ĐẶT VẤN ĐỀTrong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,việc mở cửa hội nhập về kinh tế - xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng tới nhưng ngoài những mặt tích cực rất rõ nét của chúng thì nó còn để lại ở một nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tệ nạn tham nhũng. Nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham nhũng là vấn đề hết sức khó khăn và nó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế đất nước ta.
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 11123 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cảm nhận của đồng chí sau khi học môn Phòng chống tham nhũng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG : Cảm nhận của đồng chí sau khi học môn “ Phòng chống tham nhũng ”.
Bài làm :
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,việc mở cửa hội nhập về kinh tế - xã hội là điều mà rất nhiều người đang hướng tới nhưng ngoài những mặt tích cực rất rõ nét của chúng thì nó còn để lại ở một nguy cơ vô cùng to lớn: Đó là tệ nạn tham nhũng. Nó có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của cả một quốc gia. Do đó Đảng và Nhà nước ta đã xác định việc đấu tranh chống tham nhũng là vấn đề hết sức khó khăn và nó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc phát triển kinh tế đất nước ta.
Với tham nhũng, được nhân dân Việt Nam coi là quốc nạn, là một nguy cơ làm tàn hại đất nước. Đây là một căn bệnh của xã hội loài người. Nó xảy ra ở những quốc gia và khu vực rất khác biệt về hệ tư tưởng, lịch sử, văn hoá, chế độ chính trị, xã hội.
Vì vậy, việc tìm hiểu và các biện pháp phòng chống về tham nhũng đã trở thành vấn đề trung tâm thu hút sự chú ý của cộng đồng thế giới hiện nay.
NỘI DUNG VẤN ĐỀ
NGUYÊN NHÂN RA ĐỜI VÀ SỰ GIA TĂNG CỦA NẠN THAM NHŨNG
Khái niệm về tham nhũng :
Tham nhũng là hiện tượng kinh tế - xã hội gắn liền với sự hình thành giai cấp và sự ra dời và phát triển của bộ máy Nhà nước. Tệ nạn tham nhũng diễn ra ở tất cả các quốc gia không kể giàu nghèo, đang ở trình độ phát triển như thế nào. Nó xảy ra ở mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá nó tồn tại và phát triển thường xuyên hàng ngày hàng giờ, nó len lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội và đụng chạm tới lợi ích của hầu hết dân cư. Tham nhũng là một căn bệnh nguy hiểm, nó gây ra các hậu quả hết sức tai hại về mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, nó cản trợ sự phát triển đi lên của xã hội. Và có thể dẫn đến sự sụp đổ của cả một thể chế. Và nhìn từ góc độ pháp luật: Điều 1, pháp lệnh chống tham nhũng quy định "Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố làm trái ý với pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức.
Nguyên nhân của tham nhũng :
Những năm gần đây tình hình tham nhũng ở nước ta diễn biến hết sức phức tạp. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, chính sách pháp luật để đấu tranh kiên quyết với hiện tượng này, song tham nhũng cũng chưa có nhiều thuyên giảm. Để đấu tranh có hiệu quả với tình trạng này, một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu đó là tìm được các nguyên nhân làm phát sinh tham nhũng và tìm các biện pháp khắc phục, loại trừ những nguyên nhân đó. Trước hết phải khẳng định ràng, hệ thống pháp luật và cơ chế áp dụng nó có ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng tham nhũng. Hay nói cách khác tình trạng tham nhũng ở một quốc gia tại một thời điểm xác định phản ánh mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng như thực trạng áp dụng pháp luật. Từ đó ta có thể nhìn ra các nguyên nhân sau:
- Thứ nhất: Nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại dân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người sinh ra".
- Thứ hai: đó là do bản chất của cơ chế thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh tạo ra.
- Thứ ba: Sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên và sự yếu kém của công tác quản lý, giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên của các tổ chức Nhà nước và Đảng.
