Chính sách cơ bản của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta

Dành vốn ngân sách đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, đảm bảo hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động, đưa tỷ lệ được đào tạo nghề lên khoảng 30% vào năm 2010. Có chính sách thu hút những người được đào tạo về việc làm ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng sâu và vùng xa.

pdf19 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2947 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách cơ bản của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Chính sách cơ bản của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta LỜIMỞĐẦU Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Bởi vì ở các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho nhân dân, Chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn . Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu, đổi lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất lương thực cho nhu cầu tiều dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70% dân số ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dữ trữ dồi dào cho khu vực thành thị. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của sự phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số ở khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá đất nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, với ý nghĩa lớn lao là vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. Đa số các nước đang phát triển có những thuận lợi đáng kể, đó là tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm nông nghiệp. ở các nước không giàu tài nguyên (như dầu hoả), thì nông sản đóng vai trò quan trọng trong xuắt khẩu, và ngoại tệ thu được sẽ dùng để nhập khẩu máy móc, trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Dân số nông thôn ở các nước đang phát triển còn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Nếu Nhà nước có chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn và thu nhập được phân phối công bằng thì thị trường nông thôn ngày càng có nhu cầu mở rộng về sản phẩm công nghiệp. Tóm lại, ở hầu hết các nước đang phát triển sẽ không có sự phát triển quốc gia, nếu không có sự phát triển ở nông thôn. Nhưng vấn đề cốt lõi của nghèo đói, bất công tăng lên, dân số gia tăng nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng đều có nguồn gốc ở sự trị trệ và thụt lùi của hoạt động kinh tế ở các vùng nông thôn so với thành thị. Do vậy phát triển nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. NỘIDUNG I, Sự cần thiết trợ giúp của chính phủ đến phát triển nông nghiệp và nông thôn. Thành công hay thất bại của những nỗ lực nhằm chuyển biến nền nông nghiệp không những phụ thuộc vào khả năng và kỹ năng của người dân trong việc nâng cao năng suất cây trồng và năng suất lao động mà quan trọng hơn còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nông dân. Như đã phân tích trong nền nông nghiệp truyền thống người dân không muốn và cũng không có điều kiện áp dụng kỹ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định sự chuyển động của nông nghiệp. Do đó, Chính phủ cần có chính sách giúp đỡ về kỹ thuật (giống mới, biện pháp canh tác mới….) và hướng dẫn họ thực hiện những biện pháp này. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ gia đình là chủ yếu. Do đó họ không có khả năng xây dựng cơ sở hạ tầng. Để giúp họ đầu tư theo mô hình lớn như hệ thống điện, đường sá, thuỷ lợi…., Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cho họ dưới nhiều hình thức đầu tư để tạo điều kiện phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sản xuất nông nghiệp có độ rủi ro cao do hoạt động sản xuất của nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan, đặc biệt là thời tiết. Thời tiết có tác động lớn đến nguồn nước, giai đoạn sinh trưởng của cây trồng và tình trạng sâu bệnh. Mặt khác do đặc điểm về sự co giăn của cung cầu sản phẩm nông nghiệp thường làm cho giá cả sản phẩm có biến động lớn. Do đó, Chính phủ cần có chính sách bảo hộ và trợ giúp về giá cả tạo sự ổn định cho sản xuất nông nghiệp. II. Những chính sách cơ bản của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn. 2.1. Chính sách sử dụng đất nông nghiệp Đất đai luôn là tài sản chủ yếu của nông dân, đặc biệt người nghèo ở nông thôn. Nó là cơ sở cho các hoạt động kinh tế xã hội và sự vân hành của thị trường (ví dụ tín dụng nông thôn) ở nhiều nước đang phát triển. Vì vậy, các thể chế liên quan đến đất đai đã trải qua quá trình phát triển dài và chính sách đất đai luôn chịu tác động của dự không hoàn hảo của thị trường. Nói đến chính sách đất đai trong nông nghiệp trước hết là nói đến quyền sở hữu, quyền sử dụng đất đai của người nông dân. Tác động của các quyền sở hữu tài sản nói chung, quyền sỡ hữu đất đai nói riêng đối với tăng trưởng kinh tế có thể được phân tích theo cách tiếp cận sau: Thứ nhất, việc đảm bảo các quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản (đất đai) sẽ tăng cường khuyến khích các hộ gia đình và cá nhân đầu tư cũng như thường xuyên tạo cho họ khả năng tiếp cận tốt hơn với tín dụng. Thứ hai, như chúng ta đã biết, trong một nền nông nghiệp thủ công, sự phân phối đất canh tác trên thực tế có tác động tới sản lượng. Điều đó có ý nghĩa là sự bất bình đẳng cao trong phân phối đất đai làm giảm năng suất. Và mặc dù khả năng sử dụng hữu hiệu đất đai còn phụ thuộc và các chính sách trong những lĩnh vực khác ngoài đất đai. Nhưng khi quyền về đất đai được xác định một cách rõ ràng và được đảm bảo vẫn là điều kiện then chốt đối với các hộ gia đình, đối với sự phát triển sản xuất nông nghiệp và sự vận hành các thị trường yếu tố. Cải cách ruộng đất thường được coi là điều kiện cần đầu tiên để phát triển nông nghiệp ở các nước đang phát triển. Cải cách ruống đất thường là việc chia lại quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng đất từ tay địa chủ cho nông dân. Cải cách ruộng đât có thể thực hiện bằng nhiều hình thức: trưng thu hoặc trưng mua đất đai của địa chủ chia cho nông dân, chuyển nhượng đất từ những trang