MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bộ luật dân sự năm 1995 được áp dụng để giải quyết cho các tranh chấp dân sự nói chung, tranh chấp về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng kể từ ngày 1/7/1996. Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự 1995 đã phát huy tác dụng trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể trong giao lưu dân sự, góp phần làm ổn định các quan hệ xã hội. Bên cạnh những thành công đã đạt được, Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ nhiều bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn. Bộ luật dân sự 2005 ra đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995 với nhiều sự sửa đổi, bổ sung nhất định, trong đó có chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bộ luật dân sự 2005 qui định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng từ Điều 604 đến Điều 630, trong đó bổ sung qui định về bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể, bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, hài cốt và rất nhiều sự sửa đổi khác trong từng qui định cụ thể.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những loại trách nhiệm gây nhiều tranh cãi về căn cứ phát sinh, mức bồi thường .; hơn nữa qui định của pháp luật về vấn đề này chủ yếu dừng lại ở các qui định mang tính "định tính" mà không "định lượng" nên gây khó khăn rất nhiều cho các cán bộ áp dụng pháp luật. Bên cạnh đó, án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng chiếm tỉ trọng tương đối lớn trong các án kiện về bồi thường; sự đối lập về tâm lý của người gây thiệt hại với người bị thiệt hại hoặc gia đình của người bị thiệt hại . làm cho các án kiện về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng bị kháng cáo, khiếu nại từ phía đương sự.
Xuất phát từ tình hình trên đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng là một trong những vấn đề có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được nhiều nhà khoa học nghiên cứu pháp luật quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trong đó có đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng như các bài viết: TS. Phùng Trung Tập: "Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004; Đinh Văn Quế: "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Tưởng Duy Lượng - Nguyễn Văn Cường: "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tháng 5-2004); Lê Mai Anh: "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự", Luận văn thạc sĩ luật học; Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín", Luận văn thạc sĩ luật học .(xem Phụ lục).
Nhìn chung, các đề tài đó đã nêu và phân tích những vấn đề chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự; đưa ra các yêu cầu cơ bản trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các quy định của pháp luật dân sự trong việc bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín, cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, các hình thức và mức bồi thường, những trường hợp miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi thường .
Tuy nhiên, các đề tài này hoặc đề cập ở dạng khái quát về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng hoặc có đề cập chi tiết cụ thể hơn nhưng vào thời điểm của Bộ luật dân sự 1995 đang tồn tại hiệu lực pháp lý.
Tìm hiểu một cách có hệ thống, chi tiết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng theo Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn mới thì chưa có một công trình khoa học nào cho đến thời điểm hiện tại.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Thông qua việc tìm hiểu các qui định của Bộ luật dân sự 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành, giúp cho người nghiên cứu có cái nhìn hoàn chỉnh dưới lăng kính pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, qua đó phục vụ tốt hơn cho công việc thực tế của bản thân. Ngoài ra, qua việc nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do xâm phạm sức khỏe, tính mạng cũng như việc áp dụng vào thực tiễn sẽ có những kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc thực thi, sửa đổi và tuyên truyền pháp luật. Để đạt được mục đính này, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu các qui định của các văn bản pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng, qua đó chỉ ra những bất cập trong các qui định của pháp luật và phương hướng hoàn thiện qui định của pháp luật về bồi thường thiệt hại nói chung, pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Trong phạm vi giới hạn nghiên cứu đề tài cao học luật, chúng tôi chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản nhất về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến sức khỏe và tính mạng, đồng thời xem xét thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự xâm phạm sức khỏe và tính mạng. Luận văn này cũng đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong giải quyết bồi thường thiệt hại sức khỏe và tính mạng khi áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê .cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn sẽ đề cập một cách có hệ thống, chi tiết trong qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng; chỉ ra những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng pháp luật, đồng thời có những kiến nghị trong việc hoàn thiện và áp dụng pháp luật trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG TRONG LUẬT DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong luật dân sự
1.2. So sánh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tài sản với trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm các quyền nhân thân
Chương 2: XÁC ĐỊNH TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
2.1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm
2.2. Các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại
2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
2.4. Hình thức bồi thường và mức bồi thường
2.5. Xác định thiệt hại trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm
Chương 3: thực trạng áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm
3.2. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
78 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4748 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế định bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm - Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
RẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO XÂM PHẠM SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG
3.1. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO SỨC KHỎE VÀ TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
3.1.1. Thực trạng giải quyết các vụ án về bồi thường thiệt hại do
sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm
Bộ luật dân sự năm 1995 với các qui định cụ thể về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã tạo cơ sở pháp lý cho các cấp Tòa án giải
quyết các tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng,
bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói chung. Qua một
thời gian áp dụng vào thực tiễn, mặc dù đã có hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết
số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 nhưng Bộ luật dân sự 1995 còn bộc lộ
một số khiếm khuyết nhất định. Đây chính là lý do để Bộ luật dân sự 2005 ra
đời với những sửa đổi, bổ sung cho sát với tình hình thực tiễn. Tuy vậy, kể từ
khi có Bộ luật dân sự 1995 cho đến trước khi Bộ luật dân sự 2005 ra đời thì
các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã được giải quyết triệt
để. Theo số liệu của ngành Tòa án, các vụ xâm phạm về tính mạng và sức
khỏe mà ngành Tòa án thụ lý và giải quyết trong các năm, diễn biễn như sau:
- Năm 2002: 1.964 vụ
- Năm 2003: 4.427 vụ
- Năm 2004: 3.470 vụ
- Năm 2005: 2.915 vụ
Qua số liệu trên cho thấy:
53
Thứ nhất, các vụ án xâm phạm về sức khỏe và tính mạng hàng năm
chiếm số lượng khá cao.
Thứ hai, có thể nói rằng,các cán bộ Tòa án đã vận dụng các quy định
của Bộ luật dân sự để giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, góp phần to lớn khắc phục những tổn thất mà người bị hại phải
gánh chịu, giúp họ dần dần ổn định cuộc sống, duy trì hoạt động bình thường
sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, Bộ luật dân sự cũng mới chỉ quy định những vấn đề chung
nhất, cụ thể chi tiết như thế nào thì mỗi Thẩm phán lại hiểu và áp dụng khác
nhau, cách giải quyết thiếu nhất quán, chưa có sự thống nhất, có nhiều trường
hợp cùng một loại yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nhưng mỗi
Thẩm phán lại giải quyết một cách, vì vậy dẫn đến mức bồi thường khác
nhau, do đó quyền, lợi ích của các chủ thể không được đảm bảo, nhiều trường
hợp người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại cũng không
thỏa đáng theo sự phán quyết của Tòa án. Vấn đề này sẽ được trình bày cụ thể
tại những phần tiếp theo khi xem xét thực trạng xét xử về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng ở những vụ án cụ thể.
3.1.2. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những
yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất
Như đã phân tích chương 2, bồi thường thiệt hại về vật chất là khoản
bồi thường có thể "lượng hóa" được, mặc dù ở mức độ tương đối. Theo quy
định tại Điều 307 Bộ luật dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý cho việc ngăn
chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, thu nhập thực tế bị giảm sút
của người bị thiệt hại và tùy từng trường hợp có thể được tính cho cả người
chăm sóc người bị thiệt hại.