Trước đây, trong cơ chế cũ tập trung, quan liêu bao cấp đã có tham nhũng nhưng ở phạm vi hẹp hơn và mức độ thấp hơn. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở rộng giao lưu với bên ngoài, do tác động bởi yếu tố vật chất của cơ chế đó và do không chịu thường xuyên rèn luyện tu dưỡng nhiều cán bộ đảng viên, công chức đã sa ngã, thoái hoá, chạy theo lối sống chủ nghĩa cá nhân, bị lợi ích vật chất cám dỗ, sống đồi truỵ xa hoa, đã trượt vào cùng bùn tham nhũng, tội lỗi. Trong khi đó công tác quản lý, giáo dục kiểm tra cán bộ Đảng, cán bộ và công chức bị buông lỏng, yếu kém, không chuyển kịp trước tình hình mới.
- Thứ tư: Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa đầy đủ, thiếu sự đồng bộ, chưa thực sự chuyển mạnh sang cơ chế thị trường.
Mặc dù nước ta đã trải qua hàng chục năm đổi mới, nhưng chúng ta chưa xây dựng được một hệ thống cơ chế, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô đồng bộ và hoàn chỉnh phục vụ cho sự nghiệp đổi mới.
- Thứ năm: Sự lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước có lúc, có nơi còn thiếu sâu sát, chặt chẽ, chưa quyết tâm cao, cơ chế tổ chức và giải pháp phòng ngừa tham nhũng chưa hiệu quả.
Tuy Đảng và Nhà nước có nhiều chỉ thị, nghị quyết về phòng, chống, tham nhũng nhưng việc triển khai cụ thể chưa bàn kỹ, thiếu những giải pháp có hiệu quả, tổ chức chỉ đạo chưa chặt chẽ.
Tóm lại, tình trạng tham nhũng phổ biến và nghiêm trọng ở nước ta xét về mặt chủ quan là hệ quả tổng hợp của 5 nguyên nhân trên, trong đó nguyên nhân về sự suy thoái về phẩm chất đạo đức của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là nguyên nhân chủ yếu.
Sự gia tăng hơn của nạn tham nhũng :
Ở vào thời điểm mở đầu của thiên niên kỷ mới, hầu hết tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt giàu nghèo, phát triển hay đang phát triển phải đối diện một cách gay gắt với căn bệnh nan y nhức nhối, đó là nạn tham nhũng. Ở nhiều nước, tham nhũng đã trở thành quốc nạn, không chỉ gây những hiệu quả to lớn về mặt kinh tế mà còn để lại những hậu quả xã hội nặng nề, làm băng hoại đến nền tảng đạo đức và tinh thần xã hội. Với quy mô rộng lớn, tính chất phức tạp và nhiều tác dụng tiêu cực mang tính đa chiều của nó, tham nhũng đang thực sự nổi lên như một đại dịch - một vấn đề mang tính toàn cầu xuyên thế kỷ. Bởi vậy cuộc chiến chống tham nhũng đòi hỏi những nỗ lực to lớn và kiên quyết không chỉ trên phạm vi một quốc gia mà cả sự phối hợp trên quy mô toàn cầu. Theo đánh giá của ngân hàng phát triển châu Á (ADB), tham nhũng đang có xu hướng gia tăng tại nhiều châu lục, ở nhiều nước số thiệt hại do tham nhũng gây ra vượt quá tổng số nợ nước ngoài của họ. Nhiều nước Đông Nam Á vốn đã phải gồng mình vật lộn với cơn bão táp khủng hoảng tài chính - tiền tệ lại phải đương đầu với sự tàn phá không kém của tệ nạn tham nhũng, hối lộ và rửa tiền, khiến cho công cuộc phục hưng kinh tế đang trở ngại lại càng thêm phần gian nan.
Đối với Việt Nam, Đảng và Chính phủ ta luôn khẳng định chống tham nhũng một cách kiên quyết và triệt để. Nhằm làm trong sạch bộ máy đảng, chính quyền và đoàn thể. Báo cáo Chính trị Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tham nhũng quan liêu là một trong những nguy cơ không thể xem thường. Với sự gia tăng của tệ nạn tham nhũng hiện nay thì cuộc đấu tranh chống tham nhũng phải được tiếp cận như là cuộc đấu tranh loại trừ một quốc nạn nguy hiểm. Và trong sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay, Đảng cũng dành sự quan tâm đặc biệt đến việc giải quyết vấn nạn này. Văn kiện Đại hội IX ĐCSVN nêu rõ: "Hiện nay, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đang hết sức quan tâm đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng kéo dài gây bất bình trong nhân dân và là một nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta. Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ TW đến cơ sở?
