LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển kinh tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn góp phần nâng cao vị thế của đất nước trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Góp phần không nhỏ vào việc đưa Việt Nam đạt được những thành tựu đáng kể đó là sự nỗ lực hết mình của các cá nhân, doanh nghiệp trong việc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, hệ thống ngân hàng thương mại giữ một vai trò quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong sự phát triển chung của nền kinh tế Việt Nam.
Nói đến hoạt động ngân hàng, phải nói đến một hoạt động chủ yếu, mang lại lợi nhuận rất cao là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, đây cũng chính là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất. Một trong những nguyên nhân chính làm tăng rủi ro tín dụng chính là việc thực hiện chưa tốt công tác bảo đảm tiền vay. Vấn đề này được đề cập rất nhiều trong các văn bản quy định pháp luật của Việt Nam. Tuy nhiên, ngay trong bản thân những văn bản này vẫn còn tồn tại nhiều quy định chồng chéo, gây lung túng trong việc áp dụng pháp luật cho các chủ thể.
Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn kinh doanh cũng như góp phần nghiên cứu phát triển lý luận về vấn đề bảo đảm tiền vay tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam cùng với những thực tế có được trong quá trình thực tập tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô, tôi đã quyết định chọn đề tài : “Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Chuyên đề tập trung vào việc nghiên cứu chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô, căn cứ trên số liệu thực tế giai đoạn 2006 – 2010 và xu hướng phát triển của hoạt động này trong những năm tiếp theo.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: Chuyên đề tập trung nghiên cứu các vấn đề:
- Cơ sở lý luận về chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
- Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động bảo đảm tiền vay và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank.
Trên cơ sở những mục tiêu đề ra, chuyên đề xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng.
- Tìm hiểu và đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
- Đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank trong giai đoạn hiện nay nhằm tìm ra nguyên ngân và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại ngân hàng trong giai đoạn tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp nghiên cứu tài liệu, khảo sát và điều tra thực tế .
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mục lục, danh mục viết tắt, danh mục sơ đồ, bảng biểu, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề được chia làm ba chương:
Chương 1: Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay trong hoạt động tín dụng
Chương 2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.
Chương 3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 3
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 3
1. Khái niệm và vai trò của hoạt động tín dụng 3
1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng 3
1.2. Vai trò hoạt động tín dụng 4
2. Hợp đồng tín dụng 6
2.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng 6
2.2. Giao kết hợp đồng tín dụng 7
2.2.1. Chủ thể của hợp đồng tín dụng 7
2.2.2. Nội dung của hợp đồng tín dụng 10
2.2.3 Thực hiện hợp đồng tín dụng 11
2.3. Vai trò của hợp đồng tín dụng 17
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY 17
1. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo đảm tiền vay 18
1.1. Sự phát triển của pháp luật về bảo đảm tiền vay 18
1.1.1. Giai đoạn trước năm 2005 18
1.1.2. Giai đoạn sau năm 2005 19
1.2. Hệ thống văn bản hiện hành 20
2. Khái niệm và vai trò của bảo đảm tiền vay 20
2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay 20
2.2. Vai trò của bảo đảm tiền vay 22
3. Các biện pháp bảo đảm tiền vay 23
3.1. Các loại tài sản bảo đảm 23
3.2. Các biện pháp bảo đảm 24
3.2.1. Biện pháp cầm cố 24
3.2.3. Biện pháp đặt cọc 32
3.2.4. Biện pháp ký cược 33
3.2.5. Biện pháp ký quỹ 35
3.2.6. Biện pháp bảo lãnh 36
3.2.7. Biện pháp tín chấp 38
4. Hợp đồng bảo đảm tiền vay 40
4.1. Khái niệm hợp đồng bảo đảm tiền vay 40
4.2. Giao kết hợp đồng bảo đảm tiền vay 40
4.2.1. Chủ thể của hợp đồng bảo đảm tiền vay 40
4.2.2. Nội dung, hình thức của hợp đồng bảo đảm tiền vay 41
4.2.3. Thực hiện hợp đồng bảo đảm tiền vay. 43
4.2.4. Quan hệ giữa hợp đồng bảo đảm tiền vay và hợp đồng tín dụng 45
4.3. Xử lý tài sản bảo đảm 47
4.3.1. Nguyên tắc xử lý tài sản bảo đảm 47
4.3.2. Phương thức xử lý tài sản bảo đảm 48
4.4. Tranh chấp và xử lý tranh chấp 49
CHƯƠNG II:THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK – CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 51
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG VPBANK – CHI NHÁNH ĐÔNG ĐÔ 51
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng VPBank 51
2. Phạm vi và nội dung hoạt động của ngân hàng VPBank 51
3. Cơ cấu tổ chức ngân hàng VPBank 53
4. Một số nét về kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong các năm 2007 – 2009 và chiến lược phát triển năm 2010 61
II. QUY CHẾ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 64
1. Các biện pháp bảo đảm tiền vay chủ yếu được áp dụng tại ngân hàng VPBank 64
1.1. Biện pháp cầm cố 64
1.2. Biện pháp thế chấp 66
1.3. Biện pháp đặt cọc 68
1.4. Biện pháp ký quỹ 68
1.5. Biện pháp bão lãnh 69
2. Các loại tài sản bảo đảm được áp dụng tại ngân hàng VPBank. 70
2.1. Các loại tài sản có thể được VPBank chấp nhận làm tài sản bảo đảm cho các khoản tín dụng. 70
2.2. Các loại tài sản không được VPBank chấp nhận làm tài sản bảo đảm cho các khoản tín dụng 71
3. Hợp đồng bảo đảm tiền vay 72
3.1. Nội dung hợp đồng bảo đảm tiền vay 72
3.2. Ký kết hợp đồng bảo đảm tiền vay 72
3.3. Quy chế xử lý tài sản tại ngân hàng VPBank 74
3.4. Thực tiễn tranh chấp và xử lý tranh chấp về hợp đồng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng VPBank 75
3.5. Mẫu hợp đồng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng VPBank 75
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỢP ĐỒNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 76
I. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 76
1. Thuận lợi 76
2. Khó khăn 78
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỒNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK 82
1. Kiến nghị về chính sách pháp luật 82
2. Về phía Ngân hàng VPBank 86
KẾT LUẬN 92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94
101 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2778 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m giữ tài sản thế chấp được quy định tại Điều 352 BLDS. Ngoài ra, trách nhiệm của người thứ ba giữ tài sản thế chấp được quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 25 Nghị định 163:
Trong trường hợp người thứ ba giữ tài sản thế chấp phải bồi thường thiệt hại do làm mất tài sản thế chấp, làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị tài sản thế chấp theo quy định tại khoản 1 Điều 352 Bộ luật Dân sự thì số tiền bồi thường trở thành tài sản bảo đảm.
Người thứ ba giữ tài sản thế chấp không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp vật thế chấp bị hao mòn tự nhiên.
1.3. Biện pháp đặt cọc
Đặt cọc là việc khách hàng giao cho ngân hàng một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Khi hợp đồng được thực hiện thì tài sản đặt cọc trả lại cho khách hàng đặt cọc hoặc trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận trong hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về ngân hàng, ngược lại nếu ngân hàng từ chối thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải trả tài sản đặt cọc cho khách hàng.
* Quyền và nghĩa vụ của bên nhận đặt cọc (Ngân hàng)
- Quyền của VPBank tuân theo các quy định tạ Đ 33 Nghị định 163
- Nghĩa vụ của VPBank tuân theo các quy định tại Điều 32 Nghị định 163:
* Quyền và nghĩa vụ của khách hàng.