Trên thực tế các vụ án hình sự, phần dân sự trong các bản án này bị
kháng cáo, kháng nghị rất ít, nếu có kháng cáo kháng nghị thì chủ yếu là kháng
54
cáo và kháng nghị về phần hình phạt, còn về trách nhiệm bồi thường theo quyết
định của Tòa án thì người gây thiệt hại chấp nhận, trong một số vụ án thì bản
thân người bị thiệt hại hoặc gia đình người bị thiệt hại với người gây thiệt hại
đã thỏa thuận về phần bồi thường nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ví dụ: Bản án số 21/2005/HSST ngày 28/4/2005 của Tòa án nhân dân
tỉnh LC xét xử bị cáo Nguyễn Hữu Kiệm về tội: "Giết người". Nội dung vụ án
như sau: Do nghi ngờ vợ có quan hệ ngoại tình với một người Trung Quốc,
khuyên vợ không được, 4 giờ sáng ngày 11/6/2004 khi đang quan hệ tình dục
thì chị Ký tuyên bố chỉ ngủ với Kiệm đêm nay, còn từ mai chị Ký ngủ với ai
là quyền của chị Ký. Nghe thấy thế Kiệm dùng hai tay bóp cổ chị Ký cho đến
chết. Sau đó Kiệm bỏ trốn đến ngày 3/12/2004 bị bắt giữ. Tại cơ quan điều tra
và tại phiên tòa anh Nguyễn Văn Huấn (anh trai chị Ký) yêu cầu bị cáo Kiệm
bồi thường toàn bộ số tiền mai táng phí cho chị Ký là 6.777.000 đồng. Về tổn
thất tinh thần anh không yêu cầu vì xét thấy gia đình bị cáo khó khăn. Đối với
hai cháu là con chung của bị cáo và chị Kiệm, anh Huấn cũng không yêu cầu
bồi thường. Sau khi xét xử, bị cáo chấp nhận khoản tiền bồi thường này mà
không kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng này.
Căn cứ vào tình hình kinh tế tại địa phương vào thời điểm xảy ra vụ
án, mức bồi thường tiền mai táng phí là 6.777.000 đồng là phù hợp với thực
tế. Do đó, khi đại diện gia đình người bị hại yêu cầu, Tòa án chấp nhận buộc
bị cáo phải bồi thường tiền mai táng phí và bị cáo đồng ý, không kháng cáo là
hoàn toàn có cơ sở pháp lý và cơ sở thực tế.
Bên cạnh đó, có những vụ án cấp sơ thẩm quyết định mức bồi thường
quá thấp so với thực tế chi phí gia đình người bị thiệt hại đã bỏ ra, không bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự, cấp phúc thẩm đã khắc phục thiếu
sót, sửa bản án sơ thẩm, tăng mức bồi thường.
Ví dụ: Bản án số 827/2006/HSPT của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử Phạm Ngọc Bảo, Phạm Trần Ngân
55
về tội giết người. Cấp sơ thẩm buộc các bị cáo bồi thường cho người đại diện
người bị hại cụ thể: Phạm Ngọc Bảo bồi thường: 20.922.000 đồng; Phạm
Trần Ngân bồi thường: 12.460.000 đồng. Sau khi xét xử, đại diện gia đình
người bị thiệt hại đã kháng cáo đòi tăng mức bồi thường. Tòa án cấp phúc
thẩm đã sửa bản án sơ thẩm buộc các bị cáo phải bồi thường: Phạm Ngọc Bảo
26.600.000 đồng; Phạm Trần Ngân 13.400.000 đồng. Lý do Tòa án cấp phúc
thẩm đưa ra để sửa một phần trong bản án sơ thẩm khi có kháng cao tăng mức
bồi thường, gia đình người bị thiệt hại đã bỏ ra các chi phí cho việc cứu chữa
người bị thiệt hại trước khi chết, tiền mai táng... với đầy đủ hóa đơn chứng từ
hợp lệ và phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương. Qua vụ án này, chúng
ta thấy rằng đối với thiệt hại về vật chất, mặc dù chúng ta có thể "lượng hóa"
được nhưng không phải lúc nào cũng có thể tính toán một cách chính xác nếu
không cân nhắc cả tình hình thực tế.
Nhiều vụ án giữa bị cáo và bị hại tự nguyện thỏa thuận về vấn đề bồi
thường thiệt hại như mức bồi thường, thời gian bồi thường... Tòa án đã ghi
nhận sự tự nguyện này và không xem xét khi xét xử vụ án.
Ví dụ: Bản án số 10/2006/HSST ngày 14/2/2006 của Tòa án nhân dân
tỉnh TG xét xử bị cáo Trần Văn Khoa về tội: "Vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ" theo qui định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật
hình sự 1999. Các bị hại và bị cáo đã thỏa thuận với nhau, cụ thể: Bồi thường
cho chị Ngô Thị Chinh - người đại diện hợp pháp của bị hại Lê Anh Kiệt
3.000.000 đồng, thực hiện việc bồi thường mỗi tháng 200.000 đồng cho đến
khi bồi thường xong; Bồi thường cho anh Lưu Văn Oảnh 3.000.000 đồng,
thực hiện mỗi tháng 100.000 đồng cho đến khi thực hiện xong.
Có nhiều vụ án xâm phạm về sức khỏe và tính mạng, người bị thiệt
hại hoặc người đại diện hợp pháp người bị thiệt hại không yêu cầu bồi thường
thiệt hại do giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại có quan hệ thân
thích như vợ, chồng, con, anh, em ruột thịt… Ghi nhận nguyên tắc đảm bảo
quyền tự định đoạt của đương sự, Tòa án cũng không xem xét.
56
Ví dụ: Bản án số 159/2006/HSST của Tòa án nhân dân tỉnh NA xét xử
bị cáo Trịnh Văn Tuấn về tội "Cố ý gây thương tích". Người bị hại là chị Lữ
Thị Phá (vợ bị cáo Tuấn).
Nội dung vụ án: Nghi ngờ vợ ngoại tình trước đó, Tuấn sai con mua
rượu về uống, uống xong Tuấn xách dao tìm vợ để chém, thương tích Tuấn
gây ra cho chị Phá là 36,18%. Sau khi điều trị ra viện, tại cơ quan điều tra và
tại phiên tòa chị Phá không yêu cầu anh Tuấn phải bồi thường những chi phí
trong thời gian điều trị.
Cũng có trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại
không kháng cáo về phần hình phạt mà chỉ kháng cáo về phần bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng sau khi xét xử sơ thẩm, cấp phúc thẩm đã chấp nhận
kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm tăng mức bồi thường.
Có rất nhiều bản án mà khi xét xử các Thẩm phán hầu như không đề
cập đến chi tiết từng vấn đề mà người bị thiệt hại, người đại diện người bị
thiệt hại yêu cầu bồi thường, những yêu cầu nào hợp lý thì được chấp nhận,
những yêu cầu nào không được chấp nhận mà chỉ đưa ra tổng cộng số tiền
phải bồi thường, không đưa ra tên từng khoản cụ thể dẫn đến cả những người
gây thiệt hại, người bị thiệt hại, người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại
không hiểu những khoản nào mình đưa ra đã được các cấp tòa chấp nhận,
những khoản nào không được chấp nhận mà chỉ đề cập một cách chung chung.