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI CỦA THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA
Thực trạng của tham nhũng :
Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng phòng, chống tham nhũng. Ngay từ năm 1945 sau khi dành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách mạng, thực hành "cần kiệm, liêm chính". Người đã chỉ rõ : Tham ô lãng phí, quan liêu là giặc "nội xâm". Trong thời kỳ xây dựng XNXH ở miền Bắc. Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động "3 xây, 3 chống". Bước vào công cuộc đổi mới, Đại hội Đảng VI của Đảng đã yêu cầu tiến hành cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của cán bộ bộ máy nhà nước, đẩy lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành manh hoá các quan hệ xã hội. Bộ chính trị đã có Nghị quyết số: 04/NQ/TW (12-9-1987) để chỉ đạo cuộc vận động này. Sau đó Ban bí thư đã có chỉ thị số: 64-CT và Hội đồng Bộ trưởng có quyết định số: 240/HĐBT (26-6-1990) về đấu tranh chống tham nhũng: Đại hội VIII trong Văn kiện Đại hội ghi rõ nội dung của nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng. Tháng 2-1998, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã thông qua Pháp lệnh chống tham nhũng. Tháng 2-1999 Hội nghị TW 6 (lần 2) khoá VIII đã đề ra nghị quyết về xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đại hội Đảng IX (tháng 4-2001) đã quyết định thực hiện nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII, tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Tháng11-2001 Hội nghị trung ương lần thứ 4 (khoá IX) đã ra kết luận số: 04/KL-TW về tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết luận của Trung ương đã xác định chống tham nhũng lãng phí là nhiệm vụ trước mắt, đồng thời cần nhận rõ đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt lâu dài, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Trong quá trình thực hiện chủ trương chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước, các tổ chức, chính quyền đoàn thể TW - địa phương đã bền bỉ, tích cực đấu tranh và đạt được một số kết quả như: Đã phát hiện và xử lý được nhiệm vụ tham nhũng, trừng trị nghiêm khắc những kẻ đục khoét tài sản của Nhà nước, tập thể và của dân; thu hồi lại cho nhà nước và trả lại cho dân một giá trị tài sản rất lớn, đã xây dựng và hoàn thiện nhiều cơ chế chính sách quản lý có tác dụng hạn chế một phần tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Những việc đó đã góp phần vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy Nhà nước, đảm bảo an ninh chính trị xã hội đất nước. Mặc dù có những cố gắng quyết tâm nhưng cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta đạt kết quả còn thấp, hiệu quả rất hạn chế. Có nhiều lĩnh vực và thậm chí ngày càng nghiêm trọng hơn trước. Tham nhũng xảy ra rộng khắp trong bộ máy nhà nước, ở hầu hết các ngành các cấp từ trên xuống dưới với quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đã có nhiều doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân thua lỗ, phá sản vì tệ nạn tham nhũng. Tệ nạn tham ô, ăn cắp của công, cố ý làm trái vì động cơ vụ lợi cá nhân, báo cáo sai sự thật để thanh quyết toán khống, bòn rút công quỹ trong các lĩnh vực để làm giàu bất chính, lạm dụng chức quyền để nhũng nhiễu… đã lan rộng khắp các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, thương binh xã hội. Tham nhũng đã xâm nhập ngay vào các cơ quan bảo vệ, pháp luật, là những công cụ chủ yếu trong đấu tranh chống tham nhũng và giữ gìn an ninh trật tự, xã hội.
