Ý tưởng về Dự án Quản lý Môi trường Đô thị Đông Nam Á (SEA-UEMA)
bắt đầu bằng việc kêu gọi các sinh viên tốt nghiệp AIT áp dụng những
kiến thức và kỹ năng mà họ có được trong việc thực hiện các dự án cộng
đồng minh chứng cho những thực tiễn tốt về quản lý môi trường. Do đó,
hợp phần Dự án được giao của các cựu sinh viên (ADP) là hợp phần chủ
chốt của dự án SEA-UEMA. Mục đích chính của ADP là nhằm thực hiện
việc quản lý môi trường lồng ghép với những vấn đề quan trọng như cấp
nước, vệ sinh, chất thải rắn và chất lượng không khí, kết hợp với bình
đẳng giới như một chủ đề xuyên suốt. Các dự án được giao thường được
dựa trên các thực tiễn sáng kiến Quản lý môi trường đô thị (UEM) tốt. Các
dự án này do các cựu sinh viên hoặc các thành viên mạng lưới SEAUEMA
thực hiện. Các dự án được giao không nhằm giải quyết những vấn
đề khác nhau trong cộng đồng, mà nhằm chỉ ra cách thức có thể để giải
quyết các vấn đề môi trường quan trọng với sự quan tâm về giới.
22 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2507 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cải thiện điều kiện môi trường tổng thể cho các hộ gia đình trong cộng đồng chăn nuôi ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CIDA-AIT Partnership (2003-2008)
SEA-UEMA Project
Urban Environmental Management FoS
School of Environment, Resources and
Development
ADP
1/2007
Chương trình hợp tác CIDA-AIT (2003 -2008)
Dự án SEA-UEMA
Khoa Nghiên cứu Quản lý Môi trường đô thị
Trường Môi trường, Tài nguyên và Phát triển
Viện Công nghệ Châu Á
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở
một cộng đồng chăn nuôi
ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Các trường hợp nghiên cứu điểm
Các Trường hợp nghiên cứu điểm Dự án SEA-UEMA
Thông tin tham khảo cho các trường hợp nghiên cứu điểm đến từ rất nhiều
nguồn, bao gồm các báo cáo của các bên thực hiện dự án và các chuyên gia
đánh giá, cũng như những bài phỏng vấn các bên liên quan.
Đơn vị xuất bản:
Dự án Ứng dụng Quản lý môi trường đô thị khu vực Đông Nam Á
Khoa Quản lý Môi trường đô thị
Trường Môi trường, Nguồn lực và Phát triển
Viện Công nghệ Châu Á
P.O. Box 4, Klong Luang, Pathumthani, 12120, Thái Lan
Người thực hiện dự án: Nguyễn Nam Sơn
Biên soạn trường hợp nghiên cứu điểm: Ranjith Perera, Moniruzzaman Khan,
Le Thuy Linh, Sigit Dwiananto
Nhóm biên tập: Ranjith Perera, Le Thuy Linh, Jill Lawler
Bố cục và thiết kế: Sigit Dwiananto
Ảnh: Nguyễn Nam Sơn, Ranjith Perera
ISBN: 978 – 974 – 8257 – 47 – I
Xuất bản: Tháng 11 năm 2007 (250 bản)
© Viện Công nghệ Châu Á
In tại Thái Lan
Ý tưởng về Dự án Quản lý Môi trường Đô thị Đông Nam Á (SEA-UEMA)
bắt đầu bằng việc kêu gọi các sinh viên tốt nghiệp AIT áp dụng những
kiến thức và kỹ năng mà họ có được trong việc thực hiện các dự án cộng
đồng minh chứng cho những thực tiễn tốt về quản lý môi trường. Do đó,
hợp phần Dự án được giao của các cựu sinh viên (ADP) là hợp phần chủ
chốt của dự án SEA-UEMA. Mục đích chính của ADP là nhằm thực hiện
việc quản lý môi trường lồng ghép với những vấn đề quan trọng như cấp
nước, vệ sinh, chất thải rắn và chất lượng không khí, kết hợp với bình
đẳng giới như một chủ đề xuyên suốt. Các dự án được giao thường được
dựa trên các thực tiễn sáng kiến Quản lý môi trường đô thị (UEM) tốt. Các
dự án này do các cựu sinh viên hoặc các thành viên mạng lưới SEA-
UEMA thực hiện. Các dự án được giao không nhằm giải quyết những vấn
đề khác nhau trong cộng đồng, mà nhằm chỉ ra cách thức có thể để giải
quyết các vấn đề môi trường quan trọng với sự quan tâm về giới.
Các dự án được giao được thực hiện tại các quốc gia lựa chọn ở Đông
Nam Á. Đến tháng 8 năm 2007 có 26 dự án đã được thực hiện.
Các trường hợp nghiên cứu điểm nhằm mục đích cung cấp thông tin về
các dự án được giao trong đó tập trung vào các kết quả (gồm kết quả
ngắn hạn, kết quả dài hạn và tác động) cùng những bài học kinh nghiệm
của dự án. Độc giả chính là các tổ chức và cá nhân quan tâm đến việc áp
dụng các thực tiễn về UEM và học tâp kinh nghiệm thực hiện các dự án
được giao. Có thể hình dung rằng thông tin được đưa ra trong các trường
hợp nghiên cứu điểm sẽ truyền cảm hứng cho những người tham gia dự
án phát triển cộng đồng và cải thiện môi trường đối với những sáng kiến
đáp ứng về giới và định hướng kết quả.
Lời nói đầu
Preface
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
1
Tên dự án:
Cải thiện điều kiện môi trường tổng thể cho các hộ
gia đình trong cộng đồng chăn nuôi ở ngoại thành
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Thời gian thực hiện dự án:
12 tháng (tháng 4/2004 – tháng 3/2005)
Địa điểm dự án:
Xã Xuân Thới Thượng, Huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí
Minh
Người thực hiện dự án – tác nhân thay đổi:
Nguyễn Nam Sơn, Cựu sinh viên UEM, Viện Công
nghệ Châu Á
Các đối tác/ Các bên liên quan:
Cộng đồng địa phương, xã Xuân Thới Thượng và
Ủy ban nhân dân xã, Hội phụ nữ, Hội Nông dân,
Đoàn thanh niên
Đơn vị hưởng lợi:
Bốn hộ gia đình do cộng đồng lựa chọn tham gia và
dự án được giao.
Kinh phí dự án:
18.950 USD từ dự án SEA-UEMA
Đóng góp bằng hiện vật (đất và ngày công) của các
gia đình được hưởng lợi.
Tóm tắt dự án
2
Các Trường hợp nghiên cứu điểm của dự án SEA-UEMA
Tổng quan
Trong những năm gần đây, đô thị hóa diễn ra nhanh
chóng tại các khu vực ngoại vi của các thành phố Việt
Nam. Đô thị hóa có thể có hoặc không có quy hoạch.
