Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội phát sinh trong quá trình phát triển của xã hội loài người, biểu hiện những quan hệ mang tính tự nhiên. Cũng như những hiện tượng xã hội khác, hôn nhân gia đình chịu sự tác động có tính quyết định bởi các điều kiện kinh tế - xã hội. Lịch sử xã hội loài người đã chứng kiến quá trình phát sinh, thay đổi những hình thái hôn nhân và gia đình. Đó là quá trình vận động tất yếu trên cơ sở sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội. Từ khi trong xã hội có Nhà nước, sự liên kết của các cá nhân nhằm xây dựng gia đình được coi là sự kiện pháp lý làm phát sinh những quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình. Quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ đơn thuần thể hiện ý chí của Nhà nước. Nhà nước dùng pháp luật điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình. Quan hệ hôn nhân và gia đình không chỉ đơn thuần thể hiện ý chí của các cá nhân mà còn mang ý chí của Nhà nước dùng pháp luật điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình, hướng cho những quan hệ này phát sinh, thay đổi hay chấm dứt đều không bất lợi cho Nhà nước và cho xã hội. Trong những chế độ xã hội khác nhau có các chế độ hôn nhân và gia đình khác nhau.
Nội dung
I. Những lý luận cơ bản về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành và phát triển nguyên tắc của luật hôn nhân và gia đình
2. Khái quát chung về nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
II. Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở Việt Nam qua các thời kỳ
III. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở Việt Nam
1. Thực tiễn áp dụng
2. Giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng theo luật 2000
3. Thực tiễn giải quyết và một số bất cập
IV. Một số giải pháp khắc phục vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở nước ta hiện nay
Kết luận
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc tiến bộ đối với bất kỳ xã hội nào, nhưng vi phạm nguyên tắc này gần như là tất yếu của xã hội trong nền kinh tế thị trường, thậm chí nó tồn tại không phụ thuộc vào trình độ dân trí, ý thức pháp luật người dân cao hay thấp. Do đó, chỉ bằng các quy định pháp luật mà xóa bỏ hẳn hiện tượng này là điều không khả thi. Nhà nước cần có những giải pháp tích cực về văn hóa, phổ biến và giáo dục pháp luật cho sâu rộng người dân, nhất là tầng lớp thanh niên, để họ hiểu rằng: “nhà nước tôn trọng quyền tự do cá nhân của họ nhưng không thừa nhận lợi ích ích kỷ cá nhân, buộc mọi công dân phải có trách nhiệm với lợi ích chung của cộng đồng”. Từ đó cần có thái độ tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14391 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế độ hôn nhân một vợ một chồng - Lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u và nhà nước. Trong xã hội có giai cấp thì quan hệ hôn nhân và gia đình bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị, giai cấp thống trị thông qua nhà nước, bằng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình phát triển phù hợp với từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Bản chất của nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Hôn nhân gia đình là một hiện tượng xã hội, vì thế gắn với mỗi chế độ kinh tế xã hội nhất định có một chế độ gia đình khác nhau. Cùng với sự phát triển của xã hội, các hinh thái gia đình cũng phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái gia đình huyết tộc, gia đình Pu-na-lu-an, sang hôn nhân đối ngẫu và cuối cùng là hôn nhân một vợ một chồng. Trong đó, chế độ hôn nhân một vợ một chồng được coi là hình thái gia đình tiến bộ. Tuy nhiên trong mỗi giai đoạn, hình thái hôn nhân một vợ một chồng tồn tại dưới nhiều biến thể khác nhau tùy thuộc vào bản chất của mỗi chế độ xã hội. Chế độ một vợ một chồng ban đầu xuất hiện trong xã hội tư hữu chủ yếu để bảo vệ quyền tư hữu về tư liệu sản xuất, của cải của người đàn ông trong gia đình. Đồng thời đảm bảo cho con cái do người vợ để ra phải là con của chính người chồng và theo họ cha chứ không theo họ mẹ, nhằm thừa kế tài sản của cha mà thực chất là duy trì chế độ tư hữu bóc lột. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, khi mà chế độ mẫu quyền thay bằng chế độ phụ quyền, người mẹ không còn vai trò như trước thì một vợ một chồng chỉ đặt ra với người vợ chứ không đặt ra với người chồng, chế độ hôn nhân một vợ một chồng hoàn toàn mâu thuẫn và giả tạo.
Đến xã hội phong kiến, vị trí gia trưởng của người chồng trong gia đình ngày càng được củng cố một cách vững chắc. Hôn nhân một vợ một chồng không phải được liên kết dựa trên tình cảm mà dựa trên cơ sở tài sản, có tính toán đến lợi ích và mang tính hình thức. Một vợ một chồng có chăng chỉ về phía đàn bà, pháp luật vẫn cho phép người đàn ông được phép lấy nhiều vợ. Chính chế độ hôn nhân một vợ một chồng chỉ về phía người vợ đó không hề làm trở ngại chút nào đến chế độ nhiều vợ công khai hay bí mật của người đàn ông. Điều này thể hiện sự bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân trong thời kỳ phong kiến và gây nên nhiều đau khổ cho người phụ nữ.
Đến Nhà nước tư bản, lần đầu tiên nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng đã được thừa nhận trong các văn bản pháp luật. Chế độ đa thê đã bị bãi bỏ thay vào đó là hình thái hôn nhân một vợ một chồng ở cả hai phía, cả người vợ và người chồng, nhưng xét về bản chất “hôn nhân của giai cấp tư sản thật ra là chế độ cộng thê”, trên thực tế “nguyên tắc đó đã bị phá vỡ do tệ nạn ngoại tình và mại dâm công khai”. Ngay trong xã hội tư bản, hôn nhân một vợ một chồng tồn tại cũng chưa thực sự đúng với bản chất của nó. Vậy, bản chất của hôn nhân một vợ một chồng là gì? Hôn nhân một vợ một chồng tức là một vợ một chồng phải cả từ hai phía, chứ không chỉ áp đặt cho riêng ở phía người đàn ông hay người phụ nữ. Hôn nhân được xuất phát từ tình yêu, thực sự có nguyện vọng chung sống, gắn bó lâu dài với nhau mà không bị chi phối bởi mục đích kinh tế hay nhằm bảo vệ quyền tư hữu về tài sản.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, “khi các tư liệu sản xuất biến thành tài sản xã hội, thì chế độ lao động làm thuê sẽ mất đi và tình trạng một số phụ nữ cần bán mình vì đồng tiền sẽ mất đi. Tệ nạn mại dâm sẽ mất đi và chế độ một vợ một chồng không những bị suy tàn mà cuối cùng còn trở thành hiện thực ngay cả với đàn ông nữa”. Vì thế, hôn nhân một vợ một chồng không hề mất đi mà trái lại nó thực sự tồn tại một cách đầy đủ nhất, “một vợ một chồng theo nghĩa giữ nguyên, chứ tuyệt nhiên không phải theo nghĩa lịch sử của danh từ”. Chế độ một vợ một chồng được ghi nhận trong pháp luật nước ta có bản chất khác với chế độ một vợ một chồng cổ điển, lúc mà nó vừa ra đời và tồn tại trong các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng. Nếu nguồn gốc của chế độ một vợ một chồng do điều kiện kinh tế và mục đích để duy trì chế độ tư hữu bóc lột thì dưới xã hội chủ nghĩa hôn nhân một vợ một chồng được tồn tại như bản chất vốn có của nó, tức là lấy tình yêu chân chính giữa nam và nữ làm cơ sở và mục đích xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hòa thuận, bền vững. Trong gia đình, quyền bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng phải được tôn trọng, và chỉ khi quyền bình đẳng vợ chồng được thực hiện hoàn toàn mới đảm bảo chế độ hôn nhân một vợ một chồng mới được xác lập một cách vững chắc.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở Việt Nam
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc hiến định và là một nguyên tắc cơ bản được cụ thể hóa trong Luật HN&GĐ. Nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân gia đình là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo quán triệt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc điều chỉnh các quan hệ hôn nhân gia đình nhằm mục đích xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc và bền vững.