Ví dụ: Bản án số 12/2006/HSST ngày 20/2/2006 của Tòa án nhân dân
tỉnh LC xét xử Sừn Văn Đoàn về tội "Giết người". Bị cáo Đoàn giết anh Đinh
Văn Nghị, phần trách nhiệm dân sự chỉ ghi: Toàn bộ chi phí gia đình bị hại đã
phải thuê như công đi tìm xác, chở xác, tiền mai táng tổng cộng: 25.000.000
đồng (không ghi rõ tiền công tìm xác, chở xác, tiền mai táng phí từng khoản
là bao nhiêu). Chính vì không có sự cụ thể, chi tiết này mà dẫn đến sự hiểu
lầm của người gây thiệt hại nên không khỏi có những băn khoăn từ phía
người gây thiệt hại.
57
Có nhiều bản án, Tòa án đã tính toán các khoản tiền bồi thường khá
chi tiết.
Ví dụ: Bản án số 46/2006/HSST ngày 18/8/2006 của Tòa án nhân dân
tỉnh LC xét xử bị cáo Lý Quang Thịnh về tội "Giết người".
Nội dung vụ án: Giữa bị cáo Thịnh và người bị hại Triệu Văn Chung
có mâu thuẫn nhỏ từ trước, khoảng 18h ngày 22/2/2006 Thịnh đi lấy cành sắn
về trồng, Thịnh gặp và chửi Chung, Chung chửi lại và lấy đoạn nứa vụt
Thịnh, Thịnh cầm dao phát dài 84 cm chém Chung gục tại chỗ. Chung được
đưa di cấp cứu tại cơ sở y tế. Qua xem xét, Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận
các khoản chi phí sau:
- Tiền thuê xe cấp cứu đi về: 200.000 đồng.
- Tiền soi kiểm tra não: 200.000 đồng.
- Tiền mua máu: 1.260.000đồng.
- Tiền thử máu: 100.000 đồng.
- Tiền mua thuốc, tiền viện phí nằm viện: 13.000.000 đồng.
- Chi phí ca mổ: 1.000.000 đồng.
- Tiền thu nhập bị mất của người bị hại (từ ngày 22/2/2006 đến ngày
xét xử): 3.000.000 đồng.
- Thu nhập bị mất của người chăm sóc người bị hại từ ngày 22/2/2006
đến ngày xét xử): 4.800.000 đồng.
- Tiền mua thuốc điều trị sau khi ra viện: 1.900.000 đồng.
- Tiền bồi dưỡng: 3.000.000 đồng.
- Tiền tổn thất về tinh thần: 5.000.000 đồng.
Tổng cộng: 33.460.000 đồng.
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm xét xử, bị cáo không kháng cáo về hình
phạt và cũng không kháng cáo về mức bồi thường. Như vậy, có thể thấy bằng
58
việc liệt kê cụ thể các khoản bồi thường thì bị cáo (người gây thiệt hại) đã
nhận thức rõ mức bồi thường theo đúng qui định của pháp luật.
3.1.3. Thực tiễn xét xử của ngành Tòa án nhân dân đối với những
yêu cầu bồi thường thiệt hại về tinh thần
Như đã phân tích, theo qui định tại Điều 307 Bộ luật dân sự thì việc
người gây thiệt hại do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi cải
chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền bù đắp về tinh thần cho
người người bị thiệt hại. Thiệt hại này bao gồm: những đau đớn về mặt thân
thể, những đau đớn về mặt tinh thần, những tổn thương về mặt thẩm mỹ…
Nhiều trường hợp người bị thiệt hại là người chưa thành niên, là con
trai duy nhất trong gia đình, là lao động chính trong gia đình, nhiều người
chết để lại con nhỏ, cha mẹ già yếu... nhiều gia đình bị mất hai hoặc ba người
thân trong cùng một vụ án... hậu quả của những trường hợp này là vô cùng
nghiêm trọng. Nó gây ra những mất mát, đau thương về tình cảm, tinh thần to
lớn không có gì bù đắp được cho vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em... của
người bị thiệt hại. Khó có thể xác định được sự đau đớn của họ khi nhìn thấy
người thân của mình bị giết một cách dã man, bị dập nát cơ thể, bị cắt ra từng
mảnh; hoặc cha mẹ mất khả năng sinh đẻ lại chỉ có một đứa con duy nhất bị
chết, những đứa trẻ thơ dại khi bị mất cha mẹ, mất đi những người thân là
nguồn gốc sự đau buồn, phiền muộn và còn kéo theo nhiều tác động tiêu cực
khác như: khó khăn về đời sống, ảnh hưởng đến học tập, lao động, sức khỏe,
công tác của những người còn sống. Những đau đớn nói trên chính là thiệt hại
về tinh thần mà Bộ luật dân sự quy định được bồi thường.
Khi sức khỏe bị xâm phạm - biểu hiện cụ thể là các hành vi gây
thương tích và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác - thì mức độ thương
tật có thể có sự khác nhau trong mỗi vụ án. Thực tế xem xét qua hoạt động xét
xử thấy rằng người bị thiệt hại thường phải gánh chịu mức độ tổn hại sức
59
khỏe với tỷ lệ thương tật khác nhau từ 1% đến 90%. Người bị thiệt hại bị
thương tích ở nhiều dạng khác nhau, phải cấp cứu điều trị, phẫu thuật, phải
chịu nhiều đau đớn về thân thể (phải giải phẫu, vết thương nặng gây đau đớn,
bị tái phát khi "trái gió trở trời"...). Nhiều trường hợp người bị thiệt hại bị mất
một phần cơ thể như mất một mắt, một chân, một tay, phải cắt bỏ cơ quan nội
tạng, bị bệnh thần kinh do não bị tổn thương, bị tàn tạ biến dạng như những
người bị thiệt hại bị tạt axít vào mặt, vào người, mất khả năng thực hiện chức
năng bình thường của con người... Theo đó, người bị thiệt hại hầu như bị tàn
phế, không còn khả năng tham gia các hoạt động xã hội, vui chơi giải trí, ảnh
hưởng đến thẩm mỹ. Nhiều người bị thiệt hại là trẻ em, phụ nữ hoạt động ở
các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật... Những tổn hại nêu trên đều gây ra những
đau đớn về thân thể và tâm hồn cho những người bị thiệt hại, sự đau đớn về
thể xác còn kéo theo sự đau đớn, buồn chán, phiền muộn, lo lắng, ức chế, thay
đổi bản chất, suy giảm niềm tin trong cuộc sống, đó chính là những tổn thất
về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu.
Nhìn chung, thiệt hại về tinh thần bao gồm:
- Sự đau đớn về thân thể và tinh thần, sự tác động về tâm lý. Người bị
thiệt hại phải chịu đựng đau đớn khi phải nằm hàng giờ để phẫu thuật, bị mất
một phần cơ thể của mình, bị mang thương tích suốt đời, bị tàn phế...