Trong trường hợp các vùng ngoại ô thành phố Việt Nam,
đô thị hóa thường xẩy ra không có quy hoạch. Đô thị hóa
theo quy hoạch bao gồm việc lập quy hoạch và xây dựng
cơ sở hạ tầng như đường, hệ thống cung cấp nước
sạch, hệ thống thoát nước thải và các công trình công
cộng khác để cung cấp nền tảng cho phát triển đô thị.
Trái lại, phần lớn các thành phố ở các nước đang phát
triển như Việt Nam thường trải qua đô thị hóa không có
quy hoạch. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong các
thành phố lớn nhất có đô thị hóa không có quy hoạch;
người nghèo tham gia các hoạt động sản xuất nông
nghiệp ở trong và xung quanh thành phố bị ảnh hưởng
nhiều nhất. Các vấn đề môi trường và kinh tế liên quan
đến tình trạng đô thị hóa ngày càng tăng này là mối đe
dọa cho sức khỏe con người, vệ sinh cho người nghèo
và nguy cơ đất và nước bị nhiễm bẩn, cũng như mất
nguồn thu nhập.
Việc mở rộng đô thị ảnh hưởng khác nhau đến ngành
nông nghiệp ở các khu vực ngoại thành. Một trong
những hoạt động nông nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề
nhất là sản xuất sữa, nghề mà phần lớn do người nghèo
đảm nhiệm. Lĩnh vực này đóng góp 0,13% vào tổng sản
lượng nông nghiệp. Tầm quan trọng của nó so với các
lĩnh vực chăn nuôi khác thì không đáng kể. Hiện nay
95% sản xuất ở các nông trại tư nhân quy mô nhỏ, chỉ
có 5% tại các trang trại nhà nước hoặc bán tư nhân công
nghiệp lớn.
Ở Việt Nam, 70% sản lượng sữa được cung cấp ở vùng
ngoại ô ở thành phố Hồ Chí Minh và 14% ở ngoại thành
Hà Nội (Luthi, 2006). Áp lực đô thị và công nghiệp hoá
liên quan đến việc mở rộng thành phố đã tác động tiêu
cực đến ngành sản xuất sữa.
3
Bản đồ Việt Nam
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
Bản đồ Tp. Hồ Chí Minh
Ở các nước đang phát triển, gồm cả Việt Nam, chính
phủ thường thiếu các chính sách cụ thể để giải quyết
vấn đề trong các khu ngoại thành, bởi vì những vùng này
thường không được coi là mục tiêu ưu tiên cho phát
triển. Ngoài ra, trách nhiệm quản lý giữa chính quyền đô
thị và nông thôn thường không được xác định rõ ràng
dẫn đến việc một số khu vực ngoại thành không được
quan tâm.
Các sáng kiến dự án
Ông Nguyễn Nam Sơn, một cựu sinh viên Quản lý môi
trường đô thị, Học viện Công nghệ Châu Á (AIT) tại Thái
Lan, thấy rằng rất nhiều hộ gia đình ở ngoại thành đang
chăn nuôi gia súc trong khu vực có hàng rào vây quanh
do thiếu bãi chăn thả riêng biệt dành cho gia súc. Hậu
quả là, các chuồng gia súc thường nằm gần nhà, không
có chỗ thải phân và nước tiểu của súc vật, môi trường vì
thế bị ô nhiễm nghiêm trọng. Toàn bộ cộng đồng bị ảnh
hưởng bởi mùi hôi thối từ phân súc vật và côn trùng,
cũng như các bệnh lây truyền.
Với vai trò một tác nhân thay đổi, ông Sơn mong muốn
cải thiện điều kiện môi trường tổng thể của những khu
vực này bằng cách sử dụng phân và nước tiểu của súc
vật để sản xuất biogas (khí đốt sinh học). Việc làm này
không chỉ giúp cải thiện vệ sinh mà còn là một nguồn
năng lượng thay thế, đem lại lợi ích kinh tế bằng cách
giảm chi phí năng lượng.
Một người bạn của ông Sơn đã giới thiệu ý tưởng thực
hiện dự án biogas tại Xuân Thới Thượng. Sau khi tham
quan, xã Xuân Thới Thượng được chọn làm địa điểm
thực hiện dự án bởi vì đây là khu vực ngoại thành phát
triển nhanh nhất huyện Hóc Môn, Tp. Hồ Chí Minh. Kế
sinh nhai của 70% số hộ gia đình trong xã phụ thuộc vào
bán sữa bò. Đây cũng là một trong những nguồn cung
cấp sữa tươi chính cho Tp. Hồ Chí Minh. Hầu hết các hộ
gia đình đã và đang sống trong xã này qua ít nhất 3 thế
hệ. Rất nhiều người dân trong xã là cựu chiến binh đã
từng tham gia lực lượng quân đội miền nam Việt Nam
4
Các trường hợp nghiên cứu điểm trong dự án SEA - UEMA
Là người thực hiện dự án,
cựu sinh viên UEM-AIT, với
sự hỗ trợ của dự án SEA-
UEMA, đã tăng cường sự
cộng tác giữa ủy ban nhân
dân, các tổ chức cộng đồng
và người dân trong xã để cải
thiện điều kiện môi trường
chung của cộng đồng.
Dự án
SEA-UEMA
Người thực hiện
UBND
(Chính quyền
địa phương)
Xã
Hội Phụ nữ
Đoàn Thanh
niên
Hội Nông dân
Những người
hưởng lợi
trực tiếp và
gián tiếp
trong chiến tranh.
Vấn đề chính trong xã là nguồn phân bò không được
quản lý, là thiên đường cho các loài gây hại như ruồi,
muỗi, gián và chuột. Theo đó, phân súc vật đã nảy sinh
vấn đề về vệ sinh và sức khỏe cho các hộ gia đình nuôi
bò và những người xung quanh, cũng như việc xả rác
thải vả mùi hôi như đã nói ở trên.
Trước khi lập kế hoạch dự án, ông Sơn đã tư vấn một số
người dân ở cộng đồng, và giới thiệu ý tưởng dự án với
họ trong buổi gặp đầu tiên, bởi vì ông Sơn tin tưởng
rằng quá trình có sự tham gia và lấy ý kiến từ dưới lên
đóng vai trò quan trong cho thành công của dự án. Ông
giới thiệu lợi ích của công nghệ hầm biogas cho cộng
đồng địa phương, đặc biệt là về việc sử lý vấn để quản
lý rác thải trong xã. Tuy nhiên, như đã giải thích, ý tưởng
dự án không chỉ đơn thuần là giới thiệu một công cụ
quản lý rác thải hiệu quả, mà còn đem lại lợi ích kinh tế
từ sản xuất biogas, có thể được sử dụng như một nguồn
năng lượng thay thế để nấu ăn và thắp sáng. Sáng kiến
này có thể đem lại tiết kiệm nhiều hơn bởi vì tiêu thụ
năng lượng (khí gas tự nhiên) của các hộ gia đình giảm.
