Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2004
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh đó cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp tục phát triển. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế, được ưu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và ASEAN là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị tương đối ổn định, đang trở thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn diện đất nước bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi. Là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam bảo vệ vững chắc tổ quốc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Những biến đổi to lớn trong nước và thế giới trong những năm (1980 - 1990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt Nam phải đưa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đường lối đổi mới đất nước và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi mới chính sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ được các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp tác với Việt Nam.
Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một thế giới mới đầy biến động đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với xu thế thời đại. Nên đã thu được những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm vận về kinh tế, đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định tư duy chính trị nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay, đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối đối ngoại đổi mới được công bố tại diễn đàn Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch định và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng. Chính sách đối ngoại của Đảng thời kỳ 1986 - 2004 thể hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam trong lịch sử và được nâng lên tầm cao mới vì vậy tôi chọn đề tài "Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới (1986 - 2004)" nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn sáng tạo của Đảng sau gần 20 năm đổi mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cập nhật những vấn đề lý luận đặt ra hiện nay.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
I. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính sách đối ngoại
2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
II. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới
1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Chương II:QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
I. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời kỳ(1986 - 1995)
1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới
2. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)
II. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời kỳ(1996 - 2004)
1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2001)
2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2001 - 2004)
Chương III: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Chủ trương, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới
II. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
III. Một số bài học bước đầu về chính sách đối ngoại
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
76 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 14185 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
Các nước láng giềng có vai trò rất quan trọng. Coi trọng và phát triển quan hệ, với các nước láng giềng có ý nghĩa chiến lược đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là luôn coi trọng và tăng cường phát triển quan hệ với Trung Quốc, Lào và Campuchia - điều có ý nghĩa quan trọng để duy trì và phát triển môi trường hoà bình, ổn định lâu dài của nước ta và khu vực.
Các nước Đông Nam Á có vai trò quan trọng. Đây là khu vực phát triển kinh tế năng động có vị trí quan trọng vì quốc phòng, an ninh, chủ trương của chúng ta là phát huy vai trò chủ động và đóng góp tích cực vào hoạt động chung của các nước ASEAN theo hướng nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác. Thu hẹp khoảng cách kinh tế, giữa các nước phấn đầu xây dựng Đông Nam Á, thành một khu vực hoà bình, ổn định, không có vũ khí hạt nhân và hợp tác cùng phát triển.
+ Tiếp tục mở rộng quan hệ với với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô trước đây và một số nước khác với có quá trình lịch sử hợp tác nước ta. Tiếp tục mở rộng quan hệ với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi., Trung Đông và Mỹ La Tinh, các nước trong phong trào không liên kết.
Quan hệ của Việt Nam với những nước này đã được thử thách, có quá trình hiểu biết lẫn nhau, vì vậy, kế thừa và phát triển truyền thống quan hệ tốt đẹp trước đây lên một bước mới là quan trọng và rất cần thiết. Chúng ta tôn trọng những nguyên tắc, luật pháp và thông lệ quốc tế nhằm ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển và phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau.
+ Thúc đẩy quan hệ đa dạng hóa với các nước phát triển và các tổ chức quốc tế. Đẩy mạnh hoạt động ở các diễn đàn đa phương.
Các nước phát triển tiếp tục có vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, nhất là trong lĩnh vực kinh tế như nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, khoa học và công nghệ , thị trường… Các nước này có vai trò lớn và đang chi phối quá trình toàn cầu hóa. Tuy nhiên họ cũng có nhu cầu mở rộng hợp tác, tìm kiếm thị trường. Việt Nam phát triển quan hệ với các nước này, thúc đẩy quan hệ đa dạng, gồm cả quan hệ chính phủ với các nước và các tổ chức quốc tế là rất cần thiết để tranh thủ các thế mạnh của họ cho sự phát triển đất nước, tạo môi trường hòa bình, ổn định lâu dài.
Các diễn đàn và các tổ chức quốc tế có vai trò và tác động rất lớn đối với nền kinh tế và đời sống chính trị của thế giới và Việt Nam.
Hoạt động trên các diễn đàn và tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế có ý nghĩa thúc đẩy sự hiểu biết và mở rộng sự hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới. Chủ trương của ta là đẩy mạnh hoạt động trên các tổ chức và diễn đàn quốc tế để đấu tranh cho hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, nâng cao uy tín và vị trí quốc tế của nước ta, tranh thủ sự đồng tình và dư luận tiến bộ trên thế giới đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
+ Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Thế giới hiện nay đang đứng trước những vấn đề tòan cầu mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được như chiến tranh và hòa bình, bảo vệ môi trường, hạn chế bùng nổ dân số, phòng chống ma túy và tội phạm quốc tế, đẩy lùi những bệnh hiểm nghèo… Nhận thức đúng và tham gia tích cực giải quyết các vấn đề độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia của nước ta.
Chúng ta chủ trương ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới bảo vệ hòa bình, loại trừ hoàn toàn vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học và các phương tiện chiến tranh giết người hàng loạt, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quyền tự chọn con đường phát triển của mỗi dân tộc. Việc tích cực tham gia giải quyết những vấn đề toàn cầu thể hiện trách nhiệm của chúng ta trước nhân loại và tạo điều kiện để nhân dân ta có hành động thiết thực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
+ Củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác với các Đảng cộng sản và công nhân, với các Đảng Cộng sản và công nhân với các đảng cánh tả và các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, với các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Hiện nay, Đảng ta có quan hệ với gần 200 Đảng cộng sản và công nhân, Đảng cánh tả và phong trào giải phóng dân tộc và độc lập. Đây là lực lượng cách mạng và tiến bộ, đứng trên tuyến đầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, hiếu chiến. Họ đều có quan hệ tốt và cổ vũ thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nước ta, bày tỏ tình đoàn kết, sự ủng hộ Việt Nam trên nhiều vấn đề quốc tế. Chủ trương của ta là luôn ủng hộ, doàn kết hợp tác, tôn trọng độc lập tự chủ, đường lối vào công việc nội bộ của nhau và không để ảnh hưởng đến quan hệ giữa nước ta với quốc gia và chính phủ hiện đnag là lực lượng đối lập của họ.