- Thiệt hại do mất khả năng lao động xã hội bình thường, mất khả năng
giải trí, vui chơi... Đó là sự tước đoạt tinh thần của người bị thiệt hại, mất đi
niềm vui lạc quan trong sự tồn tại, làm giảm mất chất lượng cuộc sống. Người
bị thiệt hại bị mất bộ phận khứu giác, mất cảm giác mùi vị mất khả năng hoạt
động thể thao, khiêu vũ, không còn khả năng mang vác vật nặng, mất toàn bộ
chức năng sinh dục hoặc những khó chịu trong đời sống tình dục...
- Thiệt hại về thẩm mỹ: Người bị thiệt hại bị biến dạng hoặc phải chịu
đựng nhiều vết sẹo ở trên mặt, trên thân thể hoặc phải cắt bỏ một phần thân
thể. Thiệt hại này còn gây ra những hậu quả về nghề nghiệp cho những người
60
bị thiệt hại, nó có thể gây ra những rắc rối đối với khả năng thành đạt trong
hoạt động nghề nghiệp của họ. Yếu tố thẩm mỹ đóng vai trò không thể phủ
nhận được trong một số hoạt động nghề nghiệp nhất định như: tiếp viên hàng
không, văn nghệ sĩ, bác sĩ, nhà giáo, các nhà hoạt động chính trị, thẩm phán...
Một ca sĩ, một tiếp viên hàng không... sẽ đau khổ biết bao khi khuôn mặt xinh
đẹp bị đầy sẹo không thể lên sân khấu biểu diễn, không thể lên máy bay bay
phục vụ hành khách được nữa, thẩm phán bị biến dạng khuôn mặt do bị tạt
axít và không thể thực hiện hoạt động xét xử...
Qua nghiên cứu các bản án của các Tòa án địa phương cho thấy vấn
đề bồi thường thiệt hại về tinh thần là vấn đề phức tạp trong việc xác định
mức bồi thường cũng như diện được bồi thường. Nhiều vụ án xảy ra, người
gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để lại hậu quả nghiêm trọng không có gì
hàn gắn được, để lại những đau thương mất mát về người và của nhưng khi
xét xử có Tòa án đã áp dụng bồi thường một khoản tiền về tinh thần cho
người bị thiệt hại và gia đình người bị thiệt hại, có Tòa án không áp dụng, nếu
có cũng chỉ là một mức tiền không đáng kể, điều này đương nhiên sẽ không
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Ví dụ: Bản án số 160/2006/HSST ngày 31/5/2006 của Tòa án nhân
dân tỉnh NA xét xử bị cáo Chế Đình Thu phạm tội: "Giết người".
Nội dung vụ án: Chế Đình Thu và chị Hoàng Thị Duyên có quan hệ yêu
đương và chị Duyên có thai, chị Duyên hẹn gặp Thu và đề nghị cưới nhưng Thu
tìm cách từ chối, chị Duyên chửi Thu, Thu nảy sinh ý định giết chị Duyên. Thu
dùng khăn quàng cổ của mình cuốn quanh cổ chị Duyên rồi xiết mạnh, chị
Duyên thả lỏng người (không có phản ứng gì), sau đó Thu còn đẩy chị Duyên
ngã đập đầu vào ghi đông xe máy và hai lần đập đầu vào thành cầu, lúc đó có
ánh đèn xe máy, sợ bị phát hiện, Thu bỏ chạy về nhà cởi quần áo ngâm vào
chậu, tắm rửa rồi đi ngủ. Chị Duyên được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị,
sau đó sức khỏe đã hồi phục. Gia đình bị cáo đã bồi thường: 4.190.000 đồng.
61
Tại phiên tòa, chị Duyên yêu cầu bồi thường thêm các khoản gồm: tiền nạo thai,
tiền phục hồi sức khỏe, tiên công lao động bị mất…tổng cộng là 9.500.000 đồng
(cấp sơ thẩm không tính cho người bị thiệt hại tiền tổn thất về tinh thần mà
trong bản án lại nhận định rằng cộng với các khoản chi phí trước đây chưa được
bồi thường tổng cộng là 11.846.400 đồng. Khoản tiền này không biết ở đâu?
Trong bản án không có dòng nào nói tới, rất chung chung…!) Chúng tôi cho
rằng, trong vụ án này, người bị thiệt hại phải được bồi thường tiền tổn thất về
tinh thần bởi vì chị Duyên là người phụ nữ trẻ, đang có thai… sau sự việc xảy
ra thì còn có thể lấy chồng được nữa hay không? nên sự việc xảy ra đối với
chị là nỗi đau và mất mát quá lớn, sự việc lại xảy ra đối với người mà mình
đang yêu, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống sinh hoạt và ảnh hưởng tới tương
lai của chị Duyên. Tòa sơ thẩm đã thiếu sót trong việc xác định thiệt hại trong
vụ án này, do đó đưa ra mức bồi thường như vậy là không thỏa đáng.
Có vụ án khi xét xử Tòa sơ thẩm không quyết định mức bồi thường
thiệt hại về tinh thần. Sau khi xét xử sơ thẩm, người bị hại, người đại diện cho
người bị thiệt hại kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm xem xét mức bồi thường,
cấp phúc thẩm đã quyết định buộc người gây thiệt hại phải bồi thường thêm
khoản tiền tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
Ví dụ: Bản án sơ thẩm số 1155/2006/HSPT ngày 18/8/2006 của Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo
Trịnh Văn Công về tội "Giết người". Cấp sơ thẩm không buộc bị cáo bồi
thường tổn thất về tinh thần cho đại diện người bị hại, sau khi xét xử sơ thẩm
đại diện người bị hại kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm buộc bị cáo phải bồi
thường số tiền này. Cấp phúc thẩm đã sửa án sơ thẩm buộc bị cáo phải bồi
thường tổn thất về tinh thần cho người đại diện người bị hại 10.000.000 đồng.
Qua một số ví dụ trên đây, chúng ta thấy rằng, thiệt hại về tinh thần là
thiệt hại không mang tính tài sản, không thể cân đong đo đếm được, không
thể tính được giá trị thành tiền. Bởi vậy, không thể nêu ra nguyên tắc bồi
62
thường toàn bộ thiệt hại về tinh thần như đối với thiệt hại về vật chất được.
Yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại về tinh thần tạo thành một yêu cầu độc lập
bên cạnh yêu cầu đòi bồi thường các thiệt hại về vật chất. Có những trường
hợp, kết hợp bồi thường cả hai loại thiệt hại đó, nhưng có trường hợp không
có bồi thường thiệt hại về vật chất mà chỉ có bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Việc bồi thường thiệt hại về tinh thần có cùng mục đích là bồi thường
thiệt hại cho người bị thiệt hại: người bị thiệt hại bằng việc nhận một khoản
tiền, có cơ hội lập lại sự thoải mái, dễ chịu, trạng thái cân bằng nhẹ nhàng
thay cho sự đau đớn, bức xúc về tinh thần mà người đó phải chịu đựng do có
hành vi xâm hại. Chắc chắn khoản tiền bồi thường không xóa đi được sự đau
đớn, nhưng bù lại cho người bị thiệt hại ít nhiều niềm an ủi.
Như vậy có thể đưa ra ba đặc điểm chính của bồi thường thiệt hại về
tinh thần đó là:
- Không thể khắc phục được toàn bộ thiệt hại (sự đau đớn...).
- Không thể xóa bỏ được toàn bộ sự thiệt hại (sự buồn chán, khoảng
trống về tình cảm, tinh thần...).
