Trên thế giới, cho vay trong lĩnh vực bất động sản hoặc cho vay thế chấp bằng
bất động sản là dịch vụ tài chính phổ biến của ngân hàng. Tuy nhiên nguồn vốn chủ
yếu cho thị trường bất động sản được huy động từ các nguồn tài chính là các quỹ
như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí, các quỹ của nhà nước và các quỹ của các công ty tài
chính nói chung chứ không phải của ngân hàng
Ở Việt Nam tuy thị trường bất động sản chỉmới bắt đầu khởi sắc từnăm 2003
trở lại đây, nhưng do thị trường tài chính chưa phát triển nên nguồn vốn cho thị
trường bất động sản phụ thuộc hoàn toàn vào ngân hàng.
85 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2664 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cho vay kinh doanh bất động sản tại các ngân hàng thương mại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
guồn thu góp phần vào lợi nhuận
cho các ngân hàng. Từ Quý III/2007- Quí 1/2008, các Ngân hàng thương mại cổ
phần đẩy mạnh cho vay bất động sản, điều kiện cho vay dễ dàng hơn, giá trị các
khoản vay được đẩy lên đến 90% giá trị tài sản đảm bảo là bất động sản định mua
và kéo dài trong thời hạn tới 20 - 30 năm
Tuy nhiên, bắt đầu từ Quí 2/2008, thị trường bất động sản rơi vào trạng thái
trầm lắng, giá giảm gần 20% - 30%, thậm chí có nơi giảm 50%-60% giá trị so với
đỉnh điểm cuối năm 2007. Thị trường bất động sản mất thanh khoản ảnh hưởng đến
khả năng trả nợ của khách hàng, giá trị tài sản thế chấp của ngân hàng bị sụt giảm;
Trang 49
Các Ngân hàng tập trung thu hồi nợ, nhưng do ảnh hưởng bởi thị trường khó khăn
khiến các chủ đầu tư không thể hoàn tất được dự án thu hồi vốn trả nợ ngân hàng.
¾ Không có sự độc lập giữa chức năng bán hàng, tác nghiệp và quản trị rủi
ro trong mô hình tổ chức
Để giảm rủi ro xuống mức thấp nhất, cần thiết có sự độc lập giữa các chức
năng mà một cán bộ tín dụng ngân hàng hiện nay thường thực hiện, đó là: chức
năng bán hàng (tiếp xúc khách hàng, đàm phán, tiếp thị…), chức năng quản trị rủi
ro (phân tích, thẩm định, dự báo, đo lường, đánh giá lại theo định kỳ…) và chức
năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi…).
¾ Quản lý thanh khoản yếu kém:
Về phía các Ngân hàng thương mại, điều kiện kinh doanh thuận lợi trong
những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng trưởng tín dụng quá
nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản lý rủi ro làm mất cân đối một số
tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo
tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Các Ngân hàng thương mại đã không thực hiện chính sách quản lý rủi ro thanh
khoản một cách khoa học và bài bản. Do tính chất hệ thống đặc biệt chặt chẽ của
ngành trong quan hệ vốn giữa các ngân hàng, chỉ cần một vài ngân hàng mất khả
năng thanh khoản sẽ gây hiệu ứng dây chuyền, nhanh chóng lan toả trong toàn hệ
thống ngân hàng.
Như vậy, cùng với những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau đang
làm cho chất lượng tín dụng của nhiều Tổ chức tín dụng tiềm ẩn chứa đựng nhiều rủi ro,
dẫn đến phát sinh nợ là một yếu tố tất nhiên trong hoạt động kinh doanh. Và nguy cơ các
Ngân hàng thương mại phải đối phó với nợ khó đòi là không nhỏ.
