CHẾ ĐỊNH CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
TRONG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
Vị trí của chế định về cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh nói chung và trong Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam nói riêng là một vấn đề còn nhiều tranh luận. Một mặt, còn có những điểm chưa thống nhất trong việc xác định và đánh giá về bản chất hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Mặt khác, tác động qua lại giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh với người anh em có nhiều khác biệt của nó là pháp luật về hạn chế cạnh tranh, cũng như với các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, pháp luật về sở hữu trí tuệ khiến cho sự khoanh vùng điều chỉnh và lựa chọn cơ chế điều chỉnh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đưa đến nhiều cân nhắc. Bài viết này nhằm mục đích làm rõ một số vấn đề mang tính nhận diện về cạnh tranh không lành mạnh và vị trí của bộ phận pháp luật này trong khuôn khổ pháp luật cạnh tranh. Do khuôn khổ hạn chế, bài viết sẽ không đi sâu phân tích các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cụ thể mà chỉ đề cập một số vấn đề mang lý luận về bản chất của hành vi và các cách thức tiếp cận và điều chỉnh pháp lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung.
1. Khái niệm cạnh tranh không lành mạnh
Cho đến nay, vai trò của cạnh tranh trong việc cân bằng cung cầu trên thị trường, tạo động lực đổi mới và phát triển cũng như bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, để đem lại những lợi ích như vậy, hoạt động cạnh tranh cần được duy trì trong một khuôn khổ lành mạnh và tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Có thể hiểu đơn giản cạnh tranh không lành mạnh là một thứ cạnh tranh quá mức và vì thế gây tác dụng ngược. Nhà nghiên cứu người Pháp Dominique Brault đã trích dẫn một so sánh mang tính hình tượng: [I]“Cạnh tranh là một thứ rượu, dùng đúng liều nó là chất kích thích, dùng quá liều nó trở thành thuốc độc”. Nhà nước không chỉ có trách nhiệm không tạo ra lợi thế hay bất lợi cho một đối thủ cạnh tranh, mà còn cần ngăn chặn việc các đối thủ cạnh tranh tạo ra lợi thế cho mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào họ muốn. Nếu không, trật tự kinh tế sẽ bị rối loạn và nhiều doanh nghiệp trung thực bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Xét một cách khái quát, pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ngăn chặn các hành vi của doanh nghiệp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh một cách không chính đáng trước các đối thủ cạnh tranh khác. Những vụ việc thực tế về cạnh tranh không lành mạnh đều thể hiện một bản chất chung theo đó doanh nghiệp toan tính đạt được thành công trên thị trường không dựa trên nỗ lực của bản thân cải thiện chất lượng, giá cả của sản phẩm, mà bằng cách chiếm đoạt những ưu thế của sản phẩm người khác hoặc tác động sai trái lên khách hàng.
Tuy nhiên, xét cả về lý luận lẫn thực tiễn, khi cơ chế thị trường khuyến khích các doanh nghiệp cạnh tranh tự do và sáng tạo, việc đánh giá tính chính đáng trong hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp và đặt ra các giới hạn cho cạnh tranh lành mạnh là khó khăn mà các nhà lập pháp có vẻ đã không giải quyết được triệt để và trong nhiều trường hợp chỉ đề ra các tiêu chí khái quát chung và trao quyền cho cơ quan thực thi pháp luật cạnh tranh tự đánh giá và quyết định ở những vụ việc cụ thể.
Sự không rõ ràng trong khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh được thể hiện ngay tại một trong những định nghĩa pháp lý phổ biến nhất và lâu đời nhất của nó, nằm tại Điều 10 bis Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Điều khoản này được bổ sung được bổ sung vào Công ước năm 1900 và được sửa đổi lần cuối theo Văn bản Stockholm năm 1967, theo đó bất kỳ hành vi cạnh tranh nào đi ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương mại đều là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tại định nghĩa này, có thể thấy tiêu chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh/không lành mạnh của một hành vi cạnh tranh là “các thông lệ trung thực và thiện chí” không rõ ràng và ổn định, ở mỗi quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội và lịch sử của quốc gia đó.
Trên thực tế, Điều 10 bis đã có ý bỏ ngỏ khái niệm này cho pháp luật quốc gia của các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Tuy nhiên đến cấp độ pháp luật quốc gia, tình hình cũng không có gì tiến triển hơn. Sự không rõ ràng trong việc xác định phạm vi cạnh tranh không lành mạnh tiếp tục được thể hiện trong pháp luật nhiều nước, tại Bỉ và Luxembourg các tiêu chí này được gọi là “thông lệ thương mại trung thực”, tại Tây Ban Nha và Thuỵ Sỹ là “nguyên tắc ngay tình”, tại Italia là “tính chuyên nghiệp đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là “đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong các văn bản pháp luật, các toà án đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”. Pháp luật đã không đưa ra được chuẩn mực để nhận diện các hành vi cạnh tranh lành mạnh, được chấp nhận trong kinh doanh. Tiêu chí “công bằng” hay “trung thực” phản ánh các quan niệm đa chiều về kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức, triết học tồn tại trong một xã hội, do đó sẽ khác nhau giữa các quốc gia hoặc thậm chí trong cùng một quốc gia. Theo thời gian, các tiêu chí này cũng có thể thay đổi. Hơn nữa, luôn có những hoạt động cạnh tranh không lành mạnh mới, khi tính sáng tạo trong kinh doanh không có giới hạn. Mọi nỗ lực nhằm bao quát trong một định nghĩa tất cả các hoạt động cạnh tranh hiện tại và tương lai, có thể đồng thời xác định mọi hành vi bị ngăn cấm và linh hoạt đủ để thích nghi với những thông lệ thị trường mới, cho đến nay vẫn thất bại [ii].
[i] Dominique Brault (2006), Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng hoà Pháp, NXB Chính trị quốc gia, tập 1.
[ii] WIPO (2001), Cẩm nang sở hữu trí tuệ, tr.132-133
42 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3181 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở hữu không thể mạnh mẽ bằng các biện pháp bảo hộ sở hữu trí tuệ. Trong các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ, bên khiếu nại thường phải chứng minh quyền hợp pháp đối với đối tượng bị vi phạm, bao gồm việc tạo lập, duy trì, sử dụng phổ biến, lâu dài và không có tranh chấp... Hay xét trên một khía cạnh khác, nếu như pháp luật về sở hữu trí tuệ bảo vệ vị thế chung của chủ sở hữu tài sản trí tuệ, thì pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh bảo vệ chủ sở hữu chống lại một số dạng hành vi nhất định xâm phạm đến tài sản trí tuệ. Do đó, sự bảo hộ của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh không mang tính liên tục, mà chỉ phát sinh khi xuất hiện tranh chấp. Vì vậy, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong nhiều trường hợp được coi là là công cụ bổ trợ cho việc thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ.