Một câu hỏi được đặt ra: Vì sao tham nhũng lại diễn ra phổ biến và nghiêm trọng như vậy? Mặc dù Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chỉ thị, Nghị quyết, đã tiến hành nhiều cuộc vận động lớn, đã chỉ đạo xử lý nhiều vụ rất nghiêm khắc, mặc dù bị cả xã hội lên án, ai ai cũng căm ghét phẫn nộ, nhưng tệ nạn tham nhũng chưa bị đẩy lùi, ngăn chặn, thậm chí còn phát triển hơn, nghiêm trọng hơn.
Trước câu hỏi này đặt ra rất nhiều vấn đề như cơ chế chính sách chưa hoàn thiện, còn sơ hở, về đời sống khó khăn, lương thấp, có người cho rằng vì phẩm chất đạo đức suy thoái, công tác giáo dục đào tạo cán bộ đảng viên kém, người thì cho rằng các nhà lãnh đạo không gương mẫu, chưa chống đều khắp từ trên xuống dưới, công tác điều tra còn bị coi nhẹ, kém hiệu quả, việc xử lý các vụ tham nhũng chưa nghiệm… Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 10 khoá IX đã phát hiện và xử lý trên 500 vụ tham nhũng với tổng số tài sản thiệt hại trên 1,2 tỷ đồng và 34 triệu USD. Đặc biệt năm 1996 ta đã phát hiện 10 vụ tham nhũng lớn trên 100 tỷ đồng/vụ. Theo báo cáo của Chánh án Toà án Nhân dân tối cao trước Quốc hội, từ năm 1992 - 1997 toà án xét xử 3621 vụ tham nhũng với 6315 bị cáo, trong đó có 64,5% số bị cáo bị tù, 10 tên bị tuyên phạt tử hình. Và đến nay vẫn liên tiếp xảy ra các vụ án lớn nghiêm trọng gây thiệt hại lớn đến tiền của của Nhà nước và nhân dân, gây mất ổn định về kinh tế xã hội. Tiêu biểu như việc phát hiện thu hồi về cho Nhà nước hàng nghìn tỉ đồng, hàng chục ngàn héc ta đất, cùng nhiều tài sản có giá trị khác, xử lý hàng chục nghìn cán bộ sai phạm, công chức sai phạm như EPCO - Minh Phụng; Tân Trường Sanh; Nhà máy dệt Nam Định. Gần đây tiếp tục làm rõ các vụ án lớn như: Công ty thương mại Đồng Tháp; Công ty lương thực an Giang; Công ty dược xuất nhập khẩu Cà Mau, vụ Năm Cam… cũng đã có tác dụng phòng ngừa, răn đe giáo dục mọi người trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Những vấn đề tồn tại :
Lý luận và thực tiễn đã khẳng định, quan liêu tham nhũng là những hiện tượng xã hội gắn liền với sự hình thành xã hội có giai cáp và sự ra đời và phát triển của bộ máy Nhà nước… Chúng là những căn bệnh đồng hành đặc trưng của mọi nhà nước, là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực, là biểu hiện của sự tha hoá "quyền lực nhà nước", tệ nạn tham nhũng, quan liêu diễn ra ở tất cả các quốc gia, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, không kể quốc gia đó giàu nghèo, ở trình độ phát triển thấp hay cao. Chúng len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội, làm giảm hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, làm xói mòn đạo đức, phẩm chất con người, gây ra sự cản trở đi lên và phát triển của xã hội. Tuy nhiên, hình thức, tính chất và mức độ quan liêu, tham nhũng không mang tính cố định, bất biến mà thay đổi tuỳ thuộc vào bối cảnh kinh tế chính trị xã hội và trình độ dân trí, khả năng quản lý xã hội của Nhà nước.
Với việc tham nhũng ngày càng gia tăng, và có quy mô ngày càng lớn như hiện nay. Và với các biện pháp phòng ngừa đang dần dần có hiệu quả. Nếu như những yếu tố của các chiến dịch chống tham nhũng thành công cho đến nay đã được hiểu tương đối đầy đủ, thì việc thực hiện và duy trì chúng lại cực kỳ khó khăn. Bất kỳ yếu tố nào cũng đều có thể góp phần đưa chúng đến chỗ thất bại. Hơn nữa, những nơi mà tham nhũng hoành hành và ăn sâu vào toàn bộ bộ máy chính phủ, thì các cơ hội để bắt đầu cải cách sẽ rất hiếm hoi và hàng loạt cản trở sẽ xuất hiện.
