thị trường. + Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản (VASEP): VASEP đã và đang có rất nhiều cố gắng trong việc mở rộng thị trường cho các sản phẩm chế biến thủy sản, tạo điều kiện tăng giá trị và giá cả sản phẩm chế biến thủy sản xuất khẩu nói chung, các sản phẩm chế biến xuất khẩu từ nguyên liệu KTHS nói riêng. Hoạt động hiệu quả của VASEP tác động trực tiếp và nhiều nhất đến các cơ sở chế biến xuất khẩu, qua đó tác động một cách gián tiếp đến người khai thác và người mua bán trung gian, góp phần tạo ra sự ổn định thị trường một cách tương đối trong xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. - Người tiêu dùng trong nước Người tiêu dùng là mắt xích cuối cùng trong chuỗi cung ứng, là đối tượng mục tiêu của chuỗi cung ứng: thỏa mãn tối đa nhu cầu người tiêu dùng. Lợi ích của người tiêu dùng trong nước, do thủy sản là thực phẩm được ưa chuộng và tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế của đại bộ phận hộ gia đình Việt Nam nên nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm KTHS là rất lớn. Vì vậy, lợi ích của người tiêu dùng trong nước ở thế tương đối bị động, chịu ảnh hưởng của tất cả các bên liên quan trong hình thành chuỗi cung ứng thủy sản ở trên, quan trọng nhất là ảnh hưởng từ hiệu quả các hoạt động của chủ tàu, hệ thống mua bán trung gian, các nhà máy chế biến và chính phủ. Quyết định nào của các bên liên quan này cũng ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng: được mua hàng có chất lượng cao với giá hợp lý hoặc mua hàng chất lượng thấp với giá cao. - Các nhà nhập khẩu Trong khuôn khổ nghiên cứu này, các nhà nhập khẩu là mắt xích cuối cùng trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS xuất khẩu. Có sự khác nhau về tính chủ động trong yêu cầu lợi ích của người tiêu dùng trong nước và các nhà nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu, do có thể lựa chọn sản phẩm nhập khẩu từ nhiều quốc gia khác nhau và thị trường xuất khẩu vẫn là mục tiêu nhắm tới của các nước sản xuất sản phẩm nói chung, sản phẩm KTHS nói riêng, nên họ có tính chủ động rất cao trong yêu cầu về lợi ích: chất lượng sản phẩm, giá cả cung ứng sản phẩm và trong tương lai sẽ còn nhiều yêu cầu khác nữa để đảm bảo lợi ích tối đa cho các nhà nhập khẩu. Để xuất khẩu được sản phẩm, các bên liên quan trước đó trong chuỗi cung ứng bắt buộc phải thực hiện các yêu cầu của nhà nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu cũng được hưởng lợi và ít chịu rủi ro như những người mua bán trung gian. Họ là những người nắm rất vững thông tin thị trường và luôn đảm bảo được nguyên tắc của những người mua bán trung gian: bán hàng với giá cao hơn giá mua hàng. Liên đới chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế một cách trực tiếp đối với hiệu quả sản xuất của các nhà nhập khẩu là các chủ tàu và cơ sở chế biến xuất khẩu. Nếu các nhà nhập khẩu hoạt động có lợi ích kinh tế đều đặn sẽ tạo ra sự ổn định cho các cơ sở chế biến xuất khẩu và các chủ tàu khai thác các đối tượng hải sản làm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Ngược lại, sẽ làm gián đoạn các hoạt động chế biến và khai thác hải sản. Chịu ảnh hưởng lợi ích kinh tế nhiều nhất từ hiệu quả sản xuất kinh doanh của các nhà nhập khẩu là các cơ sở chế biến xuất khẩu. Có thể nói rằng trong chuỗi cung ứng của sản phẩm KTHS nói riêng, của bất kỳ một sản phẩm nào nói chung, thì các bên liên quan đều có quan hệ hữu cơ với nhau, chỉ có quan hệ nhiều hay ít, trực tiếp hay gián tiếp với nhau mà thôi. Bên cạnh đó, sự xung đột lợi ích giữa các bên liên quan một cách tạm thời, trong thời gian ngắn hạn nhưng cũng lại có sự cân bằng tương đối trong thời gian dài hạn tạo nên sức sống của thị trường là quy luật khách quan. Để giữ được sự cân bằng bền vững theo xu thế phát triển thì vai trò quản lý và điều tiết của Chính phủ là rất quan trọng, giữ cho các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS hoạt động theo đúng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.3 Phân tích một số trường hợp điển hình Ở trên đã phân tích chung cho chuỗi cung ứng sản phẩm và các bên liên quan trong chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS. Kết quả đợt điều tra khảo sát điển hình cho đối tượng cá cơm và mực tại Bình Thuận; nghêu tại Bến Tre đã cho một số minh chứng cho các phân tích và đánh giá chuỗi cung ứng sản phẩm KTHS ở trên. 2.3.1 Chuỗi cung ứng mực và các bên liên quan Mực thường tiêu thụ ở các dạng: ăn tuơi, chế biến xuất khẩu, chế biến khô cho XK và tiêu thụ nội địa. Chuỗi cung ứng của mực có thể được hình dung như sau. - Cung ứng sản phẩm trong khâu khai thác và các bên liên quan