MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: CHẤP PHIẾU NGÂN HÀNG .
1. Khái niệm chấp phiếu ngân hàng
2. Đặc điểm của chấp phiếu
3. Chức năng của chấp phiếu
4. Hạn chế của chấp phiếu .
5. Tình hình sử dụng chấp phiếu ở Việt Nam .
Chương II: REPO
1. Khái niệm Repo
2. Các quy định của một hợp đồng Repo
3. Quy trình thực hiện nghiệp vụ Repo
4. Tính ưu việt của nghiệp vụ Repo .
5. Hạn chế của nghiệp vụ Repo và cách khắc phục
6. Nghiệp vụ Repo trên thị trường chứng khoán Việt Nam
Chương III: QUỸ LIÊN BANG
1. Khái niệm quỹ dự trữ liên bang
2. Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền
3. Cơ cấu tổ chức
4. Vai trò, nhiệm vụ của quỹ dự trữ liên bang .
5. Các hoạt động của quỹ dự trữ liên bang
5.1. Cách thức ấn định lãi suất của quỹ dự trữ liên bang .
5.2. Thỏa thuận mua lại
5.3. Giao dịch mua đứt .
5.4. Thực hiện chính sách tiền tệ .
Chương IV: EURODOLLAR .
1. Khái niệm đồng Eurodollar
2. Quá trình hình thành
3. Những lợi ích của đồng Eurodollar
4. Những rủi ro của đồng Eurodollar
5. Thị trường Eurodollar
6. Lãi suất của đồng Eurodollar .
Kết luận: .
Tài kiệu tham khảo: .
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4092 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chấp phiếu, Repo, quỹ liên bang, Eurodollar, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nhóm VN BANK
Bảng phân công công việc:
Phan Bùi Ngọc Xuân: đọc và tìm tài liệu.
Võ Thị Thanh Trang: tìm và tổng hợp tài liệu.
Phạm Thị Ngân: đọc và tìm tài liệu
Lý Thị Kim Quyên: đọc và tìm tài liệu.
Nguyễn Thị Thùy Trang: tìm tài liệu và trình bày powerpoint.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 4
Chương I: CHẤP PHIẾU NGÂN HÀNG 6
Khái niệm chấp phiếu ngân hàng 6
Đặc điểm của chấp phiếu 7
Chức năng của chấp phiếu 8
Hạn chế của chấp phiếu 8
Tình hình sử dụng chấp phiếu ở Việt Nam 9
Chương II: REPO 10
Khái niệm Repo 10
Các quy định của một hợp đồng Repo 10
Quy trình thực hiện nghiệp vụ Repo 11
Tính ưu việt của nghiệp vụ Repo 12
Hạn chế của nghiệp vụ Repo và cách khắc phục 14
Nghiệp vụ Repo trên thị trường chứng khoán Việt Nam 15
Chương III: QUỸ LIÊN BANG 17
Khái niệm quỹ dự trữ liên bang 17
Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền 17
Cơ cấu tổ chức 18
Vai trò, nhiệm vụ của quỹ dự trữ liên bang 19
Các hoạt động của quỹ dự trữ liên bang 20
Cách thức ấn định lãi suất của quỹ dự trữ liên bang 20
Thỏa thuận mua lại 21
Giao dịch mua đứt 22
Thực hiện chính sách tiền tệ 22
Chương IV: EURODOLLAR 24
Khái niệm đồng Eurodollar 24
Quá trình hình thành 24
Những lợi ích của đồng Eurodollar 26
Những rủi ro của đồng Eurodollar 27
Thị trường Eurodollar 28
Lãi suất của đồng Eurodollar 29
Kết luận: 30
Tài kiệu tham khảo: 31
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán quyền sử dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch và công cụ tài chính nhất định.Thị trường tài chính là tổng hòa các quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế.
Căn cứ vào thời hạn luân chuyển vốn, thị trường tài chính được chia ra làm hai loại là thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Trong đó thị trường tiền tệ diễn ra việc mua bán các loại công cụ tài chính ngắn hạn.Theo thông lệ, một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán dưới 1 năm là công cụ của thị trường tiền tệ.Thị trường vốn là nơi trao đổi các công cụ tài chính trung và dài hạn.Một công cụ tài chính có thời hạn thanh toán trên một năm được gọi là công cụ của thị trường vốn.
Đối với những nhà đầu tư và những nhà quản trị tài chính thì có vô số những công cụ tài chính khác nhau.Mỗi năm trên thị trường đều có những công cụ tài chính mới xuất hiện, và một số thì mất đi.Nhiều nhà đầu tư lớn đều có những nghiên cứu phát triển những loại công cụ tài chính mới.Trong số những công cụ tài chính thì công cụ trên thị trường tiền tệ là loại công cụ thay thế tiền mặt ngắn hạn.Thời gian đáo hạn của chúng luôn ngắn (ít hơn hay bằng một năm), ít hoặc không có xảy ra tình trạng rủi ro không được thanh toán, và có tính thanh khoản cao. Các công cụ của thị trường tiền tệ như là tín phiếu kho bạc, tín phiếu ngân hàng Nhà nước, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng mua lại, Eurodollar, tiền ngân hàng Trung ương…Các công cụ của thị trường tiền tệ có thời hạn ngắn nên những biến
động về giá của các công cụ tài chính do ảnh hưởng của sự biến động lãi suất là không đáng kể. Các công cụ của thị trường tiền tệ thường được phát hành theo dạng được chuẩn mực hóa cao và thị trường thứ cấp của chúng rất phát triển. Hơn nữa thông thường các công cụ này được đảm bảo bằng tài sản hoặc các dạng đảm bảo khác của người đi vay. Chúng là những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao và ít rủi ro do đó lợi nhuận đem lại không cao.
Trong bài thuyết trình này ta cùng tìm hiểu khái niệm, vai trò, ưu điểm và nhược điểm của một số các công cụ của thị trường tiền tệ như: chấp phiếu ngân hàng, Repo, quỹ liên bang, Eurodollar.