- Không thể lấy lại trọn vẹn cái đã mất (thân thể bị biến dạng, mất đi
một phần cơ thể, bị mất đi sắc đẹp...)
Thiệt hại về tinh thần trong trường hợp sức khỏe, tính mạng bị xâm
phạm có sự khác nhau:
- Người bị thiệt hại được quyền đòi bồi thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu do sức khỏe của mình bị xâm
phạm (Điều 609 Bộ luật dân sự).
- Người thân thích của người bị thiệt hại được bồi thường một khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần do người bị thiệt hại chết (Điều 610 Bộ luật dân sự).
Thật khó có thể tính toán và đánh giá thiệt hại về tinh thần theo phương
pháp toán học được. Vấn đề đặt ra là khi người bị thiệt hại mất một hoặc hai
63
mắt, mất một hoặc hai cánh tay, mất một hoặc hai chân… những tổn hại khác
về thân thể thì đáng giá bao nhiêu tiền? Sự đau đớn được trị giá bao nhiêu?
Giá của những giọt nước mắt cao hay thấp... Đó là điều khó có khả năng tính
toán một cách chính xác. Khoản 2 của các Điều 609, 610 cũng chỉ đưa ra mức
bồi thường tổn thất về tinh thần tối đa chứ không quy định mức tối thiểu. Vì
vậy, có thể nói rằng tất cả những thiệt hại về tinh thần hay những vật không
xác định được chính xác giá trị bằng một số tiền cụ thể thì Luật cho phép các
Thẩm phán khi giải quyết loại án này được quyết định, được quyền suy xét
nhưng phải trên cơ sở xem xét đánh giá một cách khách quan, toàn diện tất cả
các yếu tố của vụ án, và phải chú ý đến nguyên tắc hợp lý, bình đẳng, bảo
đảm được mục đích của việc bồi thường thiệt hại.
Những yếu tố để xác định mức tiền bồi thường tổn thất về tinh thần có
thể được xác định: mức bồi thường có quan hệ với tình trạng thể chất và tinh
thần của ngươi bị thiệt hại, thể hiện ở mức độ và tính chất nghiêm trọng của
sự tổn hại về tâm lý và về thân thể, lứa tuổi, quan hệ nhân thân và quan hệ tài
sản của người bị thiệt hại và của người gây thiệt hại.
Khi xem xét tổn thất về tinh thần phải xem xét đến mức độ tổn hại đến
đời sống của người bị thiệt hại, mức độ, thời gian, tính chất dữ dội của sự đau
đớn, thiệt hại, sự thương tổn, biến dạng thân thể, thời gian phải nằm điều trị,
thời gian mất khả năng lao động, phải xa cách gia đình, hậu quả diễn biến tiếp
theo của thương tật, sự nghi ngờ về khả năng có thể khắc phục chữa chạy điều
trị khỏi thương tích hay không, mức độ lỗi của người bị thiệt hại…
Để hiểu rõ hơn, chúng tôi có thể phân tích một số yếu tố làm rõ mối
liên hệ giữa chúng với mức tiền đền bù về tinh thần trong trường hợp sức
khỏe và tính mạng bị xâm phạm:
- Tuổi của người bị thiệt hại có ảnh hưởng đến mức bồi thường, sự
đau đớn do thương tích, sự biến dạng của cơ thể rõ ràng có ảnh hưởng lớn,
nặng nề đối với một người trẻ tuổi hơn là người lớn tuổi. Về nguyên tắc thì
ảnh hưởng của tuổi tác có ý nghĩa đối với việc bồi thường thiệt hại về thẩm
64
mỹ, bị biến dạng (mặt bị bỏng, sẹo…) khi còn trẻ tuổi có hậu quả khác hơn
nhiều so với ở vào thời điểm đã cao tuổi.
Ảnh hưởng, tổn hại đến đời sống tâm lý, sinh lý của người trẻ tuổi khá
nhiều so với người lớn tuổi hoặc cái chết của người con chưa thành niên gây
ra sự đau đớn nhiều hơn so với người con đã thành niên; lớn tuổi. Cái chết
của cha mẹ đối với người con còn nhỏ tuổi, thơ dại cũng như vậy. Tất nhiên
đây chỉ là vấn đề có tính chất ước lượng bởi sự tổn hại tinh thần của mỗi
người khác nhau là khác nhau.
- Tình trạng của người bị thiệt hại, hậu quả, mức độ đau đớn, nạn nhân
nhiều khi rơi vào tình trạng hôn mê sâu kéo dài, mất đi sự tỉnh táo minh mẫn,
khả năng thực hiện các quan hệ xã hội, thân thể tàn phế... Cha mẹ tuổi đã cao
mất đi người con duy nhất chắc chắn họ phải chịu đau khổ trong suốt thời
gian còn lại.
- Hoàn cảnh nghề nghiệp cũng là yếu tố không kém phần quan trọng
trong sự tổn thất về tinh thần: Người bị thiệt hại là những người đang hoạt
động ở những lĩnh vực như: giáo viên, ca sĩ, thẩm phán, bác sĩ…
- Người bị thiệt hại cũng có lỗi (Điều 617 Bộ luật dân sự). Lỗi của người
bị thiệt hại cũng cần thiết phải có văn bản hướng dẫn những trường hợp cụ thể,
mức độ lỗi của người bị thiệt hại để có căn cứ giải quyết vụ án chính xác, tránh
trường hợp có những vụ án khi xét xử thẩm phán nhận định coi cả lỗi của gia
đình người bị thiệt hại để giảm mức hình phạt và mức bồi thường cho người gây
thiệt hại. Nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là ai gây thiệt hại thì
phải bồi thường và họ chỉ phải chịu trách nhiệm bồi thường do hành vi của họ
mang lại chứ không chịu trách nhiệm bồi thường về hành vi của người khác.
Ví dụ: Bản án số 880/2006/HSST ngày 6/7/2006 của Tòa án nhân dân
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử Trịnh Văn Công về tội "Giết người".
Nội dung vụ án: Trịnh Văn Công và Trịnh Văn Nù (bố bị hại Trịnh
Thị Thanh Thảo) chơi đánh bạc với nhau và xảy ra mâu thuẫn, Công chạy về
65
nhà cầm rựa sang nhà Nù chém vào tay và đầu Thảo dẫn đến tử vong. Bản án
sơ thẩm nhận định: trong vụ án này, người bị hại cũng có lỗi, tham gia đánh
bạc và theo đó giảm hình phạt và giảm mức bồi thường cho người gây thiệt
hại. Nhận định của Tòa án trong trường hợp này là không đúng bởi hành vi
đánh bạc của cả bị cáo và của bố người bị hại là hành vi vi phạm pháp luật nói
chung chứ không hề liên quan đến hành vi gây thiệt hại của bị cáo đối với
người bị hại. Do đó việc Tòa án căn cứ vào đó để giảm hình phạt và giảm
mức bồi thường là không đúng.