Mực được khai thác bằng cả tàu khai thác xa bờ và các tàu khai thác ven bờ. Nghề khai thác chính hiện tại: Vây rút chì xa bờ, kéo (giã), câu. Đối tượng khai thác mực ở đây chủ yếu là chủ tàu kiêm ngư dân, có một số rất ít là các chủ NV cũng có tàu đi khai thác mực. Quan hệ bán sản phẩm: Mực hiện nay đang là nguồn nguyên liệu khan hiếm cho chế biến xuất khẩu nên các chủ NV mua mực nguyên liệu với giá như nhau cho cả chủ tàu có và không có quan hệ tài chính, thậm chí đối với những chủ tàu không có quan hệ tài chính còn được ưu tiên thanh toán tiền ngay sau khi giao hàng. Chủ tàu không có quan hệ tài chính có thể bán sản phẩm cho bất cứ đối tượng mua nào nếu thấy có lợi nhất (bán được với giá cao nhất). Chủ tàu có quan hệ tài chính phải bán cho chủ NV của mình. Không có sự chênh lệch giá so với thị trường khi thanh toán. Các sản phẩm mực khai thác chủ yếu được bán cho các chủ NV, các tàu thu mua trên biển của các HTX và tư nhân, một số các cơ sở chế biến và một số ít người mua để bán lẻ tại chợ địa phương. + Đối với các chủ NV, phương thức mua sản phẩm chủ yếu là mua xô cả lô hàng, chủ NV phải chịu chi phí vận chuyển từ tàu vào cơ sở kinh doanh. Đối với những chủ tàu không có quan hệ tài chính được ưu tiên thanh toán tiền ngay sau khi giao hàng. Đối với những chủ tàu có quan hệ tài chính được thanh toán tiền sau khi giao hàng từ 7 – 10 ngày. + Người thu mua trên biển (bao gồm cả HTX), phương thức mua sản phẩm chủ yếu là mua xô cả lô hàng, giá mua rất thấp do phải chịu chi phí bảo quản, lưu giữ sản phẩm trên biển và vận chuyển vào bờ, giảm 5-7.000 đ/kg cho loại sản phẩm giá 15.000 đ/kg, có khi chỉ bằng ½ so với bán tại bờ. + Cơ sở chế biến mực khô: Người thu mua của nhà máy xuống cảng xem hàng, thỏa thuận giá cả, ngư dân chuyển hàng đến nhà máy. Có các cơ sở chế biến không mua của ngư dân, chỉ mua qua các chủ NV. Tiền được thanh toán sau 10-15 ngày. + Người bán lẻ tại chợ địa phương: mua tại cảng, thanh toán tiền ngay sau khi nhận hàng. Một số chủ thuyền khai thác ven bờ có quan hệ tài chính với các chủ NV, đối tượng mực khai thác được là loại mực nhỏ chỉ tiêu thụ nội địa, khi bán sản phẩm mực cho chủ NV cũng vẫn phải chịu một phần sự giảm giá so với thị trường, sau 3-5 ngày nhận tiền thanh toán. Đổi lại nếu ngư dân kẹt tiền thì chủ NV có thể cho vay thêm bất cứ lúc nào, khi khai thác bị thất bát phải bán thuyền không đủ trả nợ, chủ NV cũng bớt hoặc xóa nợ cho - > quan hệ với chủ NV là hoàn toàn tự nguyện trên cơ sở sự thỏa thuận. Tuy nhiên, chủ NV địa phương cũng ngăn cản chủ NV nơi khác vào mua sản phẩm. Mặc dù là nguồn nguyên liệu khan hiếm nhưng giá thị trường vẫn lên xuống tùy theo lúc khan, lúc rộ của mực khai thác được. (Xem bảng trang sau) Bảng 1. Một số thông tin về giá sản phẩm mực Sản phẩm  Đối tượng mua hàng  Giá thị trường  Giá được thanh toán   Mực cho chế biến đông lạnh XK  Chủ NV mua xô cả lô hàng  28 - 30 - 31-33.000 đ/kg  28 - 30 - 31-33.000 đ/kg    Người thu mua trên biển  15.000 – 30.000 đ/kg  15.000 – 30.000 đ/kg   Mực cho chế biến khô  Cơ sở chế biến mực khô XK và tiêu thụ nội địa  30 - 45 – 50.000 đ/kg  30 - 45 – 50.000 đ/kg    Chủ NV có quan hệ tài chính  21.000 đ/kg  20.000 đ/kg   Mực tươi bán tại chợ địa phương  Người bán lẻ  21 - 33 – 45.000 đ/kg  21 - 33 – 45.000 đ/kg   Đối với sản phẩm mực, do đang là nguồn nguyên liệu khan hiếm nên các chủ tàu cũng ít bị rủi ro do thị trường. Trong giai đoạn này, vấn đề đảm bảo ATVSTP đang là một thách thức lớn cho các nhà quản lý và chế biến. Vấn đề sử dụng chất bảo quản rẻ tiền, không được phép sử dụng để giữ độ tươi của mực vẫn diễn ra. Tuy trước mắt chưa ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh tế của các cơ sở chế biến do sự dễ tính của các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng trong nước, nhưng về lâu dài nếu không được giải quyết chắc chắn sẽ ảnh hưởng. - Dòng sản phẩm trong khâu lưu thông và các bên liên quan: Rất khó để phân tích chuỗi giá cả sản phẩm mực từ khâu khai thác vì chủ NV mua xô tất cả lô hàng, sau đó phân loại lại và giao hàng đến các đối tượng khác theo nhu cầu. Mặc dù rất cố gắng nhưng nhóm nghiên cứu cũng chỉ phân tích được các khâu rời rạc trong chuỗi giá trị sản phẩm mực. + Sản phẩm mực tươi: Sản phẩm mực tươi bán tại chợ địa phương thường được người bán lẻ mua lại của các chủ tàu KTHS quy mô nhỏ tại cảng với giá thị trường, 21.000 – 33.000 – 45.000 đ/kg tùy theo chất lượng và kích cỡ sản p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCải cách các chính sách thương mại và thủy sản, cấu trúc lại chuỗi cung ứng, nâng cao nhu cầu của người tiêu dùng đối với quản lý bền vững ngành thủy .doc