Quan hệ với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng: Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ngày càng có xu hướng tiếp cận gần hơn với pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng khi đặt trọng tâm bảo vệ người tiêu dùng bên cạnh trọng tâm bảo vệ các đối thủ cạnh tranh và môi trường cạnh tranh nói chung. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc nhóm thứ 3 trên đây, đặc biệt là các dạng hành vi mang tính chất lừa dối, cưỡng ép… có mặt trong nhiều đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng. Đặc biệt, Cộng đồng Châu Âu đã có một văn bản riêng quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh (unfair trade practice) là Chỉ thị số 2005/29/EC ngày 11/5/2005 trên cơ sở sửa đổi, bổ sung các Chỉ thị số 84/450/EEC, 97/7/EC, 98/27/EC và 2002/65/EC quy định riêng về quảng cáo gây nhầm lẫn.
Trước đây, có một số quan điểm cho rằng sự phân biệt giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng nằm đối tượng được bảo vệ, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh chỉ bảo vệ các doanh nghiệp cạnh tranh trên thị trường cũng như môi trường cạnh tranh chung, trong khi vai trò bảo vệ người tiêu dùng đương nhiên thuộc về pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng. Tuy nhiên, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các quan hệ về cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng ngày càng gắn bó và không thể tách rời. Nếu như cạnh tranh trên thị trường được định nghĩa một cách đơn giản là việc giành giật khách hàng trong kinh doanh, thì giữa ba bên doanh nghiệp – khách hàng/người tiêu dùng – các đối thủ cạnh tranh có quan hệ gắn bó khó có thể tách rời. Việc lôi kéo, thu hút khách hàng bằng các thủ đoạn bất chính chắc chắn sẽ làm thiệt hại cho các doanh nghiệp cạnh tranh kinh doanh trung thực, lành mạnh, mặt khác, những thủ đoạn lợi dụng hoặc làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh cũng ảnh hưởng tiêu cực đến người tiêu dùng, khiến họ nhầm lẫn và trả tiền cho các hàng hoá, dịch vụ không đúng như mong muốn của mình. Môi trường cạnh tranh lành mạnh chính là môi trường ở đó quyền lợi của người tiêu dùng được đảm bảo ở mức cao nhất.
Một yếu tố khác có thể sử dụng để phân biệt phạm vi áp dụng của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh là thời điểm tác động. Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng, đặc biệt thể hiện tại các quy định về giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại, có khuynh hướng quan tâm tới việc bảo vệ người tiêu dùng trong và sau khi xảy ra giao dịch, trong đó xác định được cụ thể một hay một nhóm người tiêu dùng chịu tác động từ hành vi vi phạm. Trong khi đó, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh bảo vệ hướng tới việc bảo vệ đối tượng người tiêu dùng nói chung, hay có thể gọi một cách khác là một số đông những người tiêu dùng tiềm năng, trước khi họ tham gia giao dịch. Thông qua việc ngăn chặn những hành vi lừa dối, gây nhầm lẫn, lôi kéo bất chính… pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh góp phần loại bỏ khả năng phát sinh các vi phạm gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Mặt khác, trong trường hợp xác định một hoặc một số người tiêu dùng cụ thể do chịu tác động của hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã tham gia giao dịch và chịu thiệt hại, vụ việc nên được điều chỉnh theo các quy định về bảo vệ người tiêu dùng, và hành vi lừa dối hay gây nhầm lẫn của thương nhân sẽ được coi là căn cứ để xác định sự vô hiệu của giao dịch.
Quan hệ với pháp luật về hạn chế cạnh tranh:
Cuối cùng, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh cũng có sự gắn bó với bộ phận thức hai của pháp luật cạnh tranh nói chung, đó là pháp luật về hạn chế cạnh tranh. Có thể hình dung nếu như hành vi hạn chế cạnh tranh là những hành vi đẩy lùi cạnh tranh, làm cạnh tranh vận hành dưới mức bình thường, dẫn đến triệt tiêu cạnh tranh, thì cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi đẩy cạnh tranh lên quá mức, khiến nó vận hành quá nóng, vượt khỏi các giới hạn có thể chấp nhận được của thị trường và xã hội.
Dù có sự phân chia thành hai lĩnh vực, song cả pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh đều hướng tói mục đích bảo vệ cơ chế cạnh tranh, bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh và thông qua đó bảo vệ lợi ích của toàn thể người tiêu dùng xã hội. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ra đời trước, từ khi cơ chế thị trường mới hình thành với các hoạt động cạnh tranh sơ khai đã có những hành vi vượt ra ngoài khuôn khổ, cần phải điều chỉnh. Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ra đời sau, khi thị trường đã phát triển và tập trung hoá đến một mức độ nhất định để có thể phát sinh những trung tâm quyền lực thị trường. Tuy nhiên, điều chỉnh hạn chế cạnh tranh lại được xem là nền tảng của pháp luật cạnh tranh, vì đó là bảo vệ toàn bộ cơ chế cạnh tranh. Nếu cạnh tranh bị thủ tiêu, toàn bộ các hoạt động cạnh tranh trên thị trường, dù là lành mạnh hay không lành mạnh, sẽ không còn nữa. Do đó, thái độ của Nhà nước đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh thường quyết liệt và nghiêm khắc hơn rất nhiều. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại chống cạnh tranh không lành mạnh cũng chính là chống các động thái có thể đưa đến tình trạng hạn chế cạnh tranh, và các hành vi hạn chế cạnh tranh có thể nhìn nhận một cách khái quát cũng mang bản chất không lành mạnh. Như đã trình bày ở phần trên, pháp luật một số quốc gia quy định các hành vi hạn chế cạnh tranh dạng “nhẹ” vào khuôn khổ điều chỉnh của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh.
Hai bộ phận pháp luật trên đây bổ sung cho nhau, tạo thành khuôn khổ pháp luật chung điều chỉnh cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Thiếu một trong hai bộ phận, cơ cấu thị trường cũng như tương quan lợi ích của các chủ thể hoạt động trên đó sẽ không thể được bảo vệ một cách đầy đủ và toàn diện.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của một số quốc gia trên thế giới
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Âu
Châu Âu là nơi khởi đầu của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh, và cũng là nơi phát sinh các cách tiếp cận khác biệt trong quá trình xây dựng pháp luật về cạnh tranh không. Như đã trình bày tại phần trên, ba trung tâm kinh tế lớn của Châu Âu là Pháp, Đức và Anh có những cách điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh riêng, trong đó đáng ngạc nhiên là hệ thống của Pháp lại có nhiều điểm gần với Anh hơn là Đức.
- Pháp và Anh đều điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên cơ sở các nguyên tắc chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (tort law) và cụ thể hoá thông qua các án lệ. Một số nước khác cũng xây dựng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh theo hướng này là Hà Lan và Italia. Tại các quốc gia này, toà án có vai trò rất lớn trong việc đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh và quyết định biện pháp xử lý, với chế tài chủ yếu là bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai hệ thống Dân luật và Thông luật trong cách thức áp dụng pháp luật đối với lĩnh vực này. Trong hệ thống của Pháp, phạm vi áp dụng tort law đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh tương đối rộng, Toà án có thẩm quyền xem xét và phán quyết nhiều hành vi cạnh tranh khác nhau, từ đó hình thành các án lệ đa dạng về các hành vi gây cản trở hoạt động cạnh tranh (concurrence déloyal) và các hành vi lợi dụng thành quả của đối thủ cạnh tranh (concurrence parasitaire). Trong các vụ việc tại toà án, bên nguyên đơn cần chứng minh sự tồn tại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thiệt hại xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại; và bên bị đơn có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không cần xét đến yếu tố lỗi (cố ý) đối với hành vi vi phạm. Hà Lan cũng áp dụng mô hình này, tuy nhiên với nguyên tắc “doanh nghiệp được thực hiện mọi hoạt động cạnh tranh không bị cấm bởi quy định pháp luật” kết hợp với nguyên tắc ưu tiên, việc sử dụng các điều khoản chung của pháp luật dân sự để xử lý vụ việc cạnh tranh bị hạn chế hơn.