+ Tiếp tục rở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền các Đảng cầm quyền hiện nay đều có tiếng nói và có thể mạnh nhất định về chính trị, kinh tế và kinh nghiệm quản lý đất nước. Việc thiết lập quan hệ với các Đảng cầm quyền và thể hiện chính sách đối ngoại rộng mở của chúng ta. Điều đó thúc đẩy thêm quan hệ mới với các chính phủ nước đó, tạo điều kiện để Đảng và Nhà nước ta trao đổi kinh nghiệm cầm quyền, hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ; chủ trương của ta là tôn trọng độc lập và tự chủ, đường lối và quan điểm của đảng đó, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau tìm ra tiếng nói chung và có giải pháp hiệu quả trong việc mở rộng quan hệ hợp tác.
+ Mở rộng hơn nữa công tác đối ngoại nhân dân.
Ngoại giao nhân dân có vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn lực, trí tuệ khoa học, vốn đầu tư xây dựng đất nước, thúc đẩy giao lưu, hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước. Thông qua đó nhân dân thế giới hiểu biết ta hơn và tác động tích cực đến chính phủ ủng hộ, hợp tác với Việt Nam; chúng ta có thêm mặt trận đấu tranh chống thế thực phản động và thù địch, thúc đẩy hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
Những năm qua ngoại giao nhân dân và quan hệ với các tổ chức phi chính phủ ngày càng phát triển và đã góp phần quan trọng và thắng lợi chung của công cuộc đổi mới. Hiện nay, có gần 3 triệu người Việt Nam định cư ở 80 nước và lãnh thổ trên thế giới. Việc triển khai thực hiện nghị quyết 36 của Bộ chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã làm cho các hoạt động ngoại giao nhân dân càng đẩy mạnh hơn. Chủ trương của ta là mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác - hoạt động này nhưng luôn cảnh giác, ngăn ngừa những ý đồ lợi dụng các cứu trợ, viện trợ nhân đạo.. Vì mục đích chính trị, làm ảnh hưởng đến ổn định và phát triển của đất nước.
Chúng ta đã tích cực mở rộng quan hệ với tất cả các nước, củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với Trung Quốc theo phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai". Tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào. Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với Campuchia. Đoàn kết, gắn bó với các nước ASEAN, thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển ở Đông Nam Á. Tiếp tục đoàn kết, ủng hộ Cu Ba, cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên. Tiếp tục mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống: thúc đẩy, quan hệ hợp tác tác chiến lược với Nga, hợp tác với các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và các nước Đông Âu, mở rộng quan hệ với các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản và Khối EU. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước và vùng lãnh thổ, giữ vững và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế, với quan hệ thương mại trên 140 nước, quan hệ đầu tư với hơn 70 nước. Đến tháng 7/2004 Việt Nam đã cấp giấy phép cho 5.873 dự án đầu tư nước ngoài. Đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài vào kinh tế Việt Nam ngày càng cao.
Trên cơ sở kiên định đường lối độc lập tự chủ, chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá công tác đối ngoại, Nghị quyết Trung ương chín (khoá IX) đã đánh giá ưu điểm và hạn chế của 3 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX.
* Về ưu điểm:
- Đã củng cố và tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác và hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước láng giềng có chung biên giới; góp phần tích cực củng cố sự gắn kết, giữ vững những nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc đẩy hợp tác nội khối và bên ngoài.
Tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ, tăng cường tin cậy lẫn nhau, tiến hành phân giới, cắm mốc trên đất liền, thúc đẩy đàm phán nghị định thư về nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện với Lào, đẩy mạnh quan hệ hợp tác, phối hợp và giúp đỡ lẫn nhau giữa các ngành, các cấp các địa phương của hai nước. Tăng cường quan hệ hữu nghị, láng giềng thân thiện với Campuchia, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, tăng cường giao lưu giữa các địa phương giáp biên giới của hai bên, thúc đẩy đàm phán giải quyết vấn đề biên giới trên đất liền. Thúc đẩy hợp tác trong tam giác phát triển giữa ba nước Việt Nam- Lào- Campuchia và các chương trình hợp tác “ tiểu vùng sông Mê Công”. Tiếp tục đoàn kết, ủng hộ Cuba trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đấu tranh chống bao vây, cấm vận. Duy trì quan hệ hữu nghị, hợp tác với Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên.
Tăng cường quan hệ song phương với các nước thành viên và tổ chức ASEAN, góp phần tích cực vào việc phục hồi kinh tế, củng cố và tăng cường liên kết nội bộ và giữ vững nguyên tắc cơ bản của ASEAN; mở rộng quan hệ với các đối tác khác, nhất là với các nước lớn; đóng góp tích cực vào việc xây dựng cộng đồng ASEAN theo tầm nhìn 2020; thúc đẩy xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển ở Đông Nam Á.
- Tiếp tục mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác phát triển ổn định, lâu dài với nhiều nước khác trên thế giới. Mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống: thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược với Nga, sự hợp tác chiến lược với các nước SNG và Đông Âu; mở rộng thêm một bước quan hệ hợp tác với các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu Á, Châu Phi, Trung Đông và Mỹ La Tinh; tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác phát triển, ổn định lâu dài với các nước lớn khác: Mỹ, EU, Nhật Bản. Tăng cường quan hệ với các tổ chức quốc tế.
- Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như xoá đói, giảm nghèo, phòng chống các bệnh dịch hiểm nghèo (HIV/AIDS, SARD), chống khủng bố, phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường; ủng hộ và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống chiến tranh, chay đua vũ trang, áp đặt và can thiệp, bảo vệ hoà bình, độc lập, chủ quyền,toàn vẹn lãnh thổ của các nước.
- Quan hệ đối ngoại của Đảng được mở rộng, hoạt động đối ngoại nhân dân sống động hơn. Tiếp tục củng cố và tăng cường quan hề đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cầm quyền, các chính đảng, các phong trào giải phóng và độc lập dân tộc, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; duy trì và mở rông quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Hoạt động đối ngoại nhân dân tiếp tục phát triển, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các tổ chức nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của ta.
- Xử lý kịp thời và có hiệu quả các vấn đề phức tạp nảy sinh trong quan hệ với các nước, đấu tranh kiên quyết và khôn khéo với những âm mưu và hành động của các thế lực bên ngoài xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần giữ vững ổn định chính trị, an ninh của đất nước.