Thêm vào đó, áp lực cải cách bắt nguồn từ những đẳng cấp thấp hơn trong bộ máy quan liêu có thể bị cản trở do sự thiếu vắng ý chí hay sự quan tâm chính trị trong những công chức ở cấp cao hơn và các quan chức chính trị. Tại bất cứ trong tiến trình này, sự thiếu vắng một cam kết từ cấp cao nhất hay tầng thấp nhất đều có thể thực sự phá hỏng những nỗ lực cải cách. Hơn nữa, cải cách có thể bị đe doạ nếu như, một nhân vật có thế lực không tuân thủ hay một công chức làm chậm tiến độ của nó.
Cũng như những nỗ lực cải cách phải được sự hỗ trợ rộng rãi, chúng phải được hướng vào tất cả những người liên quan và hưởng lợi từ tham nhũng. Những chiến dịch nhằm vào những người vi phạm lặt vặt, hay xử lý chẳng hạn, một vài thành viên trong những phần tử có thế lực, mà không xử lý tham nhũng một cách có hệ thống thì sẽ mau chóng làm mất hết hợp pháp và tạo ra những tấm gương có sức khuyến khích những hành động sai trái tiếp diễn trong toàn thể các thành viên của xã hội. Cải cách cũng có thể kém hiệu quả nếu được tiến hành một cách vô tổ chức, phối hợp kém, có tính đột xuất, hoặc nếu việc dựa quá nhiều vào luật pháp và cưỡng chế sẽ dẫn đến tình trạng nguy cơ tham nhũng lớn nhất. Cán bộ luật cần giữ một vai trò quan trọng trong việc xử phạt những kẻ vi phạm, song chúng cần được bổ sung bằng những cuộc vận động nâng cao nhận thức của dân chúng bằng giáo dục và cải cách trên diện rộng.
Tác hại của tham nhũng với phat triển kinh tế :
Tham nhũng sinh ra hàng loạt tác hại cho xã hội. Tham nhũng gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội, kéo lùi sự phát triển theo quy mô và mức độ gây hại của nó. Chỉ riêng tổng thóng Môbutu của nước Công gô với số tiền tham nhũng trong các năm cầm quyền lên tới 9 - 10 tỷ USD đã bằng70% số nợ nước ngoài của nước này.
Nó làm giảm lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên chức của bộ máy nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển. Điều này đã được V.I. Lênin khuyến cáo. Nếu có cái gì đó có thể tiêu diệt được chủ nghĩa xã hội thì đó là tham nhũng quan liêu. Đây cũng là bài học hàng đầu mà Đảng ta rút ra tại Đại hội lần thứ VI của Đảng, đó là bài học lấy dân làm gốc, dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra.
Tham nhũng sẽ làm "tầm thường hoá" hệ thống pháp luật của nhà nước, kỷ cương xã hội không thể giữ vững và là cơ hội cho kẻ thù phá hoại xâm lược. Nếu các nhà hàng pháp mà tự mình phá bỏ luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu trò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp: làm cho nhà nước trở thành đối lập và là gánh nặng cho công dân. Tham nhũng tất yếu sẽ dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dói và hủ hoá cấp trên, làm cho bộ máy nhà nước trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chức tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành chính quốc gia. Tham nhũng là căn bệnh mãn tính của nhiều quốc gia, khi các viên chức xấu đã mất lương tri và đạo đức của mình. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng ta cũng một lần nữa khẳng định: Nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có các biện pháp khắc phục song hiệu quả còn thấp. Phải tién hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước, những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa xử lý nghiêm kịp thời mọi vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh. Làm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng các cơ quan đơn vị chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt làm thất thoát tài sản nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.