Trong khi đó, hệ thống Thông luật của Anh chỉ thừa nhận việc áp dụng tort law về cạnh tranh không lành mạnh đối với một số dạng hành vi cụ thể như gây nhầm lẫn, mạo nhận về nhãn hiệu (passing off) và xâm phạm bí mật kinh doanh. Do đó, để được toà án giải quyết, các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh phải đáp ứng một số yêu cầu nhất định, và các thẩm phán có thể từ chối thụ lý nếu vụ việc liên quan đến các hành vi thị trường nằm ngoài phạm vi các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu trên..
- Bên cạnh đó, một số nước đã lựa chọn cách tiếp cận sử dụng luật chuyên ngành (lex specialis) để điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Một số nước như Đức, Áo, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ, Luxemburg đã có một đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh, một số nước khác như Hungary, Bulgary hay Rumani xây dựng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong một đạo luật về thương mại hay cạnh tranh. Các quốc gia này đã luật hoá một số dạng hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình, dựa trên cơ sở các khuyến nghị tại Điều 10bis Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu công nghiệp, và lấy đó làm cơ sở cho việc thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh. Tuỳ thuộc vào quan điểm điều tiết nền kinh tế thị trường của từng quốc gia tại từng thời kỳ nhất định, danh sách các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm có thể nhiều hay ít. Cách tiếp cận này một mặt khiến cho các quy định về cạnh tranh không lành mạnh rõ ràng và dễ áp dụng, nhưng mặt khác khiến cho quá trình thực thi trở nên cứng nhắc và gây khó khăn cho cơ quan thực thi trong việc điều chỉnh các hành vi cạnh tranh mới xuất hiện, hay có sự thay đổi về điều kiện kinh tế xã hội. Ví dụ, nhiều nước tại Châu Âu trong một thời gian dài đã coi việc một doanh nghiệp tìm kiếm và thu hút các khách hàng đã có quan hệ hợp đồng ổn định với doanh nghiệp cạnh tranh khác là một dạng thức cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên rõ ràng trong điều kiện nền kinh tế thị trường tự do, quy định như vậy là không hợp lý, một mặt không đảm bảo quyền tự do lựa chọn cho khách hàng, mặt khác không tạo động lực khuyến khích các doanh nghiệp có động lực phát triển. Việc sửa đổi, bổ sung danh sách các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được luật hoá đòi hỏi phải có những nỗ lực lập pháp với thủ tục không dễ dàng, nhiều khi không đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh chóng và linh hoạt của cơ chế thị trường.
- Trong nhiều năm gần đây, đã có những nố lực để thống nhất các quy định về cạnh tranh không lành mạnh giữa các nước thành viên EU trong khuôn khổ chương trình hài hoà hoá pháp luật chung (legal harmonisation) của Cộng đồng Châu Âu. Dựa trên Công ước Paris về Bảo hộ Sở hữu Công nghiệp, các quốc gia Châu Âu đã phát triển các quy định chung theo nhiều hình thức, cấp độ, từ các nguyên tắc cơ bản về cạnh tranh tại Hiệp ước Rome 1957 đến những thoả thuận nhóm như Luật Nhãn hiệu chung của khối Benelux 1971 và những hướng dẫn chung từ EC đến các nước thành viên như Chỉ thị số 2005/29/EC. Mặc dù vậy, tính đến sự khác biệt còn tồn tại giữa hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên, EU vẫn phải bổ sung một số nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật, trong đó đặc biệt quan trọng là nguyên tắc nước xuất xứ tại Điều 28 của Hiệp ước Châu Âu, theo đó pháp luật của quốc gia nhập khẩu được ưu tiên áp dụng để đánh giá tính hợp pháp trong việc kinh doanh một loại hàng hoá nhất định. EC cũng đã ban hành Quy định số 2006/2004 ngày 27/10/2004 về việc hợp tác giữa các cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia thành viên.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Hoa Kỳ
Mặc dù đã phát triển hệ thống các quy định về hạn chế cạnh tranh từ rất lâu (Luật Sherman – 1890), các quy định về cạnh tranh không lành mạnh của Hoa Kỳ lại tương đối phân tán. Các nhà lập pháp của Hoa Kỳ kết hợp cả hai cách tiếp cận của Châu Âu trong việc điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh, sử dụng các các quy định chung về bồi thường thiệt hại dân sự cũng như một số quy định chuyên ngành, và thậm chí có sự khác biệt giữa pháp luật liên bang và pháp luật các tiểu bang. Các quy định cạnh tranh quan trọng nhất có thể kể đến là Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang (1914) và Luật Nhãn hiệu liên bang, hay còn gọi là Luật Lanham (1946).
Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang đặt cơ sở cho việc thành lập Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ (US FTC), một trong hai cơ quan chịu trách nhiệm thực thi pháp luật cạnh tranh ở Mỹ. Khác với cơ quan cạnh tranh còn lại là Cục Chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp chuyên trách về hạn chế cạnh tranh theo Luật Chống độc quyền, chức năng của Uỷ ban Thương mại Liên bang rộng hơn, bên cạnh chức năng điều tra và giám sát các vụ việc chống độc quyền, còn bao gồm việc xử lý “các cách thức cạnh tranh không lành mạnh ảnh hưởng đến thương mại, và các hành vi không lành mạnh hoặc gian dối ảnh hưởng đến thương mại”(Điều 5 Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ). Khái niệm “cách thức cạnh tranh không lành mạnh”(unfair methods of competition) đã gây nhiều tranh luận giữa các nhà lập pháp ở cả hai Viện của Quốc hội Hoa Kỳ, và sau đó được thay thể bằng khái niệm “cạnh tranh không lành mạnh” (với phạm vi bao gồm cả các hành vi hạn chế cạnh tranh). Uỷ ban Thương mại liên bang Hoa Kỳ (USFTC) đã có những giải thích rõ hơn về phạm vi các hành vi “không lành mạnh” và “gian dối” trong các văn bản hướng dẫn theo thẩm quyền của mình. Trong bản Tuyên bố chính sách về hành vi không lành mạnh, cơ quan này nêu rõ: “Luật thành văn chỉ định khung cho các điều khoản chung do Quốc hội nhận thấy rằng không thể soạn ra một danh sách các hành vi không lành mạnh mà không bị lạc hậu một cách nhanh chóng hoặc tạo ra những kẽ hở cho vi phạm. Nhiệm vụ xác định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc về Uỷ ban, với hy vọng các tiêu chí đánh giá sẽ được xem xét và phát triển theo thời gian” US Federal Trade Commission (1980), FTC Policy Statement on Unfairness, , Washington D.C.
.