* Một số hạn chế, yếu kém:
- Công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình còn yếu; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức, nhất là chủ trương trong quan hệ với một số nước lớn; trong một số trường hợp còn bị động đối phó với tình hình; sự phối hợp giữa hai mặt “hợp tác” và “đấu tranh” chưa thật nhuần nhuyễn; việc xử lý mối quan hệ giữa yêu cầu giữ vững ổn định trong nước và mở rộng quan hệ đối ngoại còn có lúc lúng túng.
- Quan hệ hợp tác vối các nước chưa sâu và chưa vững chắc, quan hệ kinh tế và chính trị nhiều khi chưa gắn kết với nhau; trong một số trường hợp cụ thể còn có sơ hở. Việc xây dựng cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại còn chậm.
Chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là nhân tố quan trọng góp phần giữ gìn hoà bình, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đó cũng là sự đóng góp tích cực của nhân dân ta vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
CHƯƠNG III
MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
I. CHỦ TRƯƠNG, NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI GIAN TỚI
Nghị quyết Trung ương 9 (khoá IX) nhấn mạnh chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời gian tới đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Do vậy, cần quán triệt và tổ chức thực hiện tốt những chủ trương và nhiệm vụ của công tác đối ngoại.
* Về chủ trương công tác đối ngoại:
Tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa và các nước trong khu vực. Tích cực chủ động góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, tăng cường gắn kết trong Hiệp hội, hạn chế tác động phân hoá từ bên ngoài, đẩy mạnh hợp tác kinh tế.
Tiếp tục thúc đẩy quan hệ với các nước lớn trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, xử lý khôn khéo trong quan hệ, hết sức tránh bị rơi vào thế đối đầu, cô lập hay lệ thuộc.
Thúc đẩy quan hệ với các nước đang phát triển, nâng cao vị thế của nước ta trong phong trào Không liên kết, nhóm 77, tích cực triển khai kết quả Hội thảo về Châu Phi để mở rộng quan hệ với Châu Phi. Tích cực tham gia các hoạt động ngoại giao đa phương; tổ chức tốt Hội nghị cấp cao Á- Âu lần thứ 5(ASEM 5), cấp cao APEC. Nâng cao vị thế nước ta trong các tổ chức quốc tế.
Tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác với các đảng cộng sản, công nhân, duy trì quan hệ với các đảng cầm quyền, các chính đảng khác, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Tăng cường công tác đối ngoại nhân dân.
* Về Nhiệm vụ của công tác đối ngoại:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác thông tin nghiên cứu, dự báo tình hình khu vực và thế giới, tăng cường hơn nữa công tác thông tin đối ngoại và văn hóa đối ngoại.
Hiện nay, khoa học và công nghệ thông tin phát triển bùng nổ như vũ bão, tình hình quốc tế diễn biến mau lẹ, quan hệ quốc tế diễn biến rất phức tạp. Bởi vậy công tác thông tin phục vụ nghiên cứu, dự báo tình hình khu vực và trên thế giới có ý nghĩa rất quan trọng. Đẩy mạnh công tác này để khắc phục sự yếu kém, bị động và phân tán của thông tin đối ngoại của ta hiện nay và nắm bắt chính xác, chủ động có những chủ trương đối ngoại thích hợp, tránh bị động, bất ngờ. Qua đó thúc đẩy sự hiểu biết giữa nhân dân ta và nhân dân thế giới, đấu tranh trước dư luận quốc tế.
Tăng cường văn hóa đối ngoại để thúc đẩy giao lưu văn hóa Việt Nam và văn hóa thế giới, củng cố sự hiểu biết, phát triển quan hệ hữu nghị giữa nước ta với các nước. Qua đó giới thiệu được giá trị và bản sắc văn hóa Việt Nam với thế giới và tinh hoa văn hóa thế giới với nhân dân ta.
Tăng cường văn hoá đối ngoại, quan tâm giáo dục lòng tự hào, ý thức giữ gìn bẳn sắc văn hoá Việt Nam đi đôi chống sự xâm nhập của văn hoá phẩm hiện đại, lai căng, mất gốc truyền thống dân tộc.
Thứ hai, bồi dưỡng rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ làm công tác đối ngoại.
Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhất là kinh tế đối ngoại là những người thay mặt cho đất nước trong hoạt động đối ngoại. Họ là người đại diện cho văn hoá, trí tuệ, bản lĩnh và tính cách của nhân dân Việt Nam với nhân dân thế giới, góp phần nâng cao uy tín, vị thế và bảo đảm lợi ích của Việt Nam trong quan hệ quốc tế nên cần được đào tạo toàn diện, rèn luyện về chính trị năng lực, đạo đức, phẩm chất… Cần quan tâm bồi dưỡng cho đội ngũ này vì đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước, giáo dục ý thức tự hào dân tộc, lòng trung thành với lợi ích quốc gia, với đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bồi dưỡng năng lực phân tích thực tiễn ngoại ngữ, kiến thức chuyên môn, ngoại giao, khả năng tiếp thu kinh nghiệm của nước ngoài vận dụng tốt vào công việc của mình phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước.
Thứ ba, phối hợp chặt chẽ ngoại giao nhà nước, hoạt động đối ngoại của Đảng và đối ngoại nhân dân. Phối hợp chặt chẽ các hoạt động đối ngoại trên, phát huy tối đa sức mạnh nội lực, tạo ra sự phong phú đa dạng và sức mạnh tổng hợp của nhiều tổ chức trong công tác đối ngoại. Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, quan hệ ngoại giao của các cấp bộ Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân trong thời kỳ qua ngày càng mở rộng hơn và phát triển hết sức sôi động. Các hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá… khoa học… được đẩy mạnh, chủ trương của ta là gắn kết và phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả các lực lượng tham gia hoạt động đối ngoại để cùng phục vụ đắc lực cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư, hoàn thiện ưu thế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại rất phong phú, đa dạng, nhiều quy mô và lực lượng tham gia. Để thực hiện đúng nguyên tắc, nhiệm vụ đối ngoại và đảm bảo sự lãnh đạo của đảng cần hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất, các cấp, các ngành và mọi lực lượng đối ngoại cần phát huy dân chủ, tính chủ động, tích cực, sáng tạo. Cần khắc phục những cản trở hoặc chồng chéo giữa các cấp, các ngành, giữa trung ương và địa phương, các tổ chức kinh tế, xã hội trong mọi hoạt động đối ngoại.
II. CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC
Dưới tác động của toàn cầu hoá, sự phát triển kinh tế tri thức và đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một yêu cầu khách quan. Đây cũng là một nội dung trong đường lối kinh tế và đường lối đối ngoại của Đảng, kết hợp nội lực với ngoại lực, bên trong và bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức manh thời đại để tạo ra sức mạnh tổng hợp của đất nước, tạo ra thực lực đủ mạnh. Từ đó đặt ra các yêu cầu sau đây:
- Phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo về độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường.
Quan điểm mới của chúng ta là chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực để không bị bất cứ tác động nào lôi cuốn làm ảnh hưởng đến các nguyên tắc đối ngoại. Có phát huy nội lực mới tăng cường thực lực kinh tế, khả năng cạnh tranh, tạo ra thế và lực cao hơn, nâng cao hiệu quả và đảm bảo lợi ích trong quan hệ hợp tác quốc tế. Hiệu quả hợp tác quốc tế cần được xem xét theo quan điểm toàn diện. Hiệu quả trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng. Phát huy tối đa nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là điều kiện để hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng.
Bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái là bảo đảm sự phát triển bền vững, là yêu cầu, là mục tiêu chung, xuyên suốt của hội nhập kinh tế quốc tế. Trong quá trình hội nhập, luôn luôn khắc phục những tư tưởng chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần.
- Khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chu động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp.
Hội nhập kinh tế là để tranh thủ những ưu thế và lợi ích kinh tế, vốn, kỹ thuật, công nghệ mới nhưng phải chấp nhận sự canh tranh đang diễn ra ngày càng gay gắt trên phạm vi toàn cầu, đồng thời phải chấp nhận những luật lệ, quy định chung về quan hệ quốc tế đang được áp dụng. Nền kinh tế của chúng ta hiện nay sức cạnh tranh còn thấp, kém hiệu quả, bao cấp và bảo hộ còn nặng. Nếu không vươn lên mạnh mẽ thì tham gia các tổ chức kinh tế và khu vực chúng ta sẽ bị thiệt hại ngay cả ở thị trường trong nước.
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế là nhằm đáp ứng yêu cầu chung phát triển nền kinh tế sản xuất hàng hoá nhiều thành phần và phát huy lợi thế sản xuất của nền kinh tế nước ta trong hợp tác kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế hội, hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm phát huy tiềm năng của mỗi đơn vị kinh tế khi tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực. Nghị quyết Trung ương chín(khoá IX) nhấn mạnh việc: chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đa phương và song phương, nước ta đã ký và sớm ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), tăng tính cạnh tranh của môi trường đầu tư so với khu vực và thu hút mạnh đầu tư nước ngoài.
III. MỘT SỐ BÀI HỌC BƯỚC ĐẦU VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
Xuất phát từ các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực trong quan hệ với nhau, bình đẳng và cùng có lợi bảo đảm góp phần phát triển quan hệ kinh tế nước ta, bảo vệ sản xuất, tài nguyên, môi trường và an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc, ngoại giao Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu trong thời kỳ đổi mới và cũng để lại nhiều bài học quý giá. Những bài học đó không chỉ mang lại những hiệu quả thiết thực cho công cuộc đổi mới của đất nước trong thời gian qua mà còn chi phối toàn bộ hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Các nhà nghiên cứu đề cập tới nhiều bài học khác nhau nhưng ở đây chúng ta chỉ có thể đề cập đến những bài học chung nhất có ý nghĩa chỉ đạo quá trình hoạch định và thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng cộng sản Việt Nam.
+ Thứ nhất là: nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đẩy mạnh đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế là nguyên tắc cơ bản của quá trình xác định và thực hiện chính sách đối ngoại.
Ở mỗi thời đại có một chính sách đối ngoại riêng phù hợp với chế độ đương thời nhưng đều phụ thuộc vào yếu tố có tính nguyên tắc là lợi ích dân tộc gắn liền với độc lập dân tộc. Thực chất của vấn đề này là giải quyết quan hệ giữ lợi ích dân tộc với đoàn kết quốc tế, nói tới vấn đề này chúng ta không thể không nói đến chủ tịch Hồ Chí Minh. Những hoạt động ngoại giao của người phản ánh sự kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống ngoại giao dân tộc và tinh hoa kim cổ, Đông tây của nhân loại. Với học thuyết Mác - Lênin người đã định hướng cho đường lối ngoài của Đảng ngay từ khi khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và đưa nền ngoại giao Việt Nam lên những đỉnh cao mới. Hồ Chí Minh là một người có định hướng chính trị sáng suốt, có tầm nhìn thời đại. Người sớm nắm bắt được mối liên hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc với độc lập tự chủ ngay khi người nghiên cứu "bản luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa".
Hồ Chí Minh là người đầu tiên tổ chức xây dựng mối quan hệ kiểu mới giữa cách mạng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc, giữa cách mạng giải phóng dân tộc với lực lượng xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Trong sách lược vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh "Tuyên truyền Việt Nam độc lập phải đồng thời thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và giai cấp vô sản thế giới, nhất là với giai cấp vô sản Pháp. Ngoài chủ trương không thành lập, Đông Dương độc lập đồng minh hội. Vì cả ba dân tộc giúp đỡ nhau chống đế quốc, tôn trọng độc lập tự chủ của mỗi nước này với nước khác theo Người chỉ có độc lập dân tộc mới có lợi ích dân tộc, lợi ích dân tộc là động lực để phấn đấu giành và giữ cho được độc lập dân tộc. Trong tuyên ngôn thành lập nưúơc (2/9/1945) Người tuyên bố: "Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh… của mình để giữ vững tự do - độc lập". Độc lập tự do, an ninh của Tổ quốc để phát triển là lợi ích tối cao của dân tộc là nguyên tắc cơ bản của hoạt động ngoại giao.
Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam luôn đặt lợi ích của dân tộc trong công tác ngoại giao, lợi ích dân tộc trên hết đặc biệt là những lúc tình thế đất nước hiểm nghèo.