Ông Sơn yêu cầu các thành viên của cộng đồng tham
gia vào việc xây dựng đề xuất, và theo ông, người dân
địa phương rất quan tâm đến việc thực hiện loại dự án
này trong địa phương mình.
Sau khi xây dựng đề xuất, ông Sơn đã đệ trình lên dự án
SEA-UEMA, do Cơ quan Phát triển Quốc tế Canada
(CIDA) tài trợ. Dự án đề xuất nhận được tài trợ vào
tháng 9/2004. Mục tiêu chính của dự án là giới thiệu một
mô hình quản lý rác thải hiệu quả về mặt kinh tế và môi
trường thông qua cơ chế quản lý rác thải phi tập trung
cho người nghèo đô thị sống ở các khu vực không có
dịch vụ, như ở ngoại ô thành phố. Nhận được sự tài trợ
18,950 USD từ dự án SEA-UEMA, ông Sơn bắt đầu lập
kế hoạch thực hiện dự án; Chủ tịch xã thông qua bản kế
hoạch để thực hiện dự án tại xã Xuân Thới Thượng.
5
Các hộ gia đình ở xã
Thượng có từ 3 – 20 con
bò sữa với lượng phân
trung bình là
15kg/con/ngày. Mỗi hộ sẽ
có khoảng 300kg
phân/ngày. Phân bò
thường được giữ ở vườn
cho khô sau đó được
mang ra đồng bón cho cỏ.
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
Sự huy động và phối hợp
của các bên liên quan
Kinh nghiệm cho thấy rằng sự tham gia tích cực và tận
tâm của các bên liên quan chính trong giai đoạn thiết kế
và thực hiện, đặc biệt là ở cấp cộng đồng, có thế đóng
góp rất lớn tới sự bền vững của một dự án, bằng việc
khuyến khích tính sở hữu cũng như sử dụng tốt hơn sự
đóng góp của cộng đồng.
Sự huy động các bên liên quan tham gia vào quá trình
khuyến khích và thu hút sự tham gia của chính quyền,
các thành viên cộng đồng và các tổ chức dựa vào cộng
đồng để giải quyết các vấn đề ở địa phương. Sự huy
động các bên liên quan không chỉ là một chiến dịch đơn
lẻ hoặc một loạt các chiến dịch được thực hiện trong
một khoảng thời gian. Mà nó là một quá trình liên tục và
tương tác, sử dụng các tiến trình có tính tổ chức và giáo
dục để khuyến khích tăng cường sức mạnh của các
thành viên cộng đồng để được tham gia vào sự phát
triển của chính họ.
Ông Sơn đã phác thảo ra chiến lược tham gia của cộng
đồng đối với dự án. Đầu tiên, ông phân tích và đánh giá
về tổ chức của cộng đồng và tình hình kinh tế-xã hội và
môi trường tổng thể của cộng đồng đó. Các chiến lược
để cộng đồng tham gia vào là các cuộc họp chính thức
hoặc không chính thức, các hội thảo, các thảo luận
nhóm, thăm quan thực tế và đào tạo. Trong dự án, đa
phần các quyết định đều được đưa ra thông qua một
tiến trình có sự tham gia, nghĩa là những người được
hưởng lợi và nhân viên dự án phải tham dự cuộc họp có
tính quyết định. Trong các cuộc họp thảo luận nhóm,
mọi người thảo luận về các vấn đề kỹ thuật, môi trường
và tài chính liên quan đến công nghệ hầm biogas. Mối
quan tâm chính của họ là chất lượng của hầm gas, áp
lực cũng như mùi từ gas.
Ông Sơn đã khuyến khích sự tham gia tích cực của phụ
6
Các trường hợp nghiên cứu điểm trong dự án SEA - UEMA
Mô tả sơ lược về người
hưởng lợi
Nhà của ông Huỳnh Chí
Bền thuộc Tổ 15, thôn 1,
xã Xuân Thới Thượng. Gia
đình ông là hộ nghèo, có
bốn thành viên, trong đó
có 2 phụ nữ. Gia đình ông
làm nghề nuôi bò sữa từ
nhiều năm nay. Vào thời
điểm dự án được triển
khai, nhà ông có 8 con bò
sữa, phân bò được dồn
đống ở góc vườn. Mỗi
năm gia đình ông sử dụng
khoảng 8 bình gas để nấu
nướng.
Hầm biogas nhà ông Bền
là hầm đầu tiên được lắp
đặt của dự án này. Ông
Bền khá năng động trong
các hoạt động của dự án
và đã dùng kinh nghiệm
xây dựng của mình để
giúp xây hầm biogas.
(xem tiếp trang sau)
nữ trong các buổi họp. Tuy nhiên, có thể thấy rằng trong
các phiên thảo luận nhóm, nam giới thường tham gia và
chia sẻ ý tưởng cũng như những gợi ý của họ, trong khi
sự tham gia của phụ nữ là không đáng kể trong giai
đoạn lập kế hoạch và thực hiện. Điều này gây khó khăn
cho việc xác định và lựa chọn địa điểm bởi vì phụ nữ là
người sử dụng khí gas sinh học nhiều nhất.
Kế hoạch của ông Sơn là cung cấp hầm gas cho 4
người hưởng lợi/ hộ gia đình. Ông yêu cầu Chủ tịch xã
giúp xác định những người hưởng lợi phù hợp với mục
đích này. Tiêu chí chính để lựa chọn là các hộ gia đình
phải nghèo và sẵn sàng tham gia vào các hoạt động của
dự án. Tại một hội thảo, Chủ tịch xã đã lựa chọn 4 hộ gia
đình tham gia tích cực để triển khai hầm biogas. Bốn hộ
gia đình được lựa chọn gồm:
1. Một hộ cựu chiến binh nghèo, ông Huỳnh Chí
Bên, nuôi 5 con bò sữa.
2. Hộ nghèo ông Nguyễn Văn The, nuôi 6 con bò
sữa.
3. Một hộ nghèo, trong đó người chồng (ông Huỳnh
Ngọc Thu) làm việc cho trung tâm khuyến nông
địa phương và người vợ nuôi 12 con bò sữa.
4. Hộ gia đình có mức thu nhập trung bình, ông
Huỳnh Văn Xuân, nuôi 14 con bò sữa.
Các bản hợp đồng chính thức được ký với những người
hưởng lợi đã chọn để triển khai các hoạt động công
nghệ.