Căn cứ trên các án lệ tại toà án, đến năm 1964 Uỷ ban đã hình thành 3 tiêu chí để đánh giá hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là: (i) gây thiệt hại cho người tiêu dùng, (ii) vi phạm các chính sách xã hội hiện hành; và (iii) vô đạo đức và không cẩn trọng. Cũng trên cách tiếp cận này, trong Tuyên bố chính sách về hành vi gian dối, Uỷ ban xác định 3 yếu tố cần xem xét trong một vụ việc gian dối, đó là:
- Phải có một diễn giải, một thiếu sót hoặc một hành động có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.
- Người tiêu dùng ứng có nhận thức và ứng xử hợp lý trong hoàn cảnh tiếp nhận quảng cáo.
- Cuối cùng, diễn giải, thiếu sót hoặc hành động phải có tác động về mặt vật chất, có nghĩa là có thể dẫn người tiêu dùng đến quyết định hoặc hành động mua hàng. Khi có tác động vật chất, mới dẫn đến khả năng gây thiệt hại cho người tiêu dùng, do người tiêu dùng có thể đã có lựa chọn khác nếu không có gian dối US Federal Trade Commission (1983), FTC Policy Statement on Deception, Washington D.C.
.
Khi có vi phạm xảy ra, Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang cho phép cơ quan này nhân danh lợi ích công tổ chức phiên điều trần với sự có mặt của bên vi phạm để làm rõ hành vi, và dựa trên kết quả phiên điều trần ra quyết định buộc đình chỉ và chấm dứt đối với hành vi bị xem là không lành mạnh. Trong trường hợp quyết định có hiệu lực (không có kháng cáo hoặc kháng cáo không được Toà Phúc thẩm hoặc Toà Tối cao chấp thuận), nếu bên bị đơn tiếp tục vi phạm, Uỷ ban có thể đưa vụ việc ra Toà án và yêu cầu phạt dân sự mỗi hành vi vi phạm tới 10.000 USD, trong trường hợp vi phạm kéo dài thì mỗi ngày vi phạm bị tính là một hành vi riêng rẽ (Điều 5 khoản (l)). Riêng đối với quảng cáo gian dối, Uỷ ban có thể khởi kiện trực tiếp ra toà án địa phương có thẩm quyền, yêu cầu bồi thường thiệt hại và cải chính công khai. Trong trường hợp quảng cáo gian dối gây ra thiệt hại về sức khoẻ, bên vi phạm sẽ bị phạt tiền tới 5.000 USD hoặc phạt tù tới 6 tháng hoặc chịu cả hai hình phạt, vi phạm tới lần thứ hai mức phạt là 10.000 USD và phạt tù tới 1 năm.
Nếu Luật về Uỷ ban Thương mại liên bang trao thẩm quyền cho US FTC chủ động thực hiện các biện pháp pháp lý chống quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh với tư cách đại diện cho lợi ích công và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, thì Luật Lanham mở ra một kênh khác cho phép các đối thủ cạnh tranh trực tiếp khiếu nại, và thủ tục này cũng được US FTC ủng hộ với quan điểm cho rằng thiệt hại của người tiêu dùng cũng đồng nghĩa với thiệt hại của đối thủ cạnh tranh. Mặc dù nội dung chủ yếu của đạo luật này quy định về nhãn hiệu hàng hoá, Điều 43(a) quy định: “Bất kỳ ai liên quan đến việc kinh doanh hàng hoá, dịch vụ sử dụng từ ngữ, khái niệm, tên, biểu tượng, hình vẽ hoặc sự kết hợp của chúng, hay nguồn gốc xuất xứ giả mạo, mô tả gian dối hoặc gây nhầm lẫn:
- có thể gây bối rối, sai sót hoặc đánh lừa về sự liên hệ, liên kết hoặc hợp tác giữa người này với một người khác, hoặc về nguồn gốc, khả năng tài trợ hoặc sự chấp nhận hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động thương mại của người này từ người khác đó; hoặc
- trong quảng cáo hay khuyến mại thương mại mà diễn giải sai lệch bản chất, đặc điểm, số lượng, nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ hay hành động thương mại của người này hay người khác đó;
sẽ chịu trách nhiệm từ khởi kiện dân sự của bất kỳ ai cho rằng lợi ích của họ bị thiệt hại hoặc có thể bị thiệt hại do hành vi nêu trên.
Để chứng minh thiệt hại, bên nguyên đơn phải đưa ra được trường hợp người tiêu dùng thực tế tin vào quảng cáo gian dối và từ đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, trong khi Uỷ ban Thương mại liên bang khi tiến hành các vụ việc xử lý có quyền yêu cầu bên bị đơn chứng minh tính đúng đắn trong quảng cáo của mình, thì theo thủ tục này bên nguyên đơn phải chứng minh về sự gian dối trong quảng cáo của bên bị. Có thể thấy rõ do đặt trong một đạo luật về nhãn hiệu, thủ tục giải quyết tranh chấp về quảng cáo gian dối của Luật Lanham cũng mang nhiều màu sắc của thủ tục giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Châu Á
Pháp luật cạnh tranh các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan có những nét tương đồng và chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ. Điểm đặc biệt trong pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của các quốc gia, vùng lãnh thổ này là sự tồn tại song song hai hệ thống quy định về cạnh tranh không lành mạnh, một hệ thống gắn liền với pháp luật về sở hữu trí tuệ, một hệ thống nằm trong khuôn khổ pháp luật cạnh tranh.
- Tại Nhật Bản, bên cạnh Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung lần cuối tháng 6/2005) quy định về các hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, quảng cáo gian dối, gièm pha doanh nghiệp khác, xâm phạm tên miền … căn cứ theo các quy định của Công ước Paris, TRIPS hay Hiệp ước về Luật Nhãn hiệu (1994), Uỷ ban Thương mại lành mạnh Nhật Bản từ năm 1982 cũng căn cứ vào các điều 19, 20 của Luật Chống độc quyền (1946) ban hành Quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh trong đó ngăn cấm một loạt các hành vi mang tính chất hạn chế cạnh tranh ở mức độ thấp như phân biệt đối xử, từ chối giao dịch, bán kèm hàng hoá, giao dịch loại trừ, mua hàng với giá thấp bất hợp lý, bán hàng với giá cao bất hợp lý, lạm dụng vị thế giao dịch và can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp khác.
- Hàn Quốc cũng có Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ bí mật thương mại từ năm 1961 (được sửa đổi, bổ sung lần cuối vào tháng 2/2001), tuy nhiên trong Chương V của Luật Điều chỉnh độc quyền và thương mại lành mạnh 1980 (được sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2004) có quy định một loạt các hành vi thương mại không lành mạnh bao gồm từ chố giao dịch, phân biệt đối xử, loại trừ đối thủ cạnh tranh, dụ dỗ khách hàng của doanh nghiệp khác, lạm dụng vị thế trong giao dịch, giao dịch với điều khoản hạn chế hoặc cản trở hoạt động kinh doanh của đối tác, giao dịch với điều khoản ưu đãi bất hợp lý và các hành vi khác đe doạ đến hoạt động thương mại lành mạnh.