Tham nhũng
Phương tiện làm việc
Thông tin
Tiền
Trong nước
Ký kết móc ngoặt với nước ngoài
Phá hoại công trình di tích
Đất
đai
Chức quyền
Tài nguyên
Tài sản khác
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ : MỘT SỐ BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ THAM NHŨNG
Những năm qua, cuộc đấu tranh chống tham nhũng tuy chưa đạt kết quả như mong muốn, nhưng rõ ràng từ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật nhà nước, qua phát hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý…nhận thức của cán bộ và nhân dân về cuộc đấu tranh này ngày một nâng cao. Các cơ chế chính sách, quy định ngày được ban hành đồng bộ và phù hợp hơn, đã cảnh báo và từng bước khắc phục sơ hở mà kẻ tham nhũng lợi dụng. Việc tiến hành kê khai nhà đất và tài sản đối với cán bộ có chức vụ, tuy đang còn mang tính hành chính, nhưng cũng có ý nghĩa đề cao tinh thần tự giác và tinh thần kỷ luật Đảng, góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa. Kết quả rõ nhất là qua các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết đơn, thư khiếu tố của công dân, các cơ quan chức năng đã thu hồi được tài sản bị thất thoát và xử lý những người tham nhũng. Tất nhiên so với mong muốn thì còn xa mới đạt so với yêu cầu còn nhiều bất cập. Nhưng một sự thật không thể phủ nhận là nếu không có thanh tra, kiểm tra và xử lý kiên quyết thì tham nhũng còn ngang nhiên đến mức nào.
Hiện nay tham nhũng, tiêu cực vẫn còn diễn biến phức tạp, với những thủ đoạn cực kỳ tinh vi. Nó không chỉ diễn ra trong lĩnh vực kinh tế mà các loại hoạt động đấu thầu xây dựng, đầu tư, tín dụng, đất đai, ngân sách… mà còn diễn ra ở lĩnh vực như chạy chức quyền, chạy việc làm, chạy bằng cấp, chạy tội… trong các hoạt động giáo dục, y tế, bảo vệ pháp luật… tình trạng vòi vĩnh tinh vi sách nhiễu, gây phiền hà trong một bộ phận công chức khi thi hành công vụ ở các cấp đang gây bất bình nhức nhối trong nhân dân. Nghị quyết trung ương 4 khoá IX đã nêu 6 nguyên nhân của tham nhũng rất đúng. Đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực là một cuộc chiến thực sự trên mặt trận đầy khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải kiên quyết, khẩn trương và bền bỉ, phối hợp nhiều biện pháp đồng bộ và sự tham gia của toàn xã hội.
Các giải pháp mang tầm chiến lược của cuộc đấu tranh này là xây dựng trên phạm vi toàn xã hội lối sống lành mạnh, hoàn thiện cơ chế chính sách, cải cách bộ máy và thủ tục hành chính, đổi mới cơ bản chế độ tiền lương, kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật, tăng cường các cơ quan kiểm tra, kiểm soát đảm bảo nghiêm kỷ cương phép nước…
Nhưng trước mắt chính phủ cần thực hiện các biện pháp: xử lý dứt điểm các vụ việc nổi cộm, bức xúc. Những vụ án có liên quan đến cán bộ lãnh đạo, quản lý, dù ở cấp nào, đương chức hay nghỉ hưu hoặc chuyển công tác cũng phải được xem xét đầy đủ về trách nhiệm hình sự. Không một ai can thiệp trái pháp luật quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Việc kê khai nhà đất, tài sản của cán bộ, công chức cần được sửa đổi, bổ sung các quy định theo hướng đề cao tự giác, trung thực và minh bạch về tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức. Bản kê khai tài sản được coi là bản cam kết của cán bộ, công chức các đơn vị. Trường hợp nghi vấn có tài sản bất minh thì thủ trưởng các cơ quan, đơn vị yêu cầu người đó phải giải trình, từ đó xem xét kết luận xử lý. Khi cần thiết thì yêu cầu các cơ quan chức năng thẩm tra, xác minh để xử lý theo pháp luật.
