Kết quả nghiên cứu này tập trung vào thời kỳ phản ứng tăng cao ở các nước châu Á, sự
đột nhiên tăng giá của đồn g Nhân dân tệ, nhất là nếu các n ước châ u Á cũn g định giá chống lại
đồn g tiền của quốc gia khác. Mặc dù sự n ghiên cứu n ày chỉ tập trung vào khối lượng xuất khẩu
và nhập khẩu- để mà đưa r a nhữn g kết luận không dễ hiểu. Nó phục vụ cho nhữn g điểm quan
trọng về quá trình đầu tư hiệu quả man g tính lâu dài từ n ân g giá đồn g Nhân dân tệ và sự kết nối
chính sách tỷ giá hối đoái khác nhau trong châu Á. Mặc dù những con số của bài báo được đưa
ra, người n ghiên cứu dùng những dữ liệu mới là cần thiết.
Cuối cùn g, trong kh i x uất khẩu của Trung Quốc có lợi nh uận một cách rõ r àng từ sự tăng
trưởng nhanh của nền kinh tế. Độ co giãn tron g thu nhập của nhập khẩu Trung Quốc thì khá thấp
trong bài viết này. Nó dườn g như chỉ ra rằng nhập khẩu tới Trun g Quốc thì phụ thuộc nhiều vào
đầu tư trực tiếp nước n goà i hơn là hoạt độn g của nền kinh tế trong nước. Mặc dù dữ liệu mẫu
trong bài viết này chỉ chạy tới cuối năm 2005, kết quả cho thấy cũn g xác nhận bởi sự phát triển
kinh tế trong thời gian gần đây. Nh u cầu trên thế giới lớn và tăn g trưởn g dòng vốn đầu tư nước
ngoà i giữ cho x uất khẩu v à nhập khẩu Tr ung Quốc tăng nhanh tới tận mùa hè năm 2008. Sau đó,
nền kinh tế toàn cầu suy thoái và giảm sút trong vốn đầu tư nước ngoài đã làm cho xuất khẩu
Trung Quốc có thể giảm đi nhiều hơn cũng như nhập khẩu, đặc biệt từ các đối tác của Trung
Quốc. Thật sự, nền thương mại bên trong khu vực châu Á đã trở nên giảm mạnh trong vài tháng
gần đây.
25 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2066 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách tỷ giá hối đoái của Trung Quốc và thương mại khu vực Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tác
động
tích
cực
vào
xuất
khẩu
Vốn
FDI,
hoàn
thuế
GTGT
và xuất
khẩu
Marquez
và
Schindler,
2006
DL theo
tháng
01/1997-
02/2004
PP bình
phương
tối
thiểu,
nghiên
cứu tác
động
lên thị
phần
của
Trung
Quốc
thế giới
vê XK
và NK
Định giá cao làm giảm nhập khẩu
bình thường nhưng đố i với nhập
khẩu chế biến cótác động không
mạnh mẽ. Ảnh hưởng đến xuất
khẩu cũng không mạnh mẽ.
định
giá cao
10%
làm
giảm
thị
phần
xuất
khẩu
của
Trung
Quốc
tăng
0,5%
và thị
phần
nhập
khẩu
0,1%
Tích
cực
cho
nhập
khẩu
nhưng
tác
động
không
rõ
ràng
lên
xuất
khẩu.
Vốn FDI
Tác giả Dữ liệu
Phương
pháp
Tác động TGHĐ thực song
phương lên XK/NK
Độ co
giá
ước
tính
Tác
động
của
Nhu
cầu
Biến
điểu
chỉnh
khác
Shu và
Yip, 2006
DL theo
quý
1995 -
2006
MH
hiệu
chỉnh
sai số
Định giá cao làm giảm xuất khẩu
–1.3
(XK)
Tác
động
tích
cực và
có ý
nghĩa
Thị phần
Thorbecke,
2006
DL theo
năm
1982 -
2003
MH
trọng
số, hiệu
chỉnh
sai số,
BP tối
thiểu
Trong mô hình trọng số, một sự
định giá cao làm giảm xuất khẩu
của Trung Quốc. Trong VEC và
OLS, xuất khẩu sang Mỹ giảm
trong trường hợp định giá cao.
Không có trọng số đố i với hàng
nhập khẩu. Khi nghiên cứu thương
mại Mỹ-Trung Quốc trong một mô
hìnhtrọng số, không có kết quả rõ
ràng.
–1.3
(XK)
Tích
cực và
đáng
kể cho
xuất
khẩu.
Co
giãn
thu
nhập
đối
với
hàng
nhập
khẩu
không
rõ
ràng.
Biến
động tỷ
giá hối
đoái và
độ lệch
Yue and
Hua, 2003
DL theo
năm
1980 -
2000
PP BP
tối
thiểu,
TSLS
và PP
tác
động
nhân tố
cố định
Định giá thấp tăn g xuất khẩu. tỷ giá
tăng trong những năm 1990.
Từ -
0.97
đến -
.16
(XK)
Không
có ý
nghĩa
Năng lực
sản xuất
trong
nước
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để đánh giá độ nhạy của n ền x uất nhập khẩu Trung Quốc đối với các thay đổi về tỷ giá thực
tế của đồng Nhân dân tệ, chúng tôi sẽ ước lượng các phương trình xuất nhập khẩu chuẩn. Chúng
tôi sử dụng kỹ thuật đồng liên kết vì quan t âm đến các mối liên hệ dài hạn. Ngoài ra, chúng tôi
sẽ sử dụng dạng công thức rút gọn của các phương trình xuất nhập khẩu để tránh độ lệch do
phương trình đồng thời ch ỉ có thể gây ra bởi các hàm số cung cầu ước lượng. Tuy nh iên, để
tránh các vấn đề tiềm ẩn liên quan đến các biến số bị loại bỏ, chúng tôi sẽ đưa thêm các yếu tố
quyết định cung cầu vào phương trình dạng thức rút gọn. (3)
Hai phương trình ước lượng chi phí nh ư sau:
trong đó, là khối lượng x uất khẩu từ Trung Quốc, là khối lượng nhập khẩu từ Trung Quốc,
là tỷ giá thực đa phương của đồng Nhân dân tệ, là nhu cầu t iêu thụ từ nước ngoài và
là nhu cầu tiêu thụ nội địa. Các thông số ước tính gồm: là độ co giãn tỷ giá xuất khẩu, là
độ co giãn xuất khẩu theo thu nhập, là độ co giãn nhập khẩu theo tỷ giá và là độ co giãn
nhập khẩu theo thu nhập.
Căn cứ vào tầm quan trọng của lĩnh vực gia công đối với kinh tế Trung Quốc, ch úng tôi sẽ
đánh giá các ph ương trình riêng biệt cho xuất khẩu thường và xuất khẩu hàng gia công. Cũng
theo cách đó, chúng tôi phân biệt giữa nhập khẩu hàng gia côn g và nhập khẩu thường.
(4)
Các
biểu đồ A1.1 và A1.2 (Phụ lục) cho thấy các kh uynh hướng trong x uất nhập khẩu thường và
xuất nhập khẩu hàng gia công: cả hai đều tăng trưởng rất nhanh kể từ năm 2001 trở đi, cùng thời
điểm Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO).
Khó khăn cần lưu ý khi nghiên cứu với dữ liệu thương mại của Trung Quốc là không thể xử
lý các giá trị và định lượng một cách rõ ràng vì không tồn tại bất kỳ chỉ số giá xuất nhập khẩu
nào ở dạng tổng hợp. Do đó, chúng tôi cần sử dụng dữ liệu thay thế cho dữ liệu giá. Chúng tôi
sử dụng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Trung Quốc làm dữ liệu thay thế cho giá xuất khẩu. Lý
do chúng tôi chọn định lượng giá chung chung như vậy là vì Cục Thống Kê Quốc Gia Trung
Quốc không cung cấp cho nhà sản xuất các dữ liệu về chỉ số giá và chỉ số giá bán sỉ không tồn
tại cho toàn bộ điều tra mẫu của chúng tôi.
(5)
________________________________
(3)
. Xem bài phê bình của Goldstein và Khan (1985 ) về giả định phổ biến thời bấy giờ về các ph ương trình xuất
khẩu trong đó nguồn cung co dãn vô tận .
(4). Nhập khẩu hàng gia công b ao gồ m nh ập khẩu các phụ tùng và linh kiện sử dụng trong lĩnh v ực gia công là m
nguyên liệu đầu vào cho sản xu ất hàng xuất khẩu . Hàng xuất khẩu b ao gồm các tổ hợp linh kiện Trung Quố c xuất
khẩu sang các nước khác và các cụm hàng hóa xu ất khẩu sử dụng linh kiện nhập khẩu. Mậu dịch thông thường liên
quan đến các mặt h àng không cần gia công nhiều v à không sử dụng đ ến linh kiện nhập khẩu .