Chương I: CHẤP PHIẾU NGÂN HÀNG
Khái niệm chấp phiếu ngân hàng:
Chấp phiếu được xem như một loại hối phiếu có kì hạn do các công ty phát hành và ra lệnh cho ngân hàng trả một số tiền nhất định vào một thời điểm nào đó trong tương lai, thông thường thời gian thanh toán là trong vòng 6 tháng. Khi hối phiếu đã được ngân hàng đóng dấu “chấp nhận” thanh toán thì nó sẽ trở thành chấp phiếu (coi như đã được ngân hàng bảo đảm chi trả).Trên chấp phiếu ghi rõ ngày và số tiền cần thanh toán.
Chấp phiếu ngân hàng là một trong những công cụ của thị trường tài chính ngắn hạn cổ điển và chiếm tỉ trong tương đối nhỏ tính theo khối lượng. Chấp phiếu ngân hàng là những hối phiếu đã được ngân hàng chấp nhận, theo nghĩa là bảo lãnh thanh toán.
Các hối phiếu do các công ty phát hành và được lập ra trong quá trình mậu dịch quốc tế. Nếu ngân hàng chấp nhận là hối phiếu ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải đóng dấu “chấp nhận” trên bề mặt của hối phiếu.Khi đó, ngân hàng đã đảm bảo một cách vô điều kiện thanh toán giá trị mệnh giá của tờ chấp phiếu khi đáo hạn. Tránh cho người xuất khẩu trên thị trường quốc tế khỏi rủi ro. Như vậy, môt chấp phiếu là một công cụ tài chính được thiết kế để chuyển rủi ro thương mại quốc tế vào một bên thứ ba sẵn sàng chấp nhận rủi ro đó. Các ngân hàng thương mại thường sẵn sàng chấp nhận những rủi ro như vậy vì họ là chuyên gia trong việc cấp tín dụng, đánh giá các rủi ro tín dụng và rải đều các rủi ro đó lên hàng nghìn khoản nợ khác nhau.
Các chấp phiếu có thời hạn từ 30-270 ngày (trong vòng 90 ngày là phổ biến) và được xem là công cụ tài chính ngắn hạn có chất lượng thượng đẳng: kì hạn ngắn, rủi ro thấp, tính lưu hoạt cao là phương tiện tài trợ có chi phí thấp...Do đó chấp phiếu ngân hàng có một thị trường thứ cấp ưu việt.
Đặc điểm của chấp phiếu:
Một là, ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán.
Trong quan hệ buôn bán với nhau, việc không chắc chắn về năng lực tài chính và khả năng thanh toán của đối tác là một điều dễ hiểu. Do vậy nhu cầu cần có người bảo lãnh, đảm bảo cho đối tác về mặt thanh toán là một xu hướng tất yếu. Người bán cần một ngân hàng uy tín chấp nhận thay mặt doanh nghiệp đối tác trả nợ cho mình trong trường hợp đối tác mất khả năng thanh toán nợ nần cho mình.Như vậy, khi ngân hàng đóng dấu chấp nhận bảo lãnh thanh toán thì người trả tiền hối phiếu bây giờ không còn là người mua hàng nữa mà là ngân hàng bảo lãnh.
Ngân hàng sẽ yêu cầu người mua chịu phải kí quỹ vào gửi ngân hàng một phần hoặc toàn bộ giá trị của tờ hối phiếu hoặc séc, hoặc ngân hàng sẽ đồng ý cho vay để thanh toán hối phiếu, bên cạnh đó ngân hàng sẽ thu một khoản phiêu đảm bảo thanh toán.
Hai là, người sở hữu chấp phiếu có thể bán lại chấp phiếu trên thị trường tiền tệ với giá chiết khấu.
Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên chấp phiếu ngân hàng là một công cụ nợ có độ an toàn khá cao. Khi cần tiền mặt gấp thì người chủ sở hữu chấp phiếu sẽ có thể đem bán chúng trên thị trường tiền tệ.
Các công ty muốn phát hành hối phiếu phải kí gửi một món tiền bắt buộc vào tài khoản của họ tại ngân hàng hoặc được ngân hàng đồng ý cho vay để đảm bảo khả năng chi trả tối thiểu.Điều này nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng với tư cách chấp nhận thanh toán hối phiếu.
Chức năng của chấp phiếu:
Chấp phiếu ngân hàng thường được sử dụng trong ngoại thương, xuất nhập khẩu hoặc trong thị trường mua bán chịu. Khi mà người bán không tin vào khả năng thanh toán của người mua thì họ sẽ yêu cầu người mua đảm bảo thanh toán từ ngân hàng có uy tín, khi đã được ngân hàng kí dấu “chấp nhận” chi trả, thì lúc này người trả tiền không phải là người mua nữa mà là ngân hàng, do vậy người bán được đảm bảo khá chắc chắn về khả năng thanh toán của hối phiếu.
Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên các chấp phiếu là một công cụ nợ có độ an toàn khá cao, nhất là khi ngân hàng chấp nhận là những ngân hàng lớn, có uy tín. Đồng thời, chấp phiếu có thể được đem bán lại trên thị trường thứ cấp với giá chiết khấu, nhỏ hơn mệnh giá khi cần vốn.
Hạn chế của chấp phiếu:
Do thời hạn ngắn nên những biến động về giá của các công cụ tài chính do ảnh hưởng của sự biến động lãi suất thị trường là không đáng kể, các công cụ của thị trường tiền tệ thường được phát hành theo dạng được chuẩn mực hóa
cao và thị trường thứ cấp của chúng rất phát triển. Hơn nữa thông thường các công cụ này được đảm bảo bằng tài sản hoặc các dạng đảm bảo khác của người đi vay chúng là những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao và ít rủi ro. Do đó dẫn đến lợi nhuận đem lại từ chấp phiếu ngân hàng thấp hơn so với các công cụ thị trường vốn dài hạn.
Tình hình sử dụng chấp phiếu tại Việt Nam:
Trong các giao dịch xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam đi các nước, phương thức thanh toán phổ biến nhất và được các doanh nghiệp Việt Nam (nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ) ưu chuộng nhất hiện nay là thanh toán theo tín dụng chứng từ (gọi tắt là thanh toán L/C-letter of credict). Các thông lệ và tập quán liên quan đến L/C được quy định chi tiết trong các bộ quy tắc UCP 600 của phòng thương mại quốc tế ICC.