3.2. KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO XÂM PHẠM SỨC KHỎE, TÍNH MẠNG
3.2.1. Kiến nghị
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế định có nội dung phức tạp,
thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là nhằm khôi phục
lại các quyền tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức, pháp
nhân, Nhà nước. Quá trình nghiên cứu chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu
làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn về bồi thường thiệt hại do tính mạng
và sức khỏe bị xâm phạm, từ đó rút ra những kết luận sau:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn khẳng định nguyên tắc người gây thiệt
hại phải bồi thường thiệt hại là một vấn đề quan trọng của chế định bồi
thường thiệt hại. Bộ luật dân sự đã ghi nhận và đề cao nguyên tắc đó quan
điểm, đường lối giải quyết cũng như qui định của pháp luật của Nhà nước ta
và kế thừa tinh hoa pháp luật dân sự quốc tế. Nguyên tắc bồi thường thiệt
hại thể hiện tính nhân đạo sâu sắc, mang tính khoa học, bảo đảm tính chính
xác, hợp tình, hợp lý nhằm bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt hại, góp phần quan trọng vào việc
củng cố, phát triển các quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực cũng như
trong việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường thiệt hại xảy ra, bảo vệ lợi
ích cho các chủ thể tham gia quan hệ, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ các
66
quyền, lợi ích hợp pháp của những người bị thiệt hại, giáo dục mọi người có
ý thức tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
tập thể và của công dân.
Bộ luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần,
cùng với trách nhiệm bồi thường về vật chất tạo thành một tổng thể hoàn
chỉnh của trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng
bảo đảm cho chế định bồi thường thiệt hại phát huy hiệu quả trong thực tế đời
sống, đáp ứng nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội bảo đảm sự công bằng
và bình đẳng xã hội.
Qua nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm đến
sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm, chúng tôi xin đưa ra một vài kiến nghị:
Thứ nhất, về mức độ lỗi của người gây thiệt hại.
Mức độ lỗi của người gây thiệt hại không chỉ có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà còn có ý nghĩa quyết
định mức bồi thường thiệt hại, vì vậy các hình thức lỗi được nêu ra trong Bộ
luật dân sự chưa đủ để đánh giá thiệt hại để qua đó ấn định mức bồi thường
trong trường hợp nhiều người gây thiệt hại. Trường hợp do lỗi hỗn hợp hay
trong trường hợp xét miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra cần phải có sự phân biệt chi tiết các hình thức lỗi vô ý.
Thứ hai, về mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần.
Khoản 2 Điều 609 và khoản 2 Điều 610 Bộ luật dân sự đã quy định về
tổn thất về tinh thần nhưng mới chỉ quy định mức bồi thường tối đa không
quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định đối với bồi thường thiệt
hại do sức khỏe bị xâm phạm và không quá 60 tháng lương tối thiểu đối với
bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. Như vậy, điều luật chỉ quy định
mức tối đa mà không quy định mức tối thiểu là bao nhiêu cho nên khi quyết
định mức bồi thường cho từng vụ án là rất khó khăn, một vụ án khi quyết định
mức bồi thường khởi điểm là bao nhiêu? 100.000 đồng; 200.000 đồng;
67
300.000 đồng; 400.000 đồng... dẫn đến nhiều vụ án có mức bồi thường chênh
lệch nhau rất xa. Các Thẩm phán cũng chỉ ước lượng một mức tiền nào đó mà
thôi. Do vậy theo chúng tôi cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật
quy định mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị
xâm phạm từ 1 tháng lương đến tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu.
Mức bồi thường tối thiểu bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm
phạm từ 6 tháng lương đến tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu.
Thứ ba, về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chỉ
nên quy định ở Điều 623: Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra mà không cần quy định chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại cả khi họ không có lỗi.
Theo chúng tôi, nên bổ sung vào điểm a khoản 3 Điều 623 Bộ luật dân sự một
ý về việc bồi thường của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu,
sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ đó là trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn
do lỗi vô ý nặng của người bị hại.
Thứ tư, ngoài những kiến nghị trên đây, theo chúng tôi cần chú ý một
số vấn đề cụ thể khác:
- Khoản tiền tuất, tiền được hưởng từ chính sách của Nhà nước được
coi là khoản tiền có thu nhập ổn định để giải quyết trong trường hợp đối với
người được cấp dưỡng.
- Những khoản tiền mà người bị thiệt hại, gia đình người bị thiệt hại
có chi thực tế nhưng do khách quan nên không có hóa đơn chứng từ vẫn được
coi là chi phí hợp lý.
- Quy định rõ về khoản 3 Điều 606 Bộ luật dân sự trong trường hợp nếu
người giám hộ chứng minh là mình không có lỗi trong việc để người giám hộ
gây thiệt hại thì không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Vậy lấy tài sản ở
đâu để bồi thường cho người bị thiệt hại, ai là người phải bồi thường cho
người bị thiệt hại hay coi đây là rủi ro mà người bị thiệt hại phải gánh chịu?
68
3.2.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như những giải
pháp khác để nâng cao chất lượng xét xử về bồi thường thiệt hại do sức
khỏe, tính mạng bị xâm phạm
Qua việc nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do sức khỏe, tính mạng bị xâm phạm chúng tôi xin đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật cũng như các giải pháp khác để nâng cao chất
lượng xét xử về bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm
phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng như sau:
- Rà soát lại toàn bộ các qui định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, qua đó xem xét đến sự thống nhất
của các văn bản pháp luật khi quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng để từ đó có sự sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật.
- Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn cụ thể đối với các qui
định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Mặc dù trước đây ngành Tòa án đã có nghị quyết hướng dẫn các qui định của
Bộ luật dân sự năm 1995 và mới đây đã có nghị quyết hướng dẫn về bồi
thường thiệt hại trong Bộ luật dân sự 2005 nhưng nhìn chung hướng dẫn vẫn
còn dừng lại ở mức chung chung, nhắc lại các điều luật của Bộ luật dân sự mà
chưa có hướng dẫn cụ thể. Tòa án nhân dân tối cao cần hướng dẫn cụ thể các
vấn đề còn nhiều quan điểm, dễ dẫn tới sự tùy tiện khi vận dụng pháp luật như
mức bù đắp tổn thất tinh thần tối thiểu, nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng thì bồi thường phần vượt quá hay bồi thường toàn bộ thiệt hại...
- Cần nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử, trong đó trình độ
chuyên môn của đội ngũ thẩm phán là yếu tố không kém phần quan trọng.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến
mọi đối tượng để người dân hiểu rõ hơn các qui định của pháp luật, qua đó hạn
chế đến mức thấp nhất những hành vi gây thiệt hại hoặc khi có hành vi gây thiệt
hại thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hiểu rõ hơn về mức bồi thường... để
họ có thể thỏa thuận hoặc chấp nhận mức bồi thường nếu Tòa án ấn định.
69
KẾT LUẬN
Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy giao lưu dân
sự phát triển nhưng cũng là công cụ pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật, trong đó có các hành vi xâm phạm sức khoẻ, tính mạng.
Đề tài: "Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khỏe và tính mạng
bị xâm phạm - Một số vấn đề về lý luận và thực tiễn" đã tập trung phân tích các
qui định của Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, trách nhiệm bồi thường
do xâm phạm sức khỏe, tính mạng nói riêng. Đây được coi là vấn đề có ý nghĩa
to lớn khi nghiên cứu, tìm hiểu luật thực định bởi có hiểu rõ các qui định của pháp
luật thì việc vận dụng vào thực tiễn để giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mới được chính xác, khách quan.