Lập kế hoạch, thực hiện
và giám sát
Sau khi lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, ông Sơn tổ
chức một hội thảo cộng đồng để giới thiệu về ý tưởng
của dự án với các thành viên cộng đồng ở địa phương,
các nhà chức trách địa phương và các bên liên quan
7
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
Hầm biogas sử dụng ¼ lượng
phân bò trong khu vực nhà
ông và sản sinh ra khí biogas
để nấu bếp. Do đó, ông Bền
mong có một thùng biogas lớn
hơn để có thể xử lý nhiều
phân bò hơn. Dùng biogas,
ông ấy chỉ phải mua 3 bình
gas tự nhiên mỗi năm cho nấu
nướng so với 8 bình trước
đây. Nhận thức của các thành
viên trong gia đình ông về vệ
sinh môi trường cũng được
nâng cao.
Theo ông Bền, sau khi kết
thúc dự án, rất nhiều người từ
trong và ngoài xã đã đến thăm
và học tập cách thức nhân
rộng hầm biogas cho gia đình
họ.
Ông Bền và ông Sơn tại
địa điểm dự án
khác. Tại hội thảo này, các đại biểu đã xác định một số
bên liên quan tiềm năng để hỗ trợ việc thực hiện dự án tại
xã Xuân Thới Thượng. Các bên liên quan ở địa phương
trong dự án này là: 1) Chủ tịch xã Xuân Thới Thượng; 2)
Ủy ban nhân dân; 3) Chủ tịch Hội Nông dân xã Xuân Thới
Thượng; 4) Đoàn Thanh niên; 5) Các hộ gia đình được
hưởng lợi; 6) Công ty xây dựng. Phụ nữ ở cộng đồng khá
thụ động trong giai đoạn thiết kế, cho dù người thực hiện
dự án đã tập trung huy động và xây dựng mối quan hệ
với người dân cũng như chính quyền địa phương. Ông
Sơn đã duy trì mối quan hệ vững chắc với các gia đình
hưởng lợi, xã Xuân Thới Thượng, Ủy ban nhân dân, bên
ký hợp đồng và AIT để đảm bảo thực hiện thành công dự
án.
Trong giai đoạn thực hiện dự án, ông Sơn đã tổ chức
chuyến tham quan cho các bên liên quan được lựa chọn
để tham quan và so sánh các công nghệ hầm biogas
khác nhau tại một “địa điểm có thực tiễn tốt” ở tỉnh Đồng
Nai, cũng như học hỏi kiến thức thực hành về các loại
hầm biogas khác nhau. Trong khi người dân ở xã Xuân
Thới Thượng nhận ra rằng phân bò có thể được sử dụng
làm phân bón và nguồn năng lượng thay thế, nhưng họ
chưa quen với công nghệ, và do đó họ nghi ngờ việc sử
dụng và khả năng của nó.
Chuyến tham quan đã thành công trong việc đạt được
mục đích nâng cao và thay đổi nhận thức về việc sử dụng
công nghệ biogas để xử lý phân và nước tiểu của bò. Sau
chuyến tham quan, các bên liên quan đã có thể lựa chọn
thiết kế hầm biogas dựa trên kiến thức họ gặt hái được từ
chuyến thăm quan thực tế. Do ông Sơn không có đủ trình
độ kỹ thuật về hầm biogas nên ông đã ký hợp đồng kỹ
thuật với một chuyên gia để duyệt bản thiết kế và chỉnh
sửa cho phù hợp với điều kiện địa phương. Việc thực
hiện dự án bắt đầu từ việc thông qua lần cuối cùng bản
thiết kế. Cán bộ dự án SEA-UEMA đã đến thăm địa điểm
dự án nhiều lần trong quá trình lập kế hoạch và thực hiện,
và tư vấn hướng dẫn cho lãnh đạo dự án. Các giai đoạn
lập kế hoạch, thực hiện, vận hành và bảo dưỡng được
miêu tả chi tiết trong biểu đồ sau (Hình 01).
8
Các trường hợp nghiên cứu điểm trong dự án SEA - UEMA
Chuyến thăm quan tỉnh
Đồng Nai
Dự án bắt đầu thực hiện từ tháng 01 năm 2005. Sau khi
hoàn thành việc lắp đặt hầm biogas, ông Sơn tổ chức một
hội thảo tập huấn vận hành và bảo dưỡng cho bốn hộ gia
đình hưởng lợi và các hộ gia đình lân cận. Chất lượng
xây dựng hầm biogas và việc vận hành do một chuyên gia
địa phương giám sát. Theo ông Sơn, phụ nữ trong cộng
đồng tham gia nhiều hơn vào giai đoạn này, và bắt đầu
làm sạch bò, chuồng và bắt đầu thu gom phân để cung
cấp cho hầm biogas.
9
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
Hình 01: Các giai đoạn khác nhau của lập kế hoạch,
thực hiện và giám sát dự án
Tham vấn chuyên gia
giới địa phương để
khuyến khích sự tham
gia của phụ nữ
Thông qua quá trình có sự
tham gia đã khuyến khích
sự tham gia tích cực của
phụ nữ. Tuy nhiên, trong
giai đoạn lập kế hoạch và
thực hiện, vai trò của phụ
nữ rất mờ nhật. Phụ nữ bắt
đầu tham gia nhiều hơn vào
dự án trong quá trình vận
hành và bảo dưỡng.
Giai đoạn 1
Lập kế hoạch và thiết kế
thiết lập dự án xác định
công nghệ biogas để
giảm chất thải rắn
(phân bò) và vệ sinh
chọn địa điểm
dự án
lựa chọn người hưởng
lợi và các bến liên quan
khác có sự tham gia
của địa phương
hội thảo cộng đồng về
định hướng dự án
lựa chọn người hưởng
lợi và các bến liên quan
khác có sự tham gia
của địa phương
tổ chức rất nhiều buổi
họp không chính thức
tại địa điểm dự án để
huy động cộng đồng
Giai đoạn 2
Thực hiện
tổ chức thăm các
địa điểm thực tiễn
tốt cho những
người thực hiện và
các bên liên quan
ở địa phương
đánh giá loại hầm
biogas khác nhau
và lựa chọn, ứng
dụng công nghệ
phù hợp thông qua
hội thảo
mang lợi ích cho
người nghèo đô
thị bằng việc lắp
đặt 4 hầm biogas
Giai đoạn 3
Vận hành và
bảo dưỡng
vận hành hầm
biogas
hội thảo tập
huấn về vận
hành và bảo
dưỡng
phân tích và
đánh giá hiệu
quả hầm
biogas qua sự
tham gia của
cộng đồng và
chính quyền
địa phương
Công nghệ
Ông Vũ Quốc Ái, chuyên gia về hầm biogas từ Trung tâm
khuyến nông Đồng Nai (AEC), được mời hỗ trợ hội thảo
một ngày tại xã Xuân Thới Thượng để giới thiệu công
nghệ cho các đại biểu, thông qua lần cuối bản thiết kế
dựa trên kiến nghị của họ. Ông giải thích rằng có 02 mô
hình biogas phổ biến ở Việt Nam: 1) Hầm tạm thời (bằng
nhựa); và 2) hầm vĩnh cửu. Ông đã chỉ ra các điểm lợi và
không thuận lợi của 2 loại công nghệ này. Cộng đồng địa
phương lựa chọn cấu trúc vĩnh cửu vì nó đơn giản, ổn
định và năng suất – áp lực gas theo mô hình này lớn hơn
rất nhiều so với mô hình tạm thời. Công nghệ này được
áp dụng ở tất cả 13 tỉnh do AEC hỗ tợ, và 97-100% trong
tổng số 2.000 hầm biogas xây dựng ở Đồng Nai đã thành
công.