Về bản chất L/C là một cam kết thanh toán có điều kiện của ngân hàng phát hành. Do vậy, nhà xuất khẩu Việt Nam có thể an tâm về khả năng thanh toán của người mua hàng. Nhưng không phải cứ có L/C là có tiền.Nguyên nhân là các rủi ro có thể xảy đến từ bản chất cam kết thanh toán có điều kiện của L/C rất dễ bị các doanh nghiệp Việt Nam không chú ý khiến cho bộ hồ sơ gặp lỗi và ngân hàng từ chối chi trả.
Hình thức chấp phiếu ngân hàng còn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam.
Chương II: REPO
Khái niệm Repo:
Hợp đồng Repo (Repurchase agreement) là một dạng vay ngắn hạn đối với các loại chứng khoán của chính phủ.Người tham gia bán các chứng khoán chính phủ cho nhà đầu tư, thông thường cho khoản thời gian ngắn hạn (24 giờ) và sau đó mua lại vào hôm sau.
Đối với bên chứng khoán, cam kết mua lại được gọi là Repo. Đối với bên kia (mua chứng khoán sau đó lại đồng ý bán lại) gọi là Reverse Repo. Như vậy Repo và Reverse Repo là hai khái niềm đồng thời xảy ra và phụ thuộc vào vị trí của bên thực hiện.Các hợp đồng Repo được phân vào loại công cụ thị trường tiền tệ.Chúng được sử dụng để huy động vốn trong ngắn hạn.(Theo saga.vn).
Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng khoán được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn.Về bản chất thì nghiệp vụ Repo giống như một khoản vay có đảm bảo bằng các chứng khoán và các tài sản đảm bảo khác.Về hình thức biểu hiện thì Repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua lại trong đó quy định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn trọng.
Các quy định của một hợp đồng Repo:
Một hợp đồng Repo quy định các điều sau:
Tư cách của các bên tham gia: là nhà đầu tư (người cho vay tiền), nhà buôn (người đi vay).
Quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên.
Tài sản đảm bảo.
Tài sản dùng để Repo như là trái phiếu, cổ phiếu hay các chứng khoán khác. Trên Thế giới sử dụng nhiều nhất là các trái phiếu chính phủ vì tính an toàn của nó.
Cách tính lãi suất Repo, thời hạn của hợp đồng, phương pháp định giá lại chứng khoán cơ sở, biên độ giao động, khoản giảm trừ.
Các điều khoản khác.
Quy trình thực hiện nghiệp vụ Repo:
Việc này được thực hiện như sau:
Nếu nhà đầu tư có cổ phiếu chưa được niêm yết trên sàn và đang cần tiền thì có thể mang đến công ty chứng khoán để repo.Cổ phiếu mang đi repo phải có tên trong danh sách cổ phiếu mà công ty chứng khoán chấp nhận repo.
Nếu cổ phiếu của nhà đầu tư được chấp nhận thì công ty sẽ làm một hợp đồng có thời hạn 3 tháng, 6 tháng, hoặc một năm, đồng thời nhà đầu tư phải làm giấy chuyển nhượng cổ phiếu này sang tên công ty chứng khoán theo đúng thời hạn ghi trên hợp đồng.
Điều này có nghĩa là nhà đầu tư sẽ bán số cổ phiếu cho công ty chứng khoán trong thời hạn đó. Khi hết hạn, nhà đầu tư mang tiền đến thanh lý hợp đồng, công ty chứng khoán sẽ làm giấy chuyển nhượng sang tên lại cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư phải trả lại số tiền bằng giá công ty mua ban đầu cộng với lãi suất cho vay tùy theo thời hạn repo.
(Theo công ty chứng khoán FPT-FPTS).
Khi hai bên thực hiện kí một hợp đồng Repo thì bên A tức bên nhà buôn sẽ thực hiện bán số chứng khoán tương đương với một khoản tiền vay nào đó tại một tỉ lệ lãi suất chấp nhận được cho cả hai bên cho bên B ( nhà đầu tư) và cam kết sẽ mua lại vào một thời gian nào đó ( thông thường dưới 1 năm vì hợp đồng Repo là công cụ trên thị trường tiền tệ). Giá mua lại chứng khoán là: Giá mua lại = Giá bán lần 1*( 1 + lãi suất Repo/365* số ngày thực sự sở hữu chứng khoán).
Nói chung thì một giao dịch Repo có hai giai đoạn là giai đoạn bán chứng khoán và giai đoạn mua lại chứng khoán.Tham gia chủ yếu vào giao dịch Repo là các nhà đầu tư có tổ chức lớn như ngân hàng, công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, các nhà buôn, nhà kinh doanh chứng khoán, ngân hàng Trung ương, các tổ chức cung cấp dịch vụ riêng cho hoạt động Repo... Hợp đồng Repo cũng được coi là một công cụ thực hiện chính sách tiền tệ trong ngắn hạn.Để hoạt động Repo diễn ra suôn sẻ và tránh thiệt hại cho mỗi bên khi giá các chứng khoán Repo bị biến động bởi thị trường thì các bên tham gia thường thỏa thuận với nhau một biên độ giao động giá hay một khoản giảm trừ đối với các chứng khoán Repo. Vì thế giá của các chứng khoán cơ sở thường thấp hơn so với giá thị trường.Khoản giảm trừ này là tương đối nhỏ đối với các trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ và lớn hơn đối với cổ phiếu.Nghiệp vụ Repo làm tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu vì thế rất quan trọng nếu muốnphát triển thị trường trái phiếu.