trại lớn sang trang trại nhỏ hoặc phân chia những trang trại lớn thành những trang trại nhỏ. Cùng với cải cách ruông đất, việc xác định hình thức sở hữu và sử dụng đất đai là cơ sở hình thành phương thức tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm nông nghiệp. Có nhiều hình thức sở hữu và sử dụng đất nông nghiệp khác nhau, nhưng nói chung có thể chia làm ba loại. - Hình thức trang trại gia đình. Trong hình thức này gia đình sở hữu những mảnh đất nhỏ, lao động trong gia đình là chủ yếu, họ có trách nhiệm rõ ràng và cụ thể với kết quả sản xuất, do đó hiệu quả sử dụng đất cao. Hạn chế của hình thức này là khả năng áp dụng kỹ thuật mới, đặc biệt là việc sử dụng máy móc cơ khí trong sản xuất. - Hình thức trang trại lớn thuộc sở hữu các điền chủ. Họ tổ chức chăn nuôi hoặc trồng trọt với quy mô lớn, thuê người quản lý và thuê lao động. Những người lao động thường là những người làm công ăn lương, ít phụ thuộc vào kết quả thu hoạch. Hiệu quả của việc sử dụng đất đai và công việc phụ thuộc vào việc quản lý và giám sát lao động. - Hình thức tập thể hoá (nông trang, hợp tác xã…) sở hữu đất đai thuộc Nhà nước. Mọi người nông dân cùng sử dụng, tổ chức lao động theo tổ, đội, phân phối thu nhập dựa vào kết quả sản xuất của tập thể và sự đóng góp lao động của mỗi nông dân. Hạn chế của hình thức này là trách nhiệm với việc sử dụng đất đai không rõ ràng, hiệu quả sản xuất thấp. ở Việt Nam hiện nay đất nông nghiệp thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng các hộ nông dân được giao quyền sử dụng lâu dài. Theo quy định của Luật đất đai (năm 2003) cá nhân, tổ chức có quyền sử dụng đất đai thì có các quyền sau: quyền thừa kế, chuyển nhượng, chuyển đổi, thế chấp và cho thuê.. 2.2. Các biện pháp hỗ trợ trong nước (hỗ trợ giá) Các nước có thể áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ trong nước. Biện pháp thường được áp dụng là hỗ trợ giá dưới hình thức sau : Thứ nhất, xử lý mối quan hệ giữa giá đầu vào và giá tiêu thụ nông sản. Khi người nông dân đã có sản phẩm trao đổi trên thị trường thì cũng như hoạt động sản xuất khác, họ quan tâm đến lợi nhuận. Lợi nhuận của sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc vào giá bán của sản phẩm và giá mua các yếu tố đầu vào, trong đó phân bón hoá học thường chiếm tỷ lệ lớn. Mối quan hệ này được thể hiện thông qua hệ số trao đổi sản phẩm. Pi In = % Po Trong đó: In: Hệ số trao đổi sản phẩm, phản ánh % chi phí đầu vào cho một đơn vị sản phẩm đầu ra. Pi: Giá bình quân các yếu tố đầu vào Po: Giá bình quân tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Về lý thuyết người nông dân sử dụng phân bón hoá học cho đến khi sản phẩm cận biên bằng chi phí cận biên (MP=MC) Do vậy, để tăng lợi nhuận từ sản xuất lúa cần tăng giá lúa hoặc giảm giá phân bón hoá học hoặc cùng kết hợp cả hai. Mối quan hệ giữa giá lúa vá giá phân bón hoá học với sản lượng lúa có thể biểu hiện trong hình sau: P P2 P1 q1 q2 q3 q4 Q Hình 1. Tác động của giá lúa và giá phân bón đến sản lượng thóc Trong hình này, dựa vào giá lúa và giá phân bón để xác định các đường phản ánh chi phí cận biên (MC) và doanh thu cận biên. Nếu giá lúa là P1 và chi phí cho phân bón là MC1 thì mức sản lượng lúa được sản xuất là là q1. Nếu giá phân bón giảm từ MC1 đến MC2 và giá lúa không đổi thì sản lượng lúa sẽ tăng từ q1 đến q2. Nếu giá lúa tăng từ P1 đến P2 và giá phân bón không đổi, thì sản lượng lúa sẽ tăng từ q1 đến q3. Còn trong trường hợp cả giá lúa và giá phân bón đều biến đổi theo xu hướng giảm giá phân bón và tăng giá lúa thì sản lượng lúa sẽ tăng từ q1 đến q4. Như vậy trong chính sách giá nông sản của Nhà nước cần chú ý đến tác động của mối quan hệ tương quan giữa giá tiêu thụ nông sản và giá các yếu tố đầu vào làm sao đảm bảo được lợi nhuận cho nông dân. Thứ hai, trợ giá nông sản. ở các nước đang phát triển vấn đề trợ giá nông sản cũng thường được đặt ra. Trợ giá được xem xét cả dưới giác độ người sản xuất và người tiêu dùng. Đối với người sản xuất, nông dân là tầng lớp có thu nhập thấp trong xã hội, nguồn thu chủ yếu của họ là từ lương thực thực phẩm. Nếu giá tiêu thụ nông sản thấp sẽ tác động đến sản xuất làm cho mức sản lượng giảm, do đó thu nhập của người nông dân giảm. Thu nhập không đảm bảo được đời sống sẽ là áp lực thúc đẩy họ di dân ra thành phố tìm việc làm. Ngược lại ở khu vực thành thị nếu giá nông sản tăng, cuộc sống của đại đa số các gia đình sẽ bị tác động mạnh vì người tiêu dùng thường phải chi tiêu đến 50% thu nhập dành cho hàng hoá lương thực, thực phẩm. Lợi ích của việc trợ giá cho người tiêu dùng hoặc người sản xuất được mô tả trong hình sau: MC1 MC2 MR1 MR2 P S P2 Po E P1 D q1 q2 qo q3 q4 Q Hình 2. Tác động của trợgiánông sản cho người sản xuất và người tiêu dùng Nếu người nông dân được hưởng trợ giá, có nghĩa làNhà nước mua lương thực của nông dân với giá P2 và bán ra thị trường với giá P2. Với giá thu mua tương đối cao, khuyến khích nông dân tăng sản lượng từ q1 đến q2. Nhưng do nhu cầu của người tiêu dùng ở mức q3 cho nên sẽ dôi ra một lượng lương thực dùng cho nhu cầu dữ trữ hoặc xuất khẩu. Nếu người tiêu dùng được hưởng trợ giá, có nghĩa làNhà nước thu mua với giá P1 và bán ra với giá P1. Khi đó nhu cầu tăng từ q3 đến q4 trong khi khả năng sản xuất ra là q1. Trong trường hợp này lợi ích người tiêu dùng tăng, nhưng lại thiếu lương thực đáp ứng cho nhu cầu tiều dùng, khi đó cần phải tiến hành nhập khẩu. Thông thường Chính phủ lựa chọn giải pháp trung gian. Trợ giá chi phí lưu thông vận chuyển từ nông thôn ra thị trường bán lẻở thành thị. 2.3. Chính sách bảo hộ nông nghiệp Bảo hộ nông nghiệp là những biện pháp của Chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản vàđối phó với những hàng hoá nhập khẩu. Bảo hộ nông nghiệp thường được thực hiện qua phương thức sau đây: 2.3.1. Bảo hộ bằng thuế quan. Xét về bản chất, bảo hộ bằng thuế nhập khẩu đối với nông nghiệp và công nghiệp là tương tự nhau. Tuy nhiên, mức độ, tính chất phức tạp và hình thức thì có sự khác nhau ít nhiều. Theo quan điểm của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thuế quan được thừa nhận