- Quyền của bên đặt cọc
Quyền của khách hàng được quy định tại Đ31 Nghị định 163.
- Nghĩa vụ của khách hang được quy định tại Điều 30 Nghị định 163.
1.4. Biện pháp ký quỹ
Ký quỹ là việc khách hàng gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá khác vào tài khoản phong toả tại Ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Trong hợp đồng tín dụng nếu bên có nghĩa vụ không thực hiên hoặc thực hiện không đúng với hợp đồng thì bên có quyền là tổ chức tín dụng có quyền yêu cầu Ngân hàng thanh toán bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra sau khi trừ chi phí dịch vụ Ngân hàng.
* Quyền và nghĩa vụ của bên ký quỹ
- Quyền của bên ký quỹ: Theo VPBank, quyền của bên ký quỹ tuân theo các quy định tại Điều 38 Nghị định 163
- Nghĩa vụ của bên ký quỹ: Theo VPBank, nghĩa vụ của bên ký quỹ tuân theo các quy định tại Điều 37 Nghị định 163
* Quyền và nghĩa vụ của bên nhận ký quỹ.
- Quyền của bên nhận ký quỹ đươc quy định tại Điều 40 Nghị định 163
- Nghĩa vụ của bên nhận ký quỹ được quy định tại Điều 39 nghị định 163.
* Quyền và nghĩa vụ ngân hàng nơi ký quỹ.
- Quyền của ngân hàng nơi ký qũy.
Quyền của ngân hàng nơi ký qũy được quy định tại Điều 36 Nghị đinh 163:
- Nghĩa vụ của ngân hàng nơi ký qũy.
Nghĩa vụ của ngân hàng nơi ký qũy được quy định tại Điều 35 Nghị đinh 163:
1.5. Biện pháp bão lãnh
Để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải thế chấp,cầm cố tài sản tại Ngân hàng nơi cho vay và bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng khi đến hạn đáo nợ.Trường hợp bên bảo lãnh là tổ chức tín dụng, cơ quan quản lý Ngân sách Nhà nước thì thực hiện bảo lãnh theo quy định của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng , bảo lãnh Ngân sách Nhà nước và hướng dẫn của Tổng giám đốc NHN Việt Nam.
* Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng VPBank
- Quyền của VPBank cũng tuân theo các quy định tại Điều 46 NGhị định 163:
* Quyền và nghĩa vụ của bên bảo lãnh
Quyền yêu cầu hoàn trả của bên bảo lãnh được quy định tại Điều 45 Nghị định 163
2. Các loại tài sản bảo đảm được áp dụng tại ngân hàng VPBank.
2.1. Các loại tài sản có thể được VPBank chấp nhận làm tài sản bảo đảm cho các khoản tín dụng.
(1) Nhà ở, nhà làm việc, nhà xưởng, kho tàng;
(2) Giá trị quyền sử dụng đất;
(3) Máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành
phẩm, hàng hóa;
(4) Ngoại tệ có thể chuyển đổi dễ dàng, vàng, kim loại quý, đá quý.
(5) Số dư tài khoản tiền gửi tại VPBank, thẻ tiết kiệm hoặc giấy tờ có giá do VPBank phát
hành;
(6) Thẻ tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, Tín phiếu kỳ gửi, trái phiếu do Chính phủ, Ngân
hàng Nhà nước hoặc các Ngân hàng TM Nhà nước phát hành;
(7) Trái phiếu do Chính quyền tỉnh, thành phố phát hành được VPBank chấp nhận;
(8) Tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu do các Ngân hàng TMCP phát hành được VPBank chấp
nhận;
(9) Trái phiếu do Công ty phát hành được VPBank chấp nhận;
(10) Bộ chứng từ L/C xuất khẩu được VPBank chấp nhận;
(11) Cổ phiếu của các Công ty được VPBank chấp nhận;
(12) Các tài sản hình thành từ vốn vay được VPBank chấp nhận;
(13) Các khoản phải thu (quyền đòi nợ) được VPBank chấp nhận;
(14) Các tài sản khác phù hợp với quy định của pháp luật.sản khác phù hợp với quy
2.2. Các loại tài sản không được VPBank chấp nhận làm tài sản bảo đảm cho các khoản tín dụng
(1) Tài sản đang có tranh chấp quyền sở hữu;
(2) Nhà ở và đất ở cách ranh giới nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ từ
5km trở lên (tính theo đường bộ gần nhất). Nếu là nhà đất xa hơn phạm vi trên thì phải ở
mặt đường giao thông ô tô đi lại được;
(3) Đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất làm muối, nuôi trồng thủy sản, hoặc các loại đất
chuyên dùng khác mà khả năng chuyển nhượng thấp;
(4) Nhà xưởng sản xuất được xây dựng trên đất thuê ngoài khu vực đô thị, nhưng không
nằm trong khu vực công nghiệp, khả năng chuyển nhượng thấp;
(5) Máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu (tại thời điểm thế chấp ở Việt Nam đã xuất hiện
các thế hệ máy móc cùng tính năng nhưng hiện đại hơn thay thế), hoặc đã sản xuất trước
ngày thế chấp hơn 5 năm, hoặc máy móc do các cơ sở sản xuất thủ công trong nước sản
xuất, lắp ráp, khả năng chuyển nhượng thấp;
(6) Hàng quốc cấm, hàng đặc chủng; Hàng hóa, nguyên vật liệu, thành phẩm, bán thành
phẩm thuộc loại ứ đọng, chậm tiêu thụ, có nguy cơ giảm giá, hoặc hàng hóa dễ hư hỏng,
khó bảo quản, có thể suy giảm chất lượng trong thời gian vay.
3. Hợp đồng bảo đảm tiền vay
3.1. Nội dung hợp đồng bảo đảm tiền vay
Theo quy định về bảo đảm tiền vay của Ngân hàng VPBank nội dung chủ yếu của hợp đồng bảo đảm tiền vay bao gồm:
+Nghĩa vụ được bảo đảm
+Phạm vi bảo lãnh và bên được bảo lãnh
+Mô tả tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
+Giá trị của tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định
+Bên giữ tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
+Quyền và nghĩa vụ của các bên
+Các trường hợp xử lý và phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
+Cam kết của bên bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh (đối với hợp đồng bảo lãnh)
+Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm tiền vay
+Các thỏa thuận khác.