Với quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta là xây dựng gia đình hạnh phúc bền vững trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa nam và nữ, xóa bỏ hoàn toàn chế độ đa thể, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng đã trở thành nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật HN&GĐ, từ luật HN&GĐ năm 1959, luật HN&GĐ năm 1986 đến luật HN&GĐ năm 2000. Tại khoản 1 – điều 2 luật HN&GĐ năm 2000 ghi nhận: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” là nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân gia đình.
Về bản chất, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng có nghĩa trong thời kỳ hôn nhân chỉ tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp và là quan hệ hôn nhân duy nhất. Theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng thì chỉ những người chưa có vợ, chưa có chồng hoặc tuy đã kết hôn nhưng hôn nhân đó đã chấm dứt (vợ hoặc chồng họ đã chết hoặc vợ chồng đã ly hôn) thì mới có quyền kết hôn với người khác. Việc kết hôn của họ phải với những người đang không có vợ hoặc đang không có chồng, đó là những người thuộc trường hợp nêu tại Mục 1 điểm c.1 Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng không chỉ là một điều kiện kết hôn cần được tuân thủ, mà còn nhằm điều chỉnh cả hành vi chung sống như vợ chồng. Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ không có đăng ký kết hôn nhưng về sống chung với nhau; có thể tổ chức lễ cưới hoặc không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán; gia đình có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận. Việc chung sống như vợ chồng là thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng và có tài sản chung. Sẽ không phải là chung sống như vợ chồng nếu nam và nữ lén lút quan hệ với nhau, mà không chung sống công khai. Chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ có thể xảy ra hai trường hợp: chung sống trái pháp luật và chung sống không trái pháp luật. Theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, trường hợp người đang có vợ, có chồng mà chung sống với người khác hoặc ngược lại người đang không có vợ, có chồng mà chung sống với người đang có vợ, đang có chồng là chung sống trái pháp luật. Pháp luật chỉ cho phép nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi cả hai bên không có vợ, không có chồng. Như vậy, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng mang tính bắt buộc đối với cả hai chiều chủ thể tham gia quan hệ. Nguyên tắc này không chỉ đặt ra đối với người đang có vợ, có chồng mà còn là yêu cầu đối với cả người chưa có vợ, chưa có chồng cũng phải tuân thủ. Có như vậy mới đảm bảo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được thực hiện một cách nghiêm túc trong thực tế.
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là tư tưởng chủ đạo quán triệt toàn bộ các quy phạm pháp luật hôn nhân gia đình, quy định người đang có vợ, có chồng không được phép kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác và ngược lại, bất cứ một người nào khác cũng không được phép kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác đang có vợ, có chồng; đồng thời thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước trong việc giải quyết các trường hợp vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Quá trình hình thành và phát triển của nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở Việt Nam qua các thời kỳ
Pháp luật Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945
Do đặc điểm tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của những năm đầu khi dành được chính quyền, mặc dù rất quan tâm đến vấn đề hôn nhân và gia đình, nhưng Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hòa chưa thể ban hành được những văn bản pháp luật quy định riêng về hôn nhân gia đình. Để điều chỉnh những quan hệ hôn nhân gia đình. Trước cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam là nước thuộc địa nửa phong kiến đặt dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Nhìn chung, chế độ hôn nhân gia đình ở nước ta vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu tồn tại từ nhiều thế kỷ trước, quan niệm “trai tài năm bay vợ, gái chính chuyên chỉ có một chồng” vẫn còn phổ biến. Pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến và thời kỳ Pháp thuộc đều công nhận quyền của người đàn ông được lấy nhiều vợ, ngoài người vợ chính, người đàn ông còn có thể lấy nhiều người khác làm vợ lẽ, thể hiện thái độ kỳ thị rõ ràng đối với người phụ nữ.
Ngay trong Bộ luật Hồng Đức thời kỳ Lê sơ, bộ luật được đánh gia cao cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, cũng thừa nhận hôn nhân đa thê, xác lập chế độ gia đình gia trưởng. Trong các quan hệ nhân thân liên quan đến hôn nhân và gia đình, Bộ luật cũng điều chỉnh quan hệ giữa vợ cả vợ lẽ tại các điều 309, 481, 483, 484, ngoài các quy định về các nghĩa vụ của họ với chồng và nhà chồng thì họ cũng phải tuân thủ trật tự thê thiếp và vợ cả nói chung được ưu tiên hơn. Pháp luật Việt nam đến thời kỳ Pháp thuộc cũng thừa nhận “ có hai cách giá thú hợp pháp: giá thú chính thất và giá thú về thứ nhất” (điều 79 Bộ Dân luật Bắc Kỳ năm 1931) hay tại điều 80 Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 cũng quy định “chưa lấy vợ chính thì cấm lấy vợ thứ”. Như vậy, trước cách mạng tháng Tám pháp luật chưa thừa nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trong gia đình là quan hệ bất bình đẳng, chính điều này đã gây nhiều đau khổ cho người phụ nữ.