Trang 50
Kết luận Chương II
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn đầu tư cho lĩnh vực bất động
sản ngày càng tăng, dẫn đến mức độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng lên tương ứng. Sự
tăng trưởng tín dụng của các Ngân hàng thương mại phù hợp với sự tăng trưởng của nền
kinh tế nói chung và của ngành bất động sản nói riêng. Tuy nhiên sự tăng trưởng tín
dụng cũng kéo theo sự gia tăng rủi ro tín dụng, điều này làm ảnh hưởng rất nhiều đến
hiệu quả sử dụng vốn và làm hạn chế việc mở rộng tín dụng của các Ngân hàng thương
mại. Mặc dù có những khó khăn, nhưng nhiều Ngân hàng vẫn nhận định lượng cầu
(tiềm năng) về bất động sản ở các thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh
vẫn lớn hơn rất nhiều so với khả năng cung ứng. Trong dài hạn, nền kinh tế Việt Nam
được đánh giá là sẽ phát triển nhanh, trong đó có lĩnh vực bất động sản. Vì vậy, một khi
nền kinh tế có dấu hiệu hồi phục và tăng trưởng trở lại, lạm phát được kiềm chế, hệ
thống ngân hàng được phép mở rộng tín dụng thì bất động sản vẫn là đối tượng quan
tâm của các ngân hàng.
Tuy nhiên việc phát triển tín dụng phải đi đôi với chất lượng tín dụng, các giải
pháp tốt trong quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các ngân
hàng nhằm tạo ra sự tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững.
Trang 50
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP CHO VAY KINH DOANH BẤT
ĐỘNG SẢN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
3.1. Xu hướng phát triển của thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản Việt Nam được đánh giá là một trong những thị
trường tiềm năng của khu vực. Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đang có
nhu cầu ngày càng lớn về dịch vụ kinh tế và tài chính. Bên cạnh đó sự phát triển
không ngừng của ngành công nghiệp bán lẻ và phân phối dẫn đến lượng cầu về văn
phòng, khu mua sắm tăng lên nhanh chóng. Tiềm năng tăng trưởng dài hạn này tạo
nên sức hấp dẫn lớn cho các nguồn vốn đầu tư.
Những ngành đầu tư hấp dẫn là bất động sản nhà ở, khu nghỉ dưỡng, khách
sạn, khu thương mại bán lẻ và hạ tầng khu công nghiệp.
Đối với bất động sản nhà ở: Hiện tượng di dân đến những thành phố lớn đã
và đang tạo nên sự khan hiếm về các loại hình nhà ở, nhất là nhà ở giá rẻ đến trung
bình. Ở Việt Nam, nhất là tại các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh, nhu cầu về nhà ở còn rất lớn, tuy nhiên giá nhà đất lại quá cao so với khả
năng chi trả của những người thực sự có nhu cầu về nhà ở nên số lượng giao dịch
của đối tượng này chiếm tỉ lệ không nhiều và chủ yếu vào các loại nhà, đất giá rẻ.
Đến thời điểm này, các dự án bất động sản đầu tư vào Việt Nam vẫn chỉ tập
trung vào các sản phẩm bất động sản du lịch, văn phòng, khu đô thị mới.
Đối với thị trường nhà ở, nhà đầu tư trong và ngoài nước chỉ mới tập trung vào
loại căn hộ cao cấp với diện tích lớn. Các dự án bất động sản vốn FDI đăng kí trong
9 tháng đầu năm 2009 vẫn tập trung vào phân khúc các sản phẩm hạng sang.
Trong khi căn hộ trung bình có lượng khách hàng rất lớn lại đang bị thiếu hụt.
Từ đầu năm đến nay, thị trường bất động sản sụt giảm mạnh sức mua và giá cả ở
các dự án nhà ở đều giảm mạnh nhưng loại căn hộ có mức giá tầm trung vẫn hoạt
động ổn định.