Trong hội thảo, ông Ái đã miêu tả tóm tắt về công nghệ
biogas và hầm chứa. Ông Ái giải thích rằng cần phân,
nước, và sức lao động để duy trì hoạt động của hầm
chứa biogas, từ hầm này có 2 sản phẩm đầu ra: ánh
sáng và khí đốt (gas). Quá trình phức tạp hơn: Kết quả
của quá trình vi khuẩn phân hủy phân bò sẽ thải ra khí
methane và carbon dioxide, các khí này được chứa trong
một chiếc thùng nén khí. Ông Ái cũng giải thích thêm
ràng khí biogas được sản xuất từ rất nhiều chất vi sinh do
hoạt động vi sinh vật trong điều kiện thiếu ôxy. Nhiệt độ
cần thiết để phản ứng xẩy ra là từ 300C-600C. Khí biogas
chủ yếu được cấu thành từ 50-70% methane, 30-40%
carbon dioxide (CO2), và một lượng rất nhỏ các chất khí
khác. Biogas nhẹ hơn không khí khoảng 20%, và là chất
không mùi, không màu, dễ cháy với ngọn lửa màu xanh
tương tự như khí gas LPG. Có thể sử dụng biogas để
đun nấu hoặc thắp sáng, trong khi chất thải còn lại có thể
được sử dụng như phân hữu cơ.
Ông Sơn giải thích rằng thiết kế hầm biogas trong dự án
này được ứng dụng từ AEC. Bể phân huỷ được xây bằng
gạch và xi măng trong một hố nông, và có nắp đậy bằng
10
Các trường hợp nghiên cứu điểm trong dự án SEA - UEMA
Thiết kế hầm biogas
Xây dựng hầm biogas
Hầm biogas tại địa điểm dự án
gạch hình vòm, sau đó được trát vữa kín đễ giữ khí gas.
Phân bò được trộn trong một thùng trộn với lượng nước
tương ứng để dễ chảy trước khi nó được đưa vào bể
phân huỷ. Ở đó, nó phân hủy và sinh ra khí biogas, khí
này đi ra qua một ống tròn ở giữa vòm, và được sử dụng
để đun nấu trong một chiếc lò được thiết kế đặc biệt. Khi
nguyên liệu mới được bổ sung vào bể phân hủy, phần
cặn rác được thay thế và chuyển sang một thùng phụ
bên ngoài, sau đó người ta lấy phần rác này ra và sử
dụng làm phân hữu cơ.
Trong các buổi họp cộng đồng, một số người cho rằng
công nghệ này là tốt nhất cho các hộ gia đình cá thể, và
các trang trại chăn nuôi gia súc và các lò mổ cũng có thể
sử dụng công nghệ biogas này.
Xây dựng năng lực
Trong quá trình thực hiện dự án, tác nhân thay đổi đã đề
xuất nâng cao năng lực cho người dân địa phương trong
việc quản lý và bảo dưỡng hầm biogas. Để duy trì hầm
biogas một cách bền vững, người dân cần phải có một
số kiến thức kỹ thuật. Để đạt được điều này, dự án đã tổ
chức các lớp đào tạo về kiểm soát chất lượng, xây dựng
và bảo dưỡng hầm biogas. Các hộ gia đình cũng đã
được thực hành cách vận hành hầm biogas, như cách
đưa phân vào hầm chứa, cách mở hầm, điều chỉnh ánh
sáng, và khi nào thì ngừng sử dụng hầm biogas và khi
nào thì ngừng làm lạnh. Trong quá trình thực hiện dự án,
trên 20-25 nam giới và phụ nữa được tập huấn xây dựng
hầm biogas, và 4 nam giới được tập huấn cách vận
hành cũng như những sửa chữa nhỏ.
Sau khi thực hiện dự án, người dân các nơi khác đã đến
thăm quan hầm biogas để tìm hiểu thực tế. Họ rất quan
tâm đến chất lượng và áp lực gas cũng như giá thành
xây dựng hầm.
11
Dự án đã đào tạo thành công
trên 20-25 phụ nữ và nam giới
về xây dựng hầm biogas và 4
nam giới được tập huấn về
vận hành hầm biogas và
những việc sửa chữa nhỏ.
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
Kết quả dự án
Dự án hầm biogas đã mang lại rất nhiều lợi ích cho xã
Xuân Thới Thượng nói chung và 4 hộ gia đình hưởng lợi
từ dự án nói riêng. Kết quả của dự án có thể được xem
xét theo ba mức độ gồm đầu ra, kết quả và tác động
trong giai đoạn ngắn, trung và dài hạn.
Đầu ra
Thành tựu ban đầu của dự án là việc lắp đặt 4 hầm
biogas cho 4 hộ gia đình. Ba hộ gia đình hiện đang sử
dụng biogas là nguồn năng lượng chính để đun nấu và
thắp sáng. Việc vận hành hầm biogas thứ tư mới bị
dừng lại do người chồng trong gia đình này mới nhận
công việc ở một tỉnh khác.
Một trong những kết quả quan trọng của dự án là cải
thiện rõ môi trường của các hộ gia đình hưởng lợi. Ông
The, một hộ gia đình hưởng lợi từ dự án, thông báo rằng
các loại côn trùng như ruồi, muỗi, gián đã giảm. Ông cho
xem hai bức ảnh về nơi ở của ông: một bức trước khi
thực hiện dự án và một bức sau khi lắp đặt hầm biogas
dưới đất. Bức ảnh thứ hai cho thấy đống phân bò được
thay thế bằng một thảm cỏ. Ông The miêu tả sự thay đổi:
“Tôi thường mất cả này để dọn phân bò trong chuồng và
quanh trại. Nhưng bây giờ mọi thứ đã sạch rồi!”. Khi
hàng xóm thấy ông The có nhiều thời gian hơn cho các
công việc khác trong nhà, một số người cũng xem xét
xây dựng hầm biogas cho nhà mình. Tuy nhiên, chi phí
xây dựng hầm biogas vẫn là một trở ngại đối với họ.