Tình trạng dùng tiền của nhà nước, của tập thể để làm quà biếu, nhằm tranh thủ cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu… tìm kiếm cơ hội tiến thân tìm ưu ái cho đơn vị đầu tư, đấu thầu, ngân sách, lao động việc làm… đang trở thành tệ nạn xã hội. Do vậy, chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành các đơn vị phải thực hiện nghiêm chỉnh quy định. Đối với những người cơ quan đơn vị tham nhũng thì cấp trên cũng phải chịu trách nhiệm liên đới. Bằng các biện pháp đấu tranh cơ bản nêu trên trong đấu tranh chống tham nhũng tiêu cực, chính phủ đang thực hiện tư tưởng chủ đạo của hội nghị trung ương 4 theo tinh thần nghị quyết đại hội IX của Đảng là "Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp từ các ngành từ trung ương đến cơ sở, gắn chống tham nhũng với chống lãng phí quan liêu, buôn lậu, đăc biệt là chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính.
Ngày nay khi Việt Nam tiếp vào nền kinh tế thị trường một cách thì tham nhũng lại diễn ra một cách rộng lớn và tinh vi hơn. Nó có thể xuất hiện ở bất kỳ ai có chức vụ và quyền hạn và ở bất kỳ nước nào. Tham nhũng làm cho đất nước chậm phát triển và nghèo đói. Tham nhũng là nguyên nhân chủ quan, cơ bản gây ra lãng phí tài sản của nhà nước và của toàn xã hội. Tham nhũng gắn liền với trốn thuế, giảm nguồn thu ngân sách nhà nước, nó làm lãng phí nguồn lực của toàn xã hội, tạo ra môi trường cạnh tranh không lành mạnh, làm cho các nguồn lực của xã hội bị phân bố kém hiệu quả, làm nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tham nhũng làm băng hoại đạo đức, gây bất bình, mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nhà nước và pháp luật, làm thui chột tình thân ái, làm cho công lý bị đảo lộn, cái thiện sô cái ác "chân, mỹ, thiện" bị lãng quên, chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất, làm cho xã hội bất ổn, đe hoạ sự tồn vong của chế độ. Thấy rõ nguy cơ đe doạ của tham nhũng Đảng, nhà nước và toàn dân ta vẫn đang ra sức ngăn chặn và đẩy lùi quốc nạn này. Hội nghị trung ương 6 (lần 2) khoá VIII ra nghị quyết số 10 ngày 2/2/1999 về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong việc xây dựng Đảng. Trong đó nêu nhiệm vụ tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu có hiệu quả. Tháng 4 năm 2001, Đại hội lần thứ IX của Đảng quyết định về phải tiếp tục các nghị quýêt về xây dựng Đảng, nhất là nghị quyết trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, lãng phí. Kết luận yêu cầu phải đi sâu thực hiện có nội dung cơ bản của nghị quyết, trong đó chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt, nhận rõ đây là cuộc đấu tranh khó khăn, quyết liệt, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và được tiến hành bằng nhiều biện pháp đồng bộ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật phòng chống tham nhũng như: pháp lệnhchống tham nhũng ngày 9 tháng 3 năm 1998 và được sửa đổi bổ sung ngày 28 tháng 4 năm 2000: Bộ luật hình sự; pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính; pháp lệnh cán bộ công chức; pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… tham nhũng không chỉ còn ở phạm vi quốc gia, mà là hiện tượng phổ biến trên toàn thế giới. Vì vậy, Việt Nam đã ký công ước Liên hiệp quốc về chống tham nhũng tại hội nghị quốc tế ở Mêhicô ngày 11 tháng 12 năm 2003 và kế hoạch chống tham nhũng khu vực Châu á tại Philippin ngày 5 tháng 7 năm 2004.
Về giải pháp phòng và chống tham nhũng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đưa ra chiến lược 2001 - 2010: "Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Thực hiện những biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu; đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ cửa quyền, sách nhiễu, "xin- cho" và sự tắc trách, vô kỷ luật trong công việc. Cụ thể là các biện pháp sau:
Một là, các biện pháp phòng ngừa được áp dụng một cách thường xuyên và có tác dụng rộng khắp đến nhiều đối tượng. Khi đó nó sẽ ngăn chặn được mầm mống của nạn tham nhũng.