(5)
. Chúng tôi cũng muốn dùng chỉ số CPI hơn các hệ số bình ổn giá bên ngoài khác như chỉ số gia quyền trung bình
của giá nhập khẩu từ các đối tác của Trung Quốc. Điều này là do cổ phiếu thị trường Trung Quốc tăng trưởng nhanh
chóng và Trung Quốc đã trở thành nước xuất khẩu chính trên thế giới, do đó, rất khó để biện luận rằng Trung Quốc
là nước chấp nhận giá thuần túy.
Đối với giá nhập khẩu, chúng tôi tính toán trọng số gia quyền giá xuất khẩu của hai mươi lăm
đối tác thương mại quan trọng nhất của Trung Quốc và sử dụng giá nhập khẩu của Trung Quốc
với chỉ số này (có thể tìm thấy nguồn dữ liệu tại biểu đồ A1.1, phụ lục). Trong một thử nghiệm
thô, chúng tôi sử dụng giá xuất khẩu Hồng Kôn g như dữ liệu thay thế cho giá xuất khẩu của
Trung Quốc và kết quả vẫn giữ nguyên.
(6)
Tỷ giá thực đa phương (REER) được suy ra từ các thống kê tài chính quốc tế của Tổ Chức Tiền
Tệ Quốc Tế (IMF) và được suy định như sau:
Trong đó, N là số loại tiền tệ có trong chỉ số, là tỷ trọng của đồng tiền ith và là tỷ giá
thực tế song phươn g với mỗi đối tác thương mại của Trung Quốc. (7) Chúng tôi cũng sử dụng
REER do BIS suy định như là thử ngh iệm thô nhưng kết quả vẫn không thay đổi.
Chúng tôi cho rằng độ giãn tỷ giá x uất khẩu sẽ là âm khi sản phẩm Trung Quốc cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Dấu hiệu dự đoán cho độ giãn tỷ giá nhập khẩu ít rõ ràng hơn đối
với trường hợp của Trung Quốc. Việc nâng giá thực tế có thể thúc đẩy nhập khẩu nếu sức mua
cao hơn so v ới nhu cầu tiêu thụ giảm do x uất khẩu giảm. Phản ứng cũng sẽ phụ thuộc nhiều vào
cơ cấu hàng nhập khẩu. Nếu hàng nhập khẩu là nguồn thay thế chính cho sản xuất nội địa, độ
giãn giá có thể đạt dương, nghĩa là nâng giá có thể thúc đẩy nhập khẩu. Tuy nh iên, nếu hàng
nhập khẩu chủ yếu là l inh kiện và hàng hóa đầu tư trực t iếp cho ngành x uất khẩu vốn có quy mô
rất lớn tại Trung Quốc, hàng hóa nhập khẩu và xuất khẩu đều bị ảnh hưởng không tốt khi tăng
giá.
Nhu cầu nước ngoài đối với hàng xuất khẩu Trung Quốc được tính bằng hàng hóa nhập
khẩu trên thế giới (t rừ hàng nhập khẩu vào Trung Quốc) và được bình giá bởi chỉ số giá nhập
khẩu toàn cầu. Hiển nhiên, một số phương pháp định lượng trên cơ sở sản lượng cũng có thể
dùng được, nhưng dữ liệu theo tháng khôn g tồn tại. Hơn nữa, loại dữ liệu này có thể gây ra khó
khăn đáng kể hơn trong v iệc nắm bắt sự tăng trưởng nhanh chón g của thương mại thế giới
những năm vừa qua, rõ ràng là nhanh hơn tăng trưởng GDP, do sự xuất hiện các nền kinh tế mới
nổi.
Về nhu cầu nội địa của Tr ung Quốc đố i v ới hàng nhập khẩu thông thường, chúng tôi lấy
giá trị sản lượng công ngh iệp. GDP tất nhiên có thể là một định lượng rộng hơn cho sản lượng
kinh tế nhưng các cơ quan thống kê Trung Quốc vẫn còn chưa công bố các số liệ thống kê GDP
quý cho giai đoạn 1994-2005 cho đến khi cuộc sửa đổi công tác thống kê 2005. Đối với nhu cầu
hàng hóa nhập khẩu cho gia công, chúng tôi sử dụng hàng hóa xuất khẩu gia công như là hệ số
nhu cầu tiêu thụ dài hạn. Dự đoán đố i với độ giãn thu nhập là dương cho cả hàng xuất khẩu và
nhập khẩu.
Các phương trình xuất nhập khẩu được bổ sung thêm các điều chỉnh phù hợp từ các tài
liệu thương mại cũng như trường hợp cụ thể của Trung Quốc. Đối với hàng hóa xuất khẩu,
chúng tôi kiểm tra t ính tương thích của các mức chiết khấu thuế giá t rị gia tăng (VAT) được sử
dụng tại Trung Quốc như là ch ính sách công cụ khuyến khích hoặc n găn chặn hàng xuất khẩu
phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế. Dự đoán đố i với các mức chiết khấu VAT này hiển nhiên cũng đạt
dương.(8)
______________________________________
(6)
. Giả thuyết cơ bản là đa phần hàng xuất khẩu Hồng Kông được sản xuất từ Trung Quốc Đại Lục và mức kê lời tại
Hồng Kông đối với các hàng hóa này là tương đối ổn định .
(7)
. Xem th êm chi tiết trong Bayoumi và những người khác. (2005).
(8)
. Dữ liệu về các mức chiết khấu VA T bắt đầu từ năm 1995 và kết thúc năm 2004 .
Để đưa các xem xét về nguồn cung vào phương trình dạng công thức rút gọn, chúng tôi
dùng cách tính mức sử dụng năng lực sản xuất. Giả định rằng mức sử dụng năng lực sản xuất
cao có thể chỉ rõ các yếu tố tiềm ẩn ràng buộc nguồn cung, đó là những cái làm cản trở tăng
trưởng xuất khẩu. Mức sử dụng năng lực sản xuất được định nghĩa là sự khác biệt giữa sản
lượng công ngh iệp và x u hướng của nó, x u hướng này được tính toán bằng cách sử dụng bộ lọc
Hodrick Prescot t.
Biến kiểm soát cuối cùng tron g phương trình x uất khẩu là trữ lượng thực tế vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài (FDI). Trong khi quan hệ giữa thương mại và hàng hóa xuất khẩu được
thiết lập rất tốt trên lý thuyết, điều này có thể đặc biệt ph ù hợp với Trung Quốc nếu căn cứ trên
lượng vốn FDI trực tiếp từ lĩnh vực xuất khẩu. Mặc dù nhìn chung người ta có thể dự đoán việc
tăng dự trữ FDI có thể thúc đẩy hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, các cấu trúc phức tạp của
dây chuyền sản xuất, trong đó các linh kiện và sản phẩm chưa hoàn thiện có thể được đưa qua
nhiều nước khác nhau t rước khi đến thị trường tiêu thụ cuối cùng, có thể khiến giả định này trở
nên phức tạp.
(9)
Với phương trình nhập khẩu, phải nói thêm thuế quan nhập khẩu đã giảm đáng kể đặc
biệt từ khi gia nhập WT O. Yếu tố điều ch ỉnh thứ hai vẫn lại là dự trữ FDI. Về cơ bản, chúng tôi
cho rằng tìm ra một hệ số dương trên dự trữ FDI trong chừng mực mà các công ty nước ngoài có
vẻ muốn sử dụng máy móc nhập khẩu, linh kiện và phụ tùng trong sản xuất hơn là các công ty
Trung Quốc. Tuy nhiên, khi mà các công ty nước n goài bắt đầu hướng toàn bộ dây chuyền sản
xuất đến Trung Quốc thì nhu cầu nhập khẩu có thể giảm t rên thực tế cùng với tăng trưởng dự trữ
FDI.
Tóm lại, xu hướng quyết định được bổ sung vào cả phương trình xuất và nhập khẩu khi
nó có t ầm quan trọng về mặt thống kê. Biến số xu hướng có thể giúp nắm bắt các cải tiến sản
lượng và các cải cách đang diễn r a trong nền kinh tế Trung Quốc mà ch úng ta không dễ gì định
lượng.
Tất cả các biến số khác, trừ mức chiết khấu VAT và thuế nhập khẩu – vốn được đo
lường như là sự ch ia sẻ giá trị xuất và nhập khẩu, đều là các lôgarit. Vì Trung Quốc có thể
không theo kiểu thị trường thời vụ tiêu chuẩn, chúng tôi sử dụng các biến số giả chưa dàn xếp để
tránh đưa vào các thông tin hư cấu cho thời điểm năm mới và tháng 12 của Trung Quốc.