Có thể thấy các nước nêu trên đã có sự tham khảo và kế thừa nhiều hệ thống pháp luật để xây dựng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, phản ánh tại nhiều văn bản điều chỉnh khác nhau với những cách tiếp cận khác nhau. Mặt khác, cũng cần thấy rằng các quốc gia này đã có sự vận dụng quy định nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của mình, và có ý thức sử dụng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh như là “điều khoản quét” để khắc phục hoặc hạn chế sự vận hành sai lệch của thể chế thị trường tại mỗi quốc gia. Có thể lấy ví dụ các hành vi mua với giá cao bất hợp lý và bán với giá cao bất hợp lý tại Điều 6 và Điều 7 Quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh của Nhật Bản hay hành vi trợ giúp người khác với lợi ích đặc biệt, hoặc công ty khác bằng các khoản ứng trước, cho vay, nhân công, bất động sản, cổ phiếu và trái phiếu, tài sản trí tuệ, hoặc giao dịch với những điều khoản ưu đãi đáng kể … tại khoản 7 Điều 23 Luật Điều chỉnh độc quyền và thương mại lành mạnh Hàn Quốc chính là quy định nhằm chống lại các biện pháp giao dịch nội bộ, bao cấp và trợ giá chéo giữa các bộ phận thuộc cùng một tập đoàn kinh tế có thể gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh chung của nền kinh tế.
Các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi
Đối với các quốc gia chuyển đổi từ hệ thống tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, quá trình xây dựng pháp luật cạnh tranh có những đặc thù riêng nhằm đảm bảo các đối tượng liên quan, bao gồm cả doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có điều kiện làm quen và thích ứng với các hoạt động thị trường trong môi trường mới. Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh cũng phản ánh sự vận động lập pháp chung tại các quốc gia này.
- Tại Nga và Đông Âu, cùng với quá trình thay đổi thể chế kinh tế xã hội nhanh chóng và triệt để, các đạo luật về cạnh tranh cũng được ban hành với đầy đủ các bộ phận theo tiêu chuẩn của OECD, trong đó bao gồm các quy định về cạnh tranh không lành mạnh, và các nhà lập pháp coi pháp luật cạnh tranh là một nhân tố cơ bản để thúc đẩy tiến trình cải cách kinh tế OECD (2004), Russia Peer Review on Competition Law and Policy, p.10-17
. Điều 10 Luật về Cạnh tranh và hạn chế hành vi độc quyền trên thị trường hàng hoá năm 1991 (sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2005) quy định cấm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm việc thông tin gian dối, sai lệch hoặc bóp méo có thể gây thiệt hại hoặc mất uy tín cho doanh nghiệp khác, các hành vi gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, các hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu trí tuệ hoặc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác…
- Tại Trung Quốc, với tiến trình cải cách kinh tế từng bước, việc xây dựng pháp luật cạnh tranh cũng trải qua các giai đoạn. Trong khi các nhà lập pháp tỏ ra lưỡng lự trong việc xây dựng pháp luật về hạn chế cạnh tranh và chống độc quyền (Luật Chống độc quyền của CHND Trung Hoa mới được ban hành năm 2007) thì kể từ năm 1993, Trung Quốc đã có một đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh, quy định khá chi tiết các dạng hành vi gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, quảng cáo gian dối… Đáng chú ý là trong đạo luật này, một số hành vi hạn chế cạnh tranh như bán hàng dưới giá thành, áp đặt điều kiện bất hợp lý, đấu thầu thông đồng… đã được điều chỉnh với quan điểm coi đó là các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Điều 6 của Luật quy định cấm các doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp khác có vị trí độc quyền tự nhiên có hành vi cản trở cạnh tranh trên thị trường, và Điều 7 của Luật cấm các cơ quan nhà nước lạm dụng quyền lực để buộc các doanh nghiệp giao dịch hoặc ngăn cản hoạt động lưu thông hàng hoá.
Thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam
Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh
Luật Cạnh tranh quy định cụ thể 9 hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ Điều 40 đến Điều 49 bao gồm: Chỉ dẫn gây nhầm lẫn; Xâm phạm bí mật kinh doanh; Ép buộc trong kinh doanh; Gièm pha doanh nghiệp khác; Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác; Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh; Phân biệt đối xử của hiệp hội; và Bán hàng đa cấp bất chính;
Trong số các hành vi này, một số hành vi thể hiện sự xâm hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh như xâm phạm bí mật kinh doanh, gièm pha, quấy rối doanh nghiệp khác, một số hành vi có thể ảnh hưởng đến đối thủ cạnh tranh, đồng thời lại vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo và khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Quy định về phân biệt đối xử của hiệp hội hướng đến một đối tượng đặc biệt là các hiệp hội thương nhân. Ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, các hiệp hội mạnh có tầm ảnh hưởng lớn đến hoạt động thị trường và các quyết định của hiệp hội tác động đáng kể đến tương quan cạnh tranh, có thể tạo lợi thế cho một hoặc một số thành viên so với những đối thủ hoạt động trong cùng lĩnh vực và cùng tham gia hiệp hội khác, qua đó làm sai lệch cạnh tranh. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt Nam, khi tầng lớp thương nhân chưa đủ mạnh và các liên kết còn lỏng lẻo, vai trò của các hiệp hội thương mại, hiệp hội ngành hàng tỏ ra mờ nhạt, quy định về hiệp hội chủ yếu mang tính chất răn đe, phòng ngừa, không thể hiện được hiệu quả tức thời.
Ngược lại, bán hàng đa cấp bất chính được đưa vào Luật Cạnh tranh nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết phải điều chỉnh một vấn đề gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội, hơn là do xem xét bản chất cạnh tranh của hành vi này. Vị trí phù hợp của quy định về bán hàng đa cấp nên là tại Luật Thương mại được ban hành sau Luật Cạnh tranh nửa năm (được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005 và chính thức có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006), bởi đây là một hành vi thương mại đặc thù. Các quy định chống bán hàng đa cấp bất chính chủ yếu nhằm bảo vệ người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp khỏi một số dạng lừa đảo của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp. Quan hệ giữa hai chủ thể này hoàn toàn không phải quan hệ cạnh tranh hay tiêu dùng thông thường (người tham gia mua hàng của doanh nghiệp để bán lại) mà là một quan hệ hợp đồng vì mục tiêu lợi nhuận (hợp đồng thương mại), có các đặc điểm tương tự như hợp đồng hợp tác kinh doanh hay hợp đồng đại lý của Luật Thương mại. Mặc dù có thể tìm thấy quy định về bán hàng đa cấp trong một số đạo luật cạnh tranh (Đài Loan, Canađa), tuy nhiên đó là những trường hợp không tiêu biểu. Chẳng hạn như Luật Thương mại lành mạnh Đài Loan có bao gồm quy định về bán hàng đa cấp tại Điều 23, tuy nhiên sau đó đã ban hành một văn bản chi tiết điều chỉnh hoạt động bán hàng đa cấp, mặc dù vẫn do Uỷ ban Thương mại lành mạnh Đài Loan chịu trách nhiệm quản lý.