là công cụ hợp pháp bảo hộ sản xuất trong nước và cóưu điểm rõ ràng, ổn định, dễđàm phán. Hạn chế của thuế quan là không tạo được rào cản nhanh như phi thuế quan. 2.3.2. Bảo hộ bằng biện pháp phi thuế quan Các nước nhìn chung thường áp dụng nhiều biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất và thương mại hàng nông sản. Có thể chia thành các nhóm sau: - Hạn chếđịnh lượng bao gồm: cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép. - Quản lý giá là công cụ gián tiếp bảo hộ sản xuất trong nước. Mục tiêu của biện pháp này làđể tránh gian lận thương mại. - Chếđộ thương mại: biện pháp này liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. - Hàng rào kỹ thuật, như kiểm dịch động vật, nhãn mác hàng hoá… - Các biện pháp bảo vệ thường mại tạm thời: như hạn chế nhập khẩu tạm thời, chống bán phá giá…. Ưu điểm của bảo hộ phi thuế quan là: - Hình thức phong phú do đó có nhiều cơ hội chọn hơn. - Có thể thực hiện đồng thời nhiều mực tiêu với hiệu quả cao. Hạn chế: - Gây khó khăn, tốn kém trong quản lý. - Áp dụng các biện pháp phi thuế quan đôi khi gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. - Nhà nước sẽ không hoặc ít thu được lợi ích tài chính. III, Đánh giá tác động của công cụ chính sách đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta: Các chính sách nổi bật trong nông nghiệp có thể kể đến là xây dựng cơ chế chính sách khoán ruộng đất, rừng cho người nông dân; tạo điều kiện thông thoáng để khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư và kinh doanh trong ngành nông nghiệp. Bên cạnh đó, các chính sách đầu tư, phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động, hỗ trợ nông nghiệp... của Chính phủ cũng được từng bước được nâng lên và điều chỉnh dần theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, các chính sách của ta vẫn còn nhiều điểm bất cập so nhu cầu của ngành nông nghiệp, cũng như so với mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 3.1. Chính sách ruộng đất: Trong thời kỳ đổi mới nền kinh tế Việt Nam, khu vực nông nghiệp và nông thôn đã đạt được những thành tựu vượt bậc. Điều đó là do tác động mạnh của các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn và đặc biệt là chính sách ruộng đất. Chính sách ruộng đất được mở đầu bằng luật cải cách ruộng đất và sau nhiều lần sửa đổi bổ sung hiện nay là Luật đất đai đã được Quốc hội Việt nam thông qua, đã tạo môi trường pháp lý thông thoáng và công bằng hơn đối với người sử dụng. Đồng thời cũng khẳng định được vai trò của nhà nước là người bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nguời sử dụng đất. Điều này làm cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư để đạt hiệu quả cao trong sử dụng đât đai. Kết quả của việc thực hiện chính sách ruộng đất đã tạo ra bước chuyển biến đáng kể trong nông nghiệp và nông thôn. Sản lượng nông nghiệp tăng trưởng tương đối ổn định trong suốt giai đoạn 1995 đến 2003 (bình quân khoảng 4,2%/năm), nghèo đói khu vực nông thôn cũng giảm dần. Một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta về chính sách ruộng đất, đó là chính sách dồn điền đổi thửa. Có thể khẳng định, dồn điền đổi thửa (DĐĐT) là hướng đi tất yếu để đưa nền nông nghiệp vốn rất manh mún, nhỏ lẻ phát triển thành sản xuất hàng hoá, quy mô lớn. Sau hơn 10 năm thực hiện, từ những ý tưởng manh nha ban đầu rồi trở thành chủ trương lớn, DĐĐT đã thu được những thành tựu đáng kể, tạo tiền đề cho sự xuất hiện của những vùng chuyên canh lớn. Không thể phủ nhận những giá trị to lớn mà DĐĐT mang lại. Phá tan tư tưởng “hoa thơm mỗi người hưởng một tý”, xoá bỏ cung cách sản xuất manh mún, bà con nông dân đã nhìn thấy lợi ích của những ô thửa lớn như: dễ canh tác, thuận lợi cho việc áp dụng cơ giới hoá, tiến bộ kỹ thuật, các tiêu chuẩn quốc tế vào sản xuất, hiệu quả kinh tế mang lại cao hơn nhờ chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng - vật nuôi. Qua hơn 10 năm thực hiện, DĐĐT đã có những chuyển biến đáng kể, đến nay hầu hết các tỉnh - thành phố ở Đồng bằng sông Hồng triển khai DĐĐT, số thửa giảm từ 21.548.260 thửa xuống còn 10.309.812 thửa. Mỗi hộ trước đây sử dụng ruộng từ 8 - 18 thửa/ha, nay chỉ còn 3,5 - 4 thửa/ha. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi chính sách ruộng đất của Chính phủ nhiều vấn đề đã, đang và sẽ tiếp tục nảy sinh liên quan tới lợi ích nhiều nhóm xã hội khác nhau và đòi hỏi phải có những điều chỉnh chính sách kịp thời. Thứ nhất, một trong những vấn đề quan trọng nhất và cũng "nổi cộm nhất" trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay là việc nhiều địa phương lấy đất nông nghiệp làm công nghiệp, đô thị. Ở nhiều địa phương, Khu công nghiệp (KCN) có thể mọc lên bất cứ chỗ nào, bất chấp đất trồng lúa màu mỡ. Nhiều nhà khoa học lo ngại, nếu Chính phủ không “mạnh tay”, Việt Nam sẽ bất ổn về an ninh lương thực khi không giữ được đất trồng lúa. Thống kê của Bộ Tài nguyên - Môi trường cho thấy, trong vòng 5 năm, từ 2001 - 2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã bị thu hồi chuyển sang đất phi nông nghiệp tới trên 366.000ha, chiếm 3,9% đất nông nghiệp đang sử dụng. Bình quân mỗi năm thu trên 73.000ha. Trong đó, điển hình là các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Nội. Theo dự kiến năm 2008, Hà Nội sẽ thu hồi 1.500ha, trong đó 904ha đất hai vụ lúa. Điều này ảnh hưởng đến gần 40.000 hộ dân vốn sống phụ thuộc vào nông nghiệp. Cục HTX - Phát triển nông thôn (Bộ NN-PTNT) tính toán, mỗi hecta đất thu hồi ảnh hưởng tới 10 lao động nông nghiệp. Như vậy, việc thu hồi đất nông nghiệp trong 5 năm đã làm đời sống của 2,5 triệu người bị lung lay. Trong đó, vùng Đồng bằng sông Hồng có số hộ bị thu hồi lớn nhất với khoảng 300.000 hộ (do mỗi năm từ 2002- 2007, vùng này mất 7.500 ha đất/năm (0,67%), gần gấp hai lần tỷ lệ của cả nước), kế đến là vùng Đông Nam Bộ với khoảng trên 100.000 hộ. Nguyên nhân của tình trạng này là do Việt Nam vẫn đang thiếu một bản quy hoạch cụ thể về đất nông nghiệp. Chính vì không có cái khung cụ thể, được phê duyệt ở cấp cao, mang tính chất pháp lý cho chính quyền địa phương nên nhiều nơi đã tự chuyển đổi đất trồng lúa để làm công nghiệp, với cái nhìn ngắn hạn "ngân sách đầy hơn nhờ nguồn thuế", trong khi chính quyền TƯ lại buông lỏng quản lý. Viện Nghiên cứu Hỗ trợ phát triển nông thôn (IRARD) cảnh báo, những thôn, xã có diện tích thu hồi chiếm hơn 1/3 đất nông nghiệp đều không đảm bảo lương thực. Nghịch lý khác là trong khi hàng triệu nông dân đang lao đao vì mất tư liệu sản xuất thì các Khu công nghiệp, sau khi giải phóng mặt bằng xong, lại không được nhòm ngó tới. Thứ hai, mặc dù đã thu được những thành tựu đáng kể, tạo tiền đề cho sự xuất hiện của những vùng chuyên canh lớn nhưng xung quanh chính sách dồn điền đổi thửa (DĐĐT) vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần được khắc phục kịp thời... Chậm, chất lượng chưa cao là tình trạng chung của công tác DĐĐT ở nhiều địa phương hiện nay. Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền, vận động chưa đủ sức thuyết phục; lãnh đạo nhiều nơi còn thụ động, ngại va chạm, một bộ phận không nhỏ nông dân chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu tất yếu phải thay đổi phương thức canh tác. Ngoài ra, thiếu chính sách giao đất lâu dài, ổn định cũng là một trong những nguyên nhân khiến công tác DĐĐT gặp khó khăn, nhất là trong tư tưởng của một số nông dân. Thứ ba,trong các chính sách đất đai hiện nay, đặc biệt là việc triển khai chính sách này vào thực tiễn ở các địa phươngvẫn còn rất nhiều vấn đề bất cập mà Việt Nam vẫn chưa giải quyết được. Nhưng cũng cần phải nói thêm rằng, những bất cập của chính sách đất đại hiện nay cũng là chuyện tất yếu. Bởi vì thực tiễn đang phát triển quá nhanh. Cách đây mươi, mười lăm năm, cách xử lí về đất đai của nước ta tiến bộ hơn nhiều so với bạn bè trong khu vực (Philippine, Trung Quốc), nhưng đến nay lại lạc hậu. Và cũng những vấn đề của luật mà chúng ta chưa giải quyết được triệt để.Cụ thể: - Năm 1987, Nghị định 299, quy định hộ nông thôn được 200m2, miền núi được 400m2 đất ở. Vườn ao bên cạnh tính là đất nông nghiệp. Sau này Nghị định 197 năm 2004, lại coi đất vườn ao là đất liền kề và được hỗ trợ đền bù với các mức trợ cấp khác cao hơn nhiều so với đất nông nghiệp bình thường. Từ đó, ở nhiều nơi người dân chiếm ruộng, chiếm ao hồ biến thành đất liền kề. Dẫn đến mâu thuẫn, khiếu kiện. Mà đáng lẽ phải xem xét và quy định chính sách đó cho loại đất đó chỉ được áp dụng ở từng thời điểm một. - Hiện nay đa số người dân, kể cả những người thực hiện chinh sách đất đai ở địa phương đều cho rằng giá đất đền bù khi thu hồi đất nông nghiệp chưa hợp lí. Giá đền bù đất nông nghiệp thấp hơn rất rất nhiều so với đất ở và đất phi nông nghiệp. Ở đất nông nghiệp cơ chế xác định giá đền bù chủ yếu dựa trên địa tô nông nghiệp. Nên khi thu hồi đất, chỉ có dân đô thị, người ven đô được hưởng lợi nhiều, còn nông dân luôn luôn bị thiệt. Về nguyên tắc, phương pháp tính giá đền bù của Nghị định 188 đã thể hiện cơ sở đề bù ở đây là dựa trên địa tô của đất. Tuy nhiên,trên thực tế, hiện nay đối với đất nông nghiệp chúng ta chỉ hiểu địa tô đất bao gồm địa tô tuyệt đối và địa tô tương đối (lí thuyết của Adam Smit, Ricardo hay K. Max), mà quên rằng nếu trên đất có nhiều tác nhân kinh tế đang cạnh tranh nhau (ví dụ đất nông nghiệp trong gianh giới đất đô thị hay đất được quy hoạch để làm đô thị) thì địa tô đất sẽ bao gồm cả các địa tô kinh tế, địa tô trạng thái (được hiểu là các thặng dư do vị trí đất mạng lại, giúp cho các tác nhân kinh tế nếu khai thác vị trí này cho phép giảm nhiều chi phí trong sản xuất kinh doanh: khoảng cách đến thị trường gần hơn, tiếp cận các dịch vụ dễ hơn…) (Lí thuyết của Von Thunen, Wiliam Alonso hay Alfrred Marshall). Nếu như cách xác định giá đền bù theo phương pháp so sánh ít nhiều đã tính đến các địa tô kinh tế này. Nhưng nếu đất nông nghiệp chỉ tính đơn thuần trên địa tô nông nghiệp thì sẽ thiệt thòi cho người có đất. Tuy khung giá đất và những quy định để cho các địa phương tùy theo điều kiện của mình để điều chỉnh giá đất hàng năm đã ít nhiều thể hiện được địa tô chênh lệch II của đất nhưng nó chưa đủ và chưa thể hiện được tư duy phát triển tổng hợp và dài hạn trên cả lãnh thổ. Những sự thiếu công bằng trên là nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn ruộng đất và mâu thuẫu này ngày càng lớn. Cụ thể là hình thành nên một mối quan hệ không tốt đẹp giữa nông dân và Chính quyền, giữa nông dân và doanh nghiệp. 3.2. Chính sách đầu tư: Nguồn vốn đầu tư xã hội cho nông nghiệp, nông thôn thường bao gồm: vốn ngân sách Nhà nước (được gọi là nguồn vốn chủ yếu), vốn tín dụng ưu đãi và vốn do dân tự đầu tư. Ngoài ra những năm qua Chính phủ đã chủ trương khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngàng nông nghiệp, lân nghiệp. Vốn ngân sách Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chủ yếu để chi cho các mục tiêu xã hội, xoá đói và thuỷ lợi. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong giai đoạn 2001-2005, đã có 113.116 tỷ đồng đầu tư phát triển nông thôn trong cả nước, trong đó, vốn ngân sách Nhà nước chiếm gần 29 ngàn tỷ, chỉ đạt 15 – 17% tổng vốn đầu tư từ ngân sách hàng năm, vốn đóng góp của nhân dân chiếm khoảng 10%. Nhờ đó, nông thôn đã có những bước chuyển tích cực, điện đường trường trạm cơ bản được đảm bảo. Tuy nhiên, số này mới chỉ đáp ứng 17% nhu cầu phát triển nông thôn. Chính vì vậy, trong những năm vừa qua, kinh tế đất nước tăng trưởng mạnh nhưng khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng cao. Nếu khu vực nông thôn có mức tăng trưởng từ 3,5 - 4%/mỗi năm, thì khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng trưởng cao hơn gấp 2- 6 lần. Ngoài ra, do chưa tìm được mô hình điển hình cho phát triển nông thôn và những bất cập trong việc đầu tư, nên nông thôn đang tồn tại không ít khó khăn. Hiện cả nước còn hơn 300 xã với hơn 20.000 thôn, ấp chưa có đường giao thông, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội. Bản sắc văn hóa và sinh cảnh nông thôn đang mất dần; nông sản không có sức cạnh tranh trên thị trường, nhất là khi Việt Nam gia nhập WTO. Vòng lẩn quẩn được mùa-mất giá, được giá-mất mùa, hàng hóa không