(10)
Chúng tôi sử dụng dữ liệu tháng cho giai đoạn 1994-2005. Bắt đầu phân tích trước 1994 đem lại
rất ít ý nghĩa vì năm 1994 là bước ngoặt cho các cải cách thị trường Trung Quốc. Một số cải
cách đặc biệt phù hợp v ới vấn đề mà chúng tôi đang đặt ra. Cụ thể là v iệc h ợp nhất hai hệ thống
tỷ giá, loại bỏ bắt buộc đối với hàng nhập khẩu, giảm bớt các yêu cầu và hạn ngạch cấp phép.
Cải cách về giá cũng được thúc đẩy
(11)
, đồng Nhân dân tệ bắt đầu có thể chuyển đổ i trên tài
khoản vãng lai và lợi ích của v ực tư nhân tăng lên từ luật doanh nghiệp mới.
Những chuyển biến kinh tế thị trường đã cho phép Trung Quốc gia nhập WTO vào tháng
12/2001. Do sự chuẩn bị trong một thời gian dài cho công cuộc gia nhập và thỏa thuận về thời
kỳ chuyển đổi nên thật khó để ước tính tư cách hội v iên WTO của Trung Quốc ảnh hưởng từ lúc
nào và ảnh hưởng bao nhiêu đến thương mại Trung Quốc. Trên thực tế, năm 2000 là thời điểm
mà việc gia nhập của Trung Quốc trở nên rõ ràng. Chúng tôi cũng ủng hộ việc chọn năm 2000
để ngắt mẫu điều tra mẫu của chúng tôi bằng các kỹ thuật thống kê của chúng tôi, cụ thể là
chúng tôi t ìm ra sự thay đổ i cơ cấu kinh tế vào đầu năm 2000 nhờ vào kiểm định Chow. Cuối
cùng, ch úng tôi kiểm định xem nền ngoại thương Trung Quốc có trở nên nhạy cảm hơn về giá
với WTO bằng cách ch ia kiểm tra mẫu của chúng tôi thành hai thời kỳ: từ 1994 đến cuối 1999
và từ đầu 2000 đến cuối đợt điều tra mẫu.
___________________________________
(9)
. D ữ liệu tháng của Trung Quốc về FDI chỉ tồn t ại từ 1997.
(10)
. Phân tích hồi quy cuối cùng chỉ bao gồm các dữ liệu h ư cấu khi quan trọng về mặt thống k ê.
(11)
. Theo Kh ảo Sát Kinh Tế OE CD (2005), cổ phi ếu giao dịch theo giá thị tr ường giữa hàng hóa s ản xuất tăng từ
46% năm 1991 lên 78 % năm 1995.
4. Nội dung, kết quả nghiên cứu:
a. Nội dung nghiên cứu chính của paper và các kết quả nghiên cứu đã phát hiện được:
Mở đầu, chúng tôi kiểm t ra trật tự liên kết các biến số trong phân tích của chúng tôi. Chúng
tôi sử dụng kiểm định Dickey Fuller Bổ Sung (ADF) đối với sự tồn tại của một đơn vị gốc. Gần
như mọi biến số đều không dừng tại ở các mức độ khác nhau nhưng dừng tại ở chênh lệch đầu
tiên(12). Sau đó, chúng tôi kiểm tra sự tồn tại của các vectơ liên kết bằng cách sử dụng quy trình
Johansen. Chúng tôi tìm thấy ít nhất một vectơ liên k ết cho mỗi nhóm biến số. Như đã từng
được đề cập bởi Phillip s và Loretan (1991), (13 )điều này cho phép ch úng tôi ước tính quy hồi của
các định thức tụt hậu và sai lệch của chúng bằng phương pháp bình phương tối thiểu phi tuyến.
Phương pháp này sẽ cung cấp các ước tính không chệch và đáng tin về các thông số dài hạn
cũng như ngắn hạn. (14)
Như đã đề cập trước đó, chúng tôi rút gọn phương trình xuất nhập khẩu cho điều tra m ẫu
(1994-2005), và cho giai đoạn ngắn hơn (từ 2000 đến 2005), chủ yếu tập trung vào các trải
nghiệm hậu WTO. Trong cả hai trường hợp, chúng tôi cân nhắc tầm quan trọng khi phân biệt
giữa trao đổ i hàng hóa thông thường và trao đổi hàng hóa gia công, và theo đó lập các ph ương
trình riêng biệt cho mỗi loại trong trường hợp xuất và nhập khẩu. Con số tối đa của độ trễ ngắn
hạn đưa vào phương trình là ba và cuố i cùng, chúng tôi chỉ bổ sung chúng khi nó quan trọng cho
thống kê.
Có thể xem kết quả đầy đủ cho phương trình xuất khẩu tại Biểu đồ A1.2 (Phụ lục). (15) Vì độ
giãn tỷ giá dài hạn của hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc – cả gia công và thông thường – là âm
và quan trọng với điều tra mẫu đầy đủ của ch úng tôi kể từ thời điểm gia nhập WTO. Khi được
biến đổi phù hợp (xem Bảng 2), tác động dài hạn dự tính của tỷ giá thực vào khoảng -1.3 đối với
hàng xuất khẩu gia côn g cho cả ha i giai đoạn. Đối với hàng x uất khẩu thường thì giảm từ -2.3
cho toàn bộ giai đoạn x uống còn -1.6 cho giai đoạn mới nhất. Các k ết quả của chúng tôi gần sát
với các kết quả được tìm thấy trước đó bởi các tác giả sử dụng phân tích liên kết (-1.5 cho toàn
bộ hàng xuất khẩu theo Lau, Mo và Li, 2004 và -1.3 theo Shu và Yip, 2006). Các kết quả này
cũng giống với độ giãn giá xuất khẩu ước tính cho các nước công nghiệp lớn (-1.5 và -1.6 lần
lượt đối với Mỹ và Anh, theo Hooper và những n gười khác, 1998).
______________________________________
(12). Chỉ có hai ngoại lệ: mức sử dụng năng lực sản xu ất được biểu diễn là I(0) , và trữ lượng FDI không tĩnh tại ngay
cả trong chênh lệch đầu tiên. Kết quả liên quan đến trữ lượng FDI có thể do số lượng khá lớn các độ trễ theo như đề
xuất bởi các tiêu chuẩn thông tin Akaike. Nếu chúng tôi chỉ sử dụng một độ tr ễ theo như đề xuất bới tiêu chu ẩn
Schw arz, chúng tôi có th ể loại bỏ đơn vị gốc thậm chí ở mức 1 %.
(13)
. Phương pháp này khắc phục vấn đề về tính đồng thời bằng cách bổ sung các giá trị độ trễ của độ lệch tĩnh tại từ
quan hệ liên kết.
(14)
. Các kết quả cho ki ểm định đ ơn vị gố c và kiểm định liên kết s ẽ được cung cấp khi có yêu cầu t ừ các tác giả.
(15)
. Tất cả các kết quả báo cáo đều thỏa mãn kiểm định tương quan chuỗi các số sai l ệch.
Ảnh hưởng tích cực dài hạn từ nh u cầu tiêu thụ của thế giới đối với hàng xuất khẩu của Trung
Quốc là rất nhỏ và không có tầm quan trọng về mặt thống kê trong toàn bộ điều tra mẫu của
chúng tôi, nhưng lại trở nên quan trọng sau kh i Trung Quốc gia nhập WTO. Trường hợp này
đúng cho cả hàn g x uất khẩu thông thường và gia công. Kết quả này cùng loại v ới quan điểm cho
rằng trước khi gia nhập WTO, Trung Quốc đang phải đố i mặt với các rào chắn đáng kể để có thể
hưởng lợi từ sự tăng trưởng của các quốc gia khác. Hơn nữa, trong điều tra mẫu mới nhất, độ co
giãn theo thu nhập của hàn g xuất khẩu Trung Quốc r ất sát với độ co giãn dự đoán trong điều tra
mẫu.
Bảng 2 – Tỷ giá hối đoá dài hạn và các độ giãn nhu cầu tiêu thụ
Hàng XK
thường
Hàng XK
gia công
Hàng NK
thường
Hàng NK
gia công
Độ giãn
tỷ giá
1994-2005
2000-2005
-2.3
-1.6
-1.3
-1.4
-1.0
-0.4
-0.8
(-0.3)
Độ giãn
nhu cầu
1994-2005
2000-2005
(0.5)
1.0
(0.2)
0.8
-0.3
0.3
(0.2)
0.4
Các giá trị trong ngoặc đơn không quan trọng về mặt thống kê.
