Chính sách kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 1992

MỞ ĐẦU Việt Nam - một dân tộc anh dũng đã bước qua cuộc đấu tranh giành độc lập tự do, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự ngạc nhiên và khâm phục của bạn bè thế giới. Song, công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế - xã hội, với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nước ta tụt hậu xa về mọi mặt từ kinh tế - văn hóa - đời sống xã hội so với các nước trong khu vực nói riêng và các nước trên toàn thế giới nói chung. Nền kinh tế đó đã tạo ra tình trạng lạm phát, sự khan hiếm hàng hoá, nạn tham nhũng, suy thoái về đạo đức của cán bộ đảng viên, cùng hàng loạt những tiêu cực khác. Từ những thực trạng nói trên việc đưa ra một chính sách mới để cải thiện và phát triển nền kinh tế nhằm rút ngắn khoảng cách lạc hậu và nghèo khó so với các nước trên thế giới là vô cùng cấp bách. Vì vậy, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 và Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 (Nghị quyết số 51/2001/QH10) đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản về chính sách kinh tế. Nền kinh tế nước ta được hoạch định theo hướng xóa bỏ cơ chế quản lý quan liêu, tập trung, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Theo đó, một loạt văn bản luật ra đời dựa trên tinh thần Hiến pháp 1992 như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp đã góp phần quan trọng, tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối được đưa ra tại các kỳ Đại hội Đảng, qua đó xây dựng một nền kinh tế phù hợp với sự phát triển của đất nước, phù hợp với xu thế hội nhập trên toàn cầu. Chính vì lẽ đó em đã chọn đề tài: “Chính sách kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 1992” cho khoá luận tốt nghiệp của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cả về lý luận và thực tiễn hiện nay đối với chính sách kinh tế của nhà nước ta. MỤC LỤC Chương I 1.1. 1.1.1. 1.1.2. 1.1.3. 1.2 1.3. Chương II 2.1 2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. 2.2. 2.2.1. 2.2.2. 2.2.3. 2.2.4. 2.2.5. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. 2.3.4. 2.3.5. Chương III 3.1. 3.2. MỞ ĐẦU Khái quát chung về chế độ kinh tế và chính sách kinh tế Khái niệm về kinh tế, chế độ kinh tế, chính sách kinh tế Khái niệm kinh tế Khái niệm chế độ kinh tế Khái niệm chính sách kinh tế Phân biệt chế độ kinh tế và chính sách kinh tế Vai trò của chính sách kinh tế Chính sách kinh tế của Nhà nước theo HP 1992 Cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn Cơ sở lý luận Cơ sở pháp lý Cơ sở thực tiễn Chính sách phát triển kinh tế Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được bình đẳng với nhau trước pháp luật. Các chính sách kinh tế đối ngoại : Khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính sách đối với từng thành phần kinh tế. Đối với kinh tế nhà nước Đối với kinh tế tập thể Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân Đối với kinh tế tư bản nhà nước Đối với kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài Thực tiễn thực hiện và giải pháp, phương hướng. Thực tiễn thực hiện. Phương hướng, giải pháp. KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 01 03 03 03 04 05 05 06 08 08 08 10 12 13 15 19 20 20 21 22 22 26 27 31 33 37 37 46 53

doc58 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2734 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 1992, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh doanh, bảo đảm lợi ích của từng thành viên. Đối với kinh tế tập thể “Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả” (Điều 20). [14]. Để cụ thể hóa, Nhà nước ta đã ban hành Luật Hợp tác xã năm 1996, Luật Hợp tác xã 2003, trong đó quy định nội dung chính sách Nhà nước áp dụng đối với loại hình tổ chức kinh tế này như sau: - Ban hành và thực hiện các chính sách, các chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã về đào tạo cán bộ; phát triển nguồn nhân lực; đất đai; tài chính; tín dụng; xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã; áp dụng khoa học và công nghệ; tiếp thị và mở rộng thị trường; đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng; tạo điều kiện để hợp tác xã được tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. - Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để hợp tác xã phát triển. - Bảo đảm địa vị pháp lý và điều kiện sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. - Bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã theo quy định của pháp luật. - Tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết, tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã trong sản xuất, kinh doanh. - Không can thiệp vào công việc quản lý nội bộ và hoạt động hợp pháp của hợp tác xã. [19]. Như vậy, chính sách mà nhà nước ta áp dụng cho thành phần kinh tế tập thể mà đại diện phổ biến là các hợp tác xã là khuyến khích phát triển bằng cách tạo nhiều điều kiện thuận lợi, ưu đãi, bảo hộ về mặt pháp luật. Chính sách này có sự mở rộng, tiến bộ so với chính sách được quy định trong Hiến pháp 1980, thể hiện ở việc lập quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, hay tôn trọng quyền tự chủ, tự quyết của hợp tác xã. Nhà nước thực hiện đúng vai trò quản lý, điều hành đối với các thành phần kinh tế chứ không trực tiếp tham gia, không can thiệp vào các công việc hợp tác xã thực hiện. Ngoài ra, chính sách này còn được bổ sung bằng nội dung bảo đảm địa vị pháp lý, điều kiện kinh doanh của hợp tác xã, bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của hợp tác xã, tạo điều kiện cho vay vốn. Đây là những nội dung cụ thể, cần thiết và phù hợp với vị trí và sự phát triển của hợp tác xã trong nền kinh tế quốc dân. 2.3.3. Đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân Trong chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng ta coi kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân có vị trí quan trọng, lâu dài. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Loại hình kinh tế này xuất hiện và phát huy tác dụng ở cả thành thị và nông thôn, cả trong nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Với dân số hơn 86 triệu người, mỗi năm tăng thêm trên 1 triệu người, Việt Nam là thị trường tiềm năng cho việc phát triển kinh tế tư nhân. Sự phát triển của thành phần kinh tế này trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa gắn với thị trường có vai trò quan trọng trước mắt cũng như lâu dài trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển. Kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân thực chất là các bộ phận của kinh tế tư nhân. Nếu chia kinh tế tư nhân thành những mức độ phát triển khác nhau thì kinh tế cá thể tương ứng với mức độ thấp nhất, kinh tế tiểu chủ là mức độ thứ hai còn kinh tế tư nhân là cấp độ phát triển cao nhất. Sự khác nhau giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ nằm ở chỗ: kinh tế cá thể dựa hoàn toàn vào sức lao động của các thành viên trong gia đình, tự bỏ vốn sản xuất kinh doanh còn kinh tế tiểu chủ có thêm sự thuê mướn sức lao động, có sự bóc lột giá trị thặng dư ở mức độ đơn giản. Kinh tế tư bản tư nhân là cấp độ cao nhất vì có sự thuê mướn lao động ở phạm vi rộng, việc bóc lột giá trị thặng dư ở mức cao. Kinh tế cá thể Được hiểu là kinh tế của những người làm ăn riêng lẻ không phải cán bộ, công chức, viên chức nhà nước tại chức hoặc xã viên hợp tác xã, có vốn, tư liệu sản xuất, kỹ thuật chuyên môn và sức lao động tự đứng ra sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Ví dụ: kinh doanh bán lẻ hàng tạp hóa, hàng ăn, làm thợ xây, chạy xe ôm, đánh cá, làm ruộng, làm muối, … Thành phần kinh tế này trước đây chưa được đánh giá đúng vai trò và là đối tượng cải tạo XHCN. Điều 24 Hiến pháp 1980 có quy định: “Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ nông dân cá thể, người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ khác tiến lên con đường làm ăn tập thể, tổ chức hợp tác xã sản xuất và các hình thức hợp tác, tương trợ khác theo nguyên tắc tự nguyện. Những người buôn bán nhỏ được hướng dẫn và giúp đỡ chuyển dần sang sản xuất hoặc làm những nghề thích hợp khác”. [13]. Như vậy, quy định trên gần như đã xóa bỏ thành phần kinh tế cá thể. Đây là chính sách thể hiện rõ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, ưu tiên phát triển kinh tế quốc doanh, khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác xã, hạn chế phát triển kinh tế tư nhân, mà cụ thể là kinh tế cá thể. Lý do là vì xuất phát từ nhận thức giản đơn về CNXH của các nhà lãnh đạo: xây dựng CNXH đồng nghĩa với việc xây dựng một nền kinh tế thuần nhất XHCN, chỉ duy trì và phát triển kinh tế XHCN, cải tạo các thành phần kinh tế phi XHCN. Hiện nay kinh tế cá thể được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, lĩnh vực hoạt động, không hạn chế lĩnh vực, ví dụ như: kinh doanh các loại hình dịch vụ (vận tải, chăm sóc sắc đẹp…), kinh doanh vật liệu xây dựng, nội thất, kinh doanh các mặt hàng phục vụ cuộc sống hàng ngày… Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ hội, nguồn lực kinh doanh, thông tin và tiếp nhận thông tin. Kinh tế tiểu chủ Là bước phát triển thứ hai của khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tiểu chủ có sự liên kết giữa chủ thể kinh doanh và những người lao động làm thuê. Thực ra, sự phân biệt kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân chỉ là tương đối, bởi căn cứ duy nhất là số lao động được sử dụng, thuê mướn nhưng không có số liệu định lượng cụ thể đến bao nhiêu là kinh tế tư bản tư nhân, còn ở mức nào là kinh tế tiểu chủ. Đây là một vướng mắc cần được bổ sung trong thời gian tới. Một trong những mô hình kinh tế tiểu chủ hoạt động rất hiệu quả ở nước ta hiện nay là mô hình kinh tế trang trại, kết hợp VAC (vườn - ao - chuồng), VACR (vườn - ao - chuồng - rừng), trong đó các chủ trang trại thuê mướn lao động theo hai hình thức: ổn định và thời vụ. Mô hình này có ý nghĩa rất lớn trong việc xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm ở địa phương. Bên cạnh đó, các hộ kinh doanh dịch vụ, sản xuất quy mô nhỏ, làm hàng thủ công mỹ nghệ… cũng thuộc loại hình kinh tế tiểu chủ. Điều 21 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định kinh tế tiểu chủ “được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp… Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển”. [21]. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thành phần kinh tế này có cơ hội phát triển, bình đẳng trước pháp luật với các thành phần kinh tế khác. Kinh tế tiểu chủ được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành, nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Nhà nước tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý trên những định hướng ưu tiên cùa Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; khuyến khích chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động , liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Kinh tế tư bản tư nhân Đây là thành phần kinh tế không có sự tồn tại của vốn nhà nước, đúng như tên gọi, vốn điều lệ hay cổ phần trong các công ty, doanh nghiệp (tùy loại hình cụ thể) hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân. Cũng như đối với kinh tế cá thể, tiểu chủ, chính sách đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân được quy định tại Điều 21 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001). Quyền tự do kinh doanh được quy định chung cho các doanh nghiệp với nội dung chủ yếu là: tự do lựa chọn ngành nghề và quy mô kinh doanh; tự do lựa chọn hình thức và cách thức đầu tư; tự do trong ký kết hợp đồng, trong tuyển chọn và sử dụng lao động… Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân được hoạt động trên tất cả các lĩnh vực như: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, dịch vụ…; được hưởng các ưu đãi như đối với doanh nghiệp nhà nước, được hưởng mức thuế suất tương đương; được hưởng các chế độ pháp lý: tiêu thụ sản phẩm, mua nguyên liệu phục vụ sản xuất hoàn toàn theo cơ chế thị trường, được vay tín dụng ngân hàng với lãi suất chung; quyền sử dụng ngoại tệ và phân phối thu nhập của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng được pháp luật bảo đảm; được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô và phạm vi hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Nhà nước có một số bảo đảm đối với doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp như: công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh; công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp…Chính sách của Đảng cũng khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư bản tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, công nghiệp hóa hiện đại hóa, nâng cao phần nội lực của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm này khác hẳn với quan điểm được các nhà lập pháp thể hiện trong Hiến pháp 1980 “Nhà nước tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn bằng những hình thức thích hợp” (Điều 26). [13]. Có thể thấy, việc thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một bước phát triển của chính sách kinh tế nước ta trong thời kỳ đổi mới. Trong hệ thống văn bản pháp luật của nhà nước ta có khá nhiều văn bản quy định về thành phần kinh tế tư bản tư nhân, điều chỉnh cụ thể về quy chế pháp lý, cơ cấu tổ chức, cách thức điều hành… như Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Thương mại 2005… Các văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh hoạt động của các công ty, doanh nghiệp tư nhân… phù hợp với quy định của pháp luật, phù hợp với chính sách kinh tế của nhà nước và định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường. 2.3.4. Đối với kinh tế tư bản nhà nước Là sự hợp tác để sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhà nước với các tổ chức kinh tế tư nhân và các nhà tư bản (trong nước và nước ngoài) trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, tự nguyện và cùng có lợi. Những tổ chức kinh tế này được hình thành trên cơ sở liên doanh về vốn, kỹ thuật và cùng điều hành trong sản xuất, kinh doanh. Thành phần kinh tế này phát triển sẽ phát huy được thế mạnh của các bên liên doanh, liên kết, của các cổ đông. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, đáng chú ý là những hình thức vừa có tính chất phổ biến trên thế giới, vừa có tính đặc thù Việt Nam có tính hiệu quả cao đó là: - Hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà nước với các chủ sở hữu ngoài quốc doanh ở trong nước hoặc với các chủ sở hữu ở các nước tư bản chủ nghĩa. - Công ty cổ phần với tính cách là hình thức kinh tế tư bản nhà nước và “cổ phần hoá” xí nghiệp để thành lập xí nghiệp tư bản nhà nước. - Đặc khu kinh tế. - Khu công nghiệp chế biến xuất khẩu (Khu chế xuất). - Cho tư bản trong và ngoài nước, cho nông dân thuê các cơ sở sản xuất kinh doanh và các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân. - Các tổ chức hợp tác liên doanh với tính cách là các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. - Ngoài những hình thức cụ thể nêu trên, kinh tế tư bản nhà nước cũng cần được xem xét ở góc độ lớn hơn. Đó là, hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các thành phần, khu vực kinh tế khác. Thực chất nó là sự quản lý, điều tiết hay lãnh đạo về kinh tế của Nhà nước với toàn bộ nền kinh tế nhiều thành phần trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, về mặt bản chất của thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong xây dựng CNXH thì thành phần này là hình thức kinh tế trung gian, quá độ lên hình thức kinh tế xã hội XHCN. Điểm khác biệt với các thành phần kinh tế khác là ở chỗ thành phần kinh tế này có sự tham gia của nhà nước, nhà nước góp vốn, góp cổ phần kinh doanh, phía còn lại có thể là doanh nghiệp trong nước hoặc ngoài nước của các nhà tư bản. Cho đến nay, chúng ta càng ngày càng nhận thức rõ vị trí, vai trò động lực quan trọng của thành phần kinh tế tư bản nhà nước trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước. Chúng ta đã nhận thức rõ được sai lầm về lý luận kinh tế là đã xoá bỏ mọi thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, …, chỉ để lại thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Chính sách đối với thành phần kinh tế này được quy định chung là khuyến khích phát