Để điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình, nhà nước non trẻ của chúng ta dựa vào các quy định trong các văn bản pháp luật của chế độ cũ còn phù hợp với quan điểm, chính sách của Đảng và quy đinh của Hiến pháp năm 1946. Đến năm 1950, những nguyên tắc của pháp luật hôn nhân và gia đình được thể hiện rõ ràng hơn trong Sắc lệnh số 97-SL ngày 22/5/1950 và Sắc lệnh số 159-SL ngày 17/11/1950. Thời kỳ này, pháp luật hôn nhân và gia đình còn sơ khai, với một ít quy phạm pháp luật. Các văn bản pháp luật hôn nhân và gia đình chưa có sự phân định những quy định chung và những chế định cụ thể, nhưng thông qua những quy định cụ thể này, chúng ta có thể thấy pháp luật đã quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau: nguyên tắc hôn nhân tự do, tự nguyện; nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, bảo vệ quyền lợi chính đang của người phụ nữ; nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái. Những quy phạm pháp luật ở thời kỳ này còn chưa đầy đủ, nhưng đã bao hàm được những tư tưởng dân chủ, tiến bộ của chế độ hôn nhân và gia đình mới do Đảng và nhà nước ta xây dựng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu do chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến để lại, thực hiện những quan hệ hôn nhân và gia đình mới phù hợp với xu thể phát triển của xã hội, đồng thời chúng còn là nền tảng cho quá trình phát triển của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Pháp luật Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
2.1. Ban hành luật hôn nhân và gia đình năm 1959
Cách mạng tháng Tám thành công đã giải phóng dân tộc Việt Nam cũng như người phụ nữ khỏi ách thống trị hà khắc của chế độ thực dân phong kiến, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử hôn nhân và gia đình Việt Nam. Ngay trong Hiến pháp 1946 – Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xác định “ đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (điều 9). Chính điều này là cơ sở pháp lý để đấu tranh xóa bỏ chế độ hôn nhân gia đình phong kiến, tạo cơ sở xây dựng chế độ hôn nhân gia đình một vợ một chồng dân chủ tiến bộ. Tuy nhiên do điều kiện hoàn cảnh lịch sử, mà tại Sắc lệnh số 97 – SL quy định về hôn nhân gia đình chưa ghi nhận cụ thể nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
Dù đã bị xóa bỏ, tuy nhiên chế độ hôn nhân gia đình phong kiến đòi hỏi cần phải xóa bỏ triệt để những tàn tích, hủ tục lạc hậu ấy, xây dựng chế độ hôn nhân gia đình tiến bộ. Từ năm 1959 đến nay, ở Việt Nam đã có ba đạo luật về hôn nhân và ra đình ra đời kế tiếp nhau: 1959, 1986, 2000. Mỗi đạo luật đều có những quy định chung trong đó ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình, là sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc của pháp luật giai đoạn trước trên cơ sở phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của từng thời kỳ.
Năm 1959, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Nhân dân Việt Nam được hưởng hòa bình chưa lâu thì đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã âm mưu phá bỏ Hiệp định Giơnevơ và biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới phục vụ cho những mưu đồ quân sự của Mỹ. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền Nam Bắc với chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Trong khi nhân dân miền nam tiếp tục đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và bè lũ tay sai, quân và dân miền Bắc dưới sự lãnh đạo của Đảng quyết tâm đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tập trung sức người, sức của chi viện cho tiền tuyến miền Nam. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã đạt được những thành tựu quan trọng, tác động mạnh mẽ vào các mặt của đời sống xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân gia đình. Trong khi đó, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc hậu vẫn còn tồn tại, đè nặng lên tư tưởng của người dân, kìm hãm sự phát triển của con người. Tình hình hôn nhân và gia đình đó “ không thích hợp cho việc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mới là cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa. Vì vậy, đã đến lúc cần phải xây dựng một chế độ hôn nhân và gia đình cho phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, trước hết là cần ban hành một đạo luật hôn nhân và gia đình.
Xuất phát từ thực tế đó, luật hôn nhân và gia đình cần phải thực hiện mục đích xây dựng những gia đình dân chủ, hòa thuận hạnh phúc, trong đó, mọi người đoàn kết, thương yêu giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, xóa bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữa, coi rẻ quyền lợi của con cái. Kế thừa những nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình thời kỳ trước, để đạt được những mục đích như trên, luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã được xây dựng dựa trên bốn nguyên tắc cơ bản: nguyên tắc hôn nhân tự do và tiến bộ; nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng; nguyên tắc nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong gia đình; nguyên tắc bảo vệ quyền lợi của con cái.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp về hôn nhân và gia đình Việt Nam, những nguyên tắc cơ bản của Luật hôn nhân và gia đình được quy định tập trung trong một chương (chương I: nguyên tắc chung) của một văn bản pháp luật nguyên tắc cơ bản của pháp luật hôn nhân và gia đình ở giai đoạn trước đã được kế thừa và phát triển một bước. Nhằm thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình mới, luật hôn nhân và gia đình năm 1959 đã quy định nhưng nguyên tắc mới: nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng và nguyên tắc hôn nhân tiến bộ. Trước đây, mặc dù dã xác định được nhiệm vụ xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu, phản dân chủ của pháp luật hôn nhân và gia đình phong kiến, nhưng nhà nước ta chưa có quy định về việc thực hiện chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Đây là một hạn chế của pháp luật thời kỳ trước đó. Việc luật hôn nhân và gia đình năm 1959 quy định nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng đảm bảo cho hạnh phúc gia đình bền vững, đồng thời phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này còn được thể hiện trong quy định về điều kiện kết hôn: “Cấm người đang có vợ có chồng kết hôn với người khác” (điều 5 Luật hôn nhân và gia đình năm 1959). Căn cứ vào điều 24 Hiến pháp năm 1959 nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng lần đầu tiên được ghi nhận trong văn bản pháp luật HNGĐ. Ngay tại Điều 1 Luật HNGĐ năm 1959, có hiệu lực ngày 13.01.1959 quy định: “Nhà nước đảm bảo việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hòa thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thương yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ”. Nguyên tắc còn được thể hiện trong điều kiện kết hôn: “cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác” (điều 5 luật 1959). Đây là những quy định đầu tiên có tính chất tuyên ngôn của Nhà nước ta nhằm xóa bỏ chế độ đa thê, xác lập quan hệ hôn nhân một vợ một chồng. Mặc dù đã ghi nhận nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, tuy nhiên luật HNGĐ năm 1959 lại chưa có quy định nào về việc hủy kết hôn trái pháp luật vi phạm nguyên tắc này. Việc xử lý các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được quy định trong Thông tư 112/NCPL ngày 19/8/1972 TANDTC hướng dẫn xử lý việc kết hôn vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn.
2.2. Ban hành Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
Bản chất của hôn nhân là dựa trên cơ sở tình yêu chân chính giữa nam và nữ để khẳng định chế độ hôn nhân và gia đình mà Đảng và nhà nước ta xây dựng là tốt đẹp, bên cạnh nguyên tắc hôn nhân tự do, luật hôn nhan và gia đình năm 1959 đã quy định nguyên tắc hôn nhân tiến bộ. Tuy nhiên với tư cách là tư tưởng chỉ đạo ngành luật hôn nhân và gia đình Việt nam, những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình vẫn chưa thực sự bao quát hết được lĩnh vực điều chỉnh. Những mảng quan hệ hôn nhân giữa công dân Việt nam thuộc các dân tộc với nhau, giữa những người theo tôn giáo khác nhau, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt nam với người nước ngoài; vấn đề chưa có sự định hướng điều chỉnh. Điều đó dẫn đến tình trạng luật hôn nhân và gia đình năm 1959, mặc dù đã tiến bộ hơn hẳn so với pháp luật hôn nhân và gia đình ở giai đoạn trước, nhưng vẫn còn thiếu nhiều chế định, quy phạm pháp luật quan trọng điều chỉnh những quan hệ hôn nhân gia đình đã-đang-sẽ nảy sinh.