Đối với các biến số điều chỉnh, mức sử dụng năn g lực sản x uất có tác động đáng kể đến
hàng xuất khẩu chỉ khi cùng lúc hoặc trễ hơn một tháng . Mức sử dụng năng lực sản x uất mang
dấu âm, cùng loại với quan điểm rằng một lượng lớn sản lượng nằm trong thị trường nội địa
trong các thời kỳ tăng trưởng nhanh. Các mức chiết khấu VAT không có ý nghĩa quan t rọng về
mặt thống kê và vì thế, chúng tôi loại chúng ra khỏi các ước tính cuối cùng vì chúng có thể rút
ngắn thời gian ước tính do vấn đề ràng buộc dữ liệu. (16) Như đã đề cập ở trên, dữ liệu về dự trữ
FDI bắt đầu năm 1997 và được giới thiệu như một biến số giải trình chỉ trong giai đoạn mới đây.
Tuy nhiên, phần nào gây n gạc nhiên là dự trữ FDI không ảnh hưởng đáng k ể và mang tính thống
kê đến hàng xuất khẩu Trung Quốc. Biến xu hướng này có tính t ích cực và quan trọng đối với
mọi phương trình, trong kh i thị trường thời điểm Năm Mới và Tháng Mười Hai của Trung Quốc
giảm lượng hàng xuất khẩu khá đáng kể. Nếu chúng tôi biến đặt xu hướng này khỏi các ước
tính, các hệ số liên quan đến nhu cầu tiêu thụ của thế giới v à dự trữ FDI có thể trở thành dương
và có t ầm quan trọng rõ ràng. Tuy nhiên, kết quả của ch úng tôi liên quan đến độ co giãn tỷ giá
lại không thay đổi nhiều.
Các hệ số ước tính của phương trình nhập khẩu được trình bày tại bảng A1.3, phụ lục.
Các yếu tố về nhu cầu tiêu thụ dường như có v ai trò tương đố i vừa phải tron g giải thích hàng
nhập khẩu trong quá khứ. (17) Trong điều tra mẫu con sau này, lượng hàng nhập khẩu cho gia
công có phản ứng tích cực với nhu cầu tiêu thụ bên n goài, được tính bằng lượng hàng xuất khẩu
gia công. Sản lượng công nghiệp nội địa làm tăng lượng hàng nhập khẩu thông thường như dự
tính.
_______________________________________
(16)
. Không thể bổ sung các mức chiết khấu VA T nh ư là biến số ngắn hạn vì chúng tôi chỉ có dự lệu năm về biểu giá
và do đó , các thay đổi rất hi ếm xảy ra trong qua trình điều tra mẫu.
(17)
. Trường hợp h àng nhập khẩu thông thường, độ giãn lợi tức nên dương v à quan trọng trong thời ký 1994-2005
nếu chúng tôi đặt biến số xu hướng ra khỏi phân tích hồi quy.
Như mong đợi, dự trữ FDI dường như có tác động tích cực dài hạn đến cả hàng hóa nhập khẩu
thường lẫn gia công. Cuối cùng, việc giảm thuế nhập khẩu dường như thúc đẩy lượng hàng nhập
khẩu cho gia công tron g dài hạn. (18) Còn về hàn g xuất khẩu, các biến giả cho thị trường Năm
Mới của Trung Quốc và Tháng Mười Hai giữ vai t rò quan trọng trong h ầu hết trường h ợp.
Cuối cùng, độ giãn tỷ giá hàng nhập khẩu luôn âm và nhìn chung là quan trọng. Ngoại lệ duy
nhất là trường hợp hàng nhập khẩu cho gia công trong thời kỳ mà hệ số âm trên tỷ giá hối đoái
chỉ quan trọng ở mức 15%. Ngoài mối liên hệ trực tiếp từ tỷ giá, hàng nhập khẩu cho gia công
còn bị ảnh hưởng gián tiếp thông qua yếu tố nhu cầu t iêu thụ, đó là lượng xuất khẩu gia côn g.
Khi mối quan hệ gián tiếp này được tính toán, phản ứng âm của lượng nhập khẩu cho gia công
đối với việc nâng giá thực của đồng tiền thật sự lớn hơn nhiều so với phản ứng của lượng hàng
nhập khẩu thông thường.
Tóm lại, việc nâng giá thực của đồng Nhân dân t ệ trên thực tế có khuynh hướng làm
giảm lượng nhập khẩu hơn là tăng. Dường như khác thường khi t iếp cận lần đầu, nhưng độ co
giãn âm này đã được báo cáo trong nhiều tài liệu mới đây, vì dụ như Marquez và Schindler
(2006). Điều vừa phát hiện này ch ủ yếu chỉ ra rằng lượng hàng nhập khẩu – cả nhập khẩu thông
thường – có mức nh ạy cảm cao hơn với lượng xuất khẩu giảm do nâng giá đồng Nhân dân tệ và
mức nhạy cảm với sự tăng trưởng sức mua.
________________________________
(18)
. Biểu giá nhập khẩu có thể được bổ sung như biến số ngắn h ạn vì chúng tôi chỉ có các dữ liệu năm về biểu giá,
do đó, các thay đổi rất hi ểm xảy ra trong qua trình điều tra mẫu.
b. Thảo luận về kết quả nghiên cứu đạt đư ợc:
Thật ra, ảnh hưởng tiêu cực của sự tăng giá thực đồng Nhân dân tệ đối với lượng hàng nhập
khẩu là một hiện tượng thú vị cần phân tích kỹ lưỡng. Điều này càng cụ thể hó a các mối liên hệ
tiêu cực đố i với việc giảm thặng dư mậu dịch Trung Quốc tron g trường hợp nân g tỷ giá thực.
Giả định của chúng tôi là điều này có liên quan đến các thuộc tính đặc biệt của nền mậu dịch
Trung
Quốc nh ư đã được minh họa bằng các mức chênh lệch giá rất lớn trong cán cân thương mại song
phương của Trung Quốc với các n ước (Biểu đồ 2 và 3).
Trung Quốc nhập khẩu một lượng lớn các hàng hóa trung gian từ các nước ch âu Á để gia công
rồi tái xuất khẩu. Do đó, mức độ cao trong liên kết dọc giữa các n gành xuất khẩu châu Á khiến
cho hàng xuất khẩu của các nước này càng man g tính bổ sung hơn là thay thế cho hàng hóa
Trung Quốc. Điều này ám chỉ rằng sự nâng giá đồng Nhân dân tệ có thể gây r a giảm không chỉ
lượng hàng xuất khẩu mà cả lượng hàng nhập khẩu của Trung Quốc.
Khi mà liên kết dọc càng có hiệu quả đối với ngành gia công, thì cũng không thể quên rằng
nhiều mặt hàng nhập khẩu thông thường có chức năng giống như nguyên liệu đầu vào cho lĩnh
vực x uất khẩu, ví dụ nh ư các mặt hàng đầu tư. Nhìn chung, dường như chỉ một thị phần nhỏ các
sản phẩm nhập khẩu có thể cạnh tranh với hàng sản xuất nội địa của Trung Quốc. Đó là vì thị
phần hàng tiêu dùng chất lượng trung bình trong lượng nhập khẩu của Trung Quốc tương đối
nhỏ. Hơn nữa, một phần đáng kể các mặt hàng nhập khẩu gồm nguyên vật liệu thô, năng lượng
và một vài sản phẩm nhập khẩu ch ỉ ăn theo đầu tư trực tiếp từ nước n goà i.
Biểu đồ 2 – C án cân thương m ại song phương của Trung Quốc với các nước năm 2005,
bằng USD
Ghi chú: Dữ liệu từ ph ía đối tác.
Nguồn: Dữ liệu thống kê IMF DOTS, dữ liệu từ Cục Ngoại Thương Đài Loan.
Biểu đồ 3 - Cán cân thương mại song phương của Trung Quốc với các nước năm 2005, %
GDP của m ỗi nước
Ghi chú: Dữ liệu từ ph ía đối tác.
Nguồn: Dữ liệu thống kê IMF DOTS, dữ liệu từ Cục Ngoại Thương Đài Loan.