triển, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi trong việc đăng ký thành lập, đầu tư vốn, mở rộng quy mô hoạt động, cho vay vốn, sử dụng lao động, khuyến khích liên doanh, liên kết, doanh nghiệp có vốn nước ngoài không bị quốc hữu hoá, mặt khác cũng phải bảo đảm doanh nghiệp hoạt động theo khuôn khổ pháp luật. Trên thực tế có những trường hợp cho thấy sự quản lý của nhà nước đối với thành phần kinh tế này vẫn chưa tốt. Điển hình như doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hàng không Pacific Alines (nay là Jetstar Pacific Airlines). Jetstar Pacific Airlines (thành lập năm 1991) là một công ty cổ phần, trong đó, có phần vốn của Vietnam Airlines, khoảng 86%. Thời gian gần đây dư luận rất bức xúc trước thực trạng doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ liên miên trong khi lương của cán bộ, công nhân vẫn cao. Mặc dù đã “đáp ứng” đầy đủ các điều kiện của Luật Phá sản nhưng doanh nghiệp này vẫn tiếp tục được tồn tại. Đây là một thực tế gây nhiều tranh cãi, thể hiện sự không hiệu quả trong việc quản lý của nhà nước đối với doanh nghiệp liên doanh. Nhiều văn bản luật khác nhau đã cụ thể hóa chính sách như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp… hay một số văn bản luật chuyên ngành như Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế xuất nhập khẩu… 2.3.5. Đối với kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài Đại hội Đảng IX và Quốc hội khóa X Kỳ họp thứ 10 đã xác định một thành phần kinh tế mới – kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Thành phần kinh tế này có thể chia ra làm hai bộ phận: kinh tế có sự tham gia của vốn nước ngoài và kinh tế 100% vốn nước ngoài. Khi có sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài tức là có vốn đầu tư nước ngoài, như vậy có thể trùng với thành phần kinh tế tư bản nhà nước, trong trường hợp nhà nước liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, theo chúng tôi, thành phần kinh tế này nên quy định là thành phần kinh tế 100% vốn nước ngoài để tránh trùng lặp, chồng chéo với thành phần kinh tế khác. Đây là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta, được khuyến khích phát triển lâu dài và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Chính sách áp dụng đối với thành phần kinh tế này được quy định tại Điều 25 Hiến pháp 1992: “Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước”. [14]. Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987), hoạt động này đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế, nâng cao thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Năm 2005, Quốc hội ban hành Luật Đầu tư thay thế cho Luật Đầu tư nước ngoài, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (1994, sửa đổi 1998). Chính sách cụ thể là: - Nhà đầu tư được đầu tư trong các lĩnh vực và ngành, nghề mà pháp luật không cấm; được tự chủ và quyết định hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam. - Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. - Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư. - Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. - Nhà nước khuyến khích và có chính sách ưu đãi đối với đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư. [20]. Luật Đầu tư đã tạo môi trường pháp lý thuận lợi để mở rộng hoạt động đầu tư ở trong nước cũng như ngoài nước. Tóm lại: Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước ta gồm nhiều thành phần là phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có ý nghĩa lâu dài và nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, bảo đảm cho mọi người tự do kinh doanh theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu lâu dài và thu nhập hợp pháp. Bằng pháp luật, Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau giữa các thành phần kinh tế, bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc tối cao chi phối quyền tự do kinh doanh và hợp tác kinh doanh của công dân là tự nguyện, trên cơ sở hiệu quả và cùng có lợi. Tuy nhiên, đối với “mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, mọi hành vi phá hoại nền kinh tế quốc dân, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật”. Nhà nước có chính sách nhất định đối với từng thành phần kinh tế để đảm bảo cho các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, hợp tác cạnh tranh phát triển kinh tế theo pháp luật trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chương III. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP 3.1. Thực tiễn thực hiện Chính sách kinh tế ra đời từ Đại hội Đảng VI, tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX, X và được thể chế vững chắc và có tác dụng định hướng nền kinh tế phát triển, đạt được nhiều thành tựu to lớn: Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh. Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đến năm 1995, lần đầu tiên, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch Nhà nước 5 năm 1991-1995 được hoàn thành và hoàn thành vượt mức. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế xã hội và giải phóng sức sản xuất. 1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện. GDP bình quân năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Từ năm 1996-2000 là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách to lớn. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm. Năm 2000-2005: Nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD. Tốc độ tăng trưởng, GDP thời kỳ 1992-1997 tăng bình quân 8,75%/năm. Thời kỳ 2000-2007: 7,55%/năm. Năm 2008, tuy chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng GDP vẫn đạt 6,23%. GDP/người/năm: năm 1995 là 289 USD, năm 2005 là 639 USD, năm 2007: 835 USD và năm 2008 đạt 1024 USD. Về tốc độ tăng trưởng, trong những năm khởi đầu công cuộc đổi mới (1986-1991) GDP tăng trưởng tương đối chậm. Nhưng khi quá trình đổi mới diễn ra rộng khắp và đi vào thực chất thì tốc độ tăng trưởng GDP luôn đạt mức cao và ổn định kéo dài, mặc dù có lúc bị giảm sút do dự báo chủ quan và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Do tốc độ tăng GDP cao nên GDP/người/năm cũng tăng lên đáng kể, từ 289 USD (năm 1995) lên 1024 USD (năm 2008), cho thấy Việt Nam đang từng bước vượt qua ranh giới của quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp và đang vươn lên nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp (theo quy ước chung của quốc tế và xếp loại các nước theo trình độ phát triển thì nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp là những nước có GDP/người từ 765 đến 3385 USD). Cơ cấu thành phần kinh tế: Khu vực kinh tế nhà nước chiếm 38,4% GDP vào năm 2005. Kinh tế dân doanh chiếm 45,7% GDP. Hợp tác và hợp tác xã chiếm 6,8% GDP. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 15,9% GDP. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu. Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản phẩm và sức cạnh tranh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 15%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10%/năm. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong nước và ngoài nước. Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của các thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng trên 7,5%/năm; giá trị tăng thêm khoảng 7%/năm. Năm 2005, giá trị tăng thêm đạt 8,5%, cao hơn mức tăng GDP Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường. Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Giá trị tạo ra trên một đơn vị diện tích ngày một tăng lên. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Từ chỗ chưa khai thác dầu mỏ, đến nay, mỗi năm đã khai thác được khoảng gần 20 triệu tấn quy ra dầu. Ngành công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản lượng công nghiệp. Công nghiệp xây dựng phát triển mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị trường lớn. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh. Số doanh nghiệp nhà nước qua sắp xếp đổi mới, cổ phần hoá đã giảm từ 12.084 doanh nghiệp năm 1990 xuống còn 2.980 doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước và 670 công ty cổ phần do Nhà nước chi phối trên 51% vốn điều lệ năm 2005. Qua đổi mới, doanh nghiệp nhà nước năm 2005 đóng góp 38,5% GDP và khoảng 50% tổng ngân sách Nhà nước. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội. Năm 2005 chiếm 46% GDP. Trong đó, kinh tế hợp tác phát triển ngày càng đa dạng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, năm 2005, kinh tế hợp tác đóng góp khoảng 7% GDP. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế. Năm 2005, khu vực này đóng góp 15,5% GDP, trên 7,5% tổng thu ngân sách, trên 17,1% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí); đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp; thu hút hơn nửa triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định Qua 20 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Nhà nước đã từng bước tách chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế với chức năng kinh doanh của các doanh nghiệp; chuyển từ can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế sang can thiệp gián tiếp thông qua hệ thống pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách và các công cụ điều tiết vĩ mô khác. Từng bước phát triển đồng bộ và quản lý sự vận hành các loại thị trường cơ bản, theo cơ chế mới. Thị trường hàng hoá phát triển với quy mô lớn, tốc độ nhanh. Các thị trường dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, bất động sản đang được hình thành. Các cân đối vĩ mô của nền kinh tế cơ bản được giữ ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Tiềm lực tài chính ngày càng được tăng cường, thu ngân sách tăng trên 18%/năm; chi cho đầu tư phát triển bình quân chiếm khoảng 30% tổng chi ngân sách. Quan hệ tiền - hàng cơ bản hợp lý, bảo đảm hàng hoá thiết yếu cho sản xuất và đời sống; giá tiêu dùng bình quân hàng năm tăng thấp hơn mức tăng GDP. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, kinh tế đối ngoại có bước tiến lớn, đạt được những kết quả rất quan trọng Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á( ASEAN), thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA), gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)... Đến năm 2005, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 221 nước và vùng lãnh thổ, ký 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại. Xuất khẩu, nhập khẩu tăng rất nhanh cả về quy mô và tốc độ. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trước thời kỳ đổi mới chỉ đạt khoảng 1 tỷ USD/năm, đến nay tổng kim ngạch xuất khẩu đã vượt hơn 50% GDP, tức là trên 25 tỷ USD/năm. Một số sản phẩm của Việt Nam đã có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới với những thương hiệu có uy tín. Đáng chú ý là xuất khẩu dịch vụ tăng rất nhanh, tăng 15,7%/năm, bằng 19% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang những nền kinh tế lớn. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ năm 2000 đến 2005 tăng khoảng 19%/năm, nhập siêu khoảng 4 tỷ USD/năm, bằng 17,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhập siêu tuy còn cao nhưng vẫn trong tầm kiểm soát và có xu hướng giảm dần. Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển biến theo hướng tích cực. Tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản giảm từ 37,2% năm 2000 xuống còn 36% năm 2005, hàng nông, lâm thuỷ sản giảm từ 29% xuống 24%; hàng công nghiệp nhỏ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 38,8% lên 39,8%. Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt. Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 20 năm đổi mới là đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao. Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng 640 USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005. Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002. Đánh giá về thành công của quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ X của Đảng đã khẳng định: “Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Những thành công đó xuất phát từ sự nỗ lực của toàn Đảng toàn dân, và không thể không nói tới công lao của các nhà lãnh đạo nhà nước trong việc hoạch định chính sách kinh tế thông thoáng, năng động, thích nghi với điều kiện của nền kinh tế xã hội. Bên cạnh đó việc áp dụng chính sách còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhược điểm. Điều này là không thể tránh khỏi trong hoàn cảnh nước ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ một mức điểm xuất phát thấp và chưa có tiền lệ. Những hạn chế đó bao gồm: Một là, kinh tế thị trường nước ta tuy tốc độ tăng trưởng cao, nhưng chất lượng, hiệu quả và tính cạnh tranh còn thấp, có những mặt chưa hoàn chỉnh. Chi phí sản xuất còn cao, giá không ít mặt hàng cao hơn các nước trong khu vực (đặc biệt là điện và giá cước dịch vụ viễn thông), làm giảm tính cạnh tranh, nhất là khi chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ. Không chỉ trên phạm vi quốc tế, tính cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng thấp, một số doanh nghiệp còn giữ vị trí độc quyền, kìm hãm sự tiến bộ. Các loại thị trường thiết lập chưa đồng bộ, một số thị trường còn sơ khai như thị trường chứng khoán, thị trường sản phẩm khoa học và công nghệ, thị trường lao động. Mặc dù nước ta đã tham gia Công ước Bern và một số điều ước quốc tế về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nhưng tình trạng vi phạm bản quyền và thương hiệu còn nhiều... Bên cạnh đó vấn đề xây dựng thương hiệu chưa được chú trọng, điều này dẫn đến những thiệt thòi lớn khi chúng ta gia nhập “sân chơi” khu vực và thế giới. Bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững cũng là vấn đề lớn phải giải quyết lâu dài. Nền kinh tế phát triển bền vững là nền kinh tế có khả năng thích nghi cao với những biến động của tình hình chính trị, xã hội, giữ vững sự ổn định trong thời gian lâu dài. Rõ ràng tính chất này chưa tồn tại nhiều trong nền kinh tế nước ta. Điều này được giải thích do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng là hệ thống văn bản pháp luật được xây dựng chưa hoàn chỉnh, còn nhiều quy định thiếu tính thực tế; tình hình chính trị - xã hội có nhiều biến động liên tục… Hai là, cơ cấu ngành và thành phần kinh tế còn có những bất hợp lý. Các ngành công nghiệp chủ chốt, làm đòn bẩy cho phát triển và tạo vị thế tự chủ về kinh tế (như cơ khí, luyện kim, công nghiệp chế biến...) phát triển chưa tương xứng. Các ngành ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại như công nghệ tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới triển khai còn chậm. Về các thành phần kinh tế, điều đáng quan tâm là chưa phát huy được thế mạnh của từng thành phần; trong đó, đáng chú ý là kinh tế nhà nước và khu vực ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp nhà nước hiện nay vừa bị trói buộc về cơ chế vừa được bao cấp của Nhà nước (tuy đã giảm nhiều hơn trước). Doanh nghiệp nhà nước quy mô còn nhỏ, lại bị dàn trải trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực mà chúng ta không nhất thiết phải nắm giữ. Việc sắp xếp, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước đã tiến hành một số lần nhưng tốc độ còn chậm. Đặc biệt là việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước do nhiều nguyên nhân nên chưa đạt kết quả như mong đợi. Tất cả những điều đó đã hạn chế nhiều vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tuy quan điểm nhìn nhận của xã hội có tiến bộ hơn trước, nhưng ít nhiều vẫn còn bị kỳ thị. Chúng ta chưa phát huy các năng lực còn tiềm ẩn của khu vực này. Chỉ tính riêng khu vực ngoài quốc doanh trong nước đã chiếm đến 47,6% GDP của cả nước (năm 2003), nhưng vốn đầu tư mới chiếm 25,3% tổng vốn đầu tư. Còn nhiều chính sách, cơ chế chưa được tháo gỡ, mặc dù đường lối của Đảng và sự chỉ đạo của Chính phủ đã thông thoáng hơn trước. Ba là, sự tiến bộ và công bằng xã hội, lĩnh vực văn hóa - xã hội tuy có nhiều tiến triển nhưng so với tăng trưởng và phát triển kinh tế vẫn còn có một khoảng cách. Sự chênh lệch giàu nghèo hiện nay nói chung không lớn như các nước nhưng cần đề phòng sự tăng thêm, nhất là giữa nông thôn và thành thị, giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa so với mức bình quân chung của cả nước. Các mặt tiêu cực trong nước không giảm, có những mặt lại tăng lên. Các tệ nạn như mại dâm, ma