Sự phát triển của kinh tế đất nước đã kéo theo nhiều thay đổi trong các quan hệ xã hội, trong đó có những quan hệ hôn nhân và luật năm 1986 ra đời. Để điều chỉnh có hiệu quả hơn các quan hệ hôn nhân và gia đình đang tồn tại trong đời sống xã hội, những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình đã được chỉnh sử, bổ sung cho phù hợp. Phát triển những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình năm 1959, luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã bổ sung thêm những nội dung của các nguyên tắc cho đầy đủ và quy định một số nguyên tắc mới. Ví dụ: trong nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, nếu như luật năm 1959 chỉ quy định: “cấm người đang có vợ có chồng kết hôn với người khác” thì luật hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định đầy đủ hơn: “ cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác”. Ngoài ra, điều 9 Luật 1986 còn quy định: “việc kết hôn vi phạm một trong các điều 5,6,7 của luật này là trái pháp luật, tòa án nhân dân có quyền hủy việc kết hôn trái pháp luật đó”. Như vây, luật 1986 thừa nhận việc kết hôn vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là trái pháp luật, còn chỉ rõ: “tòa án có quyền hủy”. Đường lối xử hủy trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được giải quyết theo quy định của Nghị quyết 01/1998/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật 1986.
Kế thừa quy định của Hiến pháp 1980, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trở thành nguyên tắc hiến định được quy định ở điêu 64 Hiến pháp 1992: “Gia đình là tế bào của xã hội, nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”. Với việc quy định nội dung đầy đủ hơn, phù hợp hơn những nguyên tắc pháp lý cơ bản của luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đã tạo ra một nền tảng pháp lý cần thiết cho việc xây dựng những chế định, quy phạm pháp luật chuyên biệt để điều chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình trong đời sống xã hội. Như vậy, những lỗ hổng của luật 1959 đã được luật 1986 bù đắp và hoàn thiện, trước hết trên cơ sở hoàn thiện hệ thống những nguyên tắc cơ bản.
Ban hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000
Đất nước sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các quan hệ hôn nhân và gia đình cũng phát triển đa dạng và có phần phức tạp hơn. Việc áp dụng luật năm 1986 để điều chỉnh những quan hệ hôn nhân đã bộc lộ nhiều điểm bất cập, cần phải sửa đổi, bổ sung. Đáp ứng ứng yêu cầu của việc thực hiện những quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với tình hình kinh tế xã hội trong giai đoạn mới, luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã được xây dựng trên cơ sở hoàn thiện những nguyên tắc cơ bản của chính ngành luật này. Kế thừa và phát triển những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình năm 1986, luật năm 2000 vẫn tiếp tục thực hiện những nguyên tắc của luật cũ còn phù hợp và sắp xếp lại cho khoa học hơn, đồng thời bổ sung một số nội dung mới làm cơ sở cho việc thực hiện và bảo vệ các quan hệ hôn nhân và gia đình đầy đủ hơn. Những nguyên tắc cơ bản của luật hôn nhân và gia đình năm 2000 được quy định rõ ràng, tập trung trong một điều luật (điều 2). Những chế định mới, quy định mới được xây dựng để điều chỉnh chặt chẽ, có hiệu quả các quan hệ hôn nhân và gia đình, nhất là những loại quan hệ đang diễn ra theo những chiều hướng phức tạp. Như vậy, luật năm 2000 đã hoàn thiện thêm một bước về kỹ thuật lập pháp cũng như về nội dung, khẳng định một cách rõ ràng đầy đủ những tư tưởng định hướng, đảm bảo sự nhất quán cho ngành luật hôn nhân và gia đình Việt Nam. Trong luật năm 2000, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được thể hiện cụ thể trong các quy định về điều kiện kết hôn (điều 9); một trong các trường hợp cấm kết hôn (khoản 1 điều 10). Việc thực hiện nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng được thể hiện thông qua quy định cấm các trường hợp vi phạm nguyên tắc điều 4 luật năm 2000; các quy định về xử lý các trường hợp vi phạm nguyên tắc tại điều 16 và điều 17 luật năm 2000. Chính các quy định này tạo nền tảng pháp lý bảo đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, góp phần thực hiện đúng quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta là xây dựng gia đình tiến bộ, văn minh, dân chủ, hạnh phúc, nhằm phát triển đất nước bền vững.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở Việt Nam
Thực tiễn áp dụng
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng cũng đã trở thành một nguyên tắc của cuộc sống được mọi người tôn trọng và tự giác thực hiện đang dần bị xóa bỏ những tư tưởng đa thê còn rơi rớt lại. Chế độ hôn nhân một vợ một chồng được thực hiện làm rõ bản chất của tình yêu là “không thể chia sẻ được” là cơ sở duy trì hạnh phúc gia đình, duy trì sự bền vững của chính quan hệ hôn nhân. Tình trạng vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã giảm đáng kể nhưng không hoàn toàn. Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng còn bị vi phạm khá nghiêm trọng ở nhiều địa phương, đặc biệt có nhiều trường hợp một người đàn ông chung sống với rất nhiều vợ. Việc vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng: làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều gia đình, con cái bị bỏ mặc, thiếu sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ, có trường hợp con bị khủng hoảng về tâm lý sinh ra những thói hư tật xấ, kinh tế gia đình sa sút nghiêm trọng… nhưng đáng tiếc không phải trường hợp nào cũng được giải quyết xử lý.
Những khó khăn, vướng mặc trong việc đảm bảo tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của Luật Hôn nhân và gia đình:
Việc thực hiên nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trong điều kiện hiện nay là rất khó khăn do việc thừa nhận quan hệ chung sống như vợ chồng của nam nữ có giá trị pháp lý như quan hệ vợ chồng. Theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000, “hôn nhân thực tế” không được thừa nhận nữa, chúng ta vẫn phải chấp nhận sự tồn tại của những quan heẹ chung sống như vợ chồng đã xảy ra từ trước ngày 01/01/2001. Theo Nghị quyết số 35/2000/QH10, những trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn trong thời hạn hai năm (tức là đến 01/01/2003), nếu trước thời điểm này mà họ chưa đăng ký kết hôn thì họ vẫn được coi là vợ chồng của nhau. Vậy nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng cũng được điều chỉnh cả đối với trường hợp này. Nhưng hiện nay chúng ta chưa có được một cơ chế kiểm soát những đối tượng này. Cho nên nhiều Ủy ban nhân dân cấp xã đã tiến hành đăng ký kết hôn cho những người đang có vợ, có chồng (do không thể biết được là họ đang có vợ, có chồng vì việc chung sống như vợ chồng của họ không được ghi vào sổ hộ tịch). Vậy là nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng bị vi phạm do ngay chính cơ chế mà chúng ta tạo ra. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải có những biện pháp phòng ngừa.
2. Giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng theo luật 2000
2.1. Người đang có quan hệ hôn nhân hợp pháp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
2.1.1. Người đang có vợ, đang có chồng mà kết hôn với người khác
Việc kết hôn của người đang có vợ, có chồng với người khác mặc dù có đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn nhưng đã vi phạm về điều kiện kết hôn (khoản 3 điều 9) và thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn giữa người đang có vợ, có chồng với người khác là kết hôn trái pháp luật, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng và phải bị xử hủy. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xem xét và ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật trên cơ sở người có quyền yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Về nguyên tắc, Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật với các trường hợp quy định tại khoản 1 điều 10. Khi Tòa án ra quyết định tuyên bó hủy kết hôn giữa người đang có vợ, có chồng với người khác thì quan hệ giữa hai bên sẽ không có giá trị pháp lý và không được coi là có quan hệ vợ chồng kể từ thời điểm kết hôn cho đến khi có yêu cầu Tòa án hủy theo khoản 1 điều 17. Đối với hôn nhân hợp pháp thì khi cảm thấy đời sống hôn nhân không thể duy trì được thì hai bên có thể yêu cầu tòa án cho ly hôn theo thủ tục chung. Về nguyên tắc, các trường hợp kết hôn vi phạm khoản 1 điều 10 thì Tòa giải quyết theo hướng hủy kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên, cần chú ý tới Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP tại mục 2 điểm d3:
Khi một người đang có vợ, có chồng nhưng tình trang trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài mà đã kết hôn với người khác thì lần kết hôn sau là kết hôn trái pháp luật, thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 điều 10, vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng. Các giai đoạn về sau có thể tuân theo chế định kết hôn – ly hôn theo luật định.
TH cán bộ, bộ đội ở miền Nam đã có vợ, có chồng ở miền Nam tập kết ra Bắc lấy vợ hoặc lấy chồng ở miền Bắc. Theo Thông tu 60/DS-TAND trường hợp này là ngoại lệ. Sở dĩ quy định như vậy là do thời kỳ chiến tranh khốc liệt, đất nước bị chia cắt làm đôi nên nhu cầu tình cảm trong việc xác lập hôn nhân mới là chính đáng, pháp luật vẫn thừa nhận cả hai quan hệ hôn nhân mà không nhất thiết phải xử hủy hôn nhân sau, nhằm đảm bảo quyền lợi chính đang của các bên trong hoàn cảnh đất nước chiến tranh.
2.1.2. Người đang có vợ, có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác
Việc chung sống như vợ chồng với người đang có vợ hoặc có chồng có thể được gia đình chấp thuận hoặc không chấp thuận; có thể tố chức lễ cưới hay không tổ chức. Hai bên chung sống với nhau có thể công khai, được hàng xóm coi như vợ chồng và có con chung, có tài sản chung hoặc không có tính chất công khai mà lén lút, nên những người xung quanh không phát hiện ra. Việc người đang có vợ hoặc đang có chồng chung sống như vợ chồng với người khác là chung sống trái pháp luật, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, xâm phạm đến quan hệ hôn nhân hợp pháp được nhà nước bảo hộ theo điều 2,4 và khoản 1 điều 10. Khi giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, Tòa án không thể xử hủy quan hệ chung song trái pháp luật vì họ chỉ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, nên quan hệ của họ không phải là kết hôn trái pháp luật. Tòa án có thể ra quyết định không công nhân quan hệ giữa người đang có vợ, có chồng với người thứ ba là quan hệ vợ chồng và yêu cầu hai bên chấm dứt hành vi chung sống như vợ chồng.
2.2. Nam nữ sống chung như vợ chồng được coi là quan hệ vợ chồng nhưng vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng
Xem xét ở yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Mặt khách quan, họ chung sống với nhau công khai, cùng gánh vác nghĩa vụ và trách nhiệm, quyền đối với nhau, được họ hàng và xã hội thừa nhận. Mặt chủ quan, hai bên chung sống dựa trên cơ sở tình yêu thường.
Cơ sở pháp lý: việc chung sống được điều chỉnh theo Nghị quyết 35/2000/NQ-QH10 và TTLT 01/2001. Theo khoản 3 Nghị quyết 25 và khoản 2 TTLT 01 thì các trường hợp chung sống được công nhận là có quan hệ vợ chồng được phân biệt bởi hai mốc thời gian:
Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 ngày luật năm 1986 có hiệu lực, mà chưa đăng ký kết hôn và hiện vẫn đang chung sống với nhau như vợ chồng, chưa đăng ký kết hôn và hiện vẫn đang chung sống với nhau như vợ chồng
Trong trường hợp này, việc đăng ký kết hôn được nhà nước khuyến khích,không bắt buộc và không bị hạn chế về mặt thời gian. Cho dù nam, nữ có đăng ký kết hôn hay không thì vẫn được công nhận là quan hệ hôn nhân hợp pháp bởi trên thực tế họ đã vào tuổi ông, bà (điều 1, 2 NĐ 77/2001/NĐ-CP). Và quan hệ vợ chồng của họ được pháp luật công nhân kể từ ngày xác lập (ngày họ chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải là chỉ được công nhân kể từ ngày đăng ký kết hôn
Tuy nhiên, theo Nghị quyết 35/200/NQ-QH10 không quy định rõ về điều kiện kết hôn mà các bên nam nữ sống chung như vợ chông phải tuân thủ. Nếu các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 mà có quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc trực hệ thì có được coi là quan hệ hôn nhân hợp pháp không? Mặc dù được pháp luật cho phép nhưng tại thời điểm hiện tại một bên kết hôn với người khác phát sinh tranh chấp thì giải quyết như thế nào? Nếu công nhận quan hệ chung sống như vợ chồng tại thời điểm đó thì người có quan hệ hệ huyết thống hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc trực hệ là hợp pháp thì việc kết hôn của một trong hai bên sau là trái pháp luật, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Còn nếu không công nhận quan hệ chung sống như vợ chồng giữa những người trên là hợp pháp thì đương nhiên việc kết hôn sau không vị phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng và được pháp luật công nhận. Như vậy, pháp luật cần có những quy định cụ thể về vấn đề này để giải quyết được thống nhất
Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 trở đi đến trước ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn và đang chung sống với nhau như vợ chồng.
Theo TTLT 01 nam nữ chung sống với nhau được coi là có giá trị pháp lý khi họ thỏa mãn các điều kiện:
Đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại điều 9 và điều 10 và thuộc các trường hợp: có tổ chức lễ cưới, việc chung sống được gia đình chấp nhận, việc chung sống được người khác tổ chức chứng kiến, họ thực sự chung sống với nhau, giúp đỡ, chăm sóc nhau xây dựng gia đình chung.