Như vậy, phân khúc cần phát triển để kích cầu là nhà ở giá rẻ đến trung bình
trên cơ sở kết hợp được ba điều kiện: vốn đầu tư, chính sách tín dụng hợp lý cho
Trang 51
người mua, tìm kiếm những mối liên kết đa phương tạo lực mới, đủ năng lực phát
triển, khai thác dự án
Bất động sản hạ tầng khu công nghiệp: Nền kinh tế càng phát triển thì các
doanh nghiệp sản xuất càng có xu hướng tập trung lại ở những khu công nghiệp;
Trên thực tế, các khu công nghiệp Việt Nam hiện nay còn rất ít, tổng cộng mới có
khoảng 150 Khu công nghiệp với khoảng hơn 20.000 ha có thể cho thuê (chiếm
70% tổng diện tích thực tế). Như vậy, thực trạng các Khu công nghiệp vừa ít về số
lượng, vừa hẹp về quy mô và dường như không tương xứng với tốc độ phát triển
các doanh nghiệp sản xuất trong và ngoài nước.
Bất động sản du lịch là một thị trường đầy tiềm năng. Trong năm 2007, Việt
Nam đã đón 4,2 triệu du khách quốc tế và 20 triệu du khách nội địa. Trong đó, khá
nhiều khách đến để tìm kiếm cơ hội đầu tư vào bất động sản trong lĩnh vực du lịch.
Hiện nay, việc đầu tư các dự án xây dựng khách sạn cao cấp, đầu tư các khu nghỉ
dưỡng tại các Trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, TP.HCM và các địa phương có
nhiều tiềm năng du lịch như Bà Rịa - Vũng Tàu, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Huế... đang
có xu hướng tăng nhanh.
Tuy nhiên, việc khan hiếm phòng khách sạn từ 2 đến 5 sao, cơ sở lưu trú đã
gây nhiều khó khăn cho ngành du lịch. Ngay cả ở các trung tâm kinh tế lớn cả nước,
những khách sạn tầm cỡ quốc tế vẫn rất thiếu so với nhu cầu, nhất là lúc cao điểm.
3.2. Các giải pháp cho vay kinh doanh bất động sản của các Ngân hàng
thương mại TP Hồ Chí Minh
3.2.1. Phát triển các nghiệp vụ tín dụng phù hợp với thị trường kinh doanh bất
động sản.
3.2.1.1. Nghiệp vụ tín thác bất động sản:
Đây là một nghiệp vụ tín dụng hoàn toàn mới ở Việt Nam hoặc có tồn tại thì
hình thái thể hiện không hoàn toàn của một nghiệp vụ tín thác.
Tín thác bất động sản là nghiệp vụ mà ở đó giao dịch ủy thác được thực hiện
giữa người ủy thác và người nhận ủy thác. Người ủy thác được hiểu là chủ đầu tư
dự án, người nhận ủy thác là ngân hàng. Bằng một hợp đồng ủy thác, ngân hàng sẽ
Trang 52
được chủ đầu tư chuyển quyền sử dụng đất đai và chịu trách nhiệm quản lý khi việc
xây dựng dự án và chuyển giao bất động sản hoàn tất. Người nhận ủy thác sẽ được
nhận thù lao tín thác và khi đáo hạn có trách nhiệm chuyển trả quyền sở hữu tài sản
tín thác về cho người ủy thác hoặc người được chỉ định thụ hưởng (có thể là khách
hàng hoặc bên có quyền lợi liên quan)
Ngân hàng nhận ủy thác sẽ tiến hành cho vay thực hiện dự án bất động sản
dựa trên tài sản tín thác được xem như tài sản thế chấp cho ngân hàng (lúc này được
xem là chủ sở hữu tạm thời của tài sản tín thác).
Khách hàng cũng tham gia vào dự án bằng việc ứng trước một khoản tiền cho
việc sở hữu một phần vào dự án bất động sản. Và đơn vị xây dựng cũng cam kết
tham gia thực hiện dự án bằng cách ký hợp đồng xây dựng với chủ đầu tư và được
ngân hàng cam kết cho vay.