Cuối cùng, khoản 10 Điều 39 Luật Cạnh tranh mang tính chất điều khoản “quét”, quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 4 Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định. Như vậy, bên cạnh những hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã được định danh, cơ quan cạnh tranh Việt Nam không có thẩm quyền xem xét và kết luận một hành vi thị trường bất kỳ có mang tính cạnh tranh không lành mạnh hay không. Có thể hình dung một trình tự lập pháp theo đó khi phát hiện một dạng hành vi cạnh tranh có biểu hiện không lành mạnh xuất hiện trên thị trường, cơ quan cạnh tranh, cơ quan quản lý ngành hay chính các doanh nghiệp, hiệp hội trong ngành có thể đề xuất với Chính phủ ban hành văn bản điều chỉnh dưới dạng Nghị định. Để làm được điều này, đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, thống nhất ý kiến giữa các bên liên quan và thời gian cho việc xây dựng một văn bản dưới luật cũng phải kéo dài trong khoảng trên dưới 01 năm. Do đó, việc thực hiện tiến trình này sẽ gặp phải nhiều hạn chế và trên thực tế hiện chưa có văn bản điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh nào theo ra đời dưới hình thức này.
Tuy nhiên, bên cạnh các quy định của pháp luật cạnh tranh, khái niệm cạnh tranh không lành mạnh đã xuất hiện trong hệ thống các văn bản về sở hữu trí tuệ. Trước khi Luật Cạnh tranh được ban hành năm 2004, Chính phủ đã có Nghị định số 50/2000/NĐ-CP ngày 03/10/2000 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh,chỉ dẫn địa lý, tên thương mại và bảo hộ quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp. Điều 24 của Nghị định quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp bao gồm:
1. Sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ, nhằm mục đích :
a) Lợi dụng uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh doanh của mình;
b) Làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất kinh doanh của mình;
c) Gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ... cho người tiêu dùng trong quá trình nhận biết, chọn lựa hàng hoá, dịch vụ hoặc hoạt động kinh doanh.
2. Chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà không được người đó cho phép.
Tiếp theo, Điều 25 của Nghị định cũng quy định về Quyền chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới sở hữu công nghiệp, theo Tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực sở hữu công nghiệp có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền : buộc người có hành vi cạnh tranh không lành mạnh phải chấm dứt hành vi đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại; xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hội người tiêu dùng, hội nghề nghiệp của các tổ chức, cá nhân cũng có quyền đại diện cho các hội viên của mình thực hiện quyền yêu cầu như trên.
Có thể thấy Nghị định 54/2000/NĐ-CP đã tiếp cận được một số khía cạnh mang tính bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đó là sự chiếm đoạt thành quả kinh doanh của doanh nghiệp khác vì mục đích cạnh tranh, đồng thời xác định quyền chống cạnh tranh không lành mạnh thuộc phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các đối tượng nằm ngoài phạm vi bảo hộ theo văn bằng của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, đáng tiếc là văn bản này đã không được thực thi có hiệu quả do thiếu các quy định về chế tài đi kèm, và sau đó được thay thế bằng các quy định về cạnh tranh không lành mạnh tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Điều 130 của Luật Sở hữu trí tuệ quy định các hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ bao gồm:
- Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
- Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
Có thể thấy pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của Việt Nam cũng có sự tồn tại của hai nhóm quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh và pháp luật về sở hữu trí tuệ. Như đã phân tích tại Mục 4 của bài viết này, đây là vấn đề tương tự mà nhiều quốc gia đã gặp khi xây dựng thể chế pháp luật điều chỉnh nền kinh tế thị trường, kể cả các quốc gia đã thành công như Nhật Bản hay Hàn Quốc xuất phát từ việc áp dụng các mô hình pháp lý khác nhau mà chưa có một triết lý lập pháp đầy đủ làm nền tảng. Đối với một lĩnh vực có phạm vi rộng và phức tạp như cạnh tranh không lành mạnh, việc tìm kiến các giải pháp điều chỉnh mang tính bản chất có thể càng khó khăn hơn.
Các nhà làm luật Việt Nam đã cố gắng tạo sự liên kết giữa hai nhóm quy định trên, chẳng hạn như tại khoản 3 Điều 211 của Luật Sở hữu trí tuệ (được ban hành sau Luật Cạnh tranh) có sự dẫn chiếu đến pháp luật cạnh tranh khi quy định tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh. Tuy nhiên, những cố gắng này còn chưa đầy đủ và đồng bộ. Mặc dù có sự dẫn chiếu trên các văn bản luật, các quy định của văn bản dưới luật lại không khớp để có thể tổ chức thực thi. Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh hoàn toàn không có chế tài để xử lý hai hành vi sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ của đại diện hoặc đại lý và đăng ký tên miền nhằm mục đích cạnh tranh, do đó các quy định về hai hành vi này của Luật Sở hữu trí tuệ một lần nữa lại có nguy cơ trở thành các quy định “treo” như trường hợp của Nghị định 54/2000/NĐ-CP trước đây.
Cơ chế thực thi
- Cục Qủan lý cạnh tranh
Theo quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn, Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương là cơ quan có chức năng tiến hành điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh tranh được quy định tại Nghị định 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006.
Tổ chức, cá nhân trong trường hợp phát hiện thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị hành vi cạnh tranh không lành mạnh xâm phạm có thể nộp hồ sơ khiếu nại (bao gồm đơn khiếu nại theo mẫu và các chứng cứ) đến Cục Quản lý cạnh tranh. Căn cứ vào hồ sơ khiếu nại hợp lệ, Cục Quản lý cạnh tranh sẽ tiến hành điều tra qua 2 giai đoạn là điều tra sơ bộ và điều tra chính thức và ra quyết định xử lý trong trường hợp kết luận vi phạm. Bên cạnh đó, trong trường hợp Cục Quản lý cạnh tranh tự phát hiện vi phạm dựa trên thông tin, tài liệu thu thập được hoặc do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác cung cấp, Cục cũng có thể tự khởi xướng điều tra và xử lý vụ việc theo cùng trình tự, thủ tục như trên.
Hình thức xử lý vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại Nghị định số 120/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, bao gồm phạt tiền đến 100 triệu đồng và các hình thức xử phạt bổ sung, khắc phục hậu quả:
- Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm; và
- Buộc cải chính công khai.
- Các cơ quan khác
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 119 Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật về sở hữu trí tuệ, bên cạnh Cục Quản lý cạnh tranh, các cơ quan khác có thẩm quyền xử phạt vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ bao gồm: Cơ quan Thanh tra Khoa học và Công nghệ; Cơ quan Quản lý thị trường; Cơ quan Hải quan; Cơ quan Công an; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Ngoài ra, Luật SHTT cũng quy định việc giải quyết tranh chấp về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHTT theo biện pháp dân sự thông qua khởi kiện tại Toà án.
Thực tiễn thực thi
- Các vụ việc do Cục Quản lý cạnh tranh xử lý
Trong năm 2008, Cục QLCT đã tiến hành điều tra và xử lý 15 vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trong số các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh đã được Cục QLCT xử lý, có 09 vụ việc liên quan đến vi phạm về bán hàng đa cấp bất chính , 02 vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, 01 vụ việc liên quan đến hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác, 01 vụ việc về gièm pha doanh nghiệp khác và 01 vụ việc liên quan đến hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
- Trong số các vụ việc nói trên, có 05/15 vụ việc được Cục xem xét xử lý căn cứ theo khiếu nại của tổ chức, cá nhân theo quy định tại Khoản 1 Điều 86 Luật Cạnh tranh, 10 vụ việc được Cục QLCT tự khởi xưởng điều tra căn cứ theo thông tin thu nhận được/
- Có 12 vụ việc trong đó Cục ban hành quyết định điều tra và xử lý theo thủ tục tố tụng cạnh tranh. Trong 03 vụ việc còn lại, Ban chuyên môn của Cục đã tiến hành xem xét hồ sơ và tham vấn tiền tố tụng với bên khiếu nại, tuy nhiên các bên khiếu nại chưa cung cấp đủ thông tin, tài liệu theo yêu cầu quy định tại Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn, do đó không tiến hành điều tra vụ việc.