túy, HIV/AIDS, cờ bạc, mê tín... phát triển. Tình trạng tham nhũng dưới nhiều thủ đoạn hoành hành gây nên nhiều hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Sự thoái hóa, xuống cấp về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận không ít cán bộ và nhân dân làm xã hội lo lắng. Chuẩn mực giá trị bị đảo lộn trong quan niệm và hành động của nhiều người, nhất là trong thanh niên. Tất cả những điều đó ảnh hưởng rất lớn đến chính sách phát triển của nền kinh tế nước ta. Không thể chấp nhận một bước tiến về kinh tế lại kéo theo một bước lùi một số quan hệ về văn hóa - xã hội. Tới đây, chúng ta phải dày công khắc phục mặt này để đất nước ta đứng vững trên hai chân: kinh tế phát triển mạnh và văn hóa – xã hội phát triển vững chắc. Bốn là, một số vấn đề lý luận liên quan đến kinh tế thị trường cần tiếp tục làm sáng tỏ. Đó là: Chất lượng và tính bền vững của nền kinh tế và mối quan hệ với sự tăng trưởng kinh tế; các hình thức thực hiện chế độ công hữu có hiệu quả; thử tìm cơ chế đưa doanh nghiệp nhà nước đến kinh doanh tự chủ, tự phát triển và cạnh tranh có kết quả trong cơ chế thị trường; phát huy mạnh mẽ tiềm năng của các thành phần phi công hữu theo định hướng XHCN; Nâng cao chất lượng một số thị trường hiện còn sơ khai và từng bước phát triển các thị trường mới; văn hóa - xã hội tiến bước cùng với tiến bộ về kinh tế; những bài học kinh nghiệm về quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường; vai trò và phương thức lãnh đạo về kinh tế của Đảng trong điều kiện kinh tế thị trường... Để nền kinh tế đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi chúng ta phải khắc phục những hạn chế và phát huy tích cực những hiệu quả, thành tựu đã đạt được trong thời gian qua. 3.2. Phương hướng, giải pháp Thứ nhất, tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị, đặc biệt không được phép đối xử bất bình đẳng với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế – xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn; cần chú ý hơn nữa trong việc phát triển mô hình kinh tế trang trại. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động. Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dưới dạng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh tế. Chú trọng các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Tạo điều kiện để kinh tế 100% vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, hướng vào các sản phẩm xuất khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm. Cải thiện môi trường kinh tế và pháp lý để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài. Cải cách thủ tục hành chính, có chính sách ưu đãi để khuyến khích các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vốn và công nghệ mới vào Việt Nam Thứ hai, tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường; đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhìn chung, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ còn thấp, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh chưa cao. Nhiều thị trường còn sơ khai, chưa đồng bộ. Vì vậy, phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa, đẩy mạnh việc hình thành các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước, cả ở thành thị và nông thôn, chú ý thị trường các vùng có nhiều khó khăn. Chủ động hội nhập thị trường quốc tế. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Mặt khác, phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xóa bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí, gây phiền hà. Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển; bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp với sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế – xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, bảo đảm cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập; kiểm tra, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, luật pháp, đổi mới công tác kế hoạch hóa, nâng cao chất lượng công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; tăng cường công tác thông tin kinh tế – xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê; ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp. Thứ ba, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp, điều tiết các quan hệ xã hội. Trong tình hình cụ thể hiện nay ở Việt Nam, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Thực hiện có hiệu quả chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi, khắc phục tình trạng lương và trợ cấp bất hợp lý; tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Tính ưu việt của chế độ xã hội ta là luôn làm tốt công tác xóa đói giảm nghèo, là mục tiêu thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu này theo suốt ở các chặng đường phát triển kinh tế - xã hội qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển nhanh, nhưng cũng làm cho khoảng cách giàu nghèo được nới rộng và có sự phân hóa lớn. Vì vậy Nhà nước phải phải có chính sách vay vốn ưu đãi cho người nghèo để tạo điều kiện cho họ sản xuất, kinh doanh. Chăm sóc những người có công với nước, thương binh, bệnh binh, cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính sách – một yêu cầu rất lớn đối với một đất nước phải chịu nhiều hậu quả sau 30 năm chiến tranh. Đồng thời đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự và kỷ cương xã hội, ngăn chặn và bài trừ các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn ma tuý, mại dâm, lối sống không lành mạnh, những hành vi trái pháp luật và đạo lý. Kiên quyết đấu tranh với tệ tham nhũng, hối lộ, làm giàu bất chính, kinh doanh không hợp pháp, gian lận thương mại… cùng với những tiêu cực khác do mặt trái của cơ chế thị trường gây ra. Kết quả cụ thể của cuộc đấu tranh này là thước đo bản lĩnh, trình độ và năng lực quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Thứ tư, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng XHCN của kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây cũng là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới. Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, mở rộng hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Thực tế ở một số nước cho thấy, chỉ cần một chút mơ hồ, buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch dấn tới phá rã sự lãnh đạo của Đảng, thay đổi chính quyền, đưa đất nước đi con đường khác. Hiện nay, có ý kiến cho rằng, đã chuyển sang kinh tế thị trường – tức là nền kinh tế vận động theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… thì không cần phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng nhiều khi cản trở, làm “vướng chân” sự vận hành của kinh tế (?). Ý kiến này là chưa thoả đáng. Bởi vì như trên đã nói, Việt Nam chủ trương phát triển kinh tế thị trường nhưng không phải để cho nó vận động một cách tự phát, mù quáng mà phải có lãnh đạo, hướng dẫn, điều tiết, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, vì lợi ích của đại đa số nhân dân, vì một xã hội công bằng và văn minh. Người có khả năng và điều kiện làm được việc đó không thể ai khác ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam – là đảng phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thật sự đại diện và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo có nghĩa là Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển của đất nước nói chung, của lĩnh vực kinh tế nói riêng, bảo đảm tính chính trị, tính định hướng đúng đắn trong sự phát triển kinh tế, làm cho kinh tế chẳng những có tốc độ tăng trưởng và năng suất lao động cao, có lực lượng sản xuất không ngừng lớn mạnh mà còn đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là hạn chế được bất công, bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Trên cơ sở đường lối, chiến lược đó, Đảng lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị và guồng máy xã hội, trước hết là Nhà nước, tổ chức thực hiện bằng được phương hướng và nhiệm vụ đã đề ra. Đương nhiên, để có đủ trình độ, năng lực lãnh đạo, Đảng phải thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân tin cậy và ủng hộ. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng, có trí tuệ, có kiến thức, giữ gìn đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng và các hiện tượng thoái hóa, hư hỏng trong Đảng và trong bộ máy của Nhà nước. Tóm lại, sự hình thành tư duy kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi và phát kiến về mặt lý luận của CNXH, mà còn là sự lựa chọn và khẳng định con đường và mô hình phát triển trong thực tiễn mang tính cách mạng và sáng tạo của Việt Nam. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng còn không ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trò chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước XHCN, chống quan liêu, tham nhũng, v.v... Với phương châm “Hãy bắt tay vào hành động, thực tiễn sẽ cho câu trả lời”, hy vọng rằng từng bước, từng bước, thực tiễn sẽ làm sáng tỏ được các vấn đề nêu trên, góp phần làm phong phú thêm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thời đại ngày nay. KẾT LUẬN Để xây dựng được một nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh, bền vững đòi hỏi rất nhiều yếu tố hợp thành: sự lãnh đạo của Đảng, cơ sở vật chất kỹ thuật… và một yếu tố không thể thiếu là các quy định của pháp luật làm cơ sở pháp lý. Các quy định của pháp luật bao gồm quy định trong Hiến pháp, Bộ luật, Luật, Pháp lệnh, Nghị quyết và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định, Thông tư… , trong đó Hiến pháp được coi là đạo luật gốc, đạo luật xương sống làm cơ sỏ để ban hành các văn bản khác. Xuất phát từ thực tiễn có những thay đổi, biến động to lớn cả về chính trị, văn hóa, xã hội, chính sách kinh tế trong Hiến pháp 1992 đã có những sửa đổi cơ bản so với chính sách kinh tế trong Hiến pháp 1980, đó là xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế này mang những đặc trưng cơ bản của một nền kinh tế thị trường nhưng có đặc điểm riêng biệt là theo định hướng XHCN, chính vì thế chính sách đối với từng thành phần kinh tế có sự khác nhau, nhưng đều dựa trên nguyên tắc chung là bình đẳng trước pháp luật giữa các thành phần kinh tế. “Chính sách kinh tế của Nhà nước CHXHCN Việt Nam theo Hiến pháp 1992” là một đề tài rộng vì phạm vi nghiên cứu không chỉ trong nội dung Hiến pháp 1992 mà còn bao gồm cả các văn bản pháp luật có liên quan được ban hành theo tinh thần Hiến pháp 1992. Cũng cần nhấn mạnh đến chính sách phát triển kinh tế chung đối với toàn bộ nền kinh tế và phân tích chính sách cụ thể trong từng thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế 100% vốn nước ngoài. Trên cơ sở những số liệu thực tiễn đưa ra giải pháp, phương hướng phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế để chính sách kinh tế ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChính sách kinh tế của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 1992.doc
Luận văn liên quan