Để khảo sát vấn đề kỹ hơn với các dữ liệu sẵn có, chúng tôi thực hiện quy hồ i son g phương đối
với mười đố i tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc nhằm đánh giá các tác động khác nhau có
thể xảy ra do việc nâng giá thực của đồng Nhân dân tệ đố i với mỗi nước. Giả định của chúng tôi
là lượng hàng nhập kh ẩu từ các nước Đông Nam Á ph ản ứng tiêu cực với sự nâng giá đồng
Nhân dân tệ, chủ yếu là các sản phẩm trung gian được Trung Quốc lắp ráp và tái x uất khẩu. Nói
cách khác, lượng hàng nhập khẩu từ các nước khác dự tính sẽ phản ứng không rõ ràng hơn đối
với sự nâng giá đồng Nhân dân tệ tùy thuộc vào cơ cấu x uất khẩu của các nước này. Phương
trình song phương ước tính có dạng như sau:
Trong đó, hàng xuất khẩu và nhập khẩu của Trung Quốc đến/từ nước j ( lần lượt là và )
được giải thích bằng tỷ giá thực song phương ( ), nhu cầu t iêu thụ ngoài và t rong nước (
và ) và các biến số điều chỉnh khác. Thật không may, chúng tôi không thể tách biệt hàng xuất
nhập khẩu cho sản phẩm thông thường và gia côn g vì các dữ liệu như thế này không tồn tại. Như
đã thực hiện trước đó, chỉ số CPI được dùng như hệ số bình ổn giá cho hàn g xuất khẩu từ Trung
Quốc và hàn g nhập khẩu vào Trung Quốc được chuyển đổi thành các khối lượng lớn bằng cách
sử dụng chỉ số giá x uất khẩu của mỗi đối tác thương mại. (19) Tỷ giá thực song phương giữa đồng
Nhân dân tệ và đồng tiền của mỗi đối tác xuất nhập khẩu của Trung Quốc được tính theo chỉ số
CPI từng thời kỳ. Nhu cầu đối với hàng xuất khẩu của Trung Quốc được đại diện bởi giá trị
GDP thực của mỗi đố i tác xuất khẩu của Trung Quốc, trong khi đó, nhu cầu nội địa của Trung
Quốc có được lại nhờ vào sản lượng công nghiệp. Chúng tôi cũng đưa dự trữ FDI son g phương
vào các phương trình xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Trước đó, chúng tôi đưa mức sử dụng
năng lực sản xuất vào các phương trình xuất khẩu của Trung Quốc. Kết quả là khuynh hướng sẽ
được bổ sung khi nó có ý nghĩa thống kê.
(20)
Các nguồn dữ liệu cũng được báo cáo tại Bảng
A1.1.
Chúng tôi ước tính các phương trình mậu dịch song phương cho giai đoạn 2000-2005 vì đối với
một số quốc gia, dữ liệu không tồn tại trong toàn bộ thời kỳ. Việc này cho phép chúng tôi so
sánh kết quả giữa các n ước và so với kết quả của các phương trình tổng hợp xuất nhập khẩu. Áp
dụng quy trình như trên, chúng tôi t iến hành các k iểm định đơn v ị gốc cho tất cả các biến số
song phương. Hầu như tất cả các biến số này đều là I(1) và tìm thấy ít nhất một vectơ liên kết
cho mỗi phương trình xuất nhập khẩu song ph ương. (21)
___________________________________________
(19)
. Khi lập công thức cho các phương trình song phương, chúng tôi sẽ không sử dụng dữ liệu thương mại của
Trung Quốc mà sử dụng dữ liệu thống kê của các đối tác thương mại để giảm bớt tính toán không chính xác giữa
thương mại Trung Quốc-Hồng Kông. Số liệu thống kê của Trung Quốc cho thấy một lượng lớn hàng xuất khẩu sang
Hồng Kông, nh ưng thực tế chỉ là qu á cảnh Hồng Kông để đến các nước khác. Trong mọi trường hợp , dữ liệu mà
chúng tôi sử dụng luôn có các cảnh báo phổ biến. Ví dụ, do tình trạng lỏng lẻo và có cầu cảng lớn , Hà Lan thường
được ký hiệu là điểm đến cuối cùng mặc dù hàng hóa có thể tiếp tục chuyển sang các nước ch âu Âu khác. Điều này
giải thích vị thế quan trọng của Hà Lan – một trong các đối tác thương mại lớn của Trung Quố c – và c ả tình trạng
nhập siêu với Trung Quốc. Trên thực tế, phương trình thương mại song ph ương giữa Trung Quốc và H à Lan ph ản
ánh các động lực th ương mại giữa Trung Quố c và Châu Âu một cách tổng quát hơn.
(20)
. Số lượng các độ trễ ngắn hạn bổ sung vào các ước tính cuối cùng lại dựa trên tầm quan trọng thống kê. Hiện tại,
chúng tôi sử dụng dữ liệu do các tác giả điều chỉnh theo thời vụ chương trình CensusX12 để tránh các biến động giá
thời vụ trong dữ liệu củ a đối tác thương mại của Trung Quốc. Nếu qu an trọng về mặt thống kê, chúng tôi tiếp tục
đưa d ữ liệu hư cấu vào thời điểm Năm Mới của Trung Quốc và Tháng Mười Hai .
(21)
. Mức sử dụng năng lực s ản xuất lại là I(0) . Kết quả củ a các kiểm định đơn vị gốc và kiểm định liên kết sẽ được
các tác giả cung cấp khi có y êu cầu.
Kết quả cho các phương trình xuất khẩu song phương rất giống với các ước tính tổng hợp của
chúng tôi v à trải rộng trên nhiều nước (bảng A1.4).
(22)
Sự nâng tỷ giá thực song phương của
đồng Nhân dân tệ so với các đối tác lớn của Trung quốc làm giảm lượng xuất khẩu của Trung
Quốc, mặc dù mối liên hệ không có ý nghĩa về mặt thống kê đối với Mỹ và Đài Loan. Ngoại lệ
duy nhất là Hồng Kông với hệ số dương nhưng khôn g quan trọng về mặt thống kê. Kết quả với
Hồng Kông không gây ngạc nhiên do các khó kh ăn khi giải trình các dữ liệu thương mại giữa
Trung Quốc Đại Lục và Hồng Kông. Sau ch uyển đổ i (xem bảng 3), độ giãn tỷ giá là cao nh ất
đối với hàng x uất khẩu sang Singapore nếu chúng tôi bỏ qua hệ số vô nghĩa đối với hàng x uất
khẩu sang Mỹ.
Chúng tôi cũng thấy rằng hoạt động kinh tế tại các nước đối tác thương mại của Tr ung Quốc làm
tăng lượng hàng x uất khẩu của Trung Quốc như dự tính. Độ co giãn thương mại son g ph ương
giữ vai trò rất quan trọng đối với tất cả các quốc gia, ngoại trừ Đức. Đối với Mỹ và các nước
châu Âu, các độ giãn như thế này là rất lớn.
(23)
Điều này có thể do khoảng thời gian khá n gắn kể
từ ngày Trung Quốc gia nhập WTO, chuyển đổi cơ cấu k inh tế quan trọng đối với nền mậu dịch
thế giới. Hơn nữa, điều này chỉ rõ tầm quan trọng của các yếu tố nhu cầu t iêu thụ nhằm giải
thích sự mất cân đối thương mại đang gia tăng giữa Trung Quốc và Mỹ hoặc các nước châu Âu.
Trong vài trường hợp, cách t ính năng suất tăng lên, biến số xu hướng, cũng đạt dương và quan
trọng. Tuy nhiên, đố i với Hàn Quốc và Đài Loan, xu h ướng lại âm. Đối với nguồn vốn FDI, tăng
trưởng về nguồn vốn FDI từ Hàn Quốc và Đài Loan đổ vào Trung Quốc làm tăng lượng hàng
xuất khẩu của Trung Quốc sang các nước này, nhưng tác động này lại bị đảo n gược đối với Đức
và Ý. Điều này có thể do hành vi ứng x ử khác nhau giữa các quốc gia châu Á và châu Âu khi
giao dịch với thị trường Trung Quốc. Như đề cập ở trên, mối liên hệ tiêu cực có thể phản ánh sự
chuyển giao toàn bộ các quy trình sản xuất đến Trung Quốc. T rong khi t rước đây, đó có thể là
các bán thành phẩm x uất khẩu từ Trung Quốc sang Đức và chỉ sau một số thay đổi mới được
giao hàng đến thị trường đích, bây giờ thì toàn bộ quy trình sản xuất có thể được ch uyển đến
Trung Quốc và không cần phải tiếp t ục ch uyển h àng sang Đức nữa. Tuy nhiên, kết quả này nên
được làm rõ một cách cẩn trọng vì cần có phân tích sâu h ơn.
Kết quả cho các ph ương trình nhập khẩu son g ph ương ít đồng nhất hơn như trình bày t ại bảng
A1.5, phụ lục.
