Có thể thấy rằng, vốn kinh doanh của các tổ chức tín dụng chủ yếu là nguồn vốn huy động. Do đó, nghiệp vụ huy động vốn được coi là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các tổ chức tín dụng, nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Phát hành giấy tờ có giá chính là một trong những hình thức huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Hoạt động này chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật nhằm đảm bảo cho các tổ chức tín dụng có thể thực hiện hoạt động phát hành giấy tờ có giá tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật, đảm bảo sự kiểm soát hiệu quả của Nhà nước.
Để tìm hiểu về chế độ pháp lý của hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng, chúng ta cần xem xét những nội dung cụ thể sau đây:
II./ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.Các loại giấy tờ có giá và các hình thức phát hành
a) Các loại giấy tờ có giá
Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước ban hành kèm quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN thì giấy tờ có giá do các TCTD phát hành bao gồm:
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4852 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chế độ pháp lý hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI LÀM
Có thể thấy rằng, vốn kinh doanh của các tổ chức tín dụng chủ yếu là nguồn vốn huy động. Do đó, nghiệp vụ huy động vốn được coi là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các tổ chức tín dụng, nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Phát hành giấy tờ có giá chính là một trong những hình thức huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Hoạt động này chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật nhằm đảm bảo cho các tổ chức tín dụng có thể thực hiện hoạt động phát hành giấy tờ có giá tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật, đảm bảo sự kiểm soát hiệu quả của Nhà nước.
Để tìm hiểu về chế độ pháp lý của hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng, chúng ta cần xem xét những nội dung cụ thể sau đây:
I./ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Khái niệm và các hình thức huy động vốn của tổ chức tín dụng
Khi nền sản xuất hàng hoá hình thành, phát triển thì tiền tệ xuất hiện và nghề kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Sự phát triển của nghề kinh doanh tiền tệ dẫn đến sự xuất hiện của những tổ chức chuyên thực hiện hoạt động thu nhận nhận các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng, làm các dịch vụ tiền tệ khác. Người ta gọi đó là các tổ chức tín dụng (TCTD).
Hoạt động của các TCTD rất đa dạng và đã góp phần quan trọng trong việc luân chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế và tạo ra những tiện ích cho người dân. Một trong những hoạt động đầu tiên và được biết đến một cách phổ biến, luôn gắn liền với các TCTD là hoạt động huy động vốn.
Pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm của thể của "hoạt động huy động vốn của các TCTD" mà mới chỉ ra các hình thức huy động vốn được phép của từng loại hình TCTD. Nhưng có thể hiểu khái quát: Hoạt động huy động vốn của TCTD là việc các TCTD tập trung các khoản tiền từ tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thông qua bốn hình thức huy động vốn cơ bản - đó là:
Huy động vốn bằng nhận tiền gửi;
Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá;
Huy động vốn bằng vay vốn của các TCTD;
Huy động vốn bằng vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
Như vậy, phát hành giấy tờ có giá là một trong những hình thức huy động vốn của TCTD. Hình thức huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá thường được sử dụng khi TCTD đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn, với thời hạn giải ngân cụ thể của khách hàng. Do có những điểm đặc thù so với các hình thức huy động vốn khác, hoạt động phát hành giấy tờ có giá có quy chế pháp lý riêng.
2. Hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng
a) Khái niệm
Hiện nay, việc huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá của các TCTD được điều chỉnh chủ yếu trong Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD ban hành kèm quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2008 củaThống đốc Ngân hàng Nhà nước và Thông tư số 16/2009/TT-NHNN ngày 11/08/2009 của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2008 củaThống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Theo quy chế này thì: "Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong khoảng thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua".
Như vậy, về bản chất, giấy tờ có giá chính là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vay vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó, TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định.
Khái niệm "hoạt động phát hành giấy tờ có giá" được xem xét trên hai phương diện:
Về phương diện kinh tế, hoạt động phát hành giấy tờ có giá được hiểu là một nghiệp vụ huy động vốn của TCTD. Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua việc TCTD phát hành ra công chúng các giấy tờ có giá dưới dạng chứng khoán nợ để vay tiền của công chúng, với cam kết hoàn trả số tiền đó kèm theo một khoản tiền lãi vào ngày đáo hạn.
Về phương diện pháp lý, hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD được hiểu là hành vi pháp lý trong đó TCTD cam kết vay tiền của khách hàng trong một thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn trả cho khách hàng số tiền ghi trên chứng thư nhận nợ do TCTD phát hành.
Bằng cách huy động vốn này, TCTD có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn. Khi tiến hành huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá, các TCTD thường phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Bởi vậy, nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi TCTD thiếu vốn, đồng thời, khi huy động vốn theo hình thức này, TCTD phải căn cứ bào khả năng đầu ra để quyết định khối lượng vốn huy động, mức lãi suất, thời hạn và phương pháp huy động vốn.
b) Đặc điểm
Hoạt động huy động vốn thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá là việc các TCTD vay vốn của các tổ chức, cá nhân thông qua việc phát hành các loại giấy tờ có giá với sự chấp nhận của Ngân hàng Nhà nước hoặc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Hoạt động này có những đặc điểm cơ bản sau:
Về bản chất pháp lý: Việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD ra công chúng thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi "bán" giấy tờ có giá cho khách hàng. Bởi trong quan hệ giao dịch này, TCTD không hề có quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá do mình tự phát hành, nên không thể đóng vai trò là người bán trong quan hệ này. Đồng thời, trước khi giấy tờ có giá được chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một chứng thư xác nhận quyền chủ nợ và khi TCTD chưa nhận được nguồn tiền tệ do khách hàng chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có giá trị thực tế - nghĩa là không thể hối đoái chúng thành tiền hay các tài sản có giá trị tương đương với số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Chỉ khi nàp khách hàng chấp nhận trao đổi chứng thư đó với TCTD bằng số tiền tương đương với mệnh giá của chứng thư thì chứng thư này mới thực sự có giá trị và mới phản ảnh đúng tên gọi của nó - "giấy tờ có giá".