Tính ưu việt của nghiệp vụ Repo:
Việc thực hiện nghiệp vụ Repo góp phần làm tăng tính thanh khoản cho thị trường, tăng hiệu quả đồng vốn kinh doanh. Repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua bán lại, trong đó quy định các điều khoản mà các bên tham gia phải tôn trọng. Các hợp đồng Repo được phân vào loại công cụ thị trường tiền tệ và chúng được sử dụng để huy động vốn trong ngắn hạn.Về bản chất, nghiệp vụ Repo giống như một khoản cho vay có đảm bảo bằng chứng khoán và các tài khoản đảm bảo khác nhưng nó có những đặc điểm riêng và linh hoạt hơn. Chẳng hạn, người mua trong giao dịch Repo có quyền kinh doanh chứng khoán đã mua trong suốt thời hạn của hợp đồng, điều này khác ở các hợp đồng cho vay có tài sản cầm cố là chứng khoán.Hoặc là nhà đầu tư vẫn có quyền mua lại số cổ phiếu đã bán sau một thời gian nhất định, trong thời gian chuyển nhượng vẫn được hưởng cổ tức và các quyền lợi phát sinh khác từ cổ phiếu đã chuyển nhượng.
Việc đánh giá, lựa chọn cổ phiếu Repo là khâu khó nhất trong quy trình thực hiện sản phẩm Repo để tránh rủi ro. Dịch vụ Repo có thành công, an toàn hay không đều dựa vào năng lực khi đánh giá cổ phiếu mà công ty chứng khoán đó nhận. Thông thường, hạn mức Repo được tính khoảng 50% giá thị trường và có thể thay đổi nếu thời hạn hợp đồng còn hiệu lực. Điều này xảy ra khi thị giá của cổ phiếu trên thị trường giảm xuống tới mức giá xử lý, tại mức giá này khách hàng phải nộp vào một số tiền bổ sung hoặc hoàn lại một phần vốn cho công ty chứng khoán.
Nhằm thu hút nhà đầu tư, các công ty chứng khoán có nghiệp vụ Repo đều chú trọng đến giá Repo và lãi suất sao cho hợp lý. Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro cho cả nhà đầu tư cũng như cho công ty chứng khoán, các công ty chứng
khoán thường xuyên rà soát tất cả các khoản đầu tư, tự doanh, đảm bảo tuân thủ quy trình, hạn mức đầu tư và từng khoản mục. Không nên Repo giá chứng khoán quá cao so với tình hình tài chính và kinh doanh của các doanh nghiệp.Tùy thuộc vào từng thời điểm khác nhau mà các công ty chứng khoán công bố danh sách nhận Repo khác nhau.Đồng thời cũng tùy vào tình hình vốn của các công ty chứng khoán mà có thể nhận Repo và ngược lại.
Hạn chế của nghiệp vụ Repo và cách khắc phục:
Một là, tăng độ xuống dốc của thị trường.
Trên thực tế, những rủi ro của việc Repo cổ phiếu trong năm 2008 và 2009 là do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế vĩ mô diễn biến phức tạp đã khiến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị ảnh hưởng, nhiều công ty rơi vào tình trạng thua lỗ khiến giá cổ phiếu giảm mạnh. Từ đó, nhiều hợp đồng Repo đã không tất toán được như cam kết, gây rủi ro cho nhà đầu tư lẫn các công ty chứng khoán.
Hai là, tình trạng mất thanh khoản của thị trường làm ảnh hưởng tới việc xử lý các hợp đồng Repo
Với tình hình ảm đạm của thị trường chứng khoán năm 2008 – 2009, hiệu quả đầu tư của nhà đầu tư cũng giảm sút, khả năng trả nợ hay bổ sung tài sản của các nhà đầu tư vì thế cũng giảm theo, dẫn đến hoạt động Repo cổ phiếu tại các công ty chứng khoán gặp rất nhiều khó khăn.
Ba là, góp phần làm tăng ảo giá cổ phiếu.
Việc thực hiện Repo để đầu tư chứng khoán cũng giống như hoạt động đầu tư mạo hiểm. Nhà đầu tư tận dụng nguồn vốn của các công ty chứng khoán để Repo cổ phiếu rồi dùng tiền mua tiếp cổ phiếu khiến giá bị đẩy lên, một khi các nhà đầu tư đặt lệnh mua với khối lượng lớn sẽ tạo cầu ảo và đẩy giá cổ phiếu tăng cao mà không phải là sự tăng trưởng thực của các doanh nghiệp. Chính điều này tạo điều kiện cho một số nhà đầu cơ lợi dụng để trục lợi và làm lũng đoạn thị trường.
Nhằm tránh rủi ro cho các nhà đầu tư, các công ty chứng khoán và giúp hoạt động Repo phát triển ổn định và bền vữngcần có một số giải pháp sau:
Quản lý rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ Repo bằng cách: quy định cụ thể các tỷ lệ an toàn cho các công ty chứng khoán và tỷ lệ ký quỹ đối với các nhà đầu tư; xây dựng các thông số ký quỹ cho từng trường hợp; định kỳ báo cáo với Ủy ban Chứng khoán về các giao dịch Repo để cập nhật thông tin thị trường và có biện pháp điều chỉnh khi cần thiết.
Cần có những biện pháp cưỡng chế, xử phạt nghiêm đối với những trường hợp gian lận trong giao dịch nhằm trục lợi bất chính. Hạn chế tối đa tình trạng thông tin bất cân xứng gây thiệt hại cho nhà đầu tư.
Tăng cường hoạt động marketing giới thiệu sản phẩm Repo đến với khách hàng, bằng nhiều cách: Thông tin đại chúng, gửi thư hoặc điện thoại; thường xuyên tổ chức những buổi hội thảo chuyên đề, cử nhân viên trực tiếp tư vấn cho khách hàng,…
Nâng cao năng lực quản trị rủi ro và kiểm soát hoạt động Repo một cách chặt chẽ. Xây dựng quy trình thẩm định cổ phiếu OTC, tăng cường công tác
thẩm định chất lượng khoản Repo cũng như năng lực tài chính và thiện chí trả nợ khách hàng.
(Theo tạp chí ngân hàng số 14/20010).
Nghiệp vụ Repo trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Hoạt động mua bán chứng khoán có kỳ hạn Repo tại các công ty chứng khoán Việt Nam đã được thực hiện trong những năm gần đây nhưng chưa được các nhà đầu tư biết đến và sử dụng rộng rãi.Để tạo tính thanh khoản cho các cổ phiếu chưa niêm yết, các công ty chứng khoán đưa ra nghiệp vụ Repo để mua có kỳ hạn các loại cổ phiếu này nhằm mục đích tạo cho khách hàng có thêm nguồn vốn để mở rộng danh mục đầu tư của mình.