Hai là: Phòng ngưà tham nhũng sẽ làm giảm bớt tác hại rất nhiều nếu để tham nhũng xảy ra.
Ba là: Việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng nhiều khi đồng nghĩa với biện pháp đổi mới và cải cách mà chúng ta thực hiện theo yêu cầu chung của quá trình hoàn thiện bản thân bộ máy quản lý và phương thức điều hành, cơ chế quản lý nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung.
Trong hội nghị lần thứ tư ban chấp hành trung ương (khoá IX) đã đưa ra 10 biện pháp phòng chống tham nhũng bao gồm; 1: Tăng cường giáo dục chính trị với cán bộ Đảng viên; 2: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách; 3: Khẩn trương giải quyết những vụ nổi cộm trước mắt; 4: Kê khai nhà đất, cơ sở sản xuất kinh doanh của cán bộ công chức; 5: Nghiêm cấm việc lấy tiền của Nhà nước; 6: Thực hành tiết kiệm chống lãng phí; 7: Thực hiện đầy đủ nghiêm túc những điều Đảng viên không được làm; 8: Xử lý trách nhiệm với lãnh đạo để xảy ra các vụ tiêu cực, tham nhũng; 9: Hoàn thiện cơ chế dân chủ cơ sở; 10: Về tổ chức, chỉ đạo: ban bí thư đứng đầu là đồng chí Tổng bí thư trực tiếp chịu trách nhiệm chỉ đạo cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng.
Nhưng để chống tham nhũng thành công ngoài các biện pháp trên, ta còn phải có những giải pháp đột phá trong việc: Đầu tư về lực lượng con người đề phòng và chống tham nhũng; đầu tư về vật chất để phòng và chống tham nhũng; và ba vấn đề cần bán và hóc búa nhất đó là: Chế độ tiền lương; chế độ thưởng và quy định pháp luật.
LIÊN HỆ THỰC TIỄN ĐƠN VỊ
Ứng với thực tiễn quân đội Việt Nam thì vấn đề tham nhũng là có nhưng qui mô và mức độ không lớn như các cơ quan nhà nước khác.Bởi vì quân đội được sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng và các tổ chức Đảng gắn liền từ TW đến cở sở trong quân đội.Song vì vẫn có tham nhũng nên phải phòng , chống và từng bước đẩy lùi ra khỏi đội ngũ quân đội.
Trong đơn vị quản lí học viên của HVKTQS thì tham nhũng là hầu như không có.Nhưng việc phòng chống vẫn là rất cần thiết,không để nó nảy nở và phát triễn.Xuất phát đầu tiên là công tác giáo dục của chỉ huy các cấp cũng như của chi bộ đảng , rồi sự quan tâm chú ý giúp đỡ nhau , kịp thời phát hiện và ngăn chặn.
Khi ra trường thành người sỹ quan thì phải gắn việc phòng chống tham nhũng trong công việc cũng như trách nhiệm của người đảng viên .
KẾT LUẬN
Mỗi nước hay mỗi khu vực đều là sự tổng hợp đặc thù của lịch sử và văn hoá riêng, có hệ thống chính trị và những niềm tin riêng và đều ở vào một giai đoạn phát triển kinh tế và xã hội riêng của nó. Những gì có tác dụng chống tham nhũng ở nơi này lại có thể không có giá trị ở nơi khác. Nhưng đôi khi kinh nghiệm gặt hái được trong cuộc chiến đấu lại là vấn đề hiện diện rộng khắp này có thể cung cấp sự hướng dẫn có một nơi khác.
Trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước ta hiện nay dù Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được rất nhiều thành tựu, nhưng những khó khăn ở tham nhũng và tụt hậu xa hơn về kinh tế luôn là những nguy cơ tiềm ẩn, cần Đảng và Nhà nước ta luôn phải chủ động phòng ngừa và giải quyết. Để đất nước ta phát triển một cách toàn vẹn. Để Việt Nam được sánh ngang với các cường quốc năm châu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tham nhung.docx