(24)
Trước hết, các độ giãn giá dài hạn mà chúng tôi ước tính chỉ ra rằng sự tăng
giá thực đồng Nhân dân tệ làm giảm lượng hàng nhập khẩu từ tất cả các nước châu Á vào Trung
Quốc. Hệ số này rất đáng kể đố i với Hàn Quốc và Thái Lan. Đối với các nước có thu nhập cao –
Mỹ, Đức và Nhật – hệ số là âm nhưng không có ý nghĩa về mặt thống kê. Chỉ đối với Nga và
Úc, hệ số đạt dương mặc dù cũng không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Nhìn chung, các độ giãn theo thu nhập đều dương mặc dù khá thấp và luôn không có ý nghĩa về
mặt thống kê. Lượng hàng xuất khẩu của hầu hết các n ước sang Trung Quốc đều tăng theo dự
trữ FDI song phương. Lượng hàn g nhập khẩu của Trung Quốc từ Nhật, Đài Loan, Đức, Nga,
Malaysia và Thái Lan đều tăng theo nguồn vốn FDI từ các nước này. Hàn Quốc lại là trường
hợp ngoại lệ với hệ số âm và khôn g thể hiện mức ý nghĩa liên quan đến nguồn vốn FDI. Bảng 3
tóm tắt các thay đổi về độ co giãn về giá và thu nhập trong dài hạn cho các phương trình xuất
nhập khẩu song phương của Trung Quốc.
__________________________________
(22)
. Chúng tôi không báo cáo phương trình cho l ượng hàng xuất khẩu của Trung Quố c sang Nhật vì ph ương trình
này không thỏa mãn các kiểm định thông số sai lệch. Tất cả các kết quả được báo cáo đều thỏa mãn kiểm định L M
về tương quan chuỗi các số sai l ệch .
(23)
. Độ giãn lợi tức cao của hàng nh ập kh ẩu Trung Quố c s ang Mỹ do Mann và Plück tì m ra (2005).
(24)
. Ngoài mười đị a điểm nhập khẩu quan trọng nhất của Trung Quốc, chúng tôi loại Sing apore vì các vấn đề liên
quan đến toán kinh tế. Tất cả các k ết quả được báo cáo đã thỏa mãn kiểm định L M về tương quan chuỗi các số sai
lệch.
Bảng 3 – Tỷ giá hối đoái dài hạn song phương và các độ giãn nhu cầu tiêu thụ
Phương trình xuất khẩu Phương trình nhập khẩu
Tỷ giá song phương Nhu cầu Tỷ giá song phương Nhu cầu
Mỹ (-2.0) 5.9 Nhật Bản (-0.4) (-0.7)
Hồng Kông (0.2) 1.5 Hàn Quốc -0.8 2.7
Nhật* Mỹ (-3.1) 1.2
Đức -0.6 (2.0) Đài Loan -1.1 6.8
Hàn Quốc -0.6 2.8 Đức (-0.5) (0.0)
Hà Lan -1.1 7.0 Singapor e*
Anh -0.6 8.2 Nga (1.2) (-0.5)
Singapor e -1.6 1.8 Úc (0.1) 1.3
Ý -1.3 3.6 Malaysia (-0.3) (0.2)
Đài Loan (-0.4) 5.6 Thái Lan -1.0 (0.5)
Các giá trị trong ngoặc đơn không quan trọng về mặt thống kê.
* Các phương trình song phương cho nền mậu dịch với Nhật và Singapore không thỏa mãn các
kiểm định thông số sai lệch.
Để hiểu thêm các kết quả khác nhau cho độ giãn tỷ giá nhập khẩu của Trung Quốc, chúng tôi
xem xét cơ cấu hàng nh ập khẩu của Trung Quốc từ mỗi đối tác thương mại lớn của Trung Quốc
(bảng 4). Úc và Nga chủ yếu xuất khẩu năng lượng và nguyên vật liệu thô sang Trung Quốc,
điều này có thể giải thích phản ứng yếu từ các quốc gia này đố i với các thay đổi về tỷ giá thực
song phương của hàng nhập khẩu Trung Quốc. Phần nào gây ngạc nh iên là tăng trưởng hoạt
động kinh tế của Trung Quốc khôn g có tác động tích cực đáng kể đến lượng hàng nhập khẩu từ
Nga. Trên thực tế, mối liên hệ là âm mặc dù vẫn có ý nghĩa về mặt thống kê. Điều này có thể
được giải thích bởi vận chuyển kém phát triển giữa Nga và Trung Quốc. Nếu dung lượng vận
chuyển đường ống đã không tăng, sẽ không có bất kỳ lượng dầu nào chuyển đến Trung Quốc bất
kể mức độ yêu cầu. Ngược lại, lượng h àng nhập kh ẩu từ Úc tăng trưởng theo giá trị gia tăng
công nghiệp của Trung Quốc.
Bảng 4 – C ơ cấu hàng nhập khẩu vào Trung Quốc từ các đối tác lớn như là toàn bộ thị
phần hàng nhập khẩu năm 2005
Nông
nghiệp
Khoáng
sản
Hóa
chất
Dệt
may
Kim loại
thường
Máy
móc
Điện
tử
Phương tiện
vận tải
Dụng cụ
quang học
Úc 4.5 52.8 10.2 8.2 12.7 1.9 0.8 1 0.4
0.2 0.2 6.9 0.6 7.8 35.9 13.1 11.9 6
Nhật 0.2 1.5 8.8 3.7 11.4 21.5 30.0 4.5 8.7
Hàn 0.6 4.7 10.2 3.8 9.7 9.5 33.6 2.8 14.8
Malaysia 6.4 2.6 4.1 0.7 1.8 8.6 63.0 0.1 1.3
Nga 5.0 13.9 13.9 0.0 16.2 0.5 0.4 1.2 0.0
Đài Loan 0.1 7.4 7.4 4.5 10 9.7 38.7 0.5 16.1
Thái Lan 6.1 4.4 4.4 2.6 2.9 27.5 26.5 0.3 1.3
Mỹ 8.6 11.3 11.3 4.3 6.7 17.1 17.5 8.9 7.8
Nguồn: CEIC.
Nhóm thứ hai mà chúng tôi có thể tách ra dựa trên kết quả gồm các quốc gia có thu nhập cao.
Lượng hàng xuất khẩu từ Đức, Nhật và Mỹ không nhạy với các thay đổi về tỷ giá thực song
phương. Trong khi lượng hàng nhập khẩu rõ ràng bị chi phố i bởi nguồn vốn FDI trong các
trường hợp của Đức và Nhật, thì lượng hàng nhập khẩu từ Mỹ lại dường như hưởng lợi nh iều
hơn từ toàn bộ sự phát triển kinh tế của Trung Quốc. Điều này hoàn toàn tự nhiên khi xem xét
kỹ cơ cấu nhập khẩu từ các quốc gia này. Trong khi gần một nửa lượng hàng xuất khẩu từ Đức
và Nhật sang Trung Quốc là máy móc và hàng điện tử - các sản phẩm này thường được sử dụng
trong các nền công ngh iệp định hướng xuất khẩu và có sở hữu n ước ngoài – thì lượng nhập khẩu
từ Mỹ lại phong phú hơn nhiều, từ đậu nành cho đến máy bay và v i mạch công nghệ cao. Trong
khi rất nhiều các sản phẩm này được chuyển vào khu vực nội địa, không có sản phẩm thay thế
hoặc cạnh tranh từ Trung Quốc đối với các sản phẩm này, điều n ày giải thích rất nhiều về độ
giãn tỷ giá thấp và âm.
Nhóm thứ ba gồm các quốc gia châu Á mới nổi có lượng xuất khẩu sang Trung Quốc chịu tác
động tiêu cực từ sự nâng giá đồng Nhân dân tệ. Các nước này ch ủ yếu x uất khẩu sản phẩm, phụ
tùng và linh kiện cho ngành công nghiệp xuất khẩu của Trung Quốc và vì thế, hàng hóa x uất
khẩu từ các nước này sang Trung Quốc có m ối liên hệ tiêu cực với sự nâng giá đồng Nhân dân
tệ.
Như chúng ta có thể thấy từ BIỂU ĐỒ 4, thị ph ần hàng xuất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục
chiếm lượng rất lớn từ các quốc gia châu Á. Nếu chúng tôi giả định rằng một phần lượng hàng
xuất khẩu sang Hồng Kông cũng có đích đến là Trung Quốc Đại Lục, thị phần này thậm chí sẽ
trở nên lớn hơn. Ví dụ, lượng hàng xuất khẩu từ Đài Loan sang Trung Quốc Đại Lục và Hồng
Kông chiếm gần 40% toàn bộ lượng hàng xuất khẩu từ Đài Loan.