- Trong số 12 vụ việc Cục tiến hành điều tra theo thủ tục tố tụng cạnh tranh, 8 vụ việc đã có kết luận cuối cùng theo Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Cục trưởng Cục QLCT, với tổng số tiền phạt là 805 triệu đồng. Bên cạnh đó, 03 vụ việc hiện đang được Cục tiến hành điều tra sơ bộ (bắt đầu từ tháng 12/2008) và 01 vụ việc được đình chỉ điều tra sau giai đoạn điều tra sơ bộ do không đủ căn cứ xác định vi phạm.
Bên cạnh các vụ việc được xử lý thông qua tố tụng cạnh tranh, Cục còn tiếp nhận, xem xét và cho ý kiến hướng dẫn, tư vấn về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thông qua các thủ tục hành chính thông thường.
- Các vụ việc do các cơ quan khác xử lý
Trong năm 2008, theo thống kê của Cục Quản lý cạnh tranh từ thông tin các cơ quan hữu quan cung cấp, thực tiễn xử lý các vụ việc liên quan như sau:
- Trong năm 2008, theo thông tin từ Cục Sở hữu trí tuệ, cơ quan này đã đánh giá và cho ý kiến chuyên môn về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ căn cứ theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức liên quan. Cần lưu ý, Cục Sở hữu trí tuệ là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tuy nhiên cơ quan này không có chức năng xử lý vi phạm. Do đó, căn cứ vào kết luận về chuyên môn của Cục Sở hữu trí tuệ, các bên liên quan có thể thực hiện khiếu nại theo thủ tục hành chính hoặc khởi kiện ra toà án để bảo vệ quyền lợi của mình.
- Thanh tra khoa học công nghệ: Theo thông tin từ phía Thanh tra Bộ Khoa học Công nghệ, hoạt động của cơ quan này trong thời gian vừa qua tập trung vào các hành vi xâm phạm quyền, số lượng vụ việc cạnh tranh không lành mạnh không nhiều. Một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng vụ việc hạn chế là do thủ tục khiếu nại theo pháp luật về sở hữu trí tuệ có nhiều điểm phức tạp khiến việc thực hiện gặp khó khăn. Cụ thể trong năm 2008, Thanh tra Bộ KHCN mới chỉ tiếp nhận 01 vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên sau đó không xử lý do bên khiếu nại rút đơn.
Thanh tra các Sở Khoa học Công nghệ tại địa phương cũng có tiếp nhận và xem xét một số vụ việc khiếu nại về cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên do quy định về thủ tục giải quyết còn chưa rõ ràng nên chưa xử lý vụ việc nào trong thực tiễn.
- Lực lượng Quản lý thị trường: Đây là lực lượng chịu trách nhiệm chính trong việc kiểm tra và xử lý gian lận thương mại và các vi phạm khác trong hoạt động thương mại trên thị trường. Trong năm 2008, số lượng vụ việc do lực lượng quản lý thị trường xử lý rất lớn, tuy nhiên chủ yếu tập trung vào các vi phạm về hàng giả, hàng lậu… không có thông tin về vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh
5.4 Đánh giá về thực tiễn thực thi
Xét thực tiễn hoạt động thị trường với nhiều hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong các ngành, các lĩnh vực khác nhau, có thể thấy số lượng vụ việc do Cục Quản lý cạnh tranh xử lý còn chưa nhiều. Mặt khác số lượng vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh do các cơ quan khác xử lý theo thẩm quyền cũng hạn chế.
Trong số các vụ việc được xử lý, 09/15 vụ việc liên quan đến hoạt động bán hàng đa cấp thuộc lĩnh vực quản lý của Cục QLCT, số lượng vụ việc liên quan đến các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác như chỉ dẫn gây nhầm lẫn, quảng cáo, gièm pha, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, ép buộc trong kinh doanh… còn chưa nhiều.
Các hạn chế trong công tác xử lý cạnh tranh không lành mạnh có nhiều nguyên nhân:
- Về lý luận, như đã phân tích tại phần trên của bài viết, pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có nhiều điểm không rõ ràng cả về đối tượng, phạm vi áp dụng, đến những vấn đề mang tính kỹ thuật như chứng minh yếu tố lỗi, xác định thiệt hại, phân định ranh giới và giải quyết chồng lấn với các lĩnh vực pháp luật liên quan. Các yếu tố này gây lung túng cho cả các quốc gia có kinh nghiệm xây dựng nền kinh tế thị trường và thực thi pháp luật cạnh tranh đi trước rất nhiều so với Việt Nam.
- Về quy định của pháp luật, trong hệ thống pháp luật cạnh tranh Việt Nam chưa có các văn bản hướng dẫn chi tiết về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, các, nhiều quy định dừng lại ở mức định tính do chưa thể định lượng gây khó khăn cho việc áp dụng trên thực tế (Chẳng hạn như Điều 44 của Luật Cạnh tranh quy định hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó). Nội dung quy định chưa cụ thể không chỉ gây khó khăn cho cơ quan quản lý, mà còn cho cả các tổ chức, cá nhân liên quan để trong việc nhận thức, tìm hiểu và vận dụng pháp luật cạnh tranh để bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Riêng đối với hoạt động bán hàng đa cấp, do có Nghị định số 110/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp quy định chi tiết về thẩm quyền quản lý nhà nước của Cục Qủan lý cạnh tranh, cũng như các Sở Công Thương địa phương, trong đó có thẩm quyền kiểm tra, giám sát trong lĩnh vực này nói chung, việc điều tra và xử lý vi phạm có nhiều thuận lợi, dẫn đến số lượng vụ việc Cục xử lý trong lĩnh vực này nhiều hơn đáng kể (9 trên tổng số 15 vụ việc).
- Như đã làm rõ trong nội dung bài viết, việc chồng lấn giữa pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh và các lĩnh vực pháp luật khác là một đặc điểm cơ bản khó có thể thay đổi và được chấp nhận trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, và Việt Nam sẽ không thể là ngoại lệ. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam đã thiếu vắng các quy định về giải quyết xung đột pháp lý cũng như phân định thẩm quyền của các cơ quan thực thi. Tình trạng chồng lấn thẩm quyền, thiếu khả năng hợp tác hiệu quả của các cơ quan thực thi trong khi luật nội dung còn chưa cụ thể đã gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động triển khai thực thi pháp luật, không chỉ đối với Cục Quản lý cạnh tranh mà còn đối với cả các cơ quan khác, thể hiện qua số lượng vụ việc liên quan được các cơ quan khác như thanh tra, quản lý thị trường xử lý cũng không nhiều. Lấy ví dụ các quy định chống thông tin, quảng cáo so sánh nói xấu doanh nghiệp khác, hoặc quảng cáo gian dối, gây nhầm lẫn tại Pháp lệnh Quảng cáo và nhiều văn bản khác được ban hành trước Luật Cạnh tranh một thời gian dài, tuy nhiên theo thông tin từ cơ quan Thanh tra văn hoá, số lượng vụ việc được các cơ quan này thụ lý, xử lý đến nay vẫn không đáng kể.