3.2. Ký kết hợp đồng bảo đảm tiền vay
Người ký hợp đồng bảo đảm tiền vay và các văn bản có liên quan khác của VPBankbao gồm: Tổng giám đốc; giám đốc chi nhánh, giám đốc điều hành, giám đốc kinh doanh, trưởng phòng giao dịch (gọi chung là giám đốc đơn vị cho vay) và những người khác được ủy quyền. Người ký hợp đồng bảo đảm tiền vay là bên có tài sản bảo đảm tiền vay được thực hiện như sau:
+ Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của cá nhân hoặc doanh nghiệp, pháp nhân, tổ hợp tác phải được cá nhân hoặc người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật hoặc theo ủy quyền) ký tên, đóng dấu (nếu có)
+ Hợp đồng cầm cố thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều cá nhân, phải được tất cả những người là chủ sở hữu chung ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của Pháp luật về dân sự
+ Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của nhóm người sử dụng đất phải được các thành viên trong nhóm thống nhất và ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự
+ Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh quyền sử dụng đất thuộc quyền sử dụng chung của hộ gia đình phải được tất cả các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự trong hộ gia đình đó thống nhất và ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự
+ Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản là quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng của hộ gia đình ; tài sản do các thành viên hộ gia đình đóng góp, cùng nhau tạo lập, được tặng cho chung, được thừa kế chung và các tài sản khác mà các thành viên thỏa thuận là tài sản chung phải được đại diện của hộ gia đình (chủ hộ hoặc người khác) ký tên
+ Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tài sản là nhà đất, ô tô và những tài sản khác có giá trị lớn, đứng tên đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng là một cá nhân, nhưng đang có vợ, chồng, phải được cả hai vợ chồng ký tên trừ trường hợp có căn cứ pháp lý xác định tài sản đó của riêng một người
+ Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản là nhà, đất đứng tên đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng là một người hoặc cả hai vợ chồng, nhưng có bố mẹ, con cái đủ 18 tuổi trở lên cùng chung sống, có đóng góp tiền của, công sức trong việc mua, đầu tư, sửa chữa lớn tài sản, phải được những người chung sống có văn bản thể hiện đồng ý với việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh hoặc đứng tên người đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng cam kết tài sản đó là tài sản thuộc quyền sở hữu riêng và hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về việc cầm cố, thế chấp, bảo lãnh
+ Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản là di sản thừa kế (một hoặc tất cả những đồng sở hữu đã chết), chưa sang tên cho người được thừa kế, phải do một người được ủy quyền hoặc tất cả những người có quyền hưởng thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật ký tên
+ Hợp đồng cầm cố, bảo lãnh bằng tài sản là thẻ tiết kiệm, giây tờ có giá ghi tên một người, thì người đó phải cam kết hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc cầm cố, bảo lãnh
Các hợp đồng vay theo quy định pháp luật phải công chứng chứng thực phải được công chứng chứng thực. Ngoài ra theo quy định của VPBank những hợp đồng bảo đảm tiền vay dưới đây cũng phải được công chứng chứng thực:
+ Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với quyền sử dụng đất
+ Hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản cầm cố, thế chấp (trừ trường hợp người bảo lãnh là doanh nghiệp, pháp nhân)
3.3. Quy chế xử lý tài sản tại ngân hàng VPBank
Việc xử lý tài sản bảo đảm tại ngân hàng VPBank cũng tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý tài sản bảo đảm, cụ thể:
Việc xử lý tài sản bảo đảm trong cầm cố, thế chấp tuân theo các quy định từ điều 56 đến điều 71 Nghị định 163/2006/NĐ – CP.
Với hợp đồng bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh có đặc điểm khác với các hợp đồng bảo đảm tài sản khác như cầm cố thế chấp đó là trong hợp đồng bảo lãnh có 3 bên chủ thể là bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Căn cứ để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định bao gồm các trường hợp sau đây:
+ Khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh
+ Bên được bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ đó, nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
+ Bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ
+ Các căn cứ khác nếu pháp luật có quy định
3.4. Thực tiễn tranh chấp và xử lý tranh chấp về hợp đồng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng VPBank
Trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo đảm tiền vay, về mặt nguyên tắc nếu phát sinh tranh chấp giữa Ngân hàng VPBank, khách hàng, bên bảo đảm và các bên có liên quan thì các bên giải quyết tranh chấp trên cơ sở thương lượng, hoà giải. Nếu tranh chấp không giải quyết được bằng thương lượng thì các bên có thể thỏa thuận việc giải quyết tranh chấp thông qua Trọng tài thương mại hoặc Toà án có thẩm quyền để giải quyết.
Ngân hàng VPBank luôn luôn chú trọng việc giải quyết tranh chấp nói chung và tranh chấp bảo đảm tiền vay nói riêng bằng thương lượng và hòa giải. Việc thương lượng, hòa giải với bên bảo đảm khi xảy ra tranh chấp luôn được Ngân hàng thực hiện một cách tích cực trên lập trường bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng VPBank và tôn trọng pháp luật cũng như những nội dung đã được thỏa thuận với bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Chỉ khi không thể thương lượng, hoà giải được, các bên mới giải quyết tranh chấp bằng cơ quan tài phán là trọng tài và toà án.
3.5. Mẫu hợp đồng bảo đảm tiền vay tại ngân hàng VPBank
CHƯƠNG III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HỢP ĐỒNG
BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK
I. ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TIỄN GIAO KẾT HỢP ĐỒNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK
1. Thuận lợi
Hệ thống pháp luật của nước ta đang ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển và mở rộng của các quan hệ xã hội đồng thời bắt kịp sự hội nhập với kinh tế quốc tế. Điều này tạo điều kiện cho các ngân hàng nói chung và Ngân hàng VPBank nói riêng có cơ sở pháp lý vững chắc hoạt động, vừa bảo vệ được quyền lợi cho những người vay vốn, vừa bảo vệ được quyền lợi cho ngân hàng. Các văn bản pháp luật được sửa đổi bổ sung, ban hành mới để phù hợp với điều kiện hiện tại.
Sau khi Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời, thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995, Chính phủ đã giao cho Bộ Tư pháp chủ trì xây dựng, soạn thảo Nghị định của Chính phủ về giao dịch bảo đảm cho phù hợp với tình hình mới. Trên cơ lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức và chuyên gia có liên quan, Bộ Tư pháp đã tổng hợp, hoàn thiện dự thảo nghị định về giao dịch bảo đảm để trình Chính phủ. Ngày 29 tháng 12 năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm. Nghị định số 163 có hiệu lực kể từ ngày 27 tháng 01 năm 2007 và thay thế Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm và bãi bỏ Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 178. Do đó, quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong đó có bảo đảm tiền vay, đã được quy định tập trung, thống nhất trong một văn bản và xóa bỏ được tình trạnh tồn tại song song hai Nghị định của Chính phủ cùng điều chỉnh một quan hệ bảo đảm tiền vay: Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Bộ luật Dân sự năm 1995 và Nghị định số 178 hướng dẫn thực hiện Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (trong khi hai nghị định này chỉ được ban hành cách nhau bốn mươi ngày). Cho nên, khi thực hiện biện pháp bảo đảm tiền vay, các tổ chức tín dụng và khách hàng vay, bên thứ ba phải tra cứu, đối chiếu nhiều văn bản pháp luật khác nhau (pháp luật về giao dịch bảo đảm và pháp luật về bảo đảm tiền vay) để áp dụng vào hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy, sự ra đời của Nghị định số 163 không chỉ khắc phục được những hạn chế nói trên mà còn góp phần hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm, tạo hành lang pháp lý an toàn và thông thoáng cho các tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Như vậy, khung pháp lý về đăng ký giao dịch bảo đảm của Việt Nam đã từng bước được xây dựng, hoàn thiện, đáp ứng được những mục tiêu chủ yếu: Công khai hoá các giao dịch bảo đảm cho mọi cá nhân, tổ chức có nhu cầu tìm hiểu, giúp họ có các thông tin chính xác, tin cậy trước khi quyết định xác lập các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, đặc biệt đối với hoạt động đầu tư vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh; Xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận cầm cố, thế chấp trong trường hợp dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch bảo đảm, của cá nhân, tổ chức có liên quan và phòng ngừa những hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động tín dụng ngân hàng và góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tín dụng không những phát triển nhanh, mà còn phát triển trong thế ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của Toà án đối với các tranh chấp về giao dịch bảo đảm.
Nhờ hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống tin học hiện đại mà việc liên lạc hay tìm hiểu thông tin dễ dàng khi ngân hàng và khách hàng liên lạc với nhau nhanh chóng, dễ dàng mà không mất nhiều thời gian. Sự phát triển của hệ thống mạng giúp cho các ngân hàng có được sự quản lý chặt chẽ hơn trong nội bộ ngành và đồng thời tạo ra sự tiện ích cho khách hàng khi muốn tìm hiểu thông tin.