Biểu đồ 4 – Thị phần h àng xuất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục và Hồng Kông từ các nước châu
Á năm 2005, %
Lượng hàn g x uất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục
Lượng hàn g x uất khẩu vào Trung Quốc Đại Lục và Hồng Kông
Nguồn: Dữ liệu thống kê IMF DOTS, dữ liệu từ Cục Ngoại Thương Đài Loan.
Do đó, các kết quả mà chúng tôi có được chỉ rõ việc tăng giá đồng Nhân dân tệ làm giảm
lượng nhập khẩu từ các n ước châu Á khác vào Trung Quốc có thể trở thành mối lo ngại của
nhiều quốc gia châu Á. Mối lo ngại này còn có thể lớn hơn nếu các quốc gia này không thể bù
đắp lại tác động này bằng cách tăn g x uất khẩu đến các n ước khác. Điều này ph ụ thuộc rất nhiều
vào mức độ liên kết giữa hàng hóa xuất khẩu châu Á và phản ứng của các dây chuyền cung ứng
của châu Á đối với sự định giá lại đồng Nhân dân tệ. Trong khi việc kiểm định giả thuyết này có
thể cần đến các phân tích ngành chi tiết, chúng tôi nỗ lực đưa ra m ột đáp án sơ khởi bằng cách
ước lượng các phương trình xuất khẩu cho các đối tác thương mại ch ính yếu của Trung Quốc tại
châu Á.
Dạng thức của phương trình xuất khẩu tương tự như chúng tôi đã lập cho Trung Quốc
trước đó, để mà ch úng tôi có thể giải trình lượng x uất khẩu bằng tỷ giá hối đoái thực của mỗi
quốc gia và nhu cầu t iêu thụ của thế giới. Hơn nữa, chúng tôi đưa vào phương trình tỷ giá hối
đoái thực của Trung Quốc như một biến số giải trình bổ sung. Dữ liệu về tỷ giá lại dựa trên chỉ
số CPI v à nhu cầu t iêu thụ của thế giới được t ính bằng tổng lượng nhập khẩu trên toàn thế giới.
Sẽ bổ sung xu biến xu hướng n ếu quan trọng về mặt thống kê.
Chúng tôi ước tính các phương trình xuất khẩu cho các đối tác thương mại chính của
Trung quốc trong giai đoạn 2000-2005. (25) Dữ liệu chúng tôi sử dụng được các tác giả điều chỉnh
theo thời vụ bằng việc sử dụng chương trình CensusX12. Chúng tôi lại phát hiện các biến hội tụ
ở cấp độ một và tồn tại ít nhất một vectơ liên kết giữa mỗi nhóm biến số. (26)
Kết quả chi tiết từ các phương trình xuất khẩu cho các quốc gia châu Á được báo cáo in bảng
A1.6. (27) Khi biến đổi các h ệ số dại hạn đạt được (bảng 5), chúng tôi có thể thấy rằng lượng xuất
khẩu từ hầu hết các quốc gia châu Á ch ịu tác động tiêu cực bởi sự nâng tỷ giá thực của đồng
Nhân dân tệ. Tác động tiêu cực của v iệc nâng giá đồng Nhân dân tệ đối với Hàn Quốc, Đài Loan
và Thái Lan có ý nghĩa về mặt thống kê. Ngoại lệ duy nhất là Malaysia, với lượng xuất khẩu có
thể hưởng lợi từ việc nâng giá trị thực của đồng Nhân dân tệ. Tuy nhiên, kết quả ngoại lệ này có
thể vì lý do ngoài mặt hàng điện tử, Malaysia cũng x uất khẩu một lượng đáng kể dầu và n guyên
vật liệu thô khác. Do đó, kết quả từ các phương trình xuất khẩu trên cơ sở quốc gia rất gần với
các kết quả mà chúng tôi tìm thấy cho các phương trình nhập khẩu song phương của Trung
Quốc, để mà hàng hóa xuất khẩu từ nhiều quốc gia châu Á khác có vẻ như không bị chuyển
hướng toàn bộ sang các quốc gia khác khi nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc giảm. Các độ
giãn thu nhập ước tính luôn đạt dương trong trường hợp của Philippines và T hái Lan dù không
có n ghĩa về mặt thống kê. Vì thế, các kết quả của chúng tôi rất gần với Ahearne và những người
khác (2006) và Cutler và những người khác (2004) – những người tìm thấy các yếu tố chung
như nhu cầu t iêu thụ của thế giới có thể chi phối hàng hóa xuất khẩu từ cả Trung Quốc và các
nền kinh tế châu Á khác.
Bảng 5: Phương trình xuất khẩu cho đối tác thương m ại lớn trong khu vực của Trung
Quốc
____
______________________________
(25)
. Chúng tôi phải loại Indonesia từ điều tra mẫu dữ liệu vì thiếu thông tin.
(26)
. Kết quả củ a các kiểm định đơn vị gốc và kiểm định liên kết sẽ đ ược cung cấp theo yêu cầu t ừ các tá c giả.
(27)
. Tất cả các kết quả báo cáo đều thỏa mãn kiểm định thông số sai lệch LM.
5. Kết luận:
Trong vài năm gần đây, có nhiều tranh cãi mạnh mẽ giữa Trung Quốc và các quốc gia trên
diễn đàn thế giới về nâng giá cao đồng Nhân dân tệ. Có nhiều ý kiến tranh luận rằng chính sách
tỷ giá hối đoái đã không phục vụ cho mục đích giảm thặng dư thương mại lớn của Trung Quốc.
Bài viết này chỉ ra rằng cán cân thương mại Trung Quốc thì nhạy cảm với sự dao động giá cả
trong tỷ giá hố i đoái thực. Thực sự, ước lượng độ co giãn trong dài hạn về xuất khẩu v à nhập
khẩu Trung Quốc thay đổ i trong tỷ giá hối đoái thực đa phương trong giai đoạn từ 1994- cuối
năm 2005. Chúng tôi tìm ra những bằng chứng mạnh mẽ rằng sự nâng giá thực đồng Nhân dân
tệ làm giảm xuất khẩu trong dài hạn. T rong cả hai trường hợp vừa x uất khẩu gia công (ví dụ nh ư
biến đổi và tái xuất hàng hóa) và xuất khẩu thông thường. Tuy nh iên, việc nâng giá cao tỷ giá
hối đoái thực cũng làm giảm nhập khẩu tới Trung Quốc. Mức giới hạn này tác động tới chính
sách tỷ giá hối đoái tron g thặng dư thương mại.
Dựa trên những ước lượng co giãn của giai đoạn kể từ khi gia nhập WTO, việc nâng giá
thực 5% của đồng Nhân dân t ệ ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái - trường hợp khác được đưa ra - đã
dẫn tới giảm 7% khối lượng xuất khẩu năm 2005. Khi chúng tôi đưa vào liên kết trực tiếp từ tỷ
giá hối đoái trong nhập khẩu cũng như là liên kết gián tiếp từ giảm xuất khẩu trong nhập khẩu
gia công, tổng khối lượng của nhập khẩu có thể giảm khoảng 4%. Theo cách ước lượng trên,
thặng dư thương mại đã giảm đi khoảng 1/4 từ 100 tỷ USD tới ít hơn 80 tỷ USD. Tuy nhiên,
những tìm tòi này chỉ mang tính chất nghiên cứu, cũng như chỉ mang tính toán đơn giản không
tác động tới tài khoản. Ví dụ, những ảnh hưởng x uyên suốt từ tỷ giá hố i đoá i trong giá xuất nhập
khẩu và kể cả đến trong thặng dư thương mại. Nó giống như là sự đánh giá quá cao nên giảm
thặng dư thương mại của Trung Quốc bằng cách nâng giá tiền của giá xuất khẩu được định bởi
đồng tiền nước ngoài sẽ tăng để có thể tác động thực tới cán cân thương mại thực sự nhỏ hơn
một cách đáng kể. Trong trường hợp khác, sự dao động trong tỷ giá đồng Nhân dân t ệ có lẽ
không ảnh hưởng nhiều như sự tăng giá dầu trên thị trường thế giới, vì vậy thông qua đó tác
động xuyên suốt trong giá nhập khẩu Trung Quốc có thể thấp h ơn. Đáng tiếc, ảnh hưởng xuyên
suốt tới Trung Quốc thì khó khăn trong việc ước tính vì thiếu dữ liệu giá xuất nhập khẩu trong
thời gian dài.