Chương III: QŨY DỰ TRỮ LIÊN BANG MỸ
Khái niệm quỹ dự trữ liên bang:
Quỹ dự trữ liên bang Mỹ, gọi tắt là FED (Federal Reserve), là ngân hàng Trung ương của nước Mỹ. Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang. FED được xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn. Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với lịch sử nước Mỹ, FED ngày càng chứng mình được vai trò vô cùng quan trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế Mỹ.(Theo saga.vn)
Tính pháp lý và vị trí trong chính quyền:
Các bộ phận của quỹ dự trữ liên bang có các tư cách pháp lý khác nhau.
Hội đồng thống đốc là cơ quan độc lập của chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận tài trợ của quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ. Thành viên của hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên Hội đồng phải gửi báo cáo tới quốc hội theo định kì. Theo luật, thành viên của hội đồng này chỉ rời chức vụ khi mãn hạn.Hội đồng thống đốc chịu trách nhiệm hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Trung ương nói chung.
Các ngân hàng dự trữ liên bang về danh nghĩa sở hữu bởi các ngân hàng thành viên (mỗi ngân hàng thành viên giữ cổ phần không có khả năng chuyển nhượng). Theo tòa án tối cao Mỹ, các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là công cụ của chính quyền liên bang, chúng là ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở địa phương. Phán quyết trên cũng cho rằng, các ngân hàng dự trữ liên bang khu vực có thể được coi là công cụ của chính quyền liên bang theo một số mục đích nhất định. Trong một số phán quyết khác của tòa án cấp bang sự khác biệt giữa hội đồng thống đốc và các ngân hàng được quy định rõ ràng.
Các ngân hàng sở hữu ngân hàng dự trữ liên bang khu vực là của tư nhân và rất nhiều trong số đó có cổ phiếu phát hành trên thị trường.
Giấy bạc do cục dự trữ liên bang phát hành là nguồn cung tiền tệ và chúng được đưa vào lưu thông qua cac ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.
Cơ cấu tổ chức:
Được thành lập ngày 23/12/1913 theo đạo luật mang tên "Federal Reserve Act" do tổng thống Woodrow Wilson kí, FED là một mạng lưới gồm 12 Ngân hàng dự trữ liên bang và một số chi nhánh khác. Về mặt quản lý, FED chia nước Mỹ làm 12 khu vực, được gọi là các "Quận" (District), mỗi ngân hàng Dự trữ liên bang đại diện cho một quận và được đặt tên theo tên thành phố mà nó đặt trụ sở, đó là Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Francisco, trong đó Ngân hàng dự trữ New York có vai trò nổi bật hơn một chút so với các ngân hàng còn lại.
Lãnh đạo FED là Ban thống đốc (Board of Governors) gồm có 7 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn. 7 thành viên của Ban thống đốc đóng vai trò như là đa số trong Uỷ ban thị trường mở Hoa Kì (FOMC), là cơ quan quyết định tất cả các chính sách tiền tệ của Mỹ. 5 thành viên còn lại của FOMC là chủ tịch của Ngân hàng dự trữ liên bang New York và 4 chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang khác. Nhiệm kì của mỗi thành viên Ban thống đốc kéo dài 14 năm, và các thành viên chỉ có thể được tái bổ nhiệm nếu nhiệm kì trước của ông ta không phải là một nhiệm kì trọn vẹn. Tổng thống tiếp tục bổ nhiệm Chủ tịch và phó Chủ tịch Ban thống đốc, hai người này giữ chức trong vòng 4 năm và có thể được tái bổ nhiệm không hạn chế chừng nào họ còn là thành viên của Ban thống đốc. Chủ tịch của FED hiện nay là Ben Bernanke, người đã thay thế Alan Greenspan vào ngày 01/01/2006. Alan Greenspan đã từng phục vụ ở cương vị Chủ tịch FED từ năm 1987. (Theo saga.vn)
Vai trò, nhiệm vụ của quỹ dự trữ liên bang:
Thực thi những chính sách tiền tệ quốc gia để duy trì mức việc làm, giá cả ổn định và lãi suất tương đối thấp.
Giám sát và quản lý các thể chế ngân hàng để đảm bảo đó là những nơi an toàn để gửi tiền và để bảo vệ quyền lợi tín dụng của người dân.
Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng, Chính phủ Mỹ và Ngân hàng trung ương các nước khác như thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử, phát hành tiền...
Ngoài ra FED còn tiến hành các nghiên cứu về nền kinh tế Mỹ cũng như kinh tế các bang, cung cấp thông tin về nền kinh tế thông qua các ấn phẩm, hội thảo giáo dục và qua website.
Với vai trò là Ngân hàng trung ương của nền kinh tế mạnh nhất thế giới, mỗi quyết định của FED đều gián tiếp ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Người ta hay nói vui rằng "một cái hắt hơi sổ mũi của chủ tịch FED" cũng đủ làm chao đảo nền kinh tế thế giới, xét về mặt nào đó cũng không phải là không có lý.
Các hoạt động của quỹ dự trữ liên bang:
Cách thức ấn định lãi suất của quỹ dự trữ liên bang:
Quỹ dự trữ liên bang thực hiện chính sách tiền tệ chủ yếu bằng cách định hướng “lãi suất quỹ vốn của FED”. Đây là tỉ lệ các ngân hàng ấn định với nhau cho khoản vay qua đêm các quỹ đặt cọc tại Cục dự trữ liên bang. Tỉ lệ này do thị trường quyết định chứ FED không ép buộc. Tuy vậy FED sẽ cố gắng tác động tỉ lệ này ở con số phù hợp với tỉ lệ mong muốn bằng cách bổ sung hoặc hạn chế nguồn cung tiền tệ thông qua hoạt động của nó trên thị trường.