Về đối tượng của giao dịch phát hành giấy tờ có giá: Mặc dù tên gọi của giao dịch là "phát hành giấy tờ có giá" nhưng đối tượng của giao dịch này lại không phải là các "giấy tờ có giá" do TCTD phát hành, mà chính là khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền sở hữu cho TCTD với điều kiện TCTD phải hoàn trả cho khách hàng sau một thời gian nhất định, kèm theo đó là khoản lãi do các bên thoả thuận. Về lý thuyết, tuy không phải là đối tượng của giao dịch nhưng các chứng thư này được coi là hình thức pháp lý của giao dịch, đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các chứng thư này cũng được coi là một loại “tiền ngân hàng” nhưng không phải là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành, mà là tiền được tạo ra bởi TCTD trong quá trình huy động vốn, thông qua chức năng “tạo tiền” của TCTD. Trên thực tế, các chứng thư nhận nợ do TCTD phát hành ra công chúng có thể là chứng khoán nợ ngắn hạn - có thời hạn thanh toán dưới 1 năm (ví dụ chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn); kỳ phiếu ngân hàng hay tín phiếu của tổ chức tín dụng, hoặc là chứng khoán nợ dài hạn - có thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên (ví dụ chứng thư tiền gửi dài hạn hoặc trái phiếu ngân hàng…). Sự phân biệt giữa hai loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác định cơ chế phát hành và lưu thông chúng như thế nào sau khi đã được phát hành trên thị trường bởi TCTD (phát hành và bán lại cho ai, ở đâu và bằng cách nào?).
Về tư cách pháp lý: trong giao dịch phát hành giấy tờ có giá thì TCTD có tư cách là người vay, còn khách hàng "mua" giấy tờ có giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của TCTD. Mặc dù có tư cách là người cho vay nhưng do giao dịch này được ngân hàng và khách hàng xác lập, thực hiện thông qua một hợp đồng cho vay có thời hạn xác định nên về nguyên tắc, khách hàng cho vay không thể rút vốn về trước kỳ hạn như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ hạn tại ngân hàng. Nếu muốn thu hồi vốn về trước kỳ hạn, cách duy nhất là người sở hữu giấy tờ có giá (bên cho vay) ký hợp đồng chuyển nhượng chứng thư đó cho người khác - chẳng hạn, có thể “bán” cho ngân hàng thương mại theo phương thức chiết khấu hoặc bán cho các tổ chức, cá nhân khác theo phương thức thông thường trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán.
c) Vai trò của hoạt động phát hành giấy tờ có giá
Qua sự phân tích những đặc điểm cơ bản trên, có thể thấy rằng, cùng với nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi, nguồn vốn huy động từ việc phát hành giấy tờ có giá cũng giữ một vị trí quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn kinh doanh của TCTD. Đây là nguồn vốn ảnh hưởng lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của TCTD. Nguồn vốn này có xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu hướng tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế, với việc cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ của TCTD, với việc gia tăng nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngày càng đa dạng, các ngân hàng đã phát hành nhiều loại giấy tờ có giá trên thị trường với thời hạn, mệnh giá, lãi suất và khả năng chuyển nhượng khác nhau. Có thể lấy ví dụ: Ở Hoa Kỳ, các ngân hàng thương mại có phát hành chứng thư tiền gửi ngắn hạn (CDs) với giá trị bề mặt tối thiểu là 100.000 USD, trong khi ở Anh các ngân hàng thương mại lại có thể phát hành các trái phiếu ngân hàng có thời hạn hoặc không có thời hạn có lãi suất thả nổi. Còn ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, các ngân hàng thương mại đã bắt đầu phát hành một số loại chứng khoán nợ ra công chứng như kỳ phiếu ngân hàng có mục đích, trái phiếu ngân hàng thương mại. Mặc dù có tên gọi khác nhau nhưng hầu như tất cả các giấy tờ có giá trên đều có chung bản chất - đó là các chứng khoán nợ trong đó phản ánh việc ngân hàng mắc nợ người sở hữu chứng khoán một số tiền nhất định với nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi chứng khoán vào một ngày nhất định trong tương lai.
II./ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Các loại giấy tờ có giá và các hình thức phát hành
a) Các loại giấy tờ có giá
Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước ban hành kèm quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN thì giấy tờ có giá do các TCTD phát hành bao gồm:
Giấy tờ có giá ngắn hạn: là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một 1 năm bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác (Khoản 2 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD).