Thông qua việc tìm hiểu các qui định của pháp luật, xem xét thực tiễn
vận dụng các qui định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về
bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng, đề tài đã chỉ ra được
những khó khăn, bất cập xung quanh các qui định của pháp luật cũng như việc
hiểu và vận dụng vào thực tiễn giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại
nói chung, bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khoẻ, tính mạng nói riêng.
Những giải pháp trong việc hoàn thiện pháp luật cũng như các giải pháp
khác nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng mà đề tài đưa ra mặc dù có thể chưa
hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng là những giải pháp thiết thực, nên áp dụng.
Tất cả các luận giải, giải pháp mà đề tài đưa ra đều tuân thủ một nguyên
lý duy nhất: bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể trong quan hệ bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng - cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại. Tuy nhiên,
nguyên tắc bình đẳng, tính nghiêm minh của pháp luật cũng là điều mà tất cả
chúng ta đều phải chú trọng và tuân theo.
70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mai Anh (1997), Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, Luận văn thạc sĩ luật Học, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
2. Bình luận Bộ luật dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931.
4. Bộ Dân luật Trung Kỳ năm 1936.
5. Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan (1995), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
6. Bộ luật Nam Kỳ giản yếu 1883.
7. Bộ Tư pháp (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Dân luật Việt Nam - Nghĩa vụ (1973), Sài Gòn.
9. Trần Thị Thu Hiền (1996), Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân
sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
10. Dương Quỳnh Hoa (2006), "Xác định thiệt hại trong bồi thường thiệt hai
do tính mạng bị xâm phạm", Nhà nước và pháp luật, (3).
11. Hoàng Việt luật lệ (1995), Nxb Văn hóa thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.
12. Lê Thị Bích Lan (1999), Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy
tín, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
13. Vũ Thành Long (1999), "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do tính mạng bị xâm phạm", Tòa án nhân dân, (8).
14. Nguyễn Đức Mai (1997), "Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm", Nhà nước và pháp luật, (9).
71
15. Vũ Văn Mẫu (1963), Việt Nam dân luật lược khảo, Sài Gòn.
16. Vũ Văn Mẫu (1972), Bộ Dân luật, Sài gòn.
17. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp, Hà Nội.
18. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
19. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội.
20. Quốc hội (2000), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
21. Quốc hội (2002), Bộ luật lao động, Hà Nội.
22. Quốc hội (2003), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
23. Quốc triều Hình luật (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng (1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Phùng Trung Tập (2005), "Cần bổ sung một số quy định trong dự thảo Bộ
luật dân sự (sửa đổi) về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", Dân
chủ và pháp luật, (4).
26. Thanh Thủy (2004), "Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm theo
quy định của Bộ luật dân sự", Tòa án nhân dân, (10).
27. Tòa án nhân dân tối cao (2003), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2002, Hà Nội.
28. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2003, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân tối cao (2004), Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày
28/4 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng
dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự năm 1995 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội.
30. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2004, Hà Nội.
31. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Báo cáo tổng kết công tác ngành Tòa án
nhân dân năm 2005, Hà Nội
72
32. Tòa án nhân dân tối cao (2006), Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng
dẫn áp dụng một số quy dịnh của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Hà Nội.
33. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật dân sự, Hà Nội.
34. Từ điển luật học (2006), Nxb Tư pháp, Hà Nội.
35. Thanh Tú (2003), "Cơ sở pháp lý của việc xác dịnh thiệt hại do tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm", Dân chủ và
pháp luật, (4).
36. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1996), Bộ luật dân sự Cộng hòa Liên
bang Đức năm 1896, Tài liệu dịch tham khảo, Hà Nội.
37. Quách Thành Vinh (2004), "Một số nhận xét và chú ý đối với việc bồi
thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm", Tòa án nhân
dân, (11).
38. Văn Xuân (1996), "Một số vấn đề bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe", Dân chủ và pháp luật, (11).
73
PHỤ LỤC
t×nh h×nh nghiªn cøu ®Ò tµi
Liên quan đến đề tài: "Bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức
khỏe và tính mạng bị xâm phạm - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", trước
đó đã có nhiều tác giả là Giảng viên trong Trường Đại học Luật Hà Nội, các
tác giả là Thẩm phán trong ngành Tòa án nhân dân và các ngành khác quan
tâm đến lĩnh vực này với những bài viết, luận văn về vấn đề bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng nói chung.
Trong bài viết đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 10 tháng 5/2004:
"Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" – TS. Phùng Trung
Tập - Giảng viên chính khoa Luật Dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, tác
giả đã phân tích hành vi lỗi theo Điều 309 Bộ luật dân sự 1995. Theo tác giả
là phải làm rõ những quan hệ và yếu tố có liên quan đến phạm vi lỗi của
người gây thiệt hại.khi xác định lỗi cố ý gây thiệt hại ngoài hợp đồng, cần
phải phân biệt với những hành vi gây thiệt hại khác, không thuộc hành vi do
lỗi cố ý hoặc vô ý gây ra. Đó là hành vi gây thiệt hại được xác định là sự kiện
bất ngờ (Điều 11 Bộ luật hình sự) vì điều luật này không những được áp dụng
trong lĩnh vực luật hình sự, mà còn có ý nghĩa trực tiếp trong việc xác định
trách nhiệm dân sự do gây thiệt hại ngoài hợp đồng. Sự kiện bất ngờ được
hiểu là sự kiện pháp lý nhưng hậu quả của nó không làm phát sinh trách
nhiệm dân sự của người có hành vi tạo ra sự kiện đó.
Khi xác định và phân tích chi tiết yếu tố lỗi cố ý và lỗi vô ý trong
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng cần thiết phải đặt yếu tố đó trong mối liên
hệ với những sự kiện pháp lý khác. Tác giả cho rằng sự biến pháp lý tương
74
đối và sự biến pháp lý tuyệt đối là những căn cứ làm phát sinh, thay đổi và
chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự. Sự biến pháp lý tương đối là một sự kiện
pháp lý mà sự khởi phát của nó do hành vi của con người tác động dưới hình
thức lỗi vô ý, do vậy người có hành vi tạo ra sự kiện đó phải bồi thường thiệt
hại theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại. Có thể nhận định rằng, lỗi vô
ý luôn tồn tại trong sự biến pháp lý tương đối, còn lỗi thuộc mọi hình thức
không thể tồn tại trong sự biến pháp lý tuyệt đối.Có thể nhận định lỗi trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng không phải do suy đoán mà
do pháp luật quy định trước, người có lỗi phải bồi thường thiệt hại, nhất là đối
với ngành Tòa án cần thiết phải hiểu rõ cơ sở lý luận về lỗi để áp dụng chuẩn
xác các quy phạm pháp luật, qua đó đưa ra những nhận định và quyết định
chuẩn xác, đúng pháp luật.