Ông Huỳnh Văn Xuân, 56 tuổi, sống cùng gia đình. Thu
nhập của gia đình ông có được từ việc bán sữa bò. Mỗi
ngày, ông Xuân và các thành viên trong gia đình phải
mất nhiều giờ cho việc dọn dẹp khu vực xung quanh.
Ông Xuân nói: “Mùi phân bò rất kinh khủng và chúng tôi
phải tìm giải pháp. Khi chúng tôi được giới thiệu về ý
tưởng hầm biogas, chúng tôi nghĩ rằng đây chính là giải
12
Các trường hợp nghiên cứu điểm trong dự án SEA - UEMA
Khu chuồng trại nhà ông
Thế trước và sau khi thực
hiện dự án
“Tôi thường mất cả ngày để
dọn rửa phân bò ở chuồng
và khu vực xung quanh. Bây
giờ chuyện đó đã qua rồi”
(Ông Nguyễn Văn Thế -
người hưởng lợi)
“Mùi phân bò thật kinh
khủng và chúng tôi đang tìm
giải pháp. Khi chúng tôi
được giới thiệu về ý tưởng
hầm biogas, chúng tôi không
phải suy tính nữa. Bây giờ
chúng tôi có thể vừa sử
dụng phân bò vừa giữ gìn
môi trường sạch sẽ” (Ông
Huỳnh Văn Xuân – người
hưởng lợi)
pháp. Bây giờ chúng tôi vừa có thể sử dụng phân bò
vừa duy trì một môi trường sạch sẽ”. Việc sử dụng khí
biogas thay cho việc mua khí gas tự nhiên cũng giảm chi
phí nhiên liệu.
Về kết quả liên quan đến sức khỏe, dự án đã cải thiện
điều kiện vệ sinh, đặc biệt là mang lại lợi ích cho phụ nữ
vì họ người dành nhiều thời gian nhất cho các công việc
vặt gia đình gần nơi có phân bò. Đối với nhiều hộ gia
đình, công việc thường được chia thành các loại như
sau: 1) nam giới làm việc trên cánh đồng cắt cỏ bò; và 2)
những người làm công thường vắt sữa và bán sữa, và
thỉnh thoảng thu dọn chuồng trại. Tuy nhiên, để giảm chi
phí nhân công, phụ nữ thường làm công việc dọn dẹp
chuồng trại. Việc sử dụng hầm biogas đã giảm bớt gánh
nặng dọn dẹp phân và nước thải bò. Tuy nhiên, việc vận
hành hầm biogas cũng phát sinh thêm việc. Một hộ gia
đình hưởng lợi, hoàn toàn dựa vào lao động trong nhà,
đã không thể tiếp tục sử dụng hầm biogas khi người
chồng làm công việc xa nhà. Người vợ phải tạm dừng
sử dụng hầm biogas đến khi cô ấy có thể tìm được sự
giúp đỡ, vì vừa quản lý hầm biogas vừa làm việc nhà
chiếm quá nhiều thời gian.
Dự án cũng đã mang lại lợi ích kinh tế cho các hộ gia
đình được lựa chọn. Trước khi thực hiện dự án, cả bốn
hộ gia đình phải mua gas tự nhiên từ chợ gần đó để đun
nấu. Ông Sơn nói rằng, giờ đây khí biogas đã thay thế
nhiên liệu đun nấu của họ, họ không phải mua và vận
chuyển khí gas tự nhiên nữa. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
4 hộ gia đình được lựa chọn ở khu vực dự án này không
phải là các hộ “cực nghèo” trong cộng đồng, do đó
khoản tiền mà họ tiết kiệm được từ việc sử dụng biogas
không có ý nghĩa về mặt kinh tế nhiều như ở các hộ
nghèo khác. Phụ nữ hưởng lợi phần lớn từ việc có
nguồn cung cấp gas tương đối rẻ và liên tục cho việc
nấu nướng. Phụ nữ thường là người quản lý ngân sách
gia đình và phải phân bổ kinh phí sao cho hợp lý. Tiết
kiệm từ việc sử dụng biogas thay thế khí gas tự nhiên
cho phép phụ nữ sử dụng linh hoạt hơn ngân sách gia
đình.
Trước khi có hầm biogas, việc rửa dọn phân bò khu vực
13
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
dự án đã cải thiện điều kiện
vệ sinh, đặc biệt là mang lại
lợi ích cho phụ nữ vì họ
người dành nhiều thời gian
nhất cho các công việc vặt
gia đình gần nơi có phân bò
và dọn phân bò.
Một trong 4 hộ gia đình
hưởng lợi đã phải dừng sử
dụng hầm biogas sau khi
người chồng nhận công việc
xa nhà. Anh là người quyết
định tham gia dự án tuy
nhiên bây giờ anh ấy chuyển
việc này cho người vợ. Vợ
anh không thể quản lý tốt
hầm biogas và cô ấy quyết
định tạm dừng.
xung quanh chiếm phần lớn thời gian dành cho việc nhà.
Theo khảo sát, mỗi hộ gia đình thải ra 100-300kg phân
bò. Mặc dù việc dọn rửa chuồng trại và khu vực xung
quanh vẫn là công việc hàng ngày, nhưng việc quản lý
nguồn chất thải này đã dễ dàng hơn và ít tốn thời gian
hơn. Phụ nữ được hưởng lợi đặc biệt vì họ có nhiều thời
gian hơn cho các công việc vặt khác trong gia đình.
Ông Ái cho biết chi phí hầm biogas thường là trở ngại
đối với việc thực hiện ở cấp địa phương. Tiềm năng
công nghệ thường được đánh giá trên khía cạnh kinh tế.
Nói cách khác, lợi ích của hầm biogas không phải ở
nguồn thu nhập, mà ở việc tiết kiệm chi phí và cải thiện
môi trường, những khía cạnh không cần phải diễn giải
bằng tiền. Đến nay, vẫn chưa có bất kỳ đánh giá nào liên
quan đến tác động thực tiễn về mặt kinh tế của công
nghệ hầm biogas ở các khu vực ngoại ô của Việt Nam.
Do đó, không thể tính được lợi ích kinh tế thực sự đối
với cộng đồng và hộ gia đình.
Kết quả dài hạn
Từ đầu ra trên, dự án đã mang lại những kết quả dài hạn
cho các hộ gia đinh, cộng đồng và các cơ quan hưởng
lợi, tác động đến họ theo nhiều cách khác nhau.