Giấy tờ có giá dài hạn: là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác (Khoản 3 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD).
b) Các hình thức phát hành của giấy tờ có giá
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có ghi danh hoặc không ghi danh. "Giấy tờ có giá ghi danh" là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu."Giấy tờ có giá vô danh" là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá. Cụ thể là:
Hình thức chứng chỉ: Khoản 1, Điều 8 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD quy định giấy tờ có giá phát hành dưới hình thức chứng chỉ phải có các yếu tố sau:
- Tên tổ chức tín dụng phát hành;
- Tên gọi giấy tờ có giá (kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi dài hạn, trái phiếu …);
- Mệnh giá;
- Thời hạn;
- Ngày phát hành;
- Ngày đến hạn thanh toán;
- Lãi suất: Phương thức trả lãi, Thời điểm, địa điểm trả lãi;
- Địa điểm thanh toán tiền gốc giấy tờ có giá;
- Ghi rõ là giấy tờ có giá ghi danh hoặc vô danh. Trường hợp là giấy tờ có giá ghi danh ghi rõ: Tên tổ chức, số giấy phép thành lập hoặc giấy phép đăng ký kinh doanh, địa chỉ của tổ chức mua giấy tờ có giá (nếu người mua là tổ chức); Tên, số chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, địa chỉ của người mua giấy tờ có giá (nếu người mua là cá nhân);
- Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi phải ghi rõ: Thời hạn chuyển đổi trái phiếu, tỷ lệ chuyển đổi trái phiếu. “Trái phiếu chuyển đổi” là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của cùng một tổ chức tín dụng phát hành theo các điều kiện đã được xác định trong phương án phát hành;
- Đối với phát hành trái phiếu kèm chứng quyền phải ghi rõ: Điều kiện được mua cổ phiếu phổ thông của người sở hữu chứng quyền, số lượng cổ phiếu được mua của từng đơn vị chứng quyền, các quyền lợi và trách nhiệm khác của người nắm giữ chứng quyền. “Chứng quyền” là loại chứng khoán phát hành kèm theo trái phiếu xác định quyền của người sở hữu trái phiếu được mua một khối lượng cổ phiếu phổ thông nhất định theo các điều kiện đã xác định;
- Chữ ký của Tổng Giám đốc hay người được ủy quyền và các chữ ký khác do tổ chức tín dụng quy định;
- Ký hiệu, số sê-ri phát hành;
- Các điều kiện, điều khoản về chuyển nhượng, chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá tại chính tổ chức tín dụng phát hành; Xử lý đối với các trường hợp rủi ro, các trường hợp không được thanh toán. Giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ phải được thiết kế và in ấn để đảm bảo khả năng chống giả cao.
Ngoài các yếu tố trên, tổ chức tín dụng phát hành có thể quy định thêm các nội dung ghi chú, chỉ dẫn khác liên quan đến giấy tờ có giá.
Hình thức ghi sổ: Được quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD "Đối với giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ, các yếu tố quy định tại Khoản 1 Điều này phải được ghi vào trong giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá".
Như vậy, trường hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, TCTD phải cấp giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá cho người mua
Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua, bán, tặng, cho, trao đổi, thừa kế hoặc người sở hữu giấy tờ có giá có thể dùng làm vật cầm cố...
Các điều kiện phát hành giấy tờ có giá
a) Điều kiện về đối tượng phát hành giấy tờ có giá và đối tượng mua giấy tờ có giá
Đối tượng được phát hành giấy tờ có giá: được quy định tại Điều 2 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD, bao gồm:
Các TCTD được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng hiện hành: TCTD Nhà nước; TCTD cổ phần; TCTD liên doanh; Quỹ tín dụng nhân dân trung ương; các TCTD 100% vốn nước ngoài và các chi nhành ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam;
Riêng công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, loại giấy tờ có giá và thời hạn giấy tờ có giá được phép huy động thực hiện theo quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
Đối tượng mua giấy tờ có giá: được quy định cụ thể tại Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD, bao gồm:
Tổ chức, cá nhân Việt Nam; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
Tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và không hoạt động tại Việt Nam. Đối với người mua giấy tờ có giá là tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức tín dụng chỉ được phát hành giấy tờ có giá ghi danh.
b) Điều kiện phát hành đối với từng loại giấy tờ có giá
Như đã phân tích ở trên, giấy tờ có giá được phân chia thành hai loai, đó là: giấy tờ có giá dài hạn và giấy tờ có giá ngắn hạn. Và pháp luật cũng có những quy định cụ thể về điều kiện phát hành đối với từng loại giấy tờ có giá trên. Cụ thể là:
Điều kiện phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn: được quy định cụ thể tại Điều 18 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD "Tổ chức tín dụng được phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn khi tuân thủ đầy đủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước". Những quy định hạn chế bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng được quy định tại Mục 5 Chương III của Luật các tổ chức tín dụng hiên hành. Theo đó, TCTD muốn phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn phải đảm bảo quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn (Điều 81); quy định về dự phòng rủi ro (Điều 82).
Điều kiện phát hành giấy tờ có giá dài hạn: được quy định tại Điều 22 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD và Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN. Cụ thể là:
Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Giống với điều kiện phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, những quy định này là nhằm dự phòng những rủi ro trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung - một hoạt động luôn tiềm ẩn những rủi ro.
Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày tổ chức tín dụng chính thức đi vào hoạt động.
Kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi. Đây là điểm mới sửa đổi, bổ sung của Thông tư số 16/2009/TT-NHNN nhằm tạo điều kiện cho các TCTD phát hành GTCG dài hạn, đồng thời đảm bảo khả năng chi trả của các TCTD đối với các khoản huy động vốn từ hoạt động phát hành giấy tờ có giá, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính của tổ chức tín dụng.