Thời điểm nam nữ bắt đầu trước ngày 01/01/2001 ngày luật 2000 có hiệu lực và hiện họ vẫn chung sống với nhau như vợ chồng, quy định tại điểm d khoản 2 điều 30
Đăng ký kết hôn trong thời hạn 2 năm kể từ này Luật 1986 có hiệu lực đến ngày 1/1/2003
Khác với trường hợp đương nhiên xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 03/01/1987, trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2003 vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký kết hôn thì mới được công nhận là có quan hệ vợ chồng. Theo điểm b Mục 3 Nghị quyết 35 hai bên nam nữ phải đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian hai năm kể từ ngày 01/01/2001 cho đến ngày 01/01/2003. Ngoài ra, theo Chỉ thị 02/2003/CT-BTP trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng đã được rà soát lập danh sách để đăng ký kết hôn, nhưng không đăng ký kịp trong khoảng thời gian 2 năm từ ngày 01/01/2001 đến trước 01/01/2003 thì sẽ được gia hạn đăng ký kết hôn đến trước ngày 01/08/2004. Như vậy trong thời hạn các ben có nghĩa vụ đăng ký kết hôn, tức là trước ngày 01/03/2003 một số trường hợp trước ngày 1/8/2004. Nhà nước vẫn thừa nhận việc nam nữ chung sống như vợ chồng là có quan hệ vợ chồng đối với những trường hợp chưa đăng ký kết hôn. Đây là cách giải quyết linh động nhằm đảm bảo được quyền lợi của hai bên. Nếu hết thời hạn luật định mà nam, nữ chung sống với nhau vẫn không đăng ký kết hôn thì pháp luật sẽ không công nhận họ là vợ chồng.
Theo quy định của luật, người đang chung sống như vợ chồng được coi là có quan hệ vợ chồng, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng khi họ kết hôn hoặc lại chung sống như vợ chồng với người thứ ba. Bởi, mặc dù trong quan hệ đầu tiền, giữa nam và nữ chỉ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn, nhưng nó đã thỏa mãn các yếu tố của một cuộc hôn nhân, được pháp luật công nhận và bảo hộ như các quan hệ vợ chồng pháp luật khác. Vì thế, giữa nam và nữ chung sống như vợ chồng được coi là có quan hệ vợ chồng nên cũng có những quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, nên phải tuân tủ nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Do đó, khi một người đang chung sống như vợ chồng được nhà nước thừa nhận có quan hệ vợ chồng, mà kết hôn với người khác thì lần kết hôn đó là vi phạm điều kiện kết hôn, vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng, và bị coi là kết hôn trái pháp luật. Lần kết hôn sau của người đang chung sống như vợ chồng được thừa nhận là có quan hệ vợ chồng sẽ bị tòa án tuyên bố hủy. Quan hệ chung sống như vợ chồng trước đương nhiên vẫn được pháp luật bảo về. Đối với trường hợp người đang chung sống như vợ chồng được coi là có quan hệ vợ chồng, mà lại chung sống như vợ chồng với người khác, thì Tòa án sẽ ra quyết định không công nhận lần chung sống như vợ chồng sau có quan hệ vợ chồng và yêu cầu các bên chấm dứt hành vi chung sống.
Thực tiễn giải quyết và một số bất cập
3.1. Thực tiễn
Ở nước ta, nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là một nguyên tắc hiến định và dần trở thành nguyên tắc của cuộc sống gia đình, là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh, phát triển bền vững. Tuy nhiên trong thực tế, tình trạng ngoại tình, nam nữ chung sống như vợ chồng ngày càng phổ biến ở nhiều địa phương, nhất là các thành phố lớn.
Việc giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng trong thực tế có nhiều vấn đề còn tồn tại. Cụ thể:
Thứ nhất, các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng xảy ra trong thực tế rất nhiều, trong khi các vụ việc được giải quyết trước pháp luật là rât nhỏ, thông thường các bên tự thỏa thuận giải quyết cho hành vi vi phạm, các bên vẫn tiếp tục chung sống với nhau
Thứ hai, khi người có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật hoặc không công nhận quan hệ vợ chồng đối với một quan hệ nam nữ. Tòa án không ra quyết định đó ngay mà sẽ tiến hành điều tra xem quan hệ nam nữ đó có dấu hiệu vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Do tính chất của quan hệ vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là quan hệ riêng tư, mang tính tình cảm, cá nhân nên các quan hệ này thường ít bộc lộ ra bên ngoài. Không những thế, các đương sự thường có tâm lý muốn che đậy, giấu diếm phần vì họ ngại dư luận xã hội, muốn giữ cho gia đình yên ấm, con cái hòa thuận, phần vì “xấu chàng hổ ai..”
Thứ ba, hiện nay, tình trạng nam nữ chung sống với nhau mà không có đăng ký kết hôn diễn ra ngày càng phổ biến, được coi là bình thường, nhất là ở các thành phố lớn. Đặc biệt ở các vùng núi, vùng dân tộc ít người tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng xuất hiện ngày càng diễn biến phức tạp, khó kiểm soát. Các trường hợp vi phạm không có chiều hướng giảm mà ngày càng tăng xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó một phần là do hoàn cảnh xã hội. Ở nước ta do tác động từ nền kinh tế thị trường đã hình thành trong xã hội một bộ phận dân cư khá giỏi, có lối sống tiêu xài. Cùng với đó là lối sống gấp, sống thực dụng, buông thả trong tầng lớp thanh niên làm cho các trường hợp vi phạm nguyên tắc một vợ một chồng xuất hiện ngày càng phức tạp, với nhiều biến tướng như: góp gạo thổi cơm chung, chấp nhận làm cô vợ hờ không thân phận chỉ để được bao ăn ở. Tuy nhiên đáng buồn là hiện tượng này đang dần trở nên bình thường, vốn thế; đó cũng là vấn đề bức xúc hiện nay của xã hội.
Thứ tư, một thực tế cho thấy là hiện nay có quan hệ hôn nhân hợp pháp vẫn ngang nhiên có quan hệ ngoài hôn nhân. Vì thế, làm cho người còn lại trong quan hệ hôn nhân hợp pháp cảm thấy căng thẳng, đời sống vợ chồng không thể tiếp tục, nên chính họ - người không vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng lại đâm đơn yêu cầu ly hôn. Chính điều này đã giải thoát cho người vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tiếp tục được thực hiện hành vi vi phạm, thậm chí hợp lý hóa quan hệ pháp luật của mình theo quy định tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP
3.2. Những bất cập trong việc giải quyết các trường hợp vi phạm
Mặc dù có nhiều văn bản hướng dẫn khá cụ thể nhưng thực tế vẫn còn bất cập
Về mặt lý luận
Trong quá trình giải quyết các vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng còn nhiều trường hợp các văn bản pháp luật chưa có hướng dẫn cụ thể việc giải quyết tận cùng vấn đề. Cụ thể:
Thứ nhất, theo nghị quyết 35/2000/QH10, trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 thì được nhà nước công nhận là có quan hệ vợ chồng, không phụ thuộc vào việc có đăng ký hay không. Như vậy, nghị quyết chỉ căn cứ vào mốc thời gain các bên bắt đầu chung sống như vợ chồng là có quan hệ vợ chồng hay không. Điều này là không chặt chẽ và không đúng trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau là người có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời hoặc giữa họ đã từng có quan hệ thích thuộc về trực hệ. Do nghị quyết 35 không quy định rõ vấn đề này, nên việc áp dụng có công nhận hay không việc chung sống này giữa những người có quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc về trực hệ là có quan hệ vợ chồng trong thực tế là khác nhau.