Trong bài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người" – tác giả Đinh Văn Quế - Chánh tòa Tòa
Hình sự Tòa án nhân dân tối cao, tác giả phân tích và lấy các ví dụ để chứng
minh về các căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe là hành vi gây thiệt hại phải có thật, bao gồm
cả hành động và không hành động, nếu không có hành vi gây thiệt hại thì dù
người bị coi là có lỗi đối với thiệt hại xảy ra cũng không phải bồi thường thiệt
hại. Người bị thiệt hại phải có lỗi (cố ý hoặc vô ý), lỗi trong trách nhiệm dân
sự khác với lỗi trong trách nhiệm hình sự và các trách nhiệm khác, người gây
thiệt hại có lỗi mới phải bồi thường, đó là nguyên tắc. Tuy nhiên, tác giả còn
phân tích trường hợp lỗi của chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm
hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo khoản 3 Điều 627 Bộ luật dân sự.
Về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, tác giả nêu ra những
trường hợp phải chịu trách nhiệm bồi thường theo Điều 611 Bộ luật Dân sự.
Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, tác giả đã phân tích các nguyên tắc được
quy định tại Điều 610 Bộ luật dân sự, trường hợp nào thì được giảm mức bồi
75
thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước
mắt cũng như lâu dài, người bị thiệt hại cũng có lỗi và khi mức bồi thường
không còn phù hợp với thực tế thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hoặc
người đại diện hợp pháp của người bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án thay
đổi mức bồi thường, qua thực tiễn xét xử của Tòa án còn một số những vướng
mắc gặp phải mà chưa có hướng dẫn cụ thể của cấp có thẩm quyền. Những
chi phí hợp lý do sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm mà tác giả nêu ra ngoài
những chi phí được quy định tại Điều 613, Điều 614 Bộ luật dân sự và Nghị
quyết 01/NQ-HĐTP tác giả còn đưa ra những chi phí khác cũng có thể coi là
hợp lý, thời hạn người bị thiệt hại được hưởng bồi thường do hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe con người gây nên. Các trường hợp gây thiệt hại
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, trường hợp vượt quá yêu cầu của
tình thế cấp thiết, trường hợp do người dùng chất kích thích gây ra, trường
hợp nhiều người cùng gây ra thiệt hại và trường hợp do người của pháp nhân,
do công chức, viên chức nhà nước gây ra.
Bài "Cách tính bồi thường thiệt hại tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm"
của các tác giả Tưởng Duy Lượng - Nguyễn Văn Cường đã lựa chọn 50 bản
án dân sự và hình sự của các Tòa án địa phương đã xét xử thì đại đa số các
bản án này đều không thể hiện chi tiết từng khoản bồi thường hoặc chỉ buộc
người gây thiệt hại phải bồi thường khoản tiền điều trị, mà không đề cập đến
khoản tiền bồi thường khác và mức bồi thường cũng chênh lệch nhau khá rõ.
Các tác giả cũng nêu những bản án cụ thể còn có những thiếu sót, đưa ra
những nhận xét về những thiếu sót còn tồn tại trong các bản án. Đồng thời các
tác giả đã đưa cách tính chi tiết, cụ thể các khoản bồi thường trong các vụ án
xâm phạm sức khỏe gồm: các chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng,
chăm sóc người bị xâm phạm sức khỏe, chi phí hợp lý đối với bồi thường
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, bồi thường tổn thất về tinh thần khi tính
mạng và sức khỏe bị xâm phạm.
76
Đề tài luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Bích Lan: "Một số vấn đề về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm và uy tín". Trong chương 1, tác giả đã làm sáng tỏ khái niệm cơ
bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự và khái niệm về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín nói riêng với những đặc
điểm pháp lý chủ yếu của chế định trách nhiệm này, có so sánh với một số
chế định trách nhiệm dân sự khác. Đồng thời, tác giả còn phân tích chi tiết các
quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ở từng trường hợp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm và uy tín của các cá nhân trong xã hội. Trong chương 2, tác
giả làm rõ cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên những
căn cứ có tính điều kiện đó là: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật
gây thiệt hại; có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và các thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín; phải có lỗi của người
gây thiệt hại. Luận văn cũng so sánh liên hệ với pháp luật của một số nước
trên thế giới về việc quy định các yêu cầu cơ bản để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại này. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến các hình thức và mức
bồi thường cũng như các trường hợp được miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật dân sự. Trong chương 3, tác giả tập
trung tổng kết, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật của ngành Tòa án nhân
dân trong những năm qua. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân và các
khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật của ngành Tòa án
nhân dân trong lĩnh vực này, đề xuất các giải pháp.
Đề tài luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Mai Anh: "Những vấn
đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật
dân sự". Trong chương 1 của luận văn, tác giả đi sâu phân tích làm sáng tỏ
khái niệm cơ bản về trách nhiệm dân sự nói chung và khái niệm về trách
77
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng với các đặc điểm pháp lý
chủ yếu, so sánh với một số chế định trách nhiệm dân sự khác. Chương 1 tác
giả còn nêu rõ nguyên tắc giải quyết bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng
như việc xác định rõ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân để từ
đó có tiền đề lý luận giải quyết một số nội dung trong chương 2, đó là vấn đề
xác định và tính toán bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong chương 2,
tác giả đề cập đến những căn cứ của việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại dựa trên những yếu tố có tính điều kiện như có thiệt hại xảy ra; hành
vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật; có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt
hại và hành vi trái pháp luật và hành vi gây thiệt hại là hành vi có lỗi, từ đó
xác định các loại thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm. Qua phân tích các căn cứ để xác định những thiệt hại nêu trên luận văn
còn nêu rõ các hình thức bồi thường và mức bồi thường theo quy định của Bộ
luật dân sự. Trong chương 3, tác giả chủ yếu tập trung phân tích một số
trường hợp cụ thể của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của
Bộ luật Dân sự là trường hợp bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (giải quyết phần bồi thường và việc hoàn
trả khoản tiền bồi thường) và bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra.
Đề tài luận văn thạc sĩ Trần Thị Thu Hiền: "Nguyên tắc bồi thường
thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam". Trong chương 1 của luận văn, tác giả
tập trung phân tích làm sáng tỏ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc bồi thường
thiệt hại, mối liên quan giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại và các nguyên tắc
khác của Bộ luật dân sự (mối liên hệ giữa nguyên tắc bồi thường thiệt hại với
các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền, mối quan hệ giữa nguyên tắc bồi
thường thiệt hại với các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích cho các
chủ thể trong quan hệ dân sự, mối quan hệ giữa nguyên tắc bồi thường thiệt
hại với nhóm nguyên tắc tuân thủ pháp luật, bảo đảm sự bình đẳng giữa các
78
chủ thể, nguyên tắc bồi thường thiệt hại có mối quan hệ mật thiết với các
nguyên tắc bảo vệ truyền thống bản sắc dân tộc, mối quan hệ giữa nguyên tắc
bồi thường thiệt hại với nguyên tắc đặc thù của pháp luật dân sự). Đồng thời
đi sâu phân tích khái niệm bồi thường thiệt hại và các mối liên hệ của nó.
Trong chương 2, tác giả phân tích nguyên tắc bồi thường trong một số trường
hợp cụ thể, đó là các nguyên tắc: nguyên tắc bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng, nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng (do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, do vượt quá
yêu cầu của tình thế cấp thiết, do vị thành niên gây ra, do người không có
năng lực hành vi gây ra và trường hợp nhiều người cùng gây ra.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chế định bồi thường thiệt hại trong trường hợp sức khỏe và tính mạng bị xâm phạm - Lý luận và thực tiễn.pdf