Có thể thấy rằng, điều kiện phát hành giấy tờ có giá dài hạn được quy định chặt chẽ hơn so với điều kiện phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Điều này xuất phát từ đặc trưng của từng loại giấy tờ có giá được pháp luật quy định, đảm bảo tính phù hợp trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá.
Điều kiện phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền: được quy định tại Điều 26, 27 và 28 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD và Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN. Theo đó:
Đối tượng phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền là các TCTD cổ phần (Điều 26);
Pháp luật có quy định cụ thể về giới hạn đối với người mua trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu kèm chứng quyền: "Đối với người mua trái phiếu chuyển đổi hoặc mua trái phiếu kèm chứng quyền là tổ chức, cá nhân nước ngoài, khi đến thời hạn chuyển đổi thành cổ phiếu hoặc đến thời hạn mua cổ phiếu phải đảm bảo phù hợp với quy định hiện hành của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam và các văn bản pháp luật có liên quan" (Khoản 1 Điều 27); "Đối với người mua trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền là các tổ chức tín dụng, khi đến thời hạn chuyển đổi thành cổ phiếu hoặc đến thời hạn mua cổ phiếu phải phù hợp với quy định hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng và của Ngân hàng Nhà nước về giới hạn góp vốn, mua cổ phần và các văn bản pháp luật có liên quan" (Khoản 2 Điều 27). Đây là những quy định nhằm đảm bảo việc mua trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của các đối tượng là tổ chức, cá nhân nước ngoài và các TCTD phải phù hợp với các quy định khác của pháp luật.
Tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 28 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD và Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN. Cụ thể là:
Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày tổ chức tín dụng chính thức đi vào hoạt động.
Phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính được Đại hội đồng cổ đông thông qua và được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất dưới 5% (Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN)
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của 3 năm liên tiếp trước đó phải cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền. Đối với chức tín dụng có thời gian hoạt động từ 2 đến dưới 3 năm, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của 2 năm liên tiếp trước đó phải cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền. Đối với tổ chức tín dụng có thời gian hoạt động dưới 2 năm, tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của năm trước đó phải cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền.
Được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính của tổ chức tín dụng. Nếu phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua có thay đổi, tổ chức tín dụng phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước (Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng) để Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét chấp thuận (Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN)
Có thể nhận thấy những quy định của pháp luật về việc phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền là rất chặt chẽ, đảm bảo được sự chứng minh tài chính của các TCTD cũng như phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.
c) Điều kiện về trình tự, thủ tục phát hành giấy tờ có giá
Theo quy định pháp luật, trình tự, thủ tục phát hành giấy tờ có giá cũng được quy định cụ thể đối với từng loại giấy tờ có giá. Đó là:
Đối với phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn: được quy định tại Điều 19 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD. Pháp luật quy định quyền chủ động tổ chức các đợt phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn trong năm cho các TCTD. Tuy nhiên, trước thời điểm phát hành từng đợt ít nhất là 3 ngày làm việc, TCTD phải gửi Thông báo phát hành của đợt phát hành dự kiến về Ngân hàng Nhà nước (Vụ Chính sách tiền tệ). Thông báo này bao gồm những nội dung sau:
Tên tổ chức tín dụng phát hành;
Tên gọi giấy tờ có giá;
Tổng mệnh giá của đợt phát hành;
Phương thức phát hành;
Hình thức phát hành;
Địa điểm phát hành;
Thời hạn giấy tờ có giá;
Thời hạn phát hành;
Lãi suất;Phương thức trả lãi, Thời điểm, địa điểm trả lãi;
Địa điểm thanh toán tiền gốc giấy tờ có giá;
Các nội dung thông báo khác của tổ chức tín dụng phát hành.
Đối với phát hành giấy tờ có giá dài hạn: Pháp luật có những quy định rất chặt chẽ về từng bước mà các TCTD phải thực hiện nhằm tiến hành hoạt động phát hành giấy tờ có giá dài hạn; bao gồm những bước sau:
Bước 1: Nộp hồ sơ phát hành giấy tờ có giá dài hạn với đầy đủ những giấy tờ quy định tại Điều 23 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD:
Đề nghị phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính.
Phương án phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính, trong đó nêu rõ mục đích phát hành, phương án sử dụng vốn thu được từ phát hành giấy tờ có giá dài hạn; Tổng mệnh giá phát hành, mệnh giá, tên gọi của giấy tờ có giá, đồng tiền phát hành, địa điểm phát hành, phương thức phát hành, hình thức phát hành, thời hạn, lãi suất, phương thức trả lãi, địa điểm trả gốc và lãi, người mua giấy tờ có giá, số lượng và thời gian dự kiến của từng đợt phát hành; Các điều kiện và điều khoản về quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng và người mua. Phương án phát hành giấy tờ có giá dài hạn phải được Hội đồng quản trị thông qua.
Phương án phát hành trái phiếu để bổ sung vốn tự có của tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước phải được Bộ Tài chính chấp thuận.
Các báo cáo tài chính của hai năm liên tục gần nhất được kiểm toán và tính đến thời điểm có đơn đề nghị phát hành. Các tổ chức tín dụng có thời gian hoạt động dưới 2 năm gửi các báo cáo tài chính từ khi bắt đầu hoạt động đến thời điểm có đơn đề nghị phát hành. Nội dung của các báo cáo tài chính thực hiện theo quy định hiện hành của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về chế độ báo cáo đối với các tổ chức tín dụng. Trường hợp nộp hồ sơ phát hành trong Quý I hàng năm, tổ chức tín dụng có thể nộp báo cáo tài chính của năm trước đó chưa được kiểm toán và phải nộp các báo cáo tài chính được kiểm toán ngay sau khi hoàn tất kiểm toán.
Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có).
Kế hoạch kinh doanh, kế hoạch nguồn vốn và sử dụng vốn của năm tài chính.
Điều lệ và Giấy phép hoạt động (đối với tổ chức tín dụng phát hành lần đầu).
Các thay đổi về bộ máy tổ chức và các thay đổi khác (nếu có).
Bước 2: Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét và ra quyết định về việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính của TCTD. Thời hạn xem xét và ra quyết định về việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính của tổ chức tín dụng không quá 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ đề nghị phát hành của TCTD (Điều 24 Quy chế).
Bước 3: Sau khi có quyết định phê duyệt của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, TCTD chủ động tổ chức các đợt phát hành giấy tờ có giá dài hạn trong phạm vi kế hoạch phát hành của năm tài chính đã được xét duyệt (Điều 25 Quy chế).
Trường hợp tổ chức tín dụng đã được chấp thuận kế hoạch phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính nhưng không tổ chức phát hành phải báo cáo Ngân hàng Nhà nước (Vụ Chính sách tiền tệ).
Trường hợp TCTD tiến hành phát hành giấy tờ có giá, trước thời điểm phát hành ít nhất 3 ngày làm việc, tổ chức tín dụng phải gửi Thông báo phát hành giấy tờ có giá dài hạn của đợt phát hành dự kiến về Ngân hàng Nhà nước (Vụ Chính sách tiền tệ).
Tổ chức tín dụng chỉ được phát hành vượt quá kế hoạch đã được xét duyệt khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Hồ sơ đề nghị xem xét bổ sung kế hoạch phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính bao gồm: Đơn đề nghị phát hành giấy tờ có giá dài hạn bổ sung, kế hoạch phát hành giấy tờ có giá dài hạn điều chỉnh, kế hoạch kinh doanh của năm tài chính điều chỉnh.
Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền: các TCTD cổ phần cũng tiến hành các bước như đối phát hành giấy tờ có giá dài hạn:
Nộp hồ sơ phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền với đầy đủ giấy tờ quy định tại Điều 29, 30, 32 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD và Khoản 3 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN, gồm:
Đề nghị phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính.
Phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền được Đại hội đồng cổ đông thông qua và được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Phương án phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính.
Các báo cáo tài chính của hai năm liên tục gần nhất được kiểm toán và tính đến thời điểm có đơn đề nghị phát hành.
Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có).
Kế hoạch kinh doanh, kế hoạch nguồn vốn và sử dụng vốn của năm tài chính.
Điều lệ và Giấy phép hoạt động (đối với tổ chức tín dụng phát hành lần đầu).
Các thay đổi về bộ máy tổ chức và các thay đổi khác (nếu có).
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét và ra quyết định về việc phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính của TCTD trong thời hạn không quá 45 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ đề nghị phát hành của TCTD. Đây cũng là điểm sửa đổi của Thông tư số 16/2009/TT/NHNN nhằm đảm bảo thời gian xem xét của Thống đốc Ngân hàng đối với hồ sơ đề nghị của các TCTD một cách hợp lý và có hiệu quả hơn.
Sau khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước phê duyệt, TCTD cũng được quyền chủ động tổ chức các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền trong phạm vi kế hoạch phát hành của năm tài chính đã được xét duyệt. Các bước tiếp theo đều tương tự như trường hợp phát hành giấy tờ có giá dài hạn.
d) Điều kiện về mệnh giá của giấy tờ có giá
"Mệnh giá" là số tiền gốc được in sẵn hoặc ghi trên giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ.
"Tổng mệnh giá" là tổng các mệnh giá của các giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành trong một năm.
Giấy tờ có giá được phát hành bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ hoặc trong một đợt phát hành.
Điều 17 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD quy định về mênh giá của giấy tờ ngắn hạn: "Mệnh giá của giấy tờ có giá ngắn hạn được in sẵn hoặc theo thoả thuận của tổ chức tín dụng phát hành đối với người mua".
Điều 20 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD có quy định cụ thể về mệnh giá của giấy tờ dài hạn, bao gồm:
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn bằng đồng Việt Nam phát hành theo hình thức chứng chỉ tối thiểu là một trăm ngàn đồng. Các mệnh giá lớn hơn mệnh giá tối thiểu phải là bội số của mệnh giá tối thiểu.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn bằng ngoại tệ phát hành theo hình thức chứng chỉ tối thiểu là một trăm đô la Mỹ hoặc ngoại tệ khác tương đương. Các mệnh giá lớn hơn mệnh giá tối thiểu phải là bội số của mệnh giá tối thiểu.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn là trái phiếu phát hành theo hình thức chứng chỉ được in sẵn trên giấy tờ có giá.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn là chứng chỉ tiền gửi dài hạn phát hành theo hình thức chứng chỉ được in sẵn hoặc theo thỏa thuận của tổ chức tín dụng phát hành với người mua.
Mệnh giá của giấy tờ có giá dài hạn phát hành theo hình thức ghi sổ do tổ chức tín dụng phát hành thỏa thuận với người mua.