Trình độ chuyên môn của các cán bộ, nhân viên trong ngân hàng ngày càng được nâng cao do ngày càng có điều kiện để học tập, tiếp cận với nhiều thông tin và rút ra được những bài học bổ ích cho mình từ những kinh nghiệm của những người đi trước và từ những bài học kinh nghiệm của nước ngoài.
Lãnh đạo Ngân hàng quan tâm chỉ đạo giám sát hoạt động của các đơn vị trong Ngân hàng cũng như hoạt động kinh doanh chung của toàn bộ Ngân hàng. Từ đó kịp thời đáp ứng các yêu cầu về nghiệp vụ và điều kiện làm việc cũng như có sự phát hiện và sửa đổi kịp thời khi có sai sót xảy ra. Điều này giúp cho việc áp dụng hợp đồng bảo đảm tiền vay của VPBank phù hợp với pháp luật, hiệu quả được nâng cao.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, ngân hàng VPBank cũng gặp phải không ít những khó khăn trong quá trình áp dụng hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Thứ nhất, việc Việt Nam gia nhập WTO và đang hội nhập với kinh tế thế giới có thể nói là thuận lợi nhưng đồng thời cũng gây ra những khó khăn nhất định đối với ngân hàng VPBank nói riêng và các ngân hàng thương mại đang kinh doanh ở Việt Nam nói chung. Việc mở cửa của các lĩnh vực trong đó có Tài chính – Ngân hàng đã đem đến cho các Ngân hàng những thách thức khi phải đối mặt với sự cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài với kinh nghiệm về quản lý và tiềm lực về tài chính. Hoạt động tín dụng sẽ gặp phải nhiều khó khăn: về lãi suất, chất lượng dịch vụ…tức là cũng gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho vay của Ngân hàng. Điều này tất yếu dẫn đến những khó khăn trong vấn đề bảo đảm tiền vay để tăng hiệu quả trong hoạt động tín dụng nhưng cũng phải chú ý đến khả năng cạnh tranh với các Ngân hàng nước ngoài. Ngoài ra sự ra đời của nhiều Ngân hàng thương mại cổ phần đã dẫn đến sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng trong đó có sự cạnh tranh về các điều kiện khi cho vay.
Thứ hai, những khó khăn về vấn đề pháp lý. Mặc dù các văn bản pháp luật đã được thay đổi, thống nhất và hoàn thiện hơn tuy nhiên không tránh khỏi vẫn còn những điểm vẫn gây khó khăn cho các Ngân hàng trong việc áp dụng hợp đồng bảo đảm tiền vay.
* Có sự quy định khác nhau, chồng chéo giữa các văn bản pháp luật
Theo các ngân hàng nói chung và Ngân hàng VPBank nói riêng, hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, đồng bộ và thiếu thống nhất giữa các văn bản, việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý. ví dụ như cách thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất (Luật Đất đai năm 2003 quy định trong trường hợp không xử lý được theo thoả thuận thì quyền sử dụng đất được bán đấu giá, trong khi đó Bộ luật dân sự quy định bên nhận bảo đảm phải khởi kiện tại Toà án)
* Khó khăn khi công chứng giao dịch bảo đảm
Một vướng mắc tại hầu hết các ngân hàng là việc bảo đảm được hình thành trong tương lai. Theo quy định của Luật Công chứng: “Đối tượng của giao dịch, hợp đồng là có thật” vẫn bị cơ quan công chứng hiểu nhầm là cái phải tồn tại; điều này vô hình trung đã loại trừ các nghĩa vụ phát sinh trong tương lai, tài sản hình thành trong tương lai mà Bộ luật Dân sự 2005 và quy định về giao dịch bảo đảm đều ghi nhận.
Hiện nay, trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn cho phép chủ sử dụng đất được chậm thi hành nghĩa vụ thuế với Nhà nước, như thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế trước bạ. Tuy nhiên, khi công chứng các loại giấy tờ này để thế chấp vay vốn ngân hàng thì các phòng công chứng đều yêu cầu phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính với Nhà nước trước, sau đó mới tiến hành công chứng hợp đồng thế chấp. Điều này gây ra hạn chế không nhỏ cho khách hàng muốn tiếp cận nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam, mặc dù họ có dự án khả thi.
* Khó khăn về thủ tục hành chính, trình tự, thủ tục xử lý tài sản bảo đảm
Hiện nay, các trình tự thủ tục về giao dịch bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và tốn nhiều thời gian. Chẳng hạn như trong thủ tục xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn. Bên nhận bảo đảm phải chứng minh nhiều vấn đề trước khi có thể đưa tài sản bảo đảm ra xử lý, như chứng minh tính hợp pháp của hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, tài sản bảo đảm tiền vay, chứng minh có sự vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật khác dẫn tới việc phải xử lý tài sản bảo đảm Điêù này làm mất nhiều thời gian và gây không ít khó khăn cho ngân hàng, dẫn đến làm giảm hiệu quả hoạt động tín dụng.
Nghị định 163/2006/CP ban hành ngày 29/12/2006 của Chính phủ quy định về nội dung cách thức, thời gian xử lý tài sản bảo đảm nhưng chưa có văn bản hướng dẫn và cũng không có cơ sở để yêu cầu cơ quan thi hành án tham gia cưỡng chế thu hồi tài sản trong trường hợp người thế chấp không tự nguyện giao tài sản. Do vậy, muốn thu hồi nợ, rút cuộc ngân hàng vẫn phải làm theo cách cũ là khởi kiện ra tòa để yêu cầu thi hành án. Nhưng thủ tục quá rườm rà từ việc có đơn yêu cầu, ra quyết định thi hành án, thời gian tự nguyện, biên bản làm việc của 2 bên tại cơ quan thi hành án, quyết định thành lập hội đồng định giá và hợp đồng bán với Trung tâm bán đấu giá tài sản, quyết định cưỡng chế về việc kê biên định giá phát mãi tài sản… Rườm rà như vậy, nên cơ quan thi hành án không bao giờ thi hành đúng thời hạn như quyết định của bản án. Mặt khác Hội đồng định giá do cơ quan thi hành án thành lập tự quyết định giá nên không phù hợp với cách thức định giá như các bên thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp.
* Hệ thống đăng kí giao dich bảo đảm còn nhiều bất cập
Hiện nay, giao dịch bảo đảm được đăng ký tại nhiều cơ quan trên cơ sở phân biệt theo loại tài sản, cụ thể: đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tàu bay thực hiện tại Cục Hàng không Việt Nam; giao dịch bảo đảm bằng tài sản là động sản (trừ tàu bay, tàu biển) được thực hiện tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản thuộc Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm - Bộ Tư pháp; giao dịch bảo đảm bằng tàu biển thực hiện tại Cơ quan đăng ký tàu biển khu vực; giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất thực hiện tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Sở và Phòng Tài nguyên và Môi trường. Điều này cho thấy hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, đồng bộ và thiếu thống nhất giữa các văn bản, việc đăng ký giao dịch bảo đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý.
* Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm hoạt động chưa hiệu quả
Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký, công chứng đã đề cập đến vấn đề xây dựng một Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm nhưng chưa có quy định cụ thể về sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để triển khai trên thực tế, và đảm bảo tính khả thi. Hệ thống cơ sở dữ liêu quốc gia chưa phát huy hết chức năng của nó. Việc cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo mô hình đăng ký tập trung, tin học hoá, nối mạng giữa các cơ quan đăng ký còn bộc lộn nhiều hạn chế, yếu kém. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thực hiện tốt mục tiêu công khai hoá các giao dịch bảo đảm tạo ra những bất lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc tìm hiểu thông tin về tài sản chưa đảm bảo tính minh bạch trong giao dịch dân sự, lành mạnh hoá môi trường đầu tư, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch.
* Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm đưa ra chưa phù hợp.
Hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản hình thành có hiệu lực kể từ ngày ký. Đối với hợp đồng có đăng ký giao dịch bảo đảm tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký và chỉ có giá trị trong thời thời hạn 5 năm, kể từ ngày đăng ký, trừ trường hợp các yêu cầu ngày đăng ký trước thời hạn hoặc có đăng ký gia hạn. thời hạn của mỗi lần đăng ký gia hạn cũng chỉ 5 năm (Điều 13 Nghị định số 08/2000/NĐ-CP). Với quy định thời hạn của giao dịch bảo đảm như vậy là chưa thực sự phù hợp với hoạt động ngân hàng. Bởi vì có một số khách hàng vay không có khả năng thanh toán nợ đến hạn. Nhiều trường hợp mặc dù khách hàng vay vốn tín dụng ngắn hạn đã được ngân hàng cho gia hạn theo quy định của pháp luật, nhưng khi thời hạn gia hạn đã hết, khách hàng vẫn không thu xếp được nguồn vốn để trả nợ ngân hàng. Công việc thu hồi nợ của ngân hàng đang được tiến hành, thì thời hạn hiệu lực của hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản lại hết. Khi đó, nếu các bên không yêu cầu đăng ký gia hạn kịp thời thì giao dịch bảo đảm hết giá trị pháp lý và khoản vay có bảo đảm bằng tài sản ban đầu sẽ trở thành khoản vay không có bảo đảm.
Mặt khác, có những khoản vay có thể đến hạn trả nợ sau hàng chục năm. Nếu hợp đồng bảo đảm có hiệu lực trong vòng 5 năm, thì khoản vay chưa đến hạn trả nợ mà thời hạn hiệu lực của hợp đồng bảo đảm đã hết. Như vậy, điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động của ngân hàng.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỒNG BẢO ĐẢM TIỀN VAY TẠI NGÂN HÀNG VPBANK
1. Kiến nghị về chính sách pháp luật
Thứ nhất, cần hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng và phải có sự thống nhất trong các văn bản pháp luật điều chỉnh về hợp đồng bảo đảm tiền vay với các văn bản pháp luật khác.
Cần rà soát để bãi bỏ những quy định không phù hợp với thực tiễn, hạn chế các chủ thể thiết lập, thực hiện các giao dịch bảo đảm, ví dụ như: quy định “vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm” (khoản 1 Điều 320 Bộ luật dân sự), về giá trị của tài sản so với tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm (khoản 1 Điều 324 Bộ luật dân sự) hay quy định giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bên nhận thế chấp giữ trong trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất (khoản 1 Điều 717, khoản 5 Điều 718 Bộ luật dân sự)…chính những quy định này đã kìm hãm việc mở rộng tín dụng và tạo ra những khó khăn nhất định cho chủ thể đi vay và ngân hàng. Bãi bỏ các quy định về giao dịch bảo đảm còn mẫu thuẫn, chưa thống nhất, ví dụ như cách thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất (Luật Đất đai năm 2003 quy định trong trường hợp không xử lý được theo thoả thuận thì quyền sử dụng đất được bán đấu giá, trong khi đó Bộ luật dân sự quy định trong trường hợp đó bên nhận bảo đảm phải khởi kiện tại Toà án). Hay như đã nêu ở trên về hai cách hiểu trong quy định của luật công chứng đã gây khó khăn cho việc công chứng hợp đồng bảo đảm tiền vay có tài sản hình thành trong tương lai. Đây chính là biểu hiện của sự không thống nhất trong cách hiểu về các quy định pháp luật dẫn đến khó khăn trong thực hiện.
Nghiên cứu để bổ sung một số quy định đáp ứng yêu cầu thực tiễn, ví dụ như: những quy định về hạn chế tài sản là nhà ở dùng để thế chấp cho nhiều nghĩa vụ tại nhiều tổ chức tín dụng trong Luật Nhà ở, hay những quy định nhằm bảo vệ quyền kiểm soát tài sản bảo đảm là quyền tài sản (đặc biệt là quyền đòi nợ) của bên nhận bảo đảm … Vì chính những mâu thuẫn, thiếu thống nhất của pháp luật về giao dịch bảo đảm dẫn đến những rủi ro pháp lý và cản trở các nhà đầu tư khi tiếp cận với thị trường vốn Việt Nam.
Thứ hai, Đơn giản hóa các thủ tục hành chính
Hiện nay, các trình tự thủ tục về giao dịch bảo đảm còn rườm rà, phức tạp và tốn nhiều thời gian. Chẳng hạn như trong thủ tục xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi vốn. Bên nhận bảo đảm phải chứng minh nhiều vấn đề trước khi có thể đưa tài sản bảo đảm ra xử lý, như chứng minh tính hợp pháp của hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, tài sản bảo đảm tiền vay, chứng minh có sự vi phạm hợp đồng hoặc vi phạm pháp luật khác dẫn tới việc phải xử lý tài sản bảo đảm...Điêù này làm mất nhiều thời gian và gây không ít khó khăn cho ngân hàng, dẫn đến làm giảm hiệu quả hoạt động tín dụng. Do vậy cần có những quy định của pháp luật đơn giản bớt thủ tục hành chính về giao dịch bảo đảm, hay có thể cho phép các bên ký kết hợp đồng bảo đảm có thể áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn đối với những tranh chấp liên quan đến việc xử lý tài sản bảo đảm để bên nhận bảo đảm dễ dàng tiếp cận và xử lý tài sản bảo đảm trong thời gian nhanh nhất, ít tốn kém nhất nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, trung thực.
Rút ngăn thời hạn đăng ký giao dịch, tài sản tại các cơ quan có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm;
Đơn giản hoá hồ sơ đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm;
Thống nhất quy trình, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm với đăng ký các hợp đồng, tài sản là động sản không phải là tàu bay, tàu biển tại các Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản.
Minh bạch hoá về thủ tục, trong đó quy định rõ những giấy tờ, tài liệu khi thực hiện đăng ký, xác định rõ trách nhiệm của cán bộ đăng ký;
Ngoài ra, để tạo điều kiện cho các ngân hàng trong công tác thu hồi nợ, Nhà nước nên cho các tổ chức tín dụng tự tổ chức đấu giá tài sản thế chấp thu hồi nợ vay, với sự giám sát của một tổ chức có thẩm quyền cho khách quan và được nhận gán nợ khi cần thiết, giúp cho tổ chức tín dụng được chủ động và thu hồi nợ vay nhanh hơn.
Thực hiện tôt ngững cải cách trên của pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân khi tiếp cận với hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, đáp ứng tốt yêu cầu, số lượng các giao dịch trong đời sống dân sự, kinh doanh.
Thứ ba, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm.
Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ về đăng ký, công chứng đã đề cập đến vấn đề xây dựng một Hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về giao dịch bảo đảm nhưng chưa có quy định cụ thể về sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan để triển khai trên thực tế, và đảm bảo tính khả thi. trong thời gian qua, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm chưa được triển khai thực hiện đồng đều ở các địa phương, đặc biệt trong lĩnh vực đăng ký thế chấp, tài sản gắn liền với đất, bảo lãnh bằng Quyền sử dụng đất,. Việc hướng dẫn, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ đăng ký giao dịch bảo đảm cho cán bộ đăng ký chưa được thực hiện kịp thời. Các giao dịch bảo đảm đã đăng ký là nguồn thông tin quan trọng để các bên xem xét, quyết định về việc đầu tư, thiết lập các giao dịch dân sự, kinh tế, đặc biệt đối với hoạt động tín dụng và công tác quản lý nhà nước về các loại tài sản có liên quan của một số cơ quan, nhưng chưa được khai thác, sử dụng triệt để. Vì vậy, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm chưa thực sự phát huy hết vai trò của nó trong thực tế. Để khắc phục những hạn chế nêu trên và đẩy mạnh công tác quản lý, đăng ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, từng bước xây dựng hệ thống cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm theo mô hình đăng ký tập trung, tin học hoá, nối mạng giữa các cơ quan đăng ký và hình thành Cơ sở dữ liệu quốc gia các giao dịch bảo đảm. Điều này sẽ giúp thực hiện tốt mục tiêu công khai hoá các giao dịch bảo đảm tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức trong việc tìm hiểu thông tin về tài sản, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để xác định chính xác thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh. Qua đó, hoạt động đăng ký đã góp phần tăng cường tính minh bạch trong giao dịch dân sự, lành mạnh hoá môi trường đầu tư, tạo lập đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch.
Thứ tư, chuẩn hoá hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm
Hiện, mỗi hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm có một quy trình, cách thức và thủ tục khác nhau, chưa được chuẩn hoá. Thực tế đó dẫn đến các quy định của pháp luật thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, gây khó khăn cho các chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm trong quá trình đăng ký. Khi đăng ký một giao dịch bảo đảm, bên đăng ký có thê phải thực hiện ở nhiều cơ quan đăng ký, hay phải thực hiện việc đăng ký thành các phần riêng như quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Đồng thời như vậy tức là chủ thể đăng ký phải thực hiện nộp phí đăng ký nhiều lần cho một giao dịch bảo đảm. Điều này thực sự gây khó khăn không đáng có cho bên đăng ký. Trong thực tế, đã có trường hợp xe ôtô được đăng ký tại Phòng cảnh sát giao thông công an tỉnh, thành phố nhưng khi cầm cố lại được đăng ký tại Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, chủ xe thế chấp ôtô để vay tiền, sau đó lại báo mất đăng ký để xin cơ quan công an cấp lại rồi bán xe cho người khác và làm thủ tục sang tên mà không bị phát hiện.
Để hạn chế được nhũng bất cập trên, Nhà nước cần chuẩn hóa lại hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm cần tập trung về một cơ quan để việc thực hiện đăng ký được thống nhất. Mở kênh riêng hoặc lập trang web thông tin pháp lý về tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở để các tổ chức tín dụng được quyền truy vấn các thông tin này nhằm tiết kiệm thời gian.
Thứ năm. Điều chỉnh lại thời hạn có hiệu lực của hợp đồng bảo đảm cho phù hợp hơn
Theo ý kiến các chuyên gia ngân hàng, để tạo điều kiện thuận lợi cho các bên hoạt động kinh doanh thì pháp luật nên quy định giao dịch bảo đảm có hiệu lực kể từ ngày đăng ký đến khi nghĩa vụ được bảo đảm chấm dứt theo thỏa thuận của các bên phù hợp với quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên có yêu cầu xóa đăng ký trước thời hạn. Theo đó, các ngân hàng thương mại sẽ chủ động xem xét và vận dụng cho phù hợp với từng khoản vay cụ thể. Điều này giúp cho ngân hàng và khách hàng tránh khỏi nhiều thủ tục khi tham xác lập một quan hệ tin dụng, chẳng hạn như, khi khách hàng muốn ký với ngân hàng một hợp đồng tín dụng có thời hạn dài hàng chục năm hay thời hạn trả nợ là không xác định, với những mối quan hệ như thế này chỉ nên đăng ký giao dịch bảo đảm một lần là đủ, như thế về phía khách hàng vừa tránh được những thủ tục phiền phức mà về phía ngân hàng cũng yên tâm hơn khi nếu hết thời hạn 5 năm mà khách hàng lại cố tình lảng tránh không đăng ký gia hạn tiếp.
2. Về phía Ngân hàng VPBank
Thứ nhất, tăng cường công tác pháp chế trong Ngân hàng VPBank.
Thực tế ở Ngân hàng VPBank, việc giao kết hợp đồng nói chung, hợp đồng bảo đảm tiền vay nói riêng là do cán bộ phòng tín dụng thực hiện dựa trên những mẫu hợp đồng quy định sẵn của Ngân hàng. Vai trò của cán bộ pháp chế trong giai đoạn này rất mờ nhạt. Cán bộ pháp chế chỉ tham gia khi Ngân hàng VPBank và bên ký hợp đồng xảy ra tranh chấp không thể tự thương lượng, thỏa thuận. Khi đó tranh chấp giữa hai bên đã trở nên gay gắt và chỉ có thể giải quyết bằng con đường Tòa án. Do vậy, để tránh có những tranh chấp không đáng có xảy ra, cán bộ pháp lý của Ngân hàng và khối chuyên môn về tín dụng nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng cần có mối quan hệ chặt chẽ, theo dõi sát những hoạt động liên quan đến hoạt động bảo đảm tiền vay để từ đó kịp thời phát hiện ra những bất cập do quy chế chưa phù hợp, kịp thời đưa ra các văn bản sửa chữa khắc phục. Để hòa thiện các văn bản quy chế, cán bộ pháp chế cần tiếp thu các ý kiến đóng góp từ phía các cán bộ chuyên môn tín dụng cũng như các phản ánh từ phía khác hàng, để từ đó đưa ra những quy chế phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hai bên khi tham gia giao kết hợp đồng đồng thời hạn chế được những tranh chấp không đáng xảy ra. Đây cũng là một biện pháp thu hút khách hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
Thứ hai, ngân hàng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện hoạt động bảo đảm tiền vay trong toàn hệ thống phát hiện và có biện pháp xử lý kịp thời những rủi ro có thể xảy ra trước, trong và sau khi cấp tín dụng. Hoạt động kiểm tra phải được tiến hành mang tính toàn diện, triệt để, chính xác và trong tất cả các lĩnh vực hoạt động bảo đảm tiền vay.
Thứ ba, luôn chú trọng công tác đào tạo và phá triển nguồn nhân lực.
Việc phát triển nguồn nhân lực luôn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của một quốc gia mà còn trong bất kỳ một hoạt động kinh doanh. Kinh doanh ngân hàng cũng không ngoại lệ. cần có những cán bộ thành thạo về chuyên môn, có kiến thức tổng hợp, sâu rộng, có khả năng phân tích và dự đoán xu hướng thay đổi của môi trường kinh tế, đáp ứng được yêu cầu của công việc. Tuy hiện nay, tại Chi nhánh VPBank Đông Đô cũng như toàn Ngân hàng VPBank, hầu hết đội ngũ cán bộ đều có trình độ đại học và được đào tạo qua chuyên ngành ngân hàng. Nhưng, với sự phát triển đa dạng và nhanh chóng của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế, sự thay đổi của các loại dịch vụ và sự xuất hiện của các loại hình dịch vụ mới cũng như các phương thức làm việc mới, đòi hỏi Ngân hàng phải thường xuyên quan tâm đến việc đào tạo, phổ biến thông tin cập nhật cho cán bộ trong ngân hàng. Chẳng hạn, cử cán bộ tham gia lớp tập huấn của Ngân hàng nhà nước, của Chính phủ hoặc các tổ chức phi Chính phủ nhằm nâng cao năng lực tổ chức quản lý điều hành, cũng như nắm bắt, cập nhật những văn bản pháp quy, những thông tư, nghị định của các cấp có thẩm quyền. Thêm vào đó ngân hàng cần tổ chức các buổi họp đúc rút kinh nghiệm và tham gia các lớp học thêm về nghiệp vụ tín dụng , thẩm định giá, bất động sản , đạo đức nghề nghiệp ngoài giờ hành chính. Tuy nhiên, đào tạo cần tập trung theo hướng trọng điểm, đào tạo một cách toàn diện, tránh đào tạo tràn lan, lãng phí thời gian và nhân lực.