- Cuối cùng, về chủ quan, Cục Quản lý cạnh tranh mới thành lập và được giao chức năng, nhiệm vụ thực thi Luật Cạnh tranh kể từ năm 2006 theo Nghị định số 06/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09/01/2006 với những lĩnh vực mới và phức tạp, bao gồm cả thực thi pháp luật cạnh tranh, phòng vệ thương mại quốc tế (chống phá giá, chống trợ cấp và tự vệ), bảo vệ người tiêu dùng. Công tác điều tra, xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh được giao về Ban chuyên môn có lực lượng 06 người, trong đó có 04 điều tra viên cạnh tranh. Trong điều kiện nguồn lực hạn chế, Cục đã nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ được giao cũng như vượt kế hoạch đặt ra trong năm 2008. Tuy nhiên, để triển khai đồng bộ, hiệu quả công tác phòng chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thời gian tới, Cục cần bổ sung nguồn lực, cũng như tích cực đào tạo, nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, chuyên viên, điều tra viên cạnh tranh.
Trong thời gian tới, số lượng các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do Cục Quản lý cạnh tranh tiếp nhận và xem xét xử lý dự kiến sẽ tăng lên đáng kể. Do thực tiễn hoạt động thị trường với tình hình kinh tế có dấu hiệu suy thoái, các doanh nghiệp sẽ tìm kiếm các biện pháp cạnh tranh mạnh mẽ hơn, có thể dẫn đến các hành vi không lành mạnh. Mặt khác, với việc mở cửa nhiều ngành, lĩnh vực kinh doanh để đáp ứng các cam kết của nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp, tập đoàn nước ngoài sẽ tham gia sâu rộng hơn vào đời sống kinh tế trong nước, từ đó có thể xuất hiện các dạng thức cạnh tranh mới, đòi hỏi cơ quan quản lý có sự nghiên cứu, đánh giá cả hai mặt ảnh hưởng tích cực, tiêu cực và đề xuất các biện pháp điều chỉnh nếu cần thiết.
Tỷ lệ các vụ việc do Cục QLCT chủ động tiến hành điều tra sẽ giảm đi, đồng thời các vụ việc điều tra theo khiếu nại của các bên liên quan sẽ gia tăng. Xu hướng này phù hợp với bản chất của yêu cầu điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng như kinh nghiệm quốc tế. Do cơ chế thị trường cho phép các doanh nghiệp tự do hoạt động kinh doanh và cạnh tranh, họ có thể lựa chọn, sáng tạo nhiều biện pháp cạnh tranh đa dạng, phong phú xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận. Quy định của pháp luật cũng như cơ quan quản lý nhà nước không thể can thiệp quá rộng hoặc quá sâu vào các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu không sẽ kìm hãm động lực phát triển của các doanh nghiệp trên thị trường. Các hành vi cạnh tranh chỉ bị điều chỉnh, ngăn chặn khi trở nên thái quá, gây ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của các tổ chức, cá nhân khác và của cả xã hội. Do đó, các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh về dài hạn sẽ chủ yếu dựa trên cơ sở khiếu nại của tổ chức, cá nhân khi bị thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại (đặc biệt các hành vi liên quan đến chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, gây rối hoặc gièm pha doanh nghiệp khác). Nếu các bên liên quan thể hiện ý chí chấp nhận hành vi cạnh tranh, coi là hoạt động thực tiễn thông thường trên thị trường, cơ quan quản lý sẽ không xem xét can thiệp, ngăn chặn hành vi đó.
Cuối cùng, với các dự án pháp luật đang được triển khai như xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Luật Quảng cáo, sửa đổi bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ… cơ chế pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ có thể có nhiều thay đổi, phụ thuộc vào định hướng quản lý cũng như yêu cầu thực tiễn của nền kinh tế xã hội.
5. Kết luận và một số đề xuất
- Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có lịch sử phát triển lâu dài và có một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia nền kinh tế thị trường. Bộ phận pháp luật này có những đặc thù về phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và mặc dù hiện nay tồn tại như một chế định của pháp luật cạnh tranh trong pháp luật nhiều nước, nó vấn có sự gắn bó chặt chẽ và tác động qua lại với các lĩnh vực pháp luật khác, đặc biệt là pháp luật về sở hữu trí tuệ và bảo vệ người tiêu dùng. Các quốc gia có nền kinh tế thị trường và pháp luật cạnh tranh phát triển xây dựng pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh theo hai hướng chính: (i) sử dụng các nguyên tắc chung của pháp luật dân sự kết hợp với án lệ; và (ii) xây dựng luật chuyên ngành quy định cụ thể về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm.
- Pháp luật cạnh tranh Việt Nam đã có những quy định cơ bản để điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh, tuy nhiên hiện chưa đủ để đáp ứng các yêu cầu ngăn chặn các hành vi vi phạm, bảo vệ môi trường cạnh tranh, quyền lợi của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Kinh nghiệm của các quốc gia đi trước cho thấy việc điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh cần có một cơ chế mở và linh hoạt để thích ứng với những diễn biến đa dạng và liên tục của thị trường. Do đó Việt Nam cần hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh theo hai hướng: một mặt xây dựng các quy định cụ thể hoá tiêu chí đánh giá và dạng biểu hiện của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, mặt khác tăng thẩm quyền cho cơ quan xử lý, có thể là cơ quan cạnh tranh hay toà án, trong việc đánh giá, kết luận về tính chất, mức độ của hành vi vi phạm, để có thể chủ động xử lý hiệu quả các vụ việc về cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế.
- Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh bao gồm cả xây dựng các quy định để giải quyết xung đột pháp luật và phân định thẩm quyền giữa các cơ quan thực thi. Đây là một nội dung hết sức cần thiết xét trên hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam có cơ chế thực thi pháp luật chung tương đối cứng nhắc và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan nhà nước còn hạn chế.
- Trải qua thời gian, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường tại Việt Nam, sự lớn mạnh của tầng lớp thương nhân và cộng đồng doanh nghiệp, các thực tiễn thương mại và thông lệ kinh doanh sẽ dần trở nên đầy đủ và chặt chẽ. Đây là một yếu tố bổ sung quan trọng để hoàn thiện các nội dung của pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh với mục đích ổn định trật tự các hoạt động thị trường.
- Cuối cùng, trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh, cơ quan thực thi luôn phải đảm bảo tính cân bằng, một mặt giữ được sự ổn định và lành mạnh của thị trường, mặt khác không làm hạn chế khả năng và động lực sáng tạo, phát triển trong kinh doanh của doanh nghiệp, với mục đích cuối cùng không phải là ngăn cản, trừng phạt các trường hợp cá biệt, mà hướng tới việc tạo dựng môi trường cạnh tranh hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chế định cạnh tranh không lành mạnh trong pháp luật cạnh tranh.doc