Quỹ dự trữ liên bang còn ấn định tỉ lệ chiết khấu, lãi suất mà các ngân hàng thương mại phải trả khi vay tiền từ FED. Tuy nhiên các ngân hàng thường lựa chọn cách gây quỹ đặt cọc tại FED từ một ngân hàng khác mặc dù lãi suất này cao hơn tỉ lệ chiết khấu của FED. Lý do của việc lựa chọn này là do việc vay tiền từ FED mang tính công khai rộng rãi, nó sẽ đưa đến chú ý của công chúng về khả năng thanh khoản và mức độ tin cậy của ngân hàng đang đi vay.
Cả hai tỉ lệ trên chi phối lãi suất ưu đãi và tỉ lệ thường cao hơn 3% so với lãi suất quỹ vốn tại FED. Lãi suất ưu đãi là tỉ lệ mà ngân hàng tính lãi đối với khoản vay của những khách hàng tin cậy nhất. Ở mức lãi suất thấp, các hoạt động kinh tế được thúc đẩy vì chi phí đi vay thấp, do đó người tiêu dùng và nhà doanh nghiệp tăng cường mua bán. Ngược lại lãi suất cao đưa tới kìm hãm kinh tế vì chi phí đi vay cao hơn.
Cục dự trữ liên bang thường điều chỉnh “lãi suất quỹ vốn tại FED” mỗi lần ở mức 0.25% hoặc 0.5%. Từ năm 2001 đến năm 2003, FED hạ lãi suất đến 13 lần, từ 6.25% xuống 1% nhằm chống lại xu hướng suy thoái kinh tế. Tháng 11 năm 2002, lãi suất do FED điều chỉnh chỉ còn 1.75% và nhiều mức thấp hơn cả tỉ lệ lạm phát.
Thỏa thuận mua lại
Thực chất của hoạt động này là cho vay hoặc đi vay có thế chấp. Để đảm bảo những thay đổi nguồn cung tiền tệ theo chu kỳ hoặc tạm thời, bàn giao dịch thị trường của Ngân hàng dự trữ liên bang New York tham gia các thỏa thuận mua lại với những nhà giao dịch ưu tiền. Các mua bán chủ yếu là các khoản cho vay ngắn hạn, có đảm bảo của Fed. Trong ngày giao dịch Fed sẽ đặt tiền vào tài khoản của người giao dịch và nhận thế chấp (là các giấy tờ chứng nhận sở hữu như cổ phiếu, trái phiếu, v.v..). Khi hết hạn giao dịch, quá trình diễn ra ngược lại Fed hoàn lại chứng khoán và nhận lại tiền cùng lãi. Thời hạn giao dịch có thể thay đổi từ 1 ngày (cho vay qua đêm) tới 65 ngày, phần lớn giao dịch là cho vay qua đêm và 14 ngày.
Bởi các giao dịch làm tăng quỹ dự trữ của ngân hàng trong thời gian ngắn, chúng tăng nguồn cung tiền tệ. Hiệu quả của hoạt động này là tạm thời bởi các giao dịch sẽ đáo hạn, tác động dài hạn là dự trữ ngân hàng giảm đi bởi lãi suất của giao dịch (lãi suất một ngày của tỷ lệ 4,5%/năm là 0,0121%). Fed tiến hành giao dịch này hàng ngày trong 2004-2005, ngoài ra giao dịch thu hút vốn cũng tiến hành nhằm tạm thời giảm nguồn cung tiền tệ.
Trong giao dịch thỏa thuận bán lại (reverse repo), Fed sẽ vay tiền từ các người giao dịch ưu tiên bằng cách đặt cọc các chứng khoán chính phủ. Khi giao dịch đáo hạn, Fed sẽ hoàn trả tiền và các khoản lãi.
Giao dịch mua đứt
Một công cụ khác của bàn giao dịch thị trường là mua đứt.Trong giao dịch này, Cục dự trữ liên bang mua lại trái phiếu chính phủ và cung cấp giấy bạc mới vào tài khoản của người giao dịch đặt tại Fed. Bởi hoạt động này là mua đứt nên tăng cung tiền tệ lâu dài nhưng khi trái phiếu hết hạn khoản lãi vẫn được thu, thông thường là 12-18 tháng.
Từ những năm 1980, Cục dự trữ liên bang cũng bán quyền mua trái phiếu chính phủ ở mức lãi suất cao. Việc bán quyền mua này giảm nguồn cung tiền tệ bởi các nhà giao dịch ưu tiên sẽ bị khấu trừ tài khoản dự trữ của họ đặt tại Fed, do đó mà quá trình tạo ra tiền lưu thông bị hạn chế.
Thực hiện chính sách tiền tệ
Mua và bán trái phiếu chính phủ: Khi Cục dự trữ liên bang (Fed) mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Bởi có thêm tiền trong lưu
thông, lãi suất sẽ giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi Fed bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại, tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn.
Quy định lượng tiền mặt dự trữ: Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yâu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên.
Thay đổi lãi suất của khoản vay từ Fed: Các ngân hàng thành viên của Fed vay tiền từ Fed để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà Fed ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ được vay.
Chương IV: EURODOLLAR
Khái niệm đồng Eurodollar:
Có 2 cách hiểu về đồng Eurodollar như sau:
Thứ nhất: Euro dollars là những đồng dollar Mỹ do các ngân hàng ngoại quốc ở bên ngoài nước Mỹ hoặc do những chi nhánh ngân hàng Mỹ ở ngoại quốc nắm giữ.
Thứ hai: nó có thể là một loại tiền tệ toàn cầu phổ biến từ châu Mỹ sang châu Âu.
Quá trình hình thành:
Chúng ta thấy trong quá khứ mà sự sụp đổ của các loại tiền dẫn đến một cuộc suy thoái kinh tế lớn của khu vực hoặc thậm chí trên toàn thế giới, sự sụp đổ của nền kinh tế các nước Đông Á, Nga, Mỹ là những bằng chứng của nó. Khái niệm Eurodollar là một giải pháp đơn giản cho những vấn đề mà các loại tiền tệ đang gây ra cho nền kinh tế quốc tế. Một lựa chọn là đồng Euro có thể được sát nhập với đồng Dollar để tạo ra một đồng Eurodollar. Các Eurodollar sẽ hoạt động như một loại tiền tệ duy nhất cho cả Hoa Kì và Châu Âu, và có thể hoạt động như một đồng tiền chung duy nhất cho phần còn lại của thế giới.