Như vậy, pháp luật đã quy định rõ về điều kiện về mệnh giá đối với giấy tờ có giá. Khi muốn tiến hành hoạt động này, các TCTD cần phải đảm bảo được yêu cầu này của pháp luật.
Các TCTD huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá phải có trách nhiệm công bố công khai về việc phát hành giấy tờ có giá theo quy định, phải thanh toán cả tiền gốc và tiền lãi đúng hạn và đầy đủ cho người sở hữu giấy tờ có giá và phải thực hiện chế độ báo cáo kết quả phát hành cho Ngân hàng Nhà nước theo quy định. Những quy định trên là nhằm đảm bảo khả năng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD.
3. Phương thức phát hành giấy tờ có giá
Các tổ chức tín dụng có thể thực hiện phát hành giấy tờ có giá theo các phương thức quy định cụ thể tại Chương V của Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD, từ Điều 34 đến Điều 39. Cụ thể là các phương thức sau:
a) Phương thức trực tiếp phát hành giấy tờ có giá
Theo quy định tại Khoản 19 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của các TCTD, thì "Trực tiếp phát hành giấy tờ có giá" là việc tổ chức tín dụng tự tổ chức thực hiện phát hành giấy tờ có giá cho người mua giấy tờ có giá.
Điều 35 Quy chế đã chỉ rõ: "Tổ chức tín dụng trực tiếp tổ chức thực hiện việc phát hành giấy tờ có giá cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện tổ chức tín dụng". Quy định này là rất hợp lý bởi mỗi TCTD có những đặc điểm, điều kiện riêng trong tổ chức và hoạt động của mình. Do đó, tuỳ theo từng điều kiện ở mỗi TCTD, mà các tổ chức này tự tiến hành hoạt động trực tiếp phát hành giấy tờ có giá một cách chủ động và hiệu quả nhất.
b) Phương thức bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá
"Bảo lãnh phát hành" là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức tín dụng phát hành thực hiện các thủ tục trước khi phát hành giấy tờ có giá nhận mua một phần hay toàn bộ giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để bán lại hoặc mua số giấy tờ có giá còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức tín dụng phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức tín dụng phát hành trong việc phân phối giấy tờ có giá (Khoản 21 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD).
Điều 36 và 37 Quy chế này cũng có những quy định cụ thể về phương thức này. Cụ thể là:
Các tổ chức bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá gồm các TCTD, công ty chứng khoán được phép hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán và các định chế tài chính khác theo quy định tại giấy phép hoạt động. Các ngân hàng thương mại thực hiện bảo lãnh phát hành trái phiếu ra công chúng phải được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp nhận theo điều kiện do Bộ Tài Chính quy định.
Việc bảo lãnh có thể do một hoặc một số tổ chức đồng thời thực hiện. Trường hợp nhiều tổ chức cùng thực hiện bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá, thực hiện theo phương thức đồng bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá.
Tổ chức bảo lãnh phát hành thực hiện theo đúng cam kết bảo lãnh phát hành với tổ chức tín dụng.
Phí bảo lãnh phát hành do tổ chức tín dụng phát hành thỏa thuận với tổ chức bảo lãnh phát hành giấy tờ có giá.
c)Phương thức đại lý phát hành giấy tờ có giá
Theo Khoản 20 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD thì "Đại lý phát hành" là việc tổ chức đại lý phát hành thực hiện việc bán giấy tờ có giá cho người mua giấy tờ có giá theo sự ủy quyền của tổ chức tín dụng phát hành.
Điều 38 Quy chế này có quy định cụ thể về phương thức phát hành giấy tờ có giá này, với những nội dung sau:
Tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá có thể ủy quyền cho một hoặc một số tổ chức cùng làm nhiệm vụ đại lý phát hành giấy tờ có giá.
Tổ chức đại lý phát hành thực hiện bán giấy tờ có giá cho người mua giấy tờ có giá theo đúng cam kết với tổ chức tín dụng phát hành. Trường hợp không bán hết, tổ chức đại lý phát hành được trả lại cho tổ chức tín dụng phát hành số giấy tờ có giá còn lại.
Phí đại lý phát hành giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành thỏa thuận với tổ chức đại lý phát hành giấy tờ có giá.
d)Phương thức đấu thầu giấy tờ có giá
"Đấu thầu giấy tờ có giá" là việc lựa chọn các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu đáp ứng đủ yêu cầu của tổ chức tín dụng phát hành (Khoản 22 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD).
Điều 39 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD quy định về phương thức này, cụ thể là:
Các phương thức đấu thầu mà TCTD phát hành giấy tờ có giá được lựa chọn, đó là:
Đấu thầu trực tiếp tại tổ chức tín dụng phát hành giấy tờ có giá.
Đấu thầu thông qua các tổ chức tài chính trung gian.
Đấu thầu thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán, Sở Giao dịch chứng khoán.
Tổ chức tín dụng tự quyết định hình thức đấu thầu giấy tờ có giá và xây dựng quy trình đấu thầu cụ thể cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh doanh của đơn vị mình và các văn bản pháp luật có liên quan.
Việc tổ chức đấu thầu phải đảm bảo nguyên tắc bí mật về thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu và bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.
Phí đấu thầu giấy tờ có giá do tổ chức tín dụng phát hành thỏa thuận với tổ chức được ủy quyền tổ chức đấu thầu giấy tờ có giá.