Dự án đã giúp thay đổi cách nhìn truyền thống đối với vệ
sinh và môi trường, những lĩnh vực thường tốn kém
nhiều kinh phí và có sự tham gia rất lớn của chính
quyền. Bằng việc tham gia dự án, người dân đã được
trao kiến thức và kỹ năng để làm cho môi trường xung
quanh sạch hơn, lại vừa tiết kiệm được tiền. Ngoài ra,
các hộ gia đình nhận ra rằng việc sản xuất khí biogas
không phức tạp và họ có thể tự làm với sự trợ giúp rất
nhỏ từ bên ngoài. Kết quả cụ thể ngày đã có ảnh hưởng
tích cực đến việc nhân rộng dự án trong các cộng đồng
khác, cũng như trong việc thực hiện các dự án dựa vào
cộng đồng khác tại Xuân Thới Thượng. Điều này có thể
đem lại các tác động tích cực khác.
Cho dù dự án chỉ được thực hiện ở 4 hộ gia đình, nhưng
toàn cộng đồng cũng được hưởng lợi từ môi trường
14
Các trường hợp nghiên cứu điểm trong dự án SEA - UEMA
Trước khi có hầm biogas,
việc rửa dọn phân bò khu
vực xung quanh chiếm phần
lớn thời gian dành cho việc
nhà. Theo khảo sát, mỗi hộ
gia đình thải ra 100-300kg
phân bò. Mặc dù việc dọn
rửa chuồng trại và khu vực
xung quanh vẫn là công việc
hàng ngày, nhưng việc quản
lý nguồn chất thải này đã dễ
dàng hơn và ít tốn thời gian
hơn. Phụ nữ được hưởng lợi
đặc biệt vì họ có nhiều thời
gian hơn cho các công việc
vặt khác trong gia đình.
.
“Năm người ngoài dự án đã
đến thăm dự án để học tập
và chia sẻ kiến thức. Hơn 20
người khác đã liên hệ với tôi
tìm hiểu chi tiết về thiết kế
hầm biogas.” (Ông Sơn,
người thực hiện dự án).
trong sạch hơn. Một lượng lớn phân bò được phân hủy
trong hầm biogas và lượng phân bò đã giảm căn bản tại
mỗi hộ gia đình. Côn trùng, động vật ký sinh và các mầm
bệnh cũng giảm do quản lý được phân bò, đặc biệt thông
qua việc chứa phân bò tốt hơn và làm loãng phân bò sau
quá trình phân hủy.
Một kết quả khác của dự án là nâng cao kỹ năng và kiến
thức của người dân trong cộng đồng, đặc biệt là phụ nữ,
trong việc sử dụng và duy trì hệ thống biogas. Các thành
viên cộng đồng có thể lựa chọn phương pháp thích hợp,
trong trường hợp này là công nghệ mới để xây hầm
biogas cố định, so với phương pháp sử dụng thùng nhựa
ở các hộ gia đình khác trong làng. Thông qua sự tham
gia trực tiếp vào việc lập kế hoạch và xây dựng hầm
biogas, cũng như các khóa đào tạo, người dân trong
cộng đồng đã được cung cấp kiến thức chuyên môn và
kỹ năng thực hành để lắp đặt hệ thống hầm biogas. Kiến
thức này rất quan trọng đối với việc nhân rộng kết quả dự
án vì mỗi người nông dân có thể là một nhà tư vấn cho
những người khác quan tâm đến việc sử dụng hệ thống
này.
Kết quả của dự án cũng có tác động tích cực đến cơ
quan của người thực hiện, một công ty tư vấn có tên là
Công ty TNHH EPC. Dự án đã nâng cao năng lực của
các cán bộ nhân viên công ty vì họ gặt hái được những
kiến thức quý giá trong các giai đoạn khác nhau của dự
án. Trình độ chuyên môn của họ trong việc ứng dụng
biogas và kỹ năng giao tiếp đã được nâng cao. Dự án
cũng góp phần quảng bá công ty với công chúng về trình
độ chuyên môn trong việc việc lắp đặt hầm biogas. Kết
quả là, công ty dự định thành lập một doanh nghiệp vừa
và nhỏ chuyên về lắp đặt hầm biogas. Ngoài ra, công ty
đã có kinh nghiệm trong việc giải quyết các vấn đề của
cộng đồng và mâu thuẫn giữa cộng đồng với nhóm dự án
cũng như giữa các hộ gia đình với nhau. Đây là những
kết quả không mong đợi của dự án.
Tác động của dự án
Trong thời gian ngắn sẽ không thể thấy được tác động
15
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
dài hạn của dự án. Đến lúc này, dự án đã có tác đọng có
thể ảnh hưởng cả cấp quốc gia và khu vực.
Trong hội thảo cộng đồng, một đại biểu đã phát biểu rằng
sử dụng hầm biogas như một công nghệ năng lượng có
thể tái tạo có thể thực hiện được ở các khu vực ngoại
thành ở Việt Nam. Khí gas sản sinh ra có thể thay thế các
nhiên liệu thương mại khác như khí dầu hóa lỏng (LPG)
và dầu lửa, cũng như các nguồn năng lượng phi thương
mại khác như củi gỗ và củi đốt từ vụ mùa. Gần 70% sản
lượng sữa từ các khu ngoại thành, và số lượng lớn các
hộ gia đình tham gia công việc nuôi bò sữa và các hoạt
động tương tự. Do đó, dự án có thể dễ dàng thay thế các
loại chất đốt khác, ví dụ như chất đốt từ cây vụ mùa.
Tài liệu hướng dẫn kỹ thuật xây dựng, vận hành và bảo
dưỡng hầm biogas đã được xuất bản và phát cho ác bên
liên quan khác nhau, gồm cả các lãnh đạo của các tỉnh,
các tổ chức và các nhân quan tâm. Cuốn sổ tay này cũng
được giới thiệu trong “Danh mục Ấn phẩm” của dự án
SEA-UEMA tháng 8 năm 2007, được phát ở nhiều quốc
gia trong khu vực, do đó phổ biến rộng rãi ý tưởng dự án
ra khu vực.
Tính bền vững và Nhân
rộng dự án
Thành công của dự án đã được các bên hưởng lợi xác
nhận. Ngay từ đầu, điều quan trọng là các bên hưởng lợi
từ dự án cần sẵn sàng phổ biến công nghệ hầm biogas
tại địa phương mình và cam kết với dự án. Cụ thể hơn, bí
quyết thành công của dự án nhân rộng công nghệ hầm
biogas này là việc kiểm soát chất lượng chặt chẽ và sự
tham gia tích cực của cộng đồng. Như ông Sơn đã nói:
“Mọi người tham gia dự án đều có ý thức về sở hữu kết
quả dự án điều đó bắt nguồn cho sự bền vững và thành
công của dự án.” Tất cả những người hưởng lợi đã đóng
góp đất cho dự án. Ước tính mỗi hộ gia đình đóng góp
16
Các trường hợp nghiên cứu điểm trong dự án SEA - UEMA
17
10m2 đất để xây dựng hầm biogas.