Nam nữ có quan hệ huyết thống trong phạm vi có họ ba đời là quan hệ giữa cha mẹ với con cái; ông bà với các cháu; anh, chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; bác ruột, chú ruột, cậu ruột với cháu gái; cô ruột, dì ruột với cháu triai; anh, chị em con chú con bác con cô con câu con dì. Theo khoản d điều 7 luật 1986 quy định: “cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa anh chị em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ hoặc cung mẹ khác cha; giữa những người khác có họ trong phạm vi ba đời”. Đến luật năm 2000 quy định tại khoản 3 điều 10. Đối với quan hệ thích thuộc về trục hệ, Luật 2000 quy định tại khoản 4 điều 10. Nhận thấy khi pháp luật quy định các trường hợp cấm tức là đã cân nhắc kỹ lưỡng tác hại của hành vi đó đến đời sống xã hội nếu không cấm. Việc cấm kết hôn trong các trường hợp này đảm bảo lợi ích gia đình, làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình; phòng ngừa các hành vi vi phạm tội hình sự có thể xảy ra; giữ gìn được các trật tự kỷ cương, tiến bộ của xã hội và phù hợp với đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Đối với trường hợp giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, có họ trong phạm vi ba đời, chung sống như vợ chồng từ trước ngày 1/3/1987 không được chấp nhận là có quan hệ vợ chồng. Bởi vào thời điểm họ bắt đầu chung sống pháp luật đã quy định cấm người có họ quan hệ huyết thống với nhau, họ nhận thức được điều này nhưng vẫn cố tình vi phạm. Việc chung sống này có tính chất loạn luận, ảnh hưởng trực tiếp đến giống nòi sau này. Việc không công nhận ở đây là đảm bảo quá trình áp dụng pháp luật.
Nhưng pháp luật cũng cần quy định chặt chẽ hơn vấn đề này để việc áp dụng pháp luật giải quyết các trường hợp này trong thực tế được thống nhất
Thứ hai, theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP mục 2 điểm d3, trường hợp một người đang có vợ, có chồng nhưng tình trạng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được mà đã kết hôn với người khác. Khi tòa án tiến hành xét xử kết hôn trái pháp luật mà họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần trước kết hôn thì Tòa án không hủy kết hôn sau, là hôn nhân hợp pháp. Quy định này hoàn toàn hợp lý khi tính đến thực chất quan hệ tình cảm của hai người kết hôn trái pháp luật. Tuy nhiên trong thực tế, việc xác định thế nào là “đời sống vợ chồng trầm trọng, hôn nhân không thể kéo dài” là việc xác định khoảng thời gian vợ chồng mâu thuẫn là rất khó khăn và tế nhị. Đây là một kẽ hở của pháp luật, cố tình kết hôn trái pháp luật sau đó lại hợp lý hóa quan hệ trái pháp luật đó bằng việc cho rằng quan hệ hôn nhân trước không hạnh phúc. Vì thế pháp luật cần quy định chặt chẽ hơn vấn đề này để việc áp dụng các quy định để giải quyết vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng giữa các tòa được thống nhất.
Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, liên quan đến việc xác định tình trạng hôn nhân của UBND cấp cơ sở còn nhiều sai sót, lơ mơ, xác nhận không chính xác đã kéo theo hệ lụy phát sinh các trường hợp kết hôn trái pháp luật, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Căn cứ nghị định 158/2005/NĐ-CP khi tiến hành đăng ký kết hôn các bên phải xác nhận tình trạng hôn nhân của mình. Trường hợp một người cư trú ở xã phường thị trấn này nhưng đăng ký kết hôn ở xã, phường thị trấn khác thì phải có xác nhận của UBND này nhưng đăng ký kết hôn ở UBND xã, phường thị trấn khác thì phải có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó. Tuy nhiên qua kiểm tra cho thấy, có nhiều hồ sơ một trong các bên không tiến hành xác nhận tình trạng hôn nhân theo luật định, hoặc có xác nhận tình trạng hôn nhân nhưng đã quá hạn 6 tháng. Lẽ ra, trong trường hựp này phải yêu cầu xác nhận lại tình trạng hôn nhân nhưng cán bộ hộ tịch cơ sở đốt cháy giai đoạn vẫn giải quyết cho đương sự đăng ký kết hôn, điều này không đúng. Trong khi đó, nhiều UBND xã xác nhận tình trạng hôn nhân của đương sự không đầy đủ, “lấp lửng”, hiểu sao cũng được, thậm chí là xác nhận không chính xác. Điều này gây khó khăn cho cơ quan tiếp nhận đồng thời vô tình cấp “giấy thông hành” cho người đang có vợ, có chồng lợi dụng kết hôn với người khác, vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Mà đáng lẽ ra, hậu quả đó có thể ngăn chặn ngay từ khi xin đăng ký kết hôn
Thứ hai, liên quan đến việc xác nhận các bên đăng ký kết hôn có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật, cụ thể là họ có quan hệ huyết thống trong phạm vi ba đời hay đã từng có quan hệ thích thuộc trực hệ hay không. Thông thường khi đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải nộp tờ khải theo mẫu quy định và xuất trình chứng minh thư, nhưng những thủ tục trên không đủ chứng mình là giữa họ không có họ trong phạm vi ba đời hoặc chưa từng có quan hệ thích thuộc về trực hệ với nhau. Bởi việc xác định các mối quan hệ giữa cá nhân với nhua, đặc biệt là quan hệ giữa bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, con riêng của vợ hoặc chồng vời bố dượng, mẹ kế… trong thực tế là vấn đề mang tính tế nhị và phức tạp. Chỉ những người xung quanh mới biết quan hệ của họ, chưa kể các bên che giấu các quan hệ của mình. Chính điều này đã gây không ít khó khăn trong việc áp dụng pháp luật. Điều này đòi hỏi cán bộ tư pháp cấp xã phải thực sự nắm rõ tình trạng trên địa bàn mình quản lý, có như vậy mới đảm bảo việc kết hôn không vi phạm về điều kiện kết hôn.
Thứ ba, trong thực tiễn giải quyết các án kiện về hôn nhân ở các tòa án, đã chỉ ra một hiện tượng: việc hiểu và công nhận trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng là có quan hệ vợ chồng ở TAND các cấp là không thống nhất với nhau. Hai vụ việc với những tình tiết phản ánh mức độ chung sống như vợ chồng là giống nhau nhưng có Tòa lại công nhận là có quan hệ vợ chồng, có Tòa án lại không chấp nhận. Từ nhận định có khác nhau nên cách thức giải quyết của hai Tòa án về nội dung vụ việc là khác nhau. Điều này làm cho rất nhiều các vụ việc nam nữ chung sống như vợ chồng chưa được giải quyết do không thống nhất chung về đường lối xử lý.