tiêu thụ được... luôn diễn ra. Thời gian qua, Chính phủ đã cố gắng cân đối, bổ sung nguồn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn bằng nhiều nguồn như vốn ngân sách, trái phiếu chính phủ, ODA… nhưng hiệu quả chưa thật rõ nét. Thu hút FDI vào nông thôn cũng vậy. Cũng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện chỉ có khoảng 9% doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, 7% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là trong lĩnh vực nông nghiệp.Trong khi, Việt Nam có trên 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Trong giai đoạn tới (2006 – 2010), với danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mà Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mời gọi vốn FDI gần 26 tỷ USD, ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi chỉ có 1 dự án; ngành thuỷ sản có khá hơn với 4 dự án mời gọi đầu tư. Rõ ràng, vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn quá thấp mà nguyên nhân cơ bản của vấn đề này là: - Cơ cấu đầu tư còn chưa hợp lý, phân bổ vốn trong các chương trình, mục tiêu còn dàn trải, bình quân. Trong khi đó, chưa có nhiều cơ chế, chính sách hữu hiệu nhằm khuyến khích, thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Nhiều chủ trương của Đảng và Nhà nước chưa được các bộ, ngành trung ương quan tâm thực hiện. - Sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro nhiều phía, nhất là điều kiện tự nhiên, thị trường; lãi suất thấp, thu hồi vốn chậm vì phải theo chu kỳ cây trồng, vật nuôi, cho nên các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này cần sử dụng nhiều đất đai để xây dựng vùng nguyên liệu thì thực tế tại các địa phương, đất đai đã được giao hết cho các hộ. Vì vậy, vùng nguyên liệu không ổn định, dẫn đến tình trạng nông dân bơi trong vòng luẩn quẩn, hết “trồng - chặt” lại “chặt - trồng”, chất lượng thấp, giá thành lại cao. - Cơ sở hạ tầng ở nông thôn như điện, đường, thông tin… lại chưa được đảm bảo, chi phí dịch vụ cao làm tăng giá thành sản phẩm. Đây là hoạt động mấu chốt kết nối giữa nông thôn và thành thị, đem đầu tư từ thành thị về nông thôn. Nhiều doanh nghiệp hiện rất khó tiếp cận để đầu tư phát triển và đào tạo nhân lực cho khu vực này. Theo số liệu của Ban đổi mới doanh nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), đa số các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông- lâm nghiệp thuộc loại vừa và nhỏ. Trong lúc bình quân 1 lao động trong các doanh nghiệp FDI làm ra 341 triệu đồng/ năm; doanh nghiệp Nhà nước 300 triệu đồng/năm thì doanh nghiệp nông nghiệp chỉ 52 triệu đồng/năm. Chỉ có 60% doanh nghiệp nông nghiệp làm ăn có lãi. 3.3. Chính sách phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn: Trong giai đoạn hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và coi đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Một trong những yếu tố tạo động lực đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là việc phát triển của công nghiệp nông thôn. Để góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn một cách bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh, thực hiện có hiệu quả lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngày 09/6 /2004 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 134/2004/NĐ-CP về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn. Đối tượng được khuyến khích, hỗ trợ phát triển và tạo điều kiện là các tổ chức, cá nhân trực tiếp đầu tư, sản xuất công nghiệp tại vùng nông thôn, cụ thể là tại các huyện, thị xã, thị trấn và xã, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã. Từ khi Nghị định đi vào cuộc sống đến nay đã động viên và huy động được rất nhiều nguồn lực trong và ngoài nước tham gia hoặc hỗ trợ các tổ chức, cá nhân đầu tư sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, công nghiệp nông thôn đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ bình quân giai đoạn 2003- 2006 là 17,9%/năm. Bên cạnh đó, các dịch vụ khuyến công theo quy hoạch cũng đã phát triển đều khắp trong cả nước, nhất là các vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bộ mặt nông thôn có những chuyển biến rõ nét, khởi sắc từng ngày, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện. Tuy nhiên, sau gần 4 năm thực hiện chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp cũng nảy sinh một số vấn đề cần sớm chấn chỉnh, khắc phục như việc triển khai chính sách này chưa rộng khắp nhiều địa phương chưa được ra được các chính sách cụ thể, việc hỗ trợ chưa tương xứng do khả năng ngân sách của từng địa phương khác nhau, việc hổ trợ về đào tạo, chuyển giao công nghệ hiệu quả còn thấp do năng lực của cơ quan nhà nước lẫn các đối tượng được hưởng chính sách; việc cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư còn chậm chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình… Ngành nghề truyền thống giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông thôn Việt Nam từ bao đời nay, vừa tạo công ăn việc làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho nông dân, vừa tạo dấu ấn bản sắc văn hoá của mỗi vùng, miền thông qua sản phẩm truyền thống. Chênh lệch giữa nông thôn và thành thị đang ngày càng tăng, vì vậy, yêu cầu phát triển ngành nghề không chỉ giải quyết những bức xúc ở khu vực nông thôn mà chính là giải quyết vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội của đất nước. Ngày 24/11/2000 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 132/2000/QĐ- TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn và ngày 7/7/2006 ban hành Nghị định 66/2006/NĐ-CP về phát triển ngành nghề nông thôn. Từ khi Quyết định 132 ra đời đã tạo được sự chuyển đổi mạnh mẽ. Nhiều nghề truyền thống được khôi phục, nghề phi nông nghiệp mới ra đời. Số hộ và số cơ sở nghề nông thôn hàng năm tăng bình quân 8,9-9,8%, có trên 1.420 hộ thu nhập từ làng nghề. Thu nhập của người làm nghề gấp 3-4 lần lao động nông nghiệp. Tỷ lệ hộ nghèo mỗi năm giảm 2%. Cơ cấu lao động có bước chuyển biến tích cực theo hướng giảm dần lao động nông nghiệp, tăng lao động công nghiệp, dịch vụ. Thực tế cho thấy, những năm qua nhiều làng nghề ở nước ta đã được phục hồi và phát triển. Tuy nhiên, các nghệ nhân cũng như nhiều nhà quản lý đều có chung quan điểm, việc phát triển làng nghề còn trong tình trạng tự phát, sử dụng công nghệ lạc hậu, thiết bị máy móc cũ kỹ. Trên 80% cơ sở không đủ vốn đầu tư, đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất. Nguyên liệu sản xuất không ổn định, cầm chừng, không ứng dụng được tiến bộ kỹ thuật, mẫu mã đơn điệu. Thông tin thị trường không đầy đủ, đăng ký mẫu mã chậm. Chưa khai thác được tiềm năng du lịch, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm. Môi trường làng nghề ô nhiễm nghiêm trọng. Công tác đào tạo, hướng dẫn, truyền nghề chưa chú trọng đúng mức. Độ rủi ro cao và thiếu thị trường, thiếu các chính sách khuyến khích và hỗ trợ của Nhà nước..., nên bên cạnh những vùng rất năng động trong phát triển, thì vẫn còn nhiều vùng còn khá trì trệ. 3.4. Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: Song song với xu hướng tích tụ ruộng đất, là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đặc biệt đã hình thành những hộ vừa sản xuất hàng hóa, vừa kinh doanh dịch vụ. Theo số liệu được công bố về chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông thôn, hiện nay có khoảng 79,6% lao động nông, lâm, thủy sản; 7,4% lao động công nghiệp và xây dựng; 11,5% lao động trong khu vực dịch vụ. Xu thế của một xã hội phát triển là giảm cơ cấu về mặt tương đối của nông nghiệp trong nền kinh tế, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Muốn như vậy, phải có sự dịch chuyển lao động. Sự dịch chuyển này bằng hai cách: hoặc là dịch chuyển tuyệt đối, tức là đưa về các Khu công nghiệp, đưa đi xuất khẩu lao động, đưa về thành phố - quy luật không thể tránh khỏi; thứ hai, dịch chuyển tại chỗ, nghĩa là đưa công nghiệp về nông thôn, phát triển làng nghề... Tuy nhiên, có một thực trạng là tỷ trọng GDP nông nghiệp giảm rõ rệt trong tổng GDP của cả nước (từ 26,2% năm 1995 còn 20,4% năm 2006), trong khi số lao động trong nông nghiệp giảm không đáng kể. Nguyên nhân của vấn đề là do Việt Nam chưa quan tâm nhiều tới việc dịch chuyển cơ cấu lao động ở nông thôn, đặc biệt là đầu tư cho đào tạo nghề trước khi diễn ra sự dịch chuyển đó, trong khi đây là một xu thế không thể nào đảo ngược được. Việc cử người đi lao động ở Hàn Quốc, Malaysia...của chúng ta là một bài học. Do những người đi lao động hoàn toàn là lao động thô, chưa qua đào tạo một chút nào về kỹ năng nênlao động Việt Nam rất vất vả về chân tay nhưng thu nhập lại thấp. Trong nước, sau khi đất đai nông nghiệp bị thu hồi làm Khu công nghiệp, điển hình như ở Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hải Dương...thì nhu cầu về lao động có tay nghề rất lớn nhưng do chưa làm tốt khâu đào tạo lao động nên tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn đang ngày càng đáng báo động. Cụ thể trên 83% lao động ở nông thôn chưa qua đào tạo bất kỳ chuyên môn gì (con số từ Bộ LĐTB-XH), trong khi tỷ lệ này ở thành thị là 49%. 20% lao động ở nông thôn thất nghiệp, tương đương khoảng 4,8 triệu người, cộng thêm hàng triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động mỗi năm. 3.5. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp Bối cảnh hội nhập quốc tế đang đặt ra các yêu cầu Việt Nam phải mở cửa thị trường, cắt giảm thuế và tiến tới thực hiện một khu vực phi thuế quan. Việt Nam không được thực hiện các biện pháp trợ cấp làm bóp méo thương mại, đặc biệt là các biện pháp trợ cấp xuất khẩu. Hầu hết các chính sách hỗ trợ trong nước hiện nay đều thuộc chính sách hộp xanh và hộp phát triển (là các chính sách WTO cho phép các nước đang phát triển được phép áp dụng), vì vậy có thể tiếp tục duy trì. Theo số liệu thống kê đàm phán gia nhập WTO, cơ cấu chính sách hỗ trợ trong nước cho ngành nông nghiệp (giai đoạn 1999-2001) cho thấy các chính sách thuộc nhóm hộp xanh (được phép áp dụng) của Việt Nam chiếm 84,5% tổng nhóm hỗ trợ trong nước, tập trung chủ yếu trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, dịch vụ khuyến nông, các chương trình hỗ trợ vùng, hỗ trợ khắc phục thiên tai, dự trữ công vì mục đích đảm bảo an ninh lương thực. Các chính sách hỗ trợ đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ kiểm tra giám sát dịch bệnh và sâu bệnh, hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số chi hỗ trợ trong nhóm hộp xanh, mới chiếm tỷ lệ khoảng 1-3%. Các chính sách hỗ trợ trong nhóm chương trình phát triển Việt Nam đang áp dụng chiếm 10,7% tổng nhóm hỗ trợ trong nước. Chủ yếu dưới các hình thức hỗ trợ cho 1 số chương trình hỗ trợ sau đầu tư, hỗ trợ lãi suất cho mía đường, sản xuất sữa, chăn nuôi; hỗ trợ lãi suất thấp cho người nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (bỏ trồng cây thuốc phiện). Trong khi đó,ở châu Á và các nước, xu hướng hỗ trợ nông nghiệp tăng nhanh. Ví dụ, Trung Quốc thực hiện chính sách hỗ trợ nông nghiệp mạnh mẽ với áp dụng thuế cao hoặc mức giá cả giúp người sản xuất và tiêu dùng Trung Quốc tiếp cận sản phẩm nông nghiệp với giá thích hợp. Ở các nước khác, Chính phủ áp dụng quy chế hỗ trợ đa dạng hóa sản phẩm và chính sách trợ giá liên quan đến người nghèo hỗ trợ tiêu dùng. Đó cũng là thách thức cho Việt Nam. 3.6. Chính sách phát triển khoa học-công nghệ: Thiếu kiến thức, công nghệ sản xuất lạc hậu cũng là thực trạng đáng báo động trong đại bộ phận nông dân. Theo các chuyên gia, điều quan trọng là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, cần đẩy mạnh đầu tư cho khoa học-công nghệ (hiện mới chiếm 0,13% GDP nông nghiệp, trong khi các nước tương tự là 4%). Tất nhiên, vấn đề này cũng không dễ dàng bởi những người nông dân đã nghèo, lại không có điều kiện tiếp cận khoa học công nghệ, kiến thức, do đó, khó chuyển giao khoa học, công nghệ để họ thực sự làm chủ. Chính điều đó, đã gây ra bất lợi cho hàng hoá của Việt nam khi tham gia vào thị trường thế giới. - Hiện nay, giá thành sản xuất của phần lớn các nông sản Việt Nam đều đắt hơn hàng nước ngoài mà chất lượng lại không bảo đảm, ngoại trừ một số mặt hàng thủy sản như cá tra. Đến nay tuy các nhà khoa học đã nghiên cứu nhiều biện pháp làm giảm giá thành sản xuất nông sản, nhưng do tập quán lâu đời nông dân cá thể vẫn chưa áp dụng triệt để tiến bộ khoa học. - Khả năng cạnh tranh kém. Thí dụ, cùng một món hàng do một công ty nước ngoài vào đầu tư sản xuất, giá thành sản xuất tại Việt Nam thường cao hơn giá thành của cùng món hàng ấy do chính công ty đó đầu tư sản xuất tại Phi-lip-pin, In-đô-nê- xi-a, hoặc Ma-lai-xi-a. Nguyên nhân cơ bản nhất là hàm lượng chất xám trong sản phẩm của nông dân chúng ta thấp, bà con nông dân đa số là sản xuất nhỏ và manh mún, mạnh ai nấy làm theo sáng kiến của mình, ít chịu theo đúng các chỉ dẫn chuyên môn, vệ sinh an toàn thực phẩm kém nên giá thành sản phẩm cao. IV. Giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn 4.1. Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn. Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải đặt trong tông thể quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ và thị trường đồng thời phải căn cứ vào lợi thế kinh tế, khả năng cạnh tranh của từng vùng. Quản lý, cập nhật, thông tin và kịp thời điều chỉnh quy hoạch. Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản xuất hàng hoá tập trung (cây, con, sản phẩm, ngành nghề...) quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển khu dân cư, xây dựng làng, xã, thị trấn, gắn kết chặt chẽ với an ninh - quốc phòng, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 4.2. Phát triển khoa học – công nghệ. Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất, coi đây là một khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; trước hết cần tập trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ bảo quản và công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Dành kinh phí để nhập khẩu công nghệ cao, thiết bị hiện đại, các loại giống tốt. Đầu tư hiện đại hoá hệ thống viện, trường, nâng cao năng lực đào tạo cán bộ khoa học, nghiên cứu và tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, nhất là cơ chế quản lý tài chính, nhân sự nâng cao hiệu quả nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ cho nông dân. Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế tham gia nghiên cứu phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp nông thôn và thực hiện xã hội hoá, để mở rộng hệ thống khuyến nông đến cơ sở. 4.3. Các chính sách vĩ mô. a) Về đất đai: - Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật các quyền về sử dụng đất đai, khuyến khích nông dân thực hiện “dồn điền đổi thửa”, trên cơ sở tự nguyện, nông dân được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất kinh doanh, liên doanh, liên kết...Bên cạnh đó, các bộ, ban, ngành, địa phương phải có những hướng dẫn kỹ thuật cụ thể, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ có liên quan đến công tác “dồn điền đổi thửa”, nhất là cán bộ địa chính ở cơ sở. - Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Quy hoạch sử dụng đất phải gắn với chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong đó có chiến lược công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn; Chiến lược đô thị hoá và xây dựng nông thôn mới; Chiến lược bảo đảm an ninh lương thực, phát triển vùng rừng; Bảo vệ nguồn nước; Khai thác năng lượng; Chiến lược và chính sách phòng chống thiên tai có tính đến tác động tiêu cực của sự thay đổi khí hậu toàn cầu trong những thập niên sắp tới. Đồng thời phải gắn chặt với quy hoạch, kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội. Khi thực hiện công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, cần quan tâm quản lý chặt quỹ đất nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa. Trừ một số tỉnh, thành phố thuộc khu vực đồng bằng gặp khó khăn nhất định trong việc lựa chọn, các địa phương còn lại nên ưu tiên sử dụng đất ở những vùng không bị ngập lụt hoặc hiệu quả thấp để xây dựng các khu công nghiệp, khu dân cư mới. - Khẩn trương tổng kết tình hình quản lý, sử dụng đất nông, lâm, ngư nghiệp làm cơ sở bổ sung, sửa đổi Luật Đất đai và sớm thể chế hoá thành các quy định cụ thể để thực hiện một cách chặt chẽ. b)Về đầu tư: Nhà nước cân đối các nguồn vốn đầu tư ưu tiên đầu tư thích đáng cho phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách về khuyến khích FDI (bao gồm các chính sách về ưu đãi hỗ trợ vốn và tín dụng, đất đai, phát triển thị trường, hạ tầng, và nguồn nhân lực…). Xây dựng Chương trình thu hút nguồn vốn đầu tư phát triển và trực tiếp (ODA, FDI) để phục vụ xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật nông nghiệp, nghiên cứu chọn tạo các giống cây trồng, giống vật nuôi có năng suất chất lượng cao phù hợp với các vùng sinh thái mang đặc tính riêng của Việt Nam, trên cơ sở đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng hàm lượng công nghệ trong sản xuất, chế biến, phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Các tổ chức tín dụng (ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng cổ phần...) hoạt động dưới nhiều hình thức đa dạng ở nông thôn với lãi suất thoả thuận, tăng mức cho vay và tạo thuận lợi về thủ tục cho vay đối với người sản xuất và các tổ chức kinh tế ở nông thôn. Người sản xuất, các tổ chức kinh tế ở nông thôn được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở các xã, hạn chế tới mức thấp nhất tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. Thực hiện chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng các hình thức bán trả góp vật tư, máy móc, thiết bị nông nghiệp cho nông dân, cấp vốn cho dân vay sản xuất nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn. Khuyến khích người sản xuất, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xây dựng quỹ bảo hiểm ngành để trợ giúp nhau khi gặp rủi ro. Miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn điền cho nông nghiệp đến năm 2010. Điều chỉnh, bổ sung các chính sách thuế nhằm khuyến khích doanh nghiệp thuộc các thành phần đầu tư phát triển kinh tế nông thôn. c)Về công nghiệp và ngành nghề nông thôn: Để đẩy mạnh chính sách phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn, theo chúng tôi cần thực hiện tốt