Chính sách đối ngoại của Việt Nam càng nêu cao lợi ích dân tộc, giai đoạn (1945 - 1996) vận mệnh đất nước "ngàn cân treo sợi tóc", giặc ngoài thù trong đều mạnh. Vì lợi ích tối cao của dân tộc nhiệm vụ hàng đầu của chính sách đối ngoại là "phải cứu vãn hòa bình, tranh thủ thời gian củng cố chính quyền, gạt bớt kẻ thù, chuẩn bị đối phó với kẻ thù chính. Hồ Chí Minh đưa ra sách lược ngoại giao thể hiện sâu sắc quan điểm bảo vệ lợi ích dân tộc và cũng rất độc lập tự chủ - tiếp sau hiệp định sơ bộ ký với Pháp 6/3/1946 Đảng chủ trương và thực hiện đàm phán với Pháp ngay trên đất Pháp… do đó đã giải tỏa được sự bao vây và xuyên tạc của kẻ thù về Việt Nam, đồng thời làm cho nhân dân Pháp chú ý và hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam.
Trong kháng chiến chống Mỹ ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của Trung - Xô để đánh thắng Mỹ ngay cả khia hai nước có những mâu thuẫn sâu sắc (những năm 1968 - 1970) ta làm được như vậy là do ta giữ vững độc lập tự chủ và biết đặt lợi ích cao nhất của dân tộc (đánh thắng Mỹ) lên trên hết, biết cân bằng lợi ích giữa các quốc gia cùng chia sẻ đánh Mỹ.
Khi cả nước bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976-1986) do vấn đề Campuchia gây ra, nghị quyết (13 Bộ chính trị ngày 20/5/1988). Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới mẫu mực về việc nắm vững nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và nguyên tắc giữ vững lợi ích dân tộc. Đó là cái mốc chuyển hướng về đối ngoại; giải quyết vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, cải thiện quan hệ với các nước ASEAN, mở rộng quan hệ với các nước khác. Nhiệm vụ ưu tiên là kinh tế đối ngoại, đồng thời giữ vững an ninh chính trị.
Những thắng lợi ngoại giao trong những năm gần đây đều bắt nguồn từ nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ chính trị 20/5/1988. Nguyên tắc giữ vững lợi ích dân tộc - giữ vững độc lập tự chủ đòi hỏi chúng ta phải nắm chắc vận dụng những quan điểm sau:
Lợi ích của dân tộc là cái vĩnh viễn. Nó là cái mà chúng ta phải "đem tất cả tinh thần, lực lượng, tính mệnh… để giữ vững "chúng ta không có kẻ thù vĩnh viễn - không có đồng minh vĩnh viễn. Đối ngoại phải được xác định là một mặt trận góp sức giữ vững hòa bình, sống hòa hữu là bạn với các nước, không gây thù gieo oán với ai, đó là bảo đảm cho lợi ích dân tộc lâu dài.
Trong từng bối cảnh lịch sử mà vận dụng nguyên tắc cho thích hợp. Thời kỳ dựng nước lợi ích dân tộc là cứu vãn hòa bình. Thời kỳ kháng chiến là tranh thủ sự ủng hộ quốc tế bảo đảm đánh thắng kẻ thù xâm lược. Thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc lợi ích hàng đầu của dân tộc là củng cố hòa bình mở rộng quan hệ hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự phát triển lợi ích dân tộc. Có độc lập tự chủ mới gạt được tác động sức ép của bên ngoài và không bị lợi dụng trở thành "quân bài chiến lược trong tay người khác". Độc lập tự chủ đương nhiên không dung chứa tư tưởng dân tộc hẹp hòi mà phải biết tôn trọng nhau - bình đẳng cùng nhau tham gia hợp tác chia sẻ trách nhiệm tìm lợi ích chung.
Ngày nay trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội - sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hóa mạnh mẽ nền kinh tế, thì nguyên tắc lợi ích dân tộc, độc lập tự chủ có ý nghĩa giá trị chỉ đạo toàn bộ hoạt động đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước không chỉ trong hiện tại mà trong tương lai phát triển đất nước.
+ Thứ hai là: quan hệ với các nước láng giềng và khu vực phải là mối quan hệ hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Châm ngôn Việt Nam có câu: "Bán anh em xa mua láng giềng gần", các nước láng giếng gần nhau thường có nhiều vấn đề do lịch sử để lại như tồn tại về biên giới - lãnh thổ và những vấn đề liên quan đến lợi ích chung như nguồn nước, môi trường sinh thái, tôn giáo, sắc tộc… hay những vấn đề liên quan đến tâm lý hòa hiếu, hay căng thẳng do lịch sử lâu dài để lại và do tác động ảnh hưởng của quan hệ giữa các nước. Song suy tới cùng quan hệ láng giềng căng thẳng hay hòa bình ổn định là do chính sách đối ngoại của quốc gia có xác định lợi ích dân tộc.
Việt Nam qua các thời kỳ dựng nước, giữ nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, vấn đề nổi bật nhất trong đường lối, chủ trương chính sách đối ngoại nhất quán là quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng Trung - Lào - Campuchia và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhờ đó hai cuộc chiến tranh chống Pháp - Mỹ ta đã nhận được sự ủng hộ tinh thần - vật chất có hiệu quả nhất của Trung Quốc và các nước đó.
Việt Nam kiên trì chính sách đoàn kết có nguyên tắc đã hình thành thế trận liên hoàn ở Đông Dương chống xâm lược Mỹ và gần như đồng thời cả ba dân tộc Việt Nam - Lào - Campuchia giành được độc lập dân tộc. Rất đáng tiếc quan hệ như máu thịt của ba nước đã bị chính sách gây chiến của tập đoàn Pônpốt có sự chi viện của phái dân tộc hợp hòa trong và ngoài khu vực, khiến Việt Nam phải đưa lực lượng vào Campuchia dẫn tới vấn đề Campuchua kéo dài suốt một thập kỷ. Khu vực không ổn định Việt Nam trở thành nước đối đầu với khu vực Đông Nam Á một thời gian.
Từ những quan hệ láng giềng tốt đẹp và trục trặc trên ta rút ra một số vấn đề sau: quan hệ láng giềng kể cả quan hệ khu vực phải được xác định là nhiệm vụ chiến lược, là mối quan tâm hàng đầu về đối ngoại của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Trên cơ sở cùng tồn tại, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau trong hoạn nạn, nhất thiết không can thiệp và công việc nội bộ của nhau. Những vấn đề do vị trí địa - lịch sử, địa - chính trị, tâm lý dân tộc có tính lịch sử luôn tồn tại rất dễ nhạy cảm với những kích động xấu ta cần phải bình tĩnh, tế nhị trong xử lý không để làm trở ngại quan hệ hiện tại, không gợi lại những vấn đề lịch sử nặng nề bất lợi cho quan hệ hòa hiếu, xây dựng những trang sử mới cao đẹp hơn trong quan hệ với các nước láng giềng.