Như vậy, nghiệp vụ tín thác bất động sản huy động được bốn nguồn vốn bao
gồm vốn tự có của chủ đầu tư dự án, đơn vị xây dựng, vốn vay của ngân hàng và
vốn đóng góp của khách hàng. Nhờ hình thức huy động theo hình thức này mà việc
thực hiện dự án sẽ được đảm bảo kể cả đầu ra và đầu vào của dự án bất động sản.
Ở nghiệp vụ này ngân hàng được trực tiếp tham gia vào dự án xây dựng thay vì chỉ
giữ vai trò là người cho vay thuần túy, ngân hàng là chủ thể quản lý dòng vốn của dự án
như một kế toán, kiểm toán viên độc lập. Điều này giảm thiểu rất nhiều rủi ro cho ngân
hàng vì dự án được đảm bảo tiến độ thực hiện và cả đầu ra của dự án cũng đã được tính
toán trước. Không chỉ có ngân hàng mà chủ đầu tư, đơn vị xây dựng và cả khách hàng
quyền lợi cũng được đảm bảo. Ngân hàng đóng vai trò là trung gian đảm bảo cho việc
triển khai các dự án xây dựng được minh bạch, quản lý được nguồn hàng hoá bất động
sản cũng như tài chính khi thực hiện giao dịch mua bán
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, các dự án bất động sản cũng huy động vốn
theo hình thức tín thác, chủ đầu tư vay vốn ngân hàng và cả tiền ứng trước của
khách hàng, chủ đầu tư được chủ động quản lý tài chính của dự án. Điều này dẫn
đến tình trạng chủ đầu tư sử dụng vốn của dự án cho các mục đích khác làm chậm
tiến độ thi công cho dự án, thậm chí có khi điều chỉnh tăng giá thành, gây thiệt hại
Trang 53
cho khách hàng. Trong khi đó đối với tín thác bất động sản thì sự chủ động quản lý
tài chính đã được ủy thác cho ngân hàng. Do đó nguồn vốn cho dự án sẽ được sử
dụng đúng mục đích, đảm bảo cho dự án được triển khai đúng tiến độ với giá thành
hợp lý.
3.2.1.2. Xây dựng và phát triển thị trường tài chính nhà ở, thị trường thế chấp
thứ cấp bất động sản:
Một trong những nguyên nhân chính được cho là đã dẫn đến việc thị trường
bất động sản Việt Nam hiện nay hoạt động không ổn định, kém bền vững là do
thiếu vốn, nhất là nguồn vốn trung dài hạn. Không chỉ các doanh nghiệp thiếu vốn
đầu tư tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hoá bất động sản, mà người có nhu cầu mua nhà
cũng rất khó khăn khi vay tiền.
Tại các nước phát triển, việc huy động vốn cho thị trường bất động sản được
tiến hành thông qua thị trường tài chính nhà ở. Cơ chế hoạt động chính của thị
trường này là tái tài trợ thế chấp. Theo cơ chế này, các ngân hàng thương mại hay
ngân hàng thế chấp sẽ cho các doanh nghiệp và người dân vay tiền để mua nhà ở
hoặc đầu tư, kinh doanh bất động sản. Người vay sẽ dùng chính các bất động sản
này để thế chấp cho ngân hàng. Tuy nhiên, do nhu cầu của thị trường rất lớn và có
kỳ hạn dài, mà ngân hàng không thể đáp ứng đầy đủ. Vì vậy, các ngân hàng thương
mại sẽ đem bán các khoản nợ có thế chấp này (một hình thức chiết khấu) cho một
cơ quan tái tài trợ (cơ quan này thường do Nhà nước nắm đa số cổ phần chi phối).