các vấn đề sau: - Các địa phương cần sớm ban hành quy định để cụ thể hoá các chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn trên địa bàn do mình quản lý. - Các cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở địa phương cần thường xuyên phổ biến kinh nghiệm sản xuất, quản lý, tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ và quảng bá sản phẩm cho các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. - Định kỳ cần có tổng kết đánh giá để rút kinh nghiệm trong việc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch, chính sách khuyến kích phát triển để khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện và đề ra các phương hướng trong thời gian tới có hiệu quả hơn. - Chính quyền các địa phương cũng cần phân định rõ ràng, cụ thể các khu vực ưu tiên khuyến khích phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ngay trong phạm vi địa phương mình để đảm bảo chính sách khuyến công đến đúng đối tượng được ưu đãi. d) Về lao động và việc làm: Mục tiêu chương trình “mỗi làng một nghề” giai đoạn 2005-2015 nhắm vào mục đích thúc đẩy ngành nghề nông thôn phát triển bền vững bằng cách tạo cho 1,5 - 1, 6 triệu lao động có việc làm mỗi năm, giảm tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn xuống dưới 15%, đạt cơ cấu lao động nông nghiệp 50%, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống 10% vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2015 có thêm 1.000 làng nghề mới với tiêu chí mỗi làng có 30% số hộ làm nghề. Để đạt được mục tiêu trên, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ, sự hưởng ứng vào cuộc của nhiều cơ quan, của các bộ, ngành liên quan: - Dành vốn ngân sách đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề của Nhà nước, đồng thời có cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá, phát triển các hình thức dạy nghề đa dạng, đảm bảo hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 1 triệu lao động, đưa tỷ lệ được đào tạo nghề lên khoảng 30% vào năm 2010. Có chính sách thu hút những người được đào tạo về việc làm ở nông thôn, nhất là miền núi, vùng sâu và vùng xa. - Tiếp tục khảo sát tình hình lao động, việc làm trong các làng nghề, lập dự án dạy nghề, chỉ đạo một số chương trình vay vốn giải quyết việc làm kết hợp xoá đói giảm nghèo. Cùng với các cơ quan chức năng rà soát lại chính sách khuyến khích phát triển làng nghề nông thôn, ban hành chính sách mới phù hợp như: bảo hiểm xã hội tự nguyện, miễn thuế doanh nghiệp, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý, bố trí đủ cán bộ có trình độ chuyên môn, có đạo đức tốt cho cấp cơ sở khu vực nông thôn để có khả năng thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển làng nghề và phát triển nông thôn. e) Về chính sách hỗ trợ: Tận dụng nhiều hơn những ưu đãi cho nông nghiệp. Khi gia nhập WTO, phải xóa bỏ chính sách trợ giá, nhưng phải tận dụng được ưu đãi mà WTO cho phép (khoảng 10% GDP của nông nghiệp) như thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, cải tạo đất đai, nghiên cứu áp dụng khoa học - công nghệ vào nông nghiệp. KẾTLUẬN Nông nghiệp và phát triển nông thôn được xem là nền tảng để phát triển kinh tế và tiến hành hiện đại hoá, công nghiệp hoá. Đổi mới trong nông nghiệp là cú hích cho công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam, tạo nền móng vững chắc cho phát triển nông thôn nói chung. Với vị thế là một trong những nước xuất khẩu nhiều loại nông sản giá trị cao, bước sang giai đoạn hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế, đây chính là thời cơ vàng đối với nền nông nghiệp Việt Nam trong những năm đầu gia nhập WTO. Bằng cách tận dụng tối đa các cơ hội và giảm thiểu các thách thức, tác động tiêu cực, ngành Nông nghiệp nước nhà đặt ra mục tiêu tiếp tục phát triển với tốc độ nhanh và bền vững. MỤCLỤC LỜIMỞĐẦU .................................................................................................... 1 NỘIDUNG ....................................................................................................... 3 I, Sự cần thiết trợ giúp của chính phủ đến phát triển nông nghiệp và nông thôn. .............................................................................................................. 3 II. Những chính sách cơ bản của Chính phủ trong việc thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn. ............................................................................ 3 2.1. Chính sách sử dụng đất nông nghiệp ................................................ 3 2.2. Các biện pháp hỗ trợ trong nước (hỗ trợ giá) .................................... 4 2.3. Chính sách bảo hộ nông nghiệp ........................................................ 6 III, Đánh giá tác động của công cụ chính sách đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta: ..................................................................................... 7 3.1. Chính sách ruộng đất: ......................................................................... 7 3.2. Chính sách đầu tư: .............................................................................10 3.3. Chính sách phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn: ...........11 3.4. Chính sách chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn: .......................12 3.5. Chính sách hỗ trợ nông nghiệp ..........................................................13 3.6. Chính sách phát triển khoa học-công nghệ: .......................................13 IV. Giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn ..........................................14 4.1. Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn. ..................................14 4.2. Phát triển khoa học – công nghệ. .......................................................14 4.3. Các chính sách vĩ mô. .......................................................................14 KẾTLUẬN .....................................................................................................18

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_5__9002.pdf
Luận văn liên quan