Do đó muốn quan hệ - láng giếng bền vững tốt đẹp lâu dài không thể chỉ là quan hệ chính trị hữu nghị mà cần phải phát triển quan hệ nhiều mặt, xong đó hợp tác kinh tế - thương mại, du lịch… Tạo điều kiện quan hệ láng giềng, khu vực hòa nhập với xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa hiện nay.
+ Thứ ba là: xử lý quan hệ với nước lớn, luôn giữ vững nguyên tắc trong chiến lược mềm dẻo trong sách lược, bằng nhiều biện pháp, hình thức linh hoạt sáng tạo.
Xuất phát từ Việt Nam có vị trí, lịch sử - chính trị hẫp dẫn đối với những quốc gia có tư tưởng thực hiện chính sách đối ngoại phát triển lợi ích dân tộc phi Mác Xít, xuyên suốt lịch sử phát triển của dân tộc ta do ảnh hưởng của tư tưởng đó mà Việt Nam luôn phải xử lý quan hệ với một nước lớn và nhiều nước khác trong cùng một thời gian.
Năm 1945 Việt Nam đã bị các nước lớn áp đặt chia cắt, đầu 1946 Pháp - tưởng lại mưu trạm áp đặt sự thống trị mới. Khi đó ở Việt Nam hiện diện bốn nước lớn. Trong đó có ba nước có lực lượng quân sự rất hùng mạnh Hồ Chí Minh và Đảng đã nhanh chóng xử lý mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước lớn có quân đội trên đất nước ta.
Từ năm 1950 thế giới bước vào hình thành hai hệ thống chính trị xã hội đối lập nhau, Việt Nam phá được thế bao vây cô lập quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa (Trung - Xô) thì hai nước lớn (Mỹ - Pháp vốn là đồng minh trong chiến tranh thế giới hai) trở thành thù địch.
Đến hội nghị Giơnevơ các nước lớn cũng bộc lộ rõ ý định áp đặt giải pháp bất trị cho các nước Đông Dương. Trong đó Việt Nam là trọng điểm hàng đầu.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược (thực dân Pháp, Đế quốc Mỹ) ta giữ vững độc lập tự chủ kiên trì đoàn kết với Liên Xô - Trung Quốc và nhân dân tiến bộ Mỹ, Mỹ đã lợi dụng mâu thuẫn Trung Quốc và Liên Xô có yêu cầu hòa hoãn với Mỹ. Từ đó Việt Nam chịu tác động mạnh của các mối quan hệ (Mỹ - Xô + Trung - Mỹ + Trung - Xô) giữa các nước lớn.
Trong suốt thập kỷ 80 ta phải xử lý quan hệ với tất cả các nước lớn về giải pháp cho vấn đề Campuchia. Trước hết trong đó về cơ bản cũng là quan hệ với tất các nước lớn giải pháp đó do các nước lớn dàn xếp. Ở đây ta xử lý quan hệ với các nước lớn là phải tính đến yêu cầu lợi ích của các nước lớn và các bên khác. Đặt cơ sở cho việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ, Trung Quốc, khôi phục quan hệ với các bước lớn khác và các nước trong khu vực, so sánh xử lý quan hệ với các nước lớn trong các thời kỳ lịch sử, Việt Nam có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược của các nước lớn, chịu sức ép của các nước lớn.
Sự tác động của mối quan hệ căng thẳng hay hòa hoãn giữa các nước lớn, nhất là các siêu cường thường có tác dụng nhất định đến hòa bình, an ninh chung và tiến trình phát triển các quan hệ quốc tế mà Việt Nam không là ngoại lệ. Xử lý quan hệ với Mỹ sau chiến tranh và vấn đề Campuchia có phần chậm, nên dẫn tới sự đối đầu giữa Việt Nam với các nước lớn và khu vực một thời gian dài. Đương nhiên đây không phải là lúc quy lỗi cho ai nhưng chắc chắn việc rút ra bài học chung là thật cấp thiết cho việc xử lý quan hệ của nước ta với các nước lớn và phải đặt nó trong hàng đầu chiến lược đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
Ngày nay quan hệ giữa các nước lớn luôn có hợp tác, tranh chấp Việt Nam cần thi hành chính sách cân bằng lợi ích giữa các nước lớn gắn liền với lợi ích của ta với các nước, xây dựng quan hệ hòa hiếu hợp tác có nguyên tắc, cần chủ động trong quan hệ hợp tác cân bằng thực hiện nhiệm vụ xaya dựng và bảo vệ Tổ quốc chống nguy cơ tụt hậu.
Trên đây là một số bài học chung nhất về họat động đối ngoại, nó góp phần quyết định không nhỏ mang lại những hiệu quả thiết thực cho công cuộc đổi mới trong thời gian qua và chi phối toàn bộ họat động đối ngoại của Đảng, Nhà nước.
+ Thứ tư là: Đảng phải nắm vững ngọn cờ cách mạng. Đây là bài học cơ bản, xuyên suốt của toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam. Nhưng vẫn giữ nguyên được giá trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Thực tiến công cuộc đổi mới thành công cho thấy trước hết phải giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và cả xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể giữ được độc lập dân tộc vững chắc, Nhà nướckhông còn là Nhà nước thực sự của nhân dân, do dân, vì dân, không đảm bảo sự phát triển của xã hội theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và càng không có chủ nghĩa xã hội đích thực, thậm chí các thành quả cách mạng phải đối bằng bao xương máu mới giành được cũng bị thủ tiêu (như Liên Xô và các nước Đông Âu).
Vai trò lãnh đạo của Đảng cũng trở nên đặc biệt quan trọng nhất là cách mạng chuyển giai đoạn. Các thế lực chống chủ nghĩa xã hội và công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta đã phối hợp với một số phần tử bất mãn trong nước tấn công toàn diện Việt Nam.
Mục tiêu tấn công quan trọng nhất của chúng là (năm 1997) xóa bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ những ngày đầu Đảng đã kiên quyết bác bỏ những luận điệu đòi đa nguyên, đa đảng, phi chính trị hóa bộ máy Nhà nước và quân đội, xuyên tạc lịch sử phủ nhận thành quả cách mạng và sự hy sinh lớn lao của những người cộng sản, thổi phồng sai lầm, khuyết điểm của Đảng.
Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đảng chịu tất cả trách nhiệm trên mọi lĩnh vực của đất nước, về họat động của cả hệ thống chính trị, cả về những thất bại, tổn thất của cách mạng, vấn đề đặt ra không đơn thuần chỉ là bảo vệ giữ vững ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, mà quan trọng hơn cả là phải tiếp tục nâng cao chất lượng đổi mới, hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Đổi mới lý luận chiến lược, sách lược đối với tổ chức xây dựng Đảng và họat động thường nhật của Đảng, Đảng phải thực sự dùng con mắt khoa học vận động và phát triển sáng tạo lý luận cách mạng lên ngang tầm những chuyển biến to lớn, nhanh chóng của thế giới hiện đại. Đảng phải cương quyết xem xét, giải quyết những sai lầm, yếu kém của mình thường xuyên tự đổi mới, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mở rộng hợp tác, hội nhập với thế giới.
KẾT LUẬN
Chính sách đối ngoại trong suốt 60 năm đã qua luôn là một bộ phận của đường lối chính trị của Đảng và góp phần quyết định thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Tuy chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc và trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa có sự khác nhau về đối tượng phương thức hoạt động và môi trường quốc tế, song nó đều nhằm vào mục tiêu xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước ta là: độc lập, tự chủ, đoàn kết và hợp tác quốc tế, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp dân tộc và thời đại.
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời kỳ (1986-2004) là sự kế thừa từ truyền thống ngoại giao cha ông: "lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo" (Nguyễn Trãi). Đó là sự tiếp tục của phương châm"thái bình nên gắng sức, non nước ấy nghìn thu"(Trần Quang Khải).Truyền thống ngoại giao đó đã được chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà ngoại giao kiệt xuất đúc kết thành chân lý"không có gì quý hơn độc lập tự do" Những tư tưởng lớn trên đây đã trở thành những nguyên tắc và phương châm ứng xử của chính sách ngoại giao.
Đổi mới ở nước ta thời kỳ (1986-2004) chính sách đối ngoại đó có những thay đổi to lớn của tình hình trong nước và thế giới nhưng vẫn là sự kết hợp giữa bản sắc dân tộc với đặc điểm của thời đại sinh ra nó, phản ánh đúng đắn lợi ích dân tộc và hợp với xu thế của quan hệ quốc tế.
Nhằm mục tiêu sớm khắc phục khủng hoảng kinh tế- xã hội, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi lên, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã quyêt định tiến hành đổi mới mọi mặt đời sống đất nước. Công cuộc đổi mới của nước ta đang được tiến hành thì Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu lâm vào thời kỳ tiền khủng hoảng và bắt đầu đi vào thực hiện cải tổ, cải cách.
Đồng thời, lúc này cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đi liền với quá trình quốc té hoá đời sống, kinh tế thế giới diễn ra rất mạnh mẽ. Cùng với việc xác định hai nhiệm vụ chiến lược là bảo vệ tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VI đề ra chính sách đối ngoại rộng mở, xác định nhiệm vụ hàng đầu là tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đảng ta chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị, ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố. Đại hội nhấn mạnh phương châm "thêm bạn bớt thù" ra sức phấn đấu tạo dựng môi trường quốc tế hoà bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi để đôit mới đất nước. Nghị quyết 13 của bộ chính trị (5/1988) về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới đã xác định quan điểm trong quan hệ quốc tế của đảng là ra sức tranh thủ các nước anh em bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, làm thất bại âm mưu bao vây, cô lập ta về kinh tế, chính trị, chủ động chuyển các cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác cùng tồn tại hoà bình.
Trên tinh thần của Nghị quyết đại hội VI và nghị quyết 13 của bộ chính trị, Đảng ta đã đề ra các biện pháp nhằm phá thế bao vây, cô lập, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho việc tiến hành đổi mới ở trong nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.Chúng ta đã rút quân từng phần, rồi rút quân hết khỏi Campuchia thực hiện đổi mới quan hệ, nâng cao chát lượng và hiệu quả hợp tác với Lào và Campuchia, ra sức phấn đấu cho một giải pháp chính trị về Campuchia kiên trì và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bướcc cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam á và với các nước phương Tây. Việc chúng ta rút hết quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia.
Kiên trì và bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc từng bước cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á và với các nước phương Tây. Việc chúng ta rút hết quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia và những hoạt động tích cực trên lĩnh vực đối ngoại đã góp phần mở ra hàng loạt diễn đàn với các đối tượng khác, đồng thời thúc đẩy việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, tạo điều kiện để sau này mở rộng quan hệ đối ngoại phá thế bị bao vây, cô lập. Đảng chủ trương tiếp tục thương lượng với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á. Quan hệ của nước ta với một số nước Tây Âu, một số nước Đông Nam Á cũng từng bước được bình thường hoá.
Đồng thời, ở trong nước, chúng ta đã giành được những thắng lợi quan trọng mang tính đột phá trong sự nghiệp đổi mới, nhất là về sản xuất nông nghiệp, chống lạm phát, về tài chính tiền tệ, cơ chế quản lý…Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991) phát triển hơn nữa nghị quyết Đại hội VI, từ chủ chương "thêm bạn, bớt thù" thành phương châm "Việt nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển". Nghị quyết Đại hội VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đề ra chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị- xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình.
Sau khi Liên Xô tan rã (12/1991), xuất phát từ tình hình mới, hội nghị lần thứ III ban chấp hành Trung ương khoá VII (6/1992) đã cụ thể hoá nhiệm vụ đối ngoại của Đại hội VII, xác định mục tiêu tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng và nhà nước Việt Nam là giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh của nước ta.
Hiệp định Pari (23/10/1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Camphuchia được ký kết tạo ra một tiền đề quan trọng để thúc đẩy quan hệ của nước ta với các nước. Đảng lãnh đạo tiến hành nhiều hoạt động để thúc đẩy việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tháng 11/1991, Việt Nam- Trung Quốc chính thức bình thường hoá quan hệ. Đối với Mỹ chúng ta bày tỏ thiện chí trong việc hợp tác giải quyết vấn đề người Mỹ mất tích, coi đây là vấn đề nhân đạo. Việc tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, cùng với thái độ thiện chí, hợp tác xây dựng của Việt Nam buộc Mỹ phải từng bước nới lỏng tiến tới bỏ cấm vận đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.