Tuy nhiên, đồng Eurodollar thực sự xuất hiện sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi đó lượng Dollar Mỹ ở nước ngoài tăng lên rất nhanh do hậu quả của kế hoạch Marshall và việc nhập khẩu quá mức vào thị trường tiêu thụ khổng lồ là Mỹ khi hoà bình được tái thiết ở châu Âu. Chính vì vậy, một lượng lớn đồng Dollar Mỹ được nắm giữ bởi các ngân hàng ngoài Mỹ. Một vài quốc gia trong đó có Liên Bang Xô Viết đã có tài khoản Dollar tại các ngân hàng của Mỹ và được đảm bảo bằng các giấy chứng nhận. Trong suốt thời kì chiến tranh lạnh, đặc biệt là sau cuộc xâm lược Hungary vào năm 1956, Liên Xô lo sợ rằng tài khoản của mình ở ngân hàng Bắc Mỹ có thể bị phong toả. Do đó họ đã quyết định chuyển một phần tài khoản sang ngân hàng Moscow Narodny_ngân hàng của Liên Xô có sự hỗ trợ của Anh. Sau đó ngân hàng Anh đã gửi số tiền này sang ngân hàng của Mỹ. Như vậy sẽ không có lý do gì để tịch thu số tiền này vì nó thuộc về ngân hàng của Anh chứ không trực tiếp thuộc Liên Xô. Ngày 28 tháng 2 năm 1957 tổng số tiền được chuyển đã lên tới 800.000USD và đây là những đồng Eurodollar đầu tiên.
Như vậy, ngoài ý tưởng về một loại tiền tệ toàn cầu, Eurodollar cũng liên quan đến đồng USD nằm trên tài khoản ngân hàng bên ngoài Hoa Kỳ. Nhiều ngân hàng nước ngoài ở châu Âu chấp nhận tiền gửi là các dollar Mỹ, tức là những đồng dollar Mỹ được gửi vào tài khoản bằng đồng USD tại châu Âu.Ban đầu các tài khoản tiền gửi bằng đôla hầu hết nằm tại các ngân hàng châu Âu, vì thế mới có tên là Eurodollar. Ngày nay mặc dù các tài khoản này chủ yếu vẫn nằm tại ngân hàng châu Âu song cũng còn được lưu giữ ở các quốc gia khác như Bahamas, Canada, Cayman Islands, Hong Kong, Japan, Netherlands Antilles, Panama, và Singapore.
Thị trường Eurodollar ngày hôm nay là thị trường vốn của thế giới.Các thị trường vốn Eurodollar bao gồm các tài khoản tài chính Eurodollar của Mỹ tài trợ các công ty nước ngoài. Thị trường Eurodollar cũng bao gồm các tài khoản của các tập đoàn nước ngoài tài trợ giao dịch nước ngoài hoặc trong nước bằng đồng Dollar Mỹ. Và cuối cùng, Eurodollars cũng bao gồm là tài khoản của chính phủ nước ngoài ở kinh phí các dự án tư hoặc cán cân thanh toán thâm hụt.
Lưu ý rằng vì eurodollars này không thuộc thẩm quyền của Cục dự trữ liên bang nên có ít những quy định hơn tiền gửi tương tự trong nước Mỹ mà cho phép ngân hàng nước ngoài có lợi nhuận cao hơn trên eurodollars.
Những lợi ích của đồng eurodollars:
Trước tiên, Eurodollars là một loại tiền tệ duy nhất làm tăng tính minh bạch của giá cả.
Thứ hai, bằng cách sử dụng Eurodollars làm cho giao dịch kinh tế dễ dàng hơn.
Thứ ba, Eurodollar làm giảm chi phí giao dịch mua bán hàng hóa bởi vì người dân không phải mất thêm những chi phí để chuyển đổi nội tệ sang một loại tiền tệ khác để giao dịch.
Thứ tư, Eurodollar sẽ loại bỏ rủi ro tỷ giá trong số các quốc gia chia sẻ loại tiền tệ Eurodollar.
Thứ năm, sử dụng Eurodollar, Mỹ và châu Âu không còn có thể sử dụng việc phá giá như là một phần của chính sách kinh tế của họ để đạt được một lợi thế so với nước khác.
Thứ sáu, bởi vì là đồng tiền chung nên Eurodollar không thể bị kiểm soát bởi một chính phủ duy nhất, nên sẽ dễ dàng hơn cho ngân hàng trung ương tập trung vào mục tiêu để kiểm soát cuộc chiến giá cả và lạm phát.
Thứ bảy, Eurodollar sẽ khuyến khích thương mại quốc tế và làm giảm sự gián đoạn kinh tế vì biến động tiền tệ.
Những rủi ro của đồng Eurodollar:
Rủi ro hoạt động của thị trường Eurodollar không những ảnh hưởng gián tiếp mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế cua nước chủ quyền đồng tiền này.Một trong những mối quan tâm chính đến thị trường Eurodollar là thị trường này bao gồm một khối lượng khổng lồ nguồn vốn có khả năng tạo tín dụng nhưng lại không có bất cứ một quy chế điều chỉnh nào.
Một mối quan tâm khác đến thị trường Eurodollar là áp lực tiềm ẩn của thị trường này lên lạm phát. Sự tăng trưởng nhanh chóng của thị trường Eurodollar trong những năm 60 và 70 (thế kỷ trước) xảy ra trùng khớp với tăng đáng kể tỷ lệ lạm phát ở các nước công nghiệp. Một số nhà hoạch định chính sách và kinh tế đã cho rằng, do tốc độ tăng trưởng nhanh của thị trường Eurodollar đã góp phần tăng tỷ lệ lạm phát. Lý luận này dựa trên cơ sở là: sự tăng trưởng nhanh của thị trường Eurodollar không bị hạn chế bởi dự trữ bắt buộc, do đó đã tạo ra hiệu ứng tạo tiền bổ sung vào cung tiền quốc gia, làm cho
áp lực lạm phát gia tăng. Ví dụ: do không chịu các quy chế điều chỉnh nên thị trường Eurodollar không có tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay có tỷ lệ rất thấp so với thị trường trong nước, từ đó, thị trường Eurodollar đã tạo ra hiệu ứng mở rộng cung ứng tiền rất lớn, tăng khả năng lạm phát ở các quốc gia tham gia thị trường này.