Ngoài ra, Chi nhánh cũng như toàn Ngân hàng VPBank cần phải quan tâm tới công tác tổ chức cán bộ, sắp xếp cán bộ có năng lực chuyên môn phù hợp với công việc họ làm để phát huy hiệu quả cao nhất. Thường xuyên tổ chức lấy ý kiến của cán bộ trong ngân hàng về điều kiện làm việc. Có chế độ khen thưởng và kỷ luật hợp lý, khuyến khích được đội ngũ cán bộ nhân viên tham gia tích cực trong công tác, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc chuyên nghiệp, có tính kỷ luật cao.
Thứ tư, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, chú trọng công tác chăm sóc khách hàng.
Ngân hàng cần thường xuyên bảo dưỡng, nâng cấp các thiết bị về mạng và cơ sở dữ liệu theo hướng hiện đại và tận dụng được khả năng trợ giúp đắclực từ sự phát triển của công nghệ. Từ đó, mang đến cho khách hàng những dịch vụ có chất lượng tốt nhất.
Cần chú trọng công tác chăm sóc khách hàng. Chăm sóc tốt khách hàng lâu năm của ngân hàng để có thể tạo điều kiện thuận lợi cho họ đồng thời liên tục mở rộng tìm kiếm những khách hàng tiềm năng mới trong hoạt động tín dụng. Trong hợp đồng bảo đảm tiền vay vấn đề về nhân thân của bên vay được đặc biệt chú trọng do đặc thù của loại hình hợp đồng này tiềm ẩn nhiều rủi ro và giá trị của hợp đồng thường lớn. Để bảo đảm cho một khoản vay bên bảo đảm cần có những điều kiện nhất định về nhân thân như: uy tín, năng lực tài chính, nhân cách của cá nhân có tài sản bảo đảm hoặc cá nhân đại diện cho tổ chức có tài sản bảo đảm…Vì vậy, chú trọng đến những khách hàng lâu năm và những khách hàng tiềm năng ở đây ngoài việc để có những cách thức phục vụ hiệu quả, đem lại dịch vụ tốt nhất cho họ còn cần quan tâm cụ thể đến nhân thân của khách hàng, từ đó sẽ có những quyết định đúng đắn nhất khi ký hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản nói riêng cũng như trong hoạt động kinh doanh của VPBank nói chung.
Ngoài ra, để nâng cao khả năng cạnh tranh, ngân hàng cần đơn giản hóa về thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các khách hàng khi giao kết hợp đồng, sao cho khách hàng có thể tiếp nhận nguồn vốn trong thời gian sớm nhất.
Thứ năm, Thiết lập hệ thống thông tin đa chiều, cập nhật, chính xác nhằm phục vụ công tác thẩm định và phòng ngừa rủi ro.
Hiện nay, trong giai đoạn thẩm định tài sản, nguồn thông tin để giúp ngân hàng định giá tài sản thế chấp chủ yếu tập trung từ khách hàng vay, do cán bộ tín dụng tự thu thập nhờ các mối quan hệ cá nhân và trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước, nhưng trung tâm này lại hoạt động không mấy hiệu quả. Do vậy, có thể nói những nguồn thông tin trên có độ rủi ro cao. Chính từ mặt hạn chế này của việc thu thập thông tin trong những năm qua đã ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng thẩm định tại Chi nhánh Đông Đô cũng như với toàn Ngân hàng VPBank. Do đó, Ngân hàng cần triển khai các biện pháp cần thiết nhằm tạo lập được một hệ thống thông tin đa chiều, cập nhật để phục vụ cho công tác thẩm định, đánh giá khách hàng và tài sản bảo đảm, đồng thời góp phần phát hiện và xử lý kịp thời những khoản vay có vấn đề, chẳng hạn:
- Chi nhánh cần xây dựng một mạng lưới thông tin bao quanh dày đặc, đồng thời trang bị cho cán bộ thẩm định những phương pháp tiếp cận, khai thác thông tin từ nhiều nguồn. Chủ động tiếp cận, cập nhật những thay đổi trong đường lối chính sách của các cấp thẩm quyền cho đến những tin từ phương tiện thông tin đại chúng, điều tra qua thâm nhập thực tế, hay mua tin từ các tổ chức chuyên nghiệp, hoặc thuê chuyên gia, tư vấn thẩm định về các chỉ tiêu thông số kỹ thuật. Nhằm có được những thông tin về khách hàng một cách chính xác nhất.
- Chi nhánh nên thành lập phòng nghiệp vụ chuyên biệt có chức năng thu nhập, tổng hợp, phân loại và xử lý thông tin, đồng tời tạo lập mối quan hệ chính thức, trực tiếp với các cơ quan hữu quan như TCTD khác, cơ quan Thuế, Hải quan... nhằm đảm bảo có được những thông tin chính xác cập nhật nhất phục vụ công tác thẩm định khách hàng và tài sản bảo đảm của khách hàng.
- Tăng cường những công nghệ hiện đại, lắp đặt những phần mềm tiện tích có khả năng tích hợp thông tin từ các phòng ban, từ chiều nguồn khác nhau đảm bảo vừa cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, vừa tiết kiệm được chi phí, thời gian và công sức cho cán bộ thẩm định.
Ngoài ra, đối với khách hàng là doanh nghiệp, Chi nhánh cần phải thu thập các thông tin của doanh nghiệp một cách chính xác, đầy đủ bằng cách tận dụng triệt để những lần gặp gỡ chủ doanh nghiệp khi họ đến ngân hàng trả lãi và có thể thu thập từ những người biết đến doanh nghiệp như chính quyền địa phương, bạn hàng có quan hệ mua bán với doanh nghiệp. Đến trực tiếp nơi ở và sản xuất kinh, để biết được tinh thần trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nợ vay ngân hàng, xác nhận lại mục đích sử dụng vốn vay, đánh giá được khả năng thanh toán trong trương hợp doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Chất lượng của hợp đồng tín dụng phục thuộc rất nhiều vào độ chính xác của thông tin, chất lượng thông tin và khách hàng. Thực tế, nguồn thông tin đầu tiên và chủ yếu về khách hàng mà ngân hàng nhận được chính khách hàng cung cấp. Tuy nhiên, người đi vay bao giờ cũng cung cấp những thông tin có độ sai lệch nhất định nhằm mục đích vay được vốn. Do vậy, để hạn chế và ngăn chặn rủi ro trên, Ngân hàn cần tích cực tìm kiếm thông tin chính xác bằng các biện pháp như: Điều tra, xác nhận thông tin doanh nghiệp xin vay vốn từ nguồn thông tin do doanh nghiệp cung cấp và phải chủ động thu thập thông tin từ bên ngoài.
Thứ sáu, cần có những chiến lược marketing về cho vay cũng như bảo đảm tiền vay bằng tài sản hướng tới những đối tượng khách hàng cụ thể. Ví dụ như đối tượng khách hàng là cá nhân thì cần có những chiến lược khác nhau cho những khách hàng ở độ tuổi khác nhau, đặc tính công việc khác nhau... còn với đối tượng khách hàng là doanh nghiệp cần có những chiến lược cụ thể cho doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp kinh doanh về xuất nhập khẩu... Từ đó việc ký kết hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm sẽ có hiệu quả cao hơn.