Theo tinh thần nghị quyết Đại hội VII và nghị quyết hội nghị Trung ương 3 (khoá VII), nước ta đặt mục tiêu hàng đầu, là cải thiện và củng cố quan hệ với các nước láng giềng, các nước ở khu vực, coi trọng quan hệ với các nước lớn, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước ở châu lục, chủ động duy trì, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước bạn bè truyền thống. Mặt khác nước ta thúc đẩy bình thường hoá và tăng cường quan hệ với tổ chức quốc tế, trước hết là các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trước hết là các tổ chức hợp tác khu vực và thế giới, trở thành thành viên chính thức của ASEAN (7/1995).
Thành tựu trên lĩnh vực đối ngoại trong những năm(1991-1996) là một nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình, phá thế bị bao vây, cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế của nước ta trên thế giới, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Trong những năm (1996-2004), những nhân tố mới xuất hiện. Xu thế hoà binh, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia… Hợp tác ngày càng tăng, những cạnh tranh cũng hết sức gay gắt.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) khẳng định chủ chương mở rộng quan hệ đối ngoại, tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại. Nhiệm vụ đối ngoại là củng cố môi trường và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn để đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại hội IX của Đảng (4/2001) chủ trương tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập khu vực và thế giới, đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, làm tiền đề để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đại hội IX phát triển phương châm của Đại hội VIII thành "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển".
Thực hiện phương châm đó, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo điều chỉnh luật pháp, cải cách các thủ tục hành chính, đào tạo cán bộ, phát huy sức mạnh nội lực… để tạo môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài.
Nhờ có đường lối đúng chính sách cử chỉ hợp lý cùng với lộ trình hội nhập phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước nên về cơ bản ta đã thực hiện được chủ trương đa dạng hoá thị trường và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, củng cố được các thị trường truyền thống, đồng thời tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới nên đã đẩy mạnh được xuất khẩu, tạo đầu ra cho sản xuất, có quan hệ thương mại với hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Đảng ta tiếp tục củng cố tình đoàn kết hữu nghị với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới, thiết lập quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước, mở rộng quan hệ với các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị- xã hội, uỷ ban hoà bình và các hội hữu nghị…
Những thành tựu về kinh tế, chính trị và đối ngoại của Việt Nam trong những năm đổi mới đã khẳng định vị thế của nước ta đối với khu vực và thế giới. Chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối đổi mới nói chung và đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định rõ hơn vị trí, vai trò lãnh đạo và tư duy chính trị nhạy cảm, sâu sắc bản lĩnh lãnh đạo vững vàng của Đảng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
V.I Lênin, toàn tập, tập 31, Nxb Sự Thật Hà Nội 1969.
V.I Lênin, toàn tập, tập 11, Nxb Sự Thật Hà Nội 1963
Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2,4,5,6,7,8, Nxb CTQG Hà Nội 1995.
Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự Thật 1982
Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự Thật 1987
Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật 1991
Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG Hà Nội 1996
Văn Kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG Hà Nội 2001
Văn Kiện Hội nghị lần thứ IX, BCHTW (khoáIX) Nxb CTQG Hà Nội 2004
Văn Kiện Hội nghị lần thứ 3, BCHTW (khoá VII) Nxb CTQG Hà Nội 1994
Nghị quyết 13 về đối ngoại(1988) của Bộ chính trị, tư liệu lưu trữ Ban đối ngoại Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
Hiến Pháp năm 1992 của nước CHXHCN Việt Nam
Hiến Pháp Việt Nam những năm 1946-1959, 1980-1992, Nxb CTQG Hà Nội 1995
Dự thảo Nghị quyết trình Đại hội IX, Nxb CTQG Hà Nội
Nguyễn Lương Bích, Lịch sử ngoại giao Việt Nam,Nxb Quân đội nhân dân 1996.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nxb Pháp Lý 1989
Lưu Văn Lợi: 50 năm ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 1998.
Lưu Văn Lợi: Ngoại giao Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2004.
Nguyễn Phúc Luân: Chủ Tịch Hồ Chí Minh- trí tệu lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Nxb CTQG Hà Nội 1995
Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Nxb CTQG Hà Nội 2002.
Học Viện Quan Hệ Quốc Tế - Bộ Ngoại Giao, Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, Nxb CTQG Hà Nội 1997.
Học Viện Quan Hệ Quốc Tế, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới(1975-2002), lưu hành nội bộ.
Phan Doãn Nam, Thế giới 1991, Tạp chí Cộng sản 1/1991.
Trần Quang Cơ: Vai trò không thể thiếu được trên thế giới ngày nay, bài phát biểu của thứ trưởng tại Hội nghị ngoại trưởng các nước không liên kết, 9/1991
Vũ Khoan: Ngoại giao phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, Tạp chí Cộng sản, 4/1995.
Đinh Xuân lý: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Cộng sản tháng 6/2004
Đinh Xuân Lý: Kinh nghiệm hội nhập quốc tế cảu Việt Nam thời kỳ đổi mới, Tạp chí lý luận chính trị số 9 năm 2004
Vũ Quang Vinh: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng số 11 năm 2001.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN CỦA ĐẤT NƯỚC VÀ XU THẾ CHUNG CỦA THẾ GIỚI
I. Nền tảng của việc mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
1. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của chính sách đối ngoại
2. Truyền thống ngoại giao của dân tộc
II. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước và xu thế của thế giới
1. Đòi hỏi bức thiết của tình hình trong nước
2. Đòi hỏi bức thiết của tình hình thế giới
Chương II: QUÁ TRÌNH ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI
I. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời kỳ(1986 - 1995)
1. Thực trạng đối ngoại của Đảng, Nhà nước trước đổi mới
2. Đổi mới chính sách đối ngoại (1986 -1991)
3. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1991-1995)
II. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước thời kỳ(1996 - 2004)
1. Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước từ (1996-2001)
2. Chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước từ (2001 - 2004)
Chương III: MỞ RỘNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI, CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI
I. Chủ trương, nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới
II. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
III. Một số bài học bước đầu về chính sách đối ngoại
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 1986 - 2004.DOC