Một số nhà kinh tế học đã phản đối hoạt động của thị trường Eurodollar từ những góc độ khác. Đặc biệt họ rất quan tâm đến một thực tế rằng thị trường Eurodollar đã tạo điều kiện thuận lợi để các quốc gia tài trợ cho thâm hụt cán cân thanh toán một cách dễ dàng. Họ cho rằng, thị trường Eurodollar phát triển nhanh chóng là do có sự tồn tại một bên là nhóm các nước có thặng dư cán cân thanh toán và một bên là nước có cán cân thanh toán thâm hụt thường xuyên. Thị trường Eurodollar được coi như là chiếc cầu nối chuyển vốn từ nước thặng dư đến nước thâm hụt.Và nếu sự di chuyển vốn này xảy ra liên tục trong nhiều năm sẽ dẫn đến kết quả là nợ của các nước thâm hụt ngày càng tăng.Các nhà kinh tế tỏ ra lo lắng khi cho rằng, do điều kiện đi vay trên thị trường Eurodollar là khá dễ dàng, đã kích thích các nước thâm hụt đi vay quá mức. Hơn nữa, có thể làm cho các quốc gia thâm hụt không kiên quyết theo đuổi các chính sách kinh tế vĩ mô một cách nghiêm túc.
Mặt khác thị trường Eurodollar cũng tạo ra sự bất ổn cho nước Mỹ. Khi có những áp lực về tỉ giá sẽ làm cho giá trị đồng USD tăng lên hay giảm xuống, dẫn đến lãi suất thị trường trong nước có thể thay đổi, nó tác động ở cả hai thị trường Eurodollar và thị trường nội tệ Mỹ.
Thị trường Eurodollar:
Vì thị trường Eurodollar tương đối thông thoáng và không bị ràng buộc bởi các điều luật nên các ngân hàng thường hoạt động với biên lợi nhuận thấp hơn các ngân hàng tại Mỹ. Từ đó thị trường cho đồng Eurodollar đã được phát triển mạnh mẽ và là một cách để tránh các chi phí có liên quan đến các trung gian tài chính. Các tài khoản thường từ 1.000.000 USD trở lên trong đó chủ yếu là tài khoản của một định chế tài chính gửi tại một tổ chức tài chính khác.Khi cần vốn, các ngân hàng của Mỹ có thể huy động dollar từ nguồn cung như trên.
Các giao dịch của đồng eurodollar rất phổ biến và linh hoạt, đặc biệt thời hạn có thể từ một ngày đến 6 tháng (hiếm các giao dịch kéo dài hơn 5 năm).
Lãi suất của Eurodollar:
Mặc dù được nắm giữ ở nhiều nơi trên Thế giới nhưng lãi suất của eurodollar lại chủ yếu bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế Mỹ. Nhìn chung khi cục dự trữ liên bang có dấu hiệu quản lí chặt hoặc sẽ tiến hành thực hiện quản lí chặt chẽ các khoản tiền gửi thì lãi suất eurodollar sẽ tăng và ngược lại. Mức lãi suất này cũng thay đổi tùy theo từng thời điểm trong ngày và tuân theo quan hệ cung cầu, do đó nếu sử dụng lãi suất này làm điểm tham chiếu sẽ là không phù hợp, thay vào đấy có thể sử dụng lãi suất Libor và các lãi suất khác. Lãi suất Libor là lãi suất của 6 ngân hàng hàng đầu của Anh cho vay vào mỗi buổi sáng khi thị trường giao dịch bắt đầu mở cửa cộng thêm một tỉ lệ phần trăm nhất định tùy theo tính chất của vốn vay.
(Theo saga.vn)
KẾT LUẬN CHUNG
Nhìn chung, các công cụ của thị trường tiền tệ do tính chất ngắn hạn nên hầu hết đều có tính thanh khoản cao, là những khoản đầu tư ít rủi ro nhất. Chúng còn ít chịu tác động của lãi suất nhất nên rất an toàn cho các nhà đầu tư, tuy nhiên lại đem đến ít lợi nhuận hơn so với các công cụ của thị trường vốn. Trong 3 thập kỉ qua, thị trường tiền tệ cũng đã có nhiều sự thay đổi lớn, quy mô của các công cụ tài chính gia tăng nhanh chóng hơn các công cụ khác nhiều.Bản thân các công cụ này đã đem lại một phần lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế thị trường, góp phần giải quyết nguồn vốn ổn định cho mục tiêu đầu tư, phát triển kinh tế-xã hội. Quá trình đẩy mạnh, phát triển nền kinh tế Việt Nam không thể không quan tâm tới việc phát triển thị trường tài chính, vì hiện nay số vốn nhàn rỗi trong xã hội là còn khá lớn, đáp ứng được nhu cầu của thị trường tài chính chính là đã tạo một cơ sở vững chắc, bền vững cho nền kinh tế thị trường, tạo sức hấp dẫn các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các nguyên lý tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính – Tác giả: Trần Viết Hoàng, Cung Trần Việt (Nhà xuất bản thống kê năm 2009).
Nhập môn tài chính-tiền tệ - Tác giả: PGS.TS Sử Đình Thành-TS. Vũ Thị Minh Hằng (Nhà xuất bản ĐH Quốc Gia Tp HCM).
Lý thuyết chung về thị trường tài chính, ngân hàng và chính sách tiền tệ- Tác giả :Nguyễn Văn Ngọc (Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân năm 2008).
Tiền tệ ngân hàng – Tác giả Lê Thị Tuyết Hoa.
www.saga.vn
www. kienthuctaichinh.com
Thời báo kinh tế Sài Gòn.
Tạp chí ngân hàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chấp phiếu, Repo, quỹ liên bang, Eurodollar.doc