Thứ tư, khi công cụ pháp lý bị lãng quên, tính khả thi của các hình thức xử lý vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng tỏng HNGĐ thực tế là chưa cao. Theo Luật, khi giải quyết vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, Tòa án chỉ có thể ra quyết định “ không công nhân quan hệ vợ chồng” đối với trường hợp chung sống trái pháp luật và hủy tuyên bố kết hôn trái pháp luật đối với trường hợp đang có vợ hoặc chồng kết hôn với người khác và ngược lại. Kèm theo đó là yêu cầu các bên chấm dứt hành vi vi phạm của mình mà không có một chế tài bắt buộc, cưỡng chế đảm bảo các bên sẽ thực hiện quyết định của tòa án. Điều này dẫn đến các trường hợp vi phạm chưa giải quyết triệt để, hình thức xử lý vi phạm chưa thực sự có tác dụng cảnh cáo, ngăn chặn các hành vi vi phạm. Trong thực tế, các bên sau khi bị xử lý vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng vẫn cố tình tái phạm, chung sống với nhau như vợ chồng.
Một số giải pháp khắc phục vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, về mặt lý luận, tăng cường hoàn thiện các quy định pháp luật về việc giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng, để giải quyết các trường hợp vi phạm thực sự mang lại hiệu quả cao.
Đối với trường hợp ngoại lệ, người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác và lần kết hôn sau được công nhận là hợp pháp theo NQ02/2000, cần có hướng dẫn cụ thể quan hệ vợ chồng đầu tiên thế nào là “đang trầm trọng, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Từ đo, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan xét xử áp dụng pháp luật để giải quyết các trường hợp vi phạm trong thực tế, đồng thời tránh việc các đương sự lợi dụng quy định này để hợp pháp các quan hệ trái pháp luật.
Pháp luật cần chỉ rõ: trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 theo Nghị quyết 35 mà vi phạm một trong các điều kiện kết hôn như: giữa những người có quan hệ cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; người đang có vợ, đang có chồng chung sống với người khác… thì không thể công nhận có quan hệ vợ chồng.
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động xác nhận tình trạng nhân thân của các cá nhân trên địa bàn UBND xã quản lý, cán bộ hộ tịch cần tăng cường tuyên truyền, giải thích rõ cho hai bên nam, nữ hiểu trước khi đăng ký kết hôn rằng họ phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn trong đó có quy định giữa những người có quan hệ huyết thống hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc trực hệ thì sẽ không được kết hôn bằng văn bản là giữa họ không có quan hệ huyết thông, hoặc chưa từng có quan hệ thích thuộc trực hệ, quan hệ giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi và phải chịu trách nhiệm với cam kết này.
Đặc biệt, quy định cụ thể việc giải quyết các hậu quả pháp lý về tài sản, quyền nuôi con khi các quan hệ nam nữ chung sống chấm dứt. Tạo cơ sở pháp lý giải quyết các quan hệ tranh chấp liên quan đến việc xử lý các trường hợp vi phạm, tránh để những tranh chấp này kéo dài mà vẫn chưa được giải quyết.
Nhà nước cần nghiên cứu và áp dụng chế tài xử lý các trường hợp vi phạm nguyên tắc chặt chẽ và kiên quyết hơn. Có như vậy, việc giải quyết các trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng mới thực sự thỏa đáng, răn đe và ngăn chặn các hành vi vi phạm trong tương lai. Từ đó nâng cao ý thức của người dân trong việc tôn trọng và tuân thủ.
Thứ hai, xác định rõ trách nhiệm, tăng cường công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực HNGĐ, phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc phát hiện và giải quyết vi phạm. Bên cạnh đo, hoàn thiện cả về tổ chức lẫn con người, nhất là cán bộ hộ tịch ở cấp cơ sở. Tổ chức đợt huấn luyện nghiệp vụ cho cán bộ hộ tịch cấp cơ sở, nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, nâng cao mức trợ cấp cho họ để yên tâm công tác. Đồng thời cần thường xuyên kiểm tra, giám sát kịp thời phát hiện ra nhưng sai phạm trong quản lý hộ tịch, từ đó loại trừ dần các trường hợp kết hôn trái pháp luật do vi phạm nguyên tăc.
Thứ ba, tăng cường vai trò của tổ chức, cá nhân trong việc tham gi vào việc khởi kiện, yêu cầu tòa án hủy kết hôn trái pháp luật, không công nhận quan hệ vợ chồng theo điều 15 để các trường hợp vi phạm kịp thời được phát hiện và xử lý đạt hiệu quả cao. Đồng thời, đối với trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng được pháp luật công nhận có quan hệ hôn nhân hợp pháp thì cần có cách nhìn cởi mở hơn. Đặc biệt khi các bên xảy ra tranh chấp có yêu cầu tòa án giải quyết thì các yêu cầu của họ phải tiến hành một cách công tâm để họ không cảm thấy “ ngại” trước Tò, đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng các bên.
Thứ tư, nhằm đảm bảo tính khả thi trong các quyết định xử lý các trường hợp vi phạm, cần nâng cao ý thực của chính cặp vợ chồng trong hôn nhân hợp pháp, để họ tham gia phối hợp vào việc giám sát, nhắc nhở cá nhân vi phạm, ngăn chăn các trường hợp vi phạm tiếp tục xảy ra.
Thứ năm, nhà nước cần chú trọng mở rộng, nâng cao nhận thức của đồng bảo dân tộc thiểu số, đưa các quy định pháp luật đến với đồng bào. Tích cực đổi mới các hình thức tuyên truyền pháp luật đa dạng, linh động cả về nội dung và hình thực, phù hợp với mỗi vùng miền nhằm đật hiệu quả tuyên truyền cao nhất. Mặt khác, động viên kịp thời những tấm gương tuyên truyền, thuyết phụ người dân tuân thủ luật HNGĐ của gia làng, trưởng bản…
Kết luận
Nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng là nguyên tắc tiến bộ đối với bất kỳ xã hội nào, nhưng vi phạm nguyên tắc này gần như là tất yếu của xã hội trong nền kinh tế thị trường, thậm chí nó tồn tại không phụ thuộc vào trình độ dân trí, ý thức pháp luật người dân cao hay thấp. Do đó, chỉ bằng các quy định pháp luật mà xóa bỏ hẳn hiện tượng này là điều không khả thi. Nhà nước cần có những giải pháp tích cực về văn hóa, phổ biến và giáo dục pháp luật cho sâu rộng người dân, nhất là tầng lớp thanh niên, để họ hiểu rằng: “nhà nước tôn trọng quyền tự do cá nhân của họ nhưng không thừa nhận lợi ích ích kỷ cá nhân, buộc mọi công dân phải có trách nhiệm với lợi ích chung của cộng đồng”. Từ đó cần có thái độ tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bt hkỳ HN&GĐ 9 điểm- Chế độ hôn nhân một vợ một chồng - Lý luận và thực tiễn.doc