Sau khi hoàn thành dự án, người thực hiện dự án đã
thành lập một ban vận hành và bảo dưỡng các hoạt
động dự án tại địa phương, với sự tham gia của các chủ
hộ gia đình hưởng lợi và chính quyền địa phương. Bốn
hộ gia đình cũng chịu trách nhiệm vận hành và bảo
dưỡng vì họ được hưởng lợi trực tiếp từ dự án. Sự
hướng dẫn và tập huấn thích hợp để vận hành và bảo
dưỡng là yếu tố quan trọng đối với sự bền vững của các
hoạt động của dự án.
Để tăng cường việc nhân rộng dự án, tác nhân thay đổi
đã làm các tờ rơi, áp phích quảng cáo để phổ biến thông
tin. Cuốn sổ tay kỹ thuật về hệ thống biogas cũng được
viết và in 500 bản để phát miễn phí cho người dân trong
cộng đồng. Những sáng kiến này có thể giúp tăng cường
nhận thức trong cộng đồng. Ngoài ra, việc tăng cường
tính bền vững và nhân rộng dự án cũng là sự cống hiến
cá nhân của tác nhân thay đổi, sự kết hợp các yếu tố
xây dựng năng lực tốt, tập trung vào sự điều phối và hợp
tác giữa các bên liên quan trong suốt quá trình và sau
khi thực hiện dự án.
Các bài học kinh nghiệm
Trong phiên họp kết thúc sự án, đại diện chính quyền địa
phương đã bày tỏ sự cảm kích đối với những đóng góp
của dự án đối với các hộ gia đình nghèo. Vị đại diện
cũng khuyến khích các hộ gia đình khác nhân rộng mô
hình này. Ý tưởng dự án này cũng có thể được nhân
rộng ra các tỉnh thành khác ở Việt Nam cũng như các
nước khác.
Sự thực hiện và phổ biến thông tin các thành công về
việc cải thiện vệ sinh và sử dụng năng lượng thay thế tại
các hộ gia đình là rất quan trọng đối với việc xây dựng
sự hợp tác hơn nữa để nhân rộng. Vấn đề được xác
định rõ ràng và giải pháp thực hiện có tiềm năng để thu
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
hút sự quan tâm trong việc xây dựng một cơ chế bền
vững tài chính, vấn đề này thường là rào cản trong quá
trình nhân rộng.
Những bài học quan trọng đạt được từ việc thực hiện dự
án phố biến này đó là:
1. Trong việc thực hiện dự án, cách tốt nhất là sử dụng
nhiều loại trong cùng một cộng đồng để so sánh sự khác
nhau trong hiệu quả. Trong dự án này, cả bốn hộ gia đình
ứng dụng cùng một loại công nghệ. Trong tương lai, nên
phát triển các loại hầm chứa đã được thay đổi để so sánh
sự tiện lợi và hiệu quả.
2. Cần có trợ cấp để nhân rộng ra các cộng đồng khác
bởi vì đầu tư ban đầu để xây dựng hầm chứa là khá đắt
đối với một gia đình ở nông thông hoặc ngoại thành.
Đồng thời, vốn đối ứng là tất yếu để đảm bảo tính sở hữu
và nhân rộng mô hình.
3. Thành công trong việc thực hiện không đảm bảo cho
thành công trong bền vững và nhân rộng kết quả dự án.
Sự can thiệp về công nghệ của dự án này đã mang lại kết
quả tích cực, và lượng khí gas đủ cho hộ gia đình sử
dụng. Tuy nhiên, việc phổ biến các bài học quan trọng
cần phải có nhiều nỗ lực hơn nữa. Việc in sách hướng
dẫn và phát cho họ trong phạm vi khu vực có thể không
đủ để phổ biến kiến thức, bởi vì sách hướng dẫn có thể
sẽ không đến được những người nông dân quan tâm đến
việc sử dụng hệ thống biogas. Cách phát triển các
phương pháp thay thế để phổ biến thông tin đến các hộ
gia đình nông dân mục tiêu không tiếp cận được thông tin
hiện đại như internet.
Dự án đã cho thấy rằng có thể đạt được rất nhiều kết quả
từ một ý tưởng đơn giản và rằng các thực tiễn thực hành
về quản lý môi trường đô thị là rát hữu ích để phổ biến
hiệu quả thực tế đến cuộc sống của người dân. Những
bài học kinh nghiệm từ dự án này có thể giúp các tổ chức
và cá nhân khác có quan tâm tới mô hình dự án có thể
nhân rộng dự án ra các cộng đồng khác, với mục tiêu
Các trường hợp nghiên cứu điểm, Dự án SEA-UEMA
18
cuối cùng là cải thiện chất lượng sống cho người dân
sống ở các khu vực nông thôn và ngoại thành.
Thông tin liên hệ
Ông Nguyễn Nam Sơn
Giám đốc Công ty Đầu tư và Tư vấn Bảo vệ Môi trường
(Công ty TNHH EPC)
4H đường Tô Hiến Thành, P.14, Q. 10
TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam
Điện thoại: 84 8 8643019 Fax: 84 8 8439530
Email: epc-co@hcm.fpt.vn
TS. Ranjith Perera
Điều phối viên, Hợp phần dự án của các Cựu sinh viên
Khoa Nghiên cứu Quản lý Môi trường Đô thị
Dự án Ứng dụng Quản lý Môi trường Đô thị khu vực
Đông Nam Á (SEA-UEMA)
Trường Môi trường, Nguồn lực và Phát triển
Viện Công nghệ Châu Á
P.O. Box 4, Klong Luang, Pathumthani 12120, Thái Lan
E-mail: uemapplications@ait.ac.th
19
Cải thiện vệ sinh và Nguồn năng lượng thay thế ở một cộng đồng chăn nuôi ngoại thành Tp . Hồ Chí Minh, Việt Nam
Dự án Ứng dụng Quản lý Môi trường Đô thị khu vực Đông
Nam Á (SEA-UEMA)
Khoa Nghiên cứu Quản lý Môi trường Đô thị
Trường Môi trường, Nguồn lực và Phát triển
Viện Công nghệ Châu Á
P.O. Box 4, Klong Luang, Pathumthani 12120, Thái Lan
Điện thoại: +66 2 524 5777
Fax: +66 2 524 8338/6380
E-mail: uemapplications@ait.ac.th
Website: http//www.sea-uema.ait.ac.th
Các trường hợp nghiên cứu được xuất bản với sự tài trợ của Chính phủ Canada
thông qua Cơ quan Hỗ trợ Phát triển quốc tế Canada (CIDA)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cải thiện điều kiện môi trường tổng thể cho các hộ gia đình trong cộng đồng chăn nuôi ở ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.pdf