Thứ bảy, nâng cao chất lượng quản lý tài sản bảo đảm.
Thông thường tải sản có thể do ngân hàng thương mại hoặc khách hàng hay bên thứ ba nắm giữ. Tuy nhiên, do điều kiện thực tế Ngân hàng VPBank chỉ nắm giữ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà, tài sản và các loại giấy tờ có giá. Còn tài sản bảo đảm là máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất, tài sản hình thành từ vốn vay đều do khách hàng trực tiếp nắm giữ, bảo quản và sử dụng. Do đó, nhiều khi VPBank không thể nắm bắt được chi tiết, chính xác tình trạng của tài sản như: công suất, giá trị sử dụng, độ hao mòn, và giá trị hiện tại của tài sản. Dì vậy, ngân hàng phải có những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tải sản bảo đảm, hoặc ban hành những quy định hành chính buộc khách hàng phải cam kết bảo dưỡng, nhằm duy trì công suất cũng như giá trị tài sản; đồng thời ngân hàng phái có kế hoạch kiểm tra, kiểm soát tài sản thường xuyên đề phòng trường hợp khách hàng bán mất tài sản bảo đảm. Ngoài ra, cán bộ tín dụng cần thường xuyên đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo tiền vay của khách hàng. Thực tế đã chứng minh rằng đây là biện pháp rào chắn rủi ro hiệu quả đối với hoạt động tín dụng của mọi ngân hàng thương mại nó chung và đối với ngân hàng VPBank nói riêng.
Thứ tám, cần có sự cập nhật về thông tin, công nghệ hiện đại trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng, trong đó có lĩnh vực về bảo đảm tiền vay. Từ đó có sự học tập điều chỉnh cho phù hợp với quy mô, đặc điểm cũng như thực tế của VPBank để bảo đảm sự bắt kịp công nghệ tạo tiền đề cho sự cạnh tranh với những Ngân hàng nước ngoài khi Việt Nam mở cửa hoàn toàn thị trường Tài chính – Ngân hàng. Thêm vào đó VPBank cũng cần biết tận dụng hiệu quả lợi thế cạnh tranh là một Ngân hàng Việt Nam nên hiểu rõ hơn về thị trường Việt Nam, đồng thời có sự hợp tác và liên kết với các doanh nghiệp khác kể cả doanh nghiệp nước ngoài để nâng khả năng cạnh tranh trong môi trường quốc tế từ đó có những giải pháp phù hợp nhất cho vấn đề hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản nói riêng và rộng hơn là cho toàn bộ hoạt động kinh doanh.
KẾT LUẬN
Trong quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia nói chung cũng như Việt Nam nói riêng, hoạt động tài chính – ngân hàng luôn là hoạt động diễn ra sôi nổi và có tiềm năng phát triển. Nền kinh tế muốn phát triển được phải có sự trợ giúp rất lớn từ các định chế trung gian tài chính như ngân hàng, các tổ chức tài chính, tín dụng và phi tín dụng khác.
Hệ thống các ngân hàng thương mại hiện nay ở nước ta ngày càng khẳng định được vai trò huyết mạch của mình đối với nền kinh tế. Sự phát triển không ngừng của hoạt động tín dụng, các dịch vụ, sản phẩm ngân hàng đã và đang tạo ra những luồng chảy không ngừng về vốn giúp cho mọi tầng lớp dân cư, các loại hình doanh nghiệp có cơ hội tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Trong quá trình kinh doanh của các ngân hàng, một trong những hoạt động đóng vai trò vô cùng quan trọng chính là cấp tín dụng thông qua hình thức cho vay vốn. Hoạt động này đang ngày càng phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức cho vay đáp ứng được nhu cầu đa dạng của các khách hàng vay trong nền kinh tế.
Sự phát triển của các loại hình cho vay đòi hỏi chế độ pháp lý về cho vay phải được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tế khách quan. Trong đó, những quy định pháp lý về cho vay nói chung và bảo đảm tiền vay nói riêng cũng cần được quan tâm và hoàn thiện, đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng và chính xác nhằm đảm bảo tránh được những tranh chấp hoặc rủi ro về tín dụng không đáng có, góp phần giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Nhận thức sâu sắc được vấn đề trên, sau thời gian thực tập được tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn hoạt động bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô cùng toàn bộ kiến thức tiếp thu được tại Khoa Luật – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tôi đã hoàn thiện chuyên đề với đề tài: “Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô”. Bằng các biện pháp nghiên cứu khác nhau, chuyên đề đã nêu lên được lý luận chung về hoạt động bảo đảm tiền vay, thực tiễn áp dụng pháp luật bảo đảm tiền vay tại Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô. Đồng thời, chuyên đề đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng theo hướng phát huy những mặt làm được và khắc phục, giảm thiểu các yếu tố bất lợi, hạn chế. Tuy nhiên, môi trường kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng chắc chắn còn nhiều thay đổi, đặt ra cho đề tài những vấn đề tiếp tục phải nghiên cứu, hoàn thiện trong thời gian tới.
Do hạn chế về kiến thức và thời gian nghiên cứu, các thông tin, số liệu chưa thật đầy đủ nên các nhận xét, đánh giá còn mang tính chủ quan, khó tránh khỏi những khiếm khuyết và thiếu sót nhất định.
Tôi xin chân thành cảm ơn và rất mong được sự nhận xét, đóng góp của các thầy, cô, Ban Lãnh đạo Ngân hàng cùng toàn thể các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện
Lê Hữu Nguyên
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I/ Văn bản quy phạm pháp luật
Bộ luạt dân sự năm 2005
Luật các tổ chức tín dụng ngày 12/12/1997
Luật ngân hàng nhà nước ngày 12/12/1997 (sửa đổi, bổ sung năm 2003)
Luật doanh nghiệp ngày 29/11/2005
Luật thương mại 2005
Luật công chứng
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm
II/ Tài liệu tham khảo khác
PGS, PTS Vũ Văn Hà “Lý thuyết tài chính tiền tệ” - NXB Tài Chính, năm 2005
TS Lê Thị Thu Thủy - “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng” NXB Tư pháp, năm 2006
Luật sư Đỗ Hồng Thái “Nghị định về giao dịch bảo đảm – một số vấn đề cần được quan tâm” - Tạp chí ngân hàng số 9, tháng 5/2007
Nguyễn Cao Khôi “Tòa án không công nhân tài sản bảo đảm khi doanh nghiệp liên doanh/một bên hợp tác kinh doanh bị phá sản” - Tạp chí ngân hàng số 24, tháng 12/2007
Nguyễn Văn Phương “Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế” - Tạp chí ngân hàng số 11, tháng 6/2007
Thạc sỹ Đoàn Thái Sơn “Bất cập của pháp luật về bảo vệ quyền chủ nợ của tổ chức tín dụng” - Tạp chí ngân hàng số 10, tháng 5/2007
Mai Anh “Trao đổi về hợp đồng đảm bảo tiền vay” - Tạp chí ngân hàng tháng 8/2000
Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam- Trườn Đại học Luật Hà Nội- Nhà xuất bản Công an Nhân dân-2007
Điều lệ Ngân hàng VPBank
Báo cáo thường niên các năm 2006, 2007, 2008, 2009 của Ngân hàng VPBank
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
HĐ : Hợp đồng
HĐTD : Hợp đồng tín dụng
TCTD : Tổ chức tín dụng
LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ths. Đinh Hoài Nam, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. Đồng thời, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo Khoa Luật - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Lãnh đạo cùng Phòng Tín dụng Ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Lê Hữu Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chế độ pháp lý về bảo đảm tiền vay và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng VPBank – Chi nhánh Đông Đô.doc