Mặc dù có những điểm không hoàn toàn , kết quả nghiên cứu của chúng tôi về nhập khẩu
của Trung Quốc giảm như là kết quả của sự nâng giá tỷ giá hối đoái, kết quả này thì rất thú vị và
đáng để ngh iên cứu sâu hơn. Chúng tôi đã khám phá ra sâu hơn bởi quá trình hội nhập song
phương của thương mại Trung Quốc v ới đối tác thương mại chính. Nó có vẻ nh ư rằng việc nâng
giá cao tỷ giá song phương với đồng tiền của các bạn hàng xét về tổng quát làm giảm xuất khẩu
của các nước ch âu Á. Kết quả của nhập khẩu Trung Quốc từ quốc gia châu Á là giải thích cho
bằng chứng về mức độ hội nhập cao theo chiều dọc về mảng xuất khẩu giống như dây chuyền
làm ra sản phẩm từ các nước châu Á thì là các sản phẩm bổ sung hơn là sản phẩm thay thế . Giả
thuyết này được hỗ trợ bởi kết quả nghiên cứu của chúng tôi theo như tổng giá trị xuất khẩu từ
quốc gia châu Á (không ch ỉ là xuất khẩu tới Trung Quốc) bị ảnh hưởng xấu bởi sự nâng giá cao
của đồng Nhân dân tệ.
Kết quả nghiên cứu này tập trung vào thời kỳ phản ứng tăng cao ở các nước châu Á, sự
đột nhiên tăng giá của đồng Nhân dân tệ, nhất là nếu các nước châu Á cũng định giá chống lại
đồng tiền của quốc gia khác. Mặc dù sự nghiên cứu n ày ch ỉ tập trung vào khối lượng xuất khẩu
và nhập khẩu- để mà đưa ra những kết luận không dễ hiểu. Nó phục vụ cho những điểm quan
trọng về quá trình đầu tư hiệu quả man g tính lâu dài từ nâng giá đồng Nhân dân tệ và sự kết nối
chính sách tỷ giá hối đoái khác nhau t rong châu Á. Mặc dù những con số của bài báo được đưa
ra, người nghiên cứu dùng những dữ liệu mới là cần thiết.
Cuối cùng, t rong kh i xuất khẩu của Trung Quốc có lợi nh uận một cách rõ ràng từ sự tăng
trưởng nhanh của n ền kinh tế. Độ co giãn tron g thu nhập của nhập khẩu Trung Quốc thì khá thấp
trong bài viết này. Nó dường như chỉ ra rằng nhập khẩu tới Trung Quốc thì phụ thuộc nhiều vào
đầu tư trực tiếp nước ngoà i hơn là ho ạt động của nền kinh tế trong nước. Mặc dù dữ liệu mẫu
trong bài viết này chỉ chạy tới cuối năm 2005, kết quả cho thấy cũng xác nhận bởi sự phát triển
kinh tế trong thời gian gần đây. Nhu cầu trên thế giới lớn và tăn g trưởng dòng vốn đầu tư nước
ngoà i giữ cho xuất khẩu và nhập khẩu Tr ung Quốc tăng nhanh tới tận mùa hè năm 2008. Sau đó,
nền kinh tế toàn cầu suy thoái và giảm sút trong vốn đầu tư nước ngoài đã làm cho xuất khẩu
Trung Quốc có thể giảm đi nhiều hơn cũng như nhập khẩu, đặc biệt từ các đối tác của Trung
Quốc. Thật sự, nền thương mại bên trong khu vực châu Á đã trở nên giảm mạnh trong vài tháng
gần đây.
A.G.-H& T.K (28)
(28)
. Những ý kiến được phát biểu trong tựa đ ề này l à của tác gi ả và không cần thiết có trong những BIS hay ng ân
hàng của Thụy Điển. Những ý kiến hữu ích đ ược tiếp nh ận bởi Claudio Borio , Carmen Broto, Pertti Haaparanta,
Dong He, Likk Korhonen , Li-gang liu, Arnaud Mehl , Aaron Mehrotra, Madhusudan Mohaty, Eiji Ogawa,Ji mmy
Ran , Eli Remolon a,Daniel Santabarbara, Sweta Saxena, Chang Shu, Francisco Vazquez, Ray mond Yip and Geng
Xiao . Chúng tôi cũng đánh giá cao những t rợ giúp nghiên cứu củ a Eric Ch an và Enrique Martinez Casillas. Chắc
chắn, Vẫn còn những lỗi củ a tác giả.
Tài l iệu tham khảo:
1. Ahearne, A.G., Fernald, J.G., Loungani,P.,Schin dler, J.W.,2006. Flying geese or sitting
ducks, China’s impact on trading fortunes of other Asian economies, International
Finance Discussion Paper 887, Board of Governor s of the Federal Reserve System.
2. Bayo umi, T.,Lee, J.Jayanthi, S.,2005. New rates from new weights, IMF Working paper
99.
3. Be1n assy-Quéré, A., Lahr èche-Révil,A.,2003. Trade linkages and exchange rates in
Asia: The role of China, CEPII Working paper 2003-21
4. Cerr a, V., Dayal-Gilati, A.,1999. Chin a’s trade f lows: Changing price sensitivities and
the reform process, IMF Working p aper 33/1
5. Cerr a, V. Saxena, S.c.,2003. How responsive is Chinese export supply to market signal,
ChinaEconomic Review 14,350-70
6. Cutlerm, J., Chow, K., Chan, C., Li, U.,2004. Int ra-regionnal trade and the role of
Mainland China. HongKon g Monetary Authority, Quarterly Bulletin, December,5-24
7. Dees,s.,2001. The real exchange rate and types of trade – Hetero geneity of trade
behaviours in China, Paper pr esented at workshop on China’s Economy organised by
CEPII in December 2001.
8. Exkaus,R.S.,2004. Should Chin a appreciate the Yuan, MIT work ing paper 04-16.
9. Goldstein, M.,Kahn,M.,1985. Income ang pr ice effect in foreign trade; in the Handbook
of International Economics, North Holland, Amsterdam.
10. Hooper, P.,Jonhson,K.,Marquez,J.,1998. Trade elasticities for G-7 countries,
International Finance Discussion Paper 609, Boar d of Governor s of the Federa l Reserve
System.
11. Jin, Z., 2003. The Dynmanics of real interest rates, real ex change rates and the balance of
paym ents in Ch ina: 1980-2002, IMF Working paper 03/67.
12. Kamada, K., Takagawa,I.,2005. Policy coordination in East Asia and across the Pacif ic,
Bank of Japan Working paper 05-E-4.
13. Lau,F., Mo, Y.,Li., 2004. The impact of Renm ibi appreciation on global imbalances and
intra-regional trade, HongKong Monetary Authority, Quarterly Bulletin, March, 16-26.
14. Philip, M., Loretan, P.C.B,1991. Estimat ing lon g-run economic equilibria, Rev iew of
Economic st udies 58, 407-36.
15. Mann, C., Luck, K., 2005. The U.S trade deficit: A disaggregated perspective, Peterson
Institute for Internat ional Economics Working paper 05-11.
16. Marquez, J.Sch indler, J.W.,2006. Exchange – rate effects on China’s trade : an interim
report, International Finance Discussion Paper 861, Board of Governors of the Federal
Reserve System.
17. OECD,2005. Economic Survey on Ch ina, OECD Publishing, Paris.
18. Shu C. anh Yip, R., 2006. Impact of Exchange rate movements on Chinese Economy,
HongKong Monetary Authority, Mumber 3/06, July 2006.
19. Thorbecke, W.,2006. The effect of exchange rate changes on trade in East Asia, RIETI
Discussion Paper series 009.
20. Voon,J.P. Guangzhong, L., Ran, J., 2006. Does China really lose from RMB
revaluation? Evidence from some export industries. Applied Economics 38,1715-23.
21. Yue, C., hua, P., 2002. Does com parative advantage explain export pattern in China?
China Economic Review 13,276-96.
MỤC LỤC
Tóm tắt .............................................................................................................................................2
1. Giới thiệu: .................................................................................................................................2
a. Tổng quan nội dung ch ính của paper và các vấn đ ề nghiên cứu: ........................................2
b. Sự cần th iết của nghiên cứu: .................................................................................................4
2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây: ..........................................................................5
3. Phương pháp n ghiên cứu: .........................................................................................................9
4. Nội dung, kết quả nghiên cứu: ................................................................................................13
a. Nội dung ngh iên cứu ch ính của paper và các kết quả nghiên cứu đã phá t hiện được: ......13
b. Thảo luận về kết quả nghiên cứu đạ t được: ........................................................................15
5. Kết luận:..................................................................................................................................21
Tài liệu tham khảo: ........................................................................................................................23
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_tcqt_1876.pdf