Như vậy, có thể thấy rằng, pháp luật đã có những quy định rất cụ thể đối với từng phương thức phát hành giấy tờ có giá. Đây chính là cơ sở pháp lý cho các TCTD khi thực hiện hoạt động phát hành giấy tờ có giá theo những phương thức này.
Từ sự phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD, có thể thấy rằng pháp luật nước ta đã có những quy định tương đối đầy đủ và chặt chẽ về hoạt động này, đảm bảo cho hình thức huy động vốn này được tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định nhưng vẫn đảm bảo được tính chủ động của các TCTD và sự kiểm soát, theo dõi chung của Ngân hàng Nhà nước đối với các hoạt động này.
III./ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Thực trạng pháp luật về hoạt động phát hành giấy tờ có giá
a) Những thành tựu
Về quy định pháp luật: Có thể thấy rằng, ở Việt Nam, giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD được quy định lần đầu tiên tại Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính. Sau đó, văn bản này được cụ thể hoá bằng các Quyết định số 212/QĐ-NH1 ngày 22/9/1994; Quyết định số 214/QĐ-NH1 ngày 23/9/1994; Quyết định số 243/QĐ-NH1 ngày 30/3/1994 và Quyết định số 247/QĐ-NH1 ngày 05/10/1994 về việc cho phép các TCTD, ngân hàng đầu tư phát triển được phát hành trái phiếu ngân hàng cho các tổ chức, cá nhân Việt Nam để huy động vốn trung hạn và dài hạn trên thị trường vốn. Gần đây, giao dịch phát hành trái phiếu ngân hàng và các giấy tờ có giá khác lại tiếp tục được quy định trong Luật Các TCTD ban hành ngày 12/12/1997 (đạo luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2004) và được cụ thể hoá bằng các văn bản dưới luật như Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại (khoản 2 Điều 3); Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/3/1999 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động của TCTD nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt Nam (khoản 2 Điều 30); Quyết định số 1287/2002/QĐ-NHNN ngày 22/11/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước. Sau đó, văn bản này đã bị thay thế bởi Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước (sau đây gọi tắt: Quyết định số 02). Gần đây nhất, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/3/2008 ban hành Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD thay thế cho Quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN. Việc kịp thời ban hành những quy định mới điều chỉnh hoạt động phát hành giấy tờ có giá chính là sự khẳng định những nỗ lực đáng kể của Ngân hàng Nhà nước trong việc kết nối hoạt động huy động vốn của TCTD với thị trường chứng khoán, thông qua đó góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, vốn đang gặp nhiều khó khăn trong thời điểm hiện nay. Rõ ràng, việc ban hành Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN là cần thiết và đúng hướng. Văn bản này, đã từng bước thiết lập sự đồng bộ giữa các quy định về phát hành giấy tờ có giá của TCTD với các quy định của Luật chứng khoán năm 2006 về phát hành chứng khoán ra công chúng. Đặc biệt, văn bản này đã quy định thêm một số vấn đề mới mà các văn bản bị thay thế chưa quy định hoặc quy định chưa rõ, chẳng hạn như: quyền phát hành trái phiếu chuyển đổi và chứng quyền của TCTD cổ phần; việc áp dụng cơ chế phát hành thông qua phương thức đấu thầu, thông qua tổ chức làm đại lý hoặc tổ chức trung gian bảo lãnh phát hành chứng khoán…
Về thực tiễn áp dụng quy định: Có thể thấy rằng, trong những năm gần đây, hoạt động huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá của các TCTD ngày càng phổ biến, trở thành một kênh huy động vốn tương đối quan trọng cho các TCTD. Đặc biệt từ khi Ngân hàng Nhà nước phát triển thị trường tiền tệ , Thống đốc Ngân hàng Nhà nước liên tiếp kí các quyết định cho phép các TCTD phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn như:
Quyết định số 893/2008/QĐ-NHNN cho phép Ngân hành TMCP Á Châu (ACB) phát hành giấy tờ dài hạn năm 2008 với tổng mệnh giá là 6500 tỷ đồng.
Quyết định số 1356/2008/QĐ-NHNN cho phép Ngân hàng TMCP Sài Gòn thương tín phát hành giấy tờ có giá dài hạn trong nước bằng đồng Việt Nam với tổng mệnh giá 5000 tỷ đồng.
Quyết định số 1416/2008/QĐ-NHNN cho phép Ngân hàng TMCP Phát triển nhà TPHCM phát hành giấy tờ có giá dài hạn với tổng mệnh giá 1080 tỷ đồng.
Quyết định số 2877/2008/QĐ-NHNN cho phép Ngân hàng Phương Đông phát hành trái phiếu chuyển đổi với tổng mệnh giá 600 tỷ đồng.
Quyết định số 558/2009/QĐ-NHNN cho phép Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam phát hành giấy tờ có giá dài hạn với tổng mệnh giá 10000 tỷ đồng.
Quyết định số 440/2009/QĐ-NHNN cho phép Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn với tổng mệnh giá 9000 tỷ đồng.
Việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD thời gian qua nhìn chung đều tuân thủ khá chặt chẽ các quy định của pháp luật, thanh tra ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc đánh giá năng lực tài chính của các TCTD trước khi ra quyết định cho phép phát hành giấy tờ có giá. Như vậy, những quy định chặt chẽ của pháp luật trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD chính là cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện hoạt động này trên thực tiễn. Với một trình tự, thủ tục chặt chẽ kết hợp với những điều kiện bắt buộc đối với các TCTD khi tiến hành hoạt động phát hành giấy tờ có giá, hoạt động của các tổ chức này được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của những cơ quan được Nhà nước quy định thẩm quyền. Từ đó tạo nên một trật tự ổn định, tạo điều kiện cho hoạt động huy động vốn của các TCTD được thuận lợi và theo đúng quy định pháp luật.
b) Những điểm hạn chế
Có thể thấy, bên cạnh những thành tựu đạt được, nhìn từ góc độ lí luận hay thực tiễn thì các quy định hiện hành về hoạt động phát hành giấy tờ có giá vẫn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập. Cụ thể là:
Về bản chất pháp lý của quan hệ phát hành giấy tờ có giá: Trên nguyên tắc, việc phát hành các giấy tờ có giá của TCTD chính là những thoả thuận vay nợ giữa TCTD với khách hàng. Bởi, thực chất các giấy tờ có giá được phát hành theo Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD đều là những phiếu nợ do các TCTD phát hành để cam kết hoàn trả một số tiền nhất định ghi trên giấy tờ có giá đó cho người sở hữu vào một ngày nhất định trong tương lai. Điều này có nghĩa rằng: khi phát hành giấy tờ có giá cho người đầu tư là các tổ chức, cá nhân, TCTD không phải là “người bán” giấy tờ có giá mà chỉ là người tiếp nhận vốn đầu tư (người vay), còn khách hàng là tổ chức, cá nhân cũng không phải là “người mua” giấy tờ có giá theo đúng nghĩa của từ này mà chỉ là người đầu tư gián tiếp vào TCTD bằng cách cho vay đối với chủ thể này để được nhận một khoản lãi cho vay theo thoả thuận. Tuy nhiên, các quy định hiện hành trong Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN lại thể hiện quan điểm coi giao dịch phát hành giấy tờ có giá của TCTD như là một giao dịch “mua bán” giấy tờ có giá, chứ không khẳng định và thừa nhận bản chất là giao dịch cho vay của quan hệ phát hành giấy tờ có giá của TCTD.
Về sự phân định giữa hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD với hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức khác không phải là TCTD: Mặc dù Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN đã đặt nền móng cho việc nhất thể hoá các quy chế về phát hành các loại giấy tờ có giá của TCTD, nhưng nét nổi bật dễ nhận thấy trong văn bản pháp quy này là nhà làm luật vẫn chủ trương tách bạch giữa hoạt động phát hành giấy tờ có giá của TCTD với hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức khác không phải là TCTD. Điều này thể hiện ở chỗ, hiện tại, việc phát hành các giấy tờ có giá của các chủ thể không phải là TCTD đang được thực hiện theo quy định của Luật chứng khoán năm 2006, còn việc phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD để huy động vốn (trong đó chủ yếu là các trái phiếu ngân hàng) thì vẫn được thực hiện theo quy định riêng tại Quy chế ban hành kèm theo Quyết định này. Theo em quy định như vậy là chưa hợp lý, bởi lẽ trái phiếu ngân hàng thực chất cũng là một loại chứng khoán dài hạn nên về nguyên tắc cần phải được phát hành và lưu thông trên thị trường chứng khoán, giống như cổ phiếu và trái phiếu công ty hay trái phiếu chính phủ. Đặc biệt, việc phát hành Hối phiếu nhận nợ của các TCTD cho khách hàng (người cho vay), với ý nghĩa là một loại giấy tờ có giá ngắn hạn để huy động vốn, đồng thời tạo thêm “hàng hoá” cho thị trường tiền tệ, cũng chưa được đề cập đến trong Quy chế này, dù chỉ là một quy định mang tính dẫn chiếu đến Luật các công cụ chuyển nhượng.
2./ Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD
Từ việc phân tích những hạn chế còn tồn tại trong quy định pháp luật về hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD, có thể đưa ra phương hướng hoàn thiện những quy định đó với những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Nên tiếp cận việc phát hành giấy tờ có giá đúng với bản chất pháp lí của nó, đó là những thỏa thuận vay nợ của các TCTD và khách hàng trên cơ sở những quy định phù hợp.
Thứ hai: Cần rút ngắn hơn nữa thời hạn Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước xem xét và ra quyết định về việc phát hành giấy tờ có giá sau khi nhận được hồ sơ đề nghị phát hành của TCTD, cũng như cần quy đinh chi tiết, cụ thể hơn về trường hợp TCTD đề nghị phát hành vượt kê hoạch đã được xét duyệt, bổ sung thêm quy định về giới hạn tổng mệnh giá giấy tờ có giá mà TCTD được phát hành.
Thứ ba: Cần thống nhất các quy chế về phát hành giấy tờ có giá của TCTD với Luật chứng khoán 2006, dần đưa việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD và của các tổ chức khác vào điều chỉnh chung bởi một hành lang pháp lí. Điều này sẽ hạn chế được một số bất cập đang tồn tại của pháp luật hiện hành.
Thứ tư: Trong thời gian tới, cần thiết phát huy hơn nữa các nghiệp vụ thị trường mở thông qua các biện pháp như: ổn định lãi suất phù hợp với diễn biến thực tế trên thị trường và điều tiết vốn khả dụng của các TCTD ở mức hợp lí, sử dụng linh hoạt các phương thức đấu thầu khối lượng, lãi suất với các thời hạn phù hợp.
---------------------------o0o----------------------------
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chế độ pháp lý hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD.doc