Để có đủ vốn tái tài trợ cho các khoản vay thế chấp của các ngân hàng thương mại,
ngoài vốn tự có, cơ quan tái tài trợ thế chấp sẽ phát hành trong nước và quốc tế trái phiếu
thế chấp (chứng khoán hoá tài sản thế chấp). Đây là một công cụ đầu tư dài hạn được
bảo đảm bằng chính bất động sản, tương đối an toàn cho các nhà đầu tư như các công ty
bảo hiểm, quỹ hưu trí, doanh nghiệp, cá nhân,... muốn đầu tư nhưng không nhất thiết
phải giữ một khối bất động sản. Sau khi bán các khoản nợ thế chấp, ngân hàng thương
mại lại có vốn để mở rộng cho vay kinh doanh các bất động sản khác và lại có thể tiếp
tục bán các khoản nợ thế chấp mới cho cơ quan tái tài trợ thế chấp. Chính nhờ cơ chế
Trang 54
hoạt động này, thị trường tài chính nhà ở tại các nước phát triển đã huy động được một
nguồn vốn khổng lồ cho thị trường bất động sản.
Tại Việt Nam, thị trường tài chính nhà ở vẫn chưa hình thành, mới chỉ có một
thị trường cầm cố sơ cấp ở dạng thô và nhiều rủi ro do tính thanh khoản yếu, sự hỗ
trợ của luật pháp không đủ mạnh… nên thị trường nhà ở phát triển rất yếu. Sức mua
kém và sản phẩm ít ỏi dẫn đến biến động giá cả và nhu cầu nhà ở của người dân
không được đáp ứng. Từ đó, nhà đầu tư cũng không huy động được vốn nhàn rỗi
của người dân vào thị trường nhà đất.
Thực tế đến nay đã chứng minh muốn phát triển thị trường bất động sản một
cách bền vững, không thể thiếu được thị trường tài chính nhà ở. Để làm được điều
này cần có các văn bản pháp quy về mua bán nợ của thị trường bất động sản. Lợi
ích lớn nhất từ việc chứng khoán hóa các khoản tín dụng bất động sản là giao dịch
được thực hiện dựa trên thông tin đầy đủ và tính minh bạch cao được hình thành
một cách tự nhiên trong nền kinh tế.
Về lâu dài, để thị trường bất động sản phát triển ổn định và bền vững cần đẩy
mạnh và khơi thông các kênh cung cấp vốn gián tiếp, các nguồn vốn trung và dài
hạn các kênh cung cấp vốn ổn định lâu dài từ các quỹ tín khác, quỹ tiết kiệm…Hay
nói cách khác, thị trường bất động sản trong nước cần chuyển từ cấp độ phát triển
tiền tệ hóa lên cấp độ tài chính hóa.
3.2.2. Tổ chức quy trình cho vay hiệu quả
¾ Hoàn thiện quy trình tín dụng, thiết lập bộ phận tín dụng chuyên cho vay
kinh doanh bất động sản:
Thực hiện các nguyên tắc phân tách chức năng, nguyên tắc tuân thủ hạn mức.
Thường xuyên xem xét lại quy trình theo định kì, đảm bảo mọi công việc được xử lí
một cách đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng thẩm quyền.
Mức phán quyết tín dụng đối với các đơn vị trong hệ thống phải căn cứ vào
năng lực và kinh nghiệm của người lãnh đạo, địa bàn, kết quả hoạt động và chất
lượng tín dụng của mỗi đơn vị.
Trang 55
Quy trình tín dụng cần tách biệt chức năng quyết định cho vay với thẩm định
tín dụng; tách biệt chức năng thẩm định tín dụng và định giá tài sản bảo đảm. Lãnh
đạo các phòng, ban trực tiếp thẩm định tín dụng không nằm trong thành phần biểu
quyết cho vay tại các hội đồng tín dụng. Việc bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí lãnh
đạo các phòng, ban tại Hội sở; Sở giao dịch; các chi nhánh; Phòng giao dịch phải
đặc biệt thận trọng, bên cạnh năng lực, thành tích công tác cần phải chú trọng đến
kinh nghiệm và phẩm chất đạo đức.
Tăng cường công tác quản trị trong các tổ chức tín dụng, trong đó chú trọng
đổi mới cơ chế quản lý và điều hành, kiểm tra và thẩm quyền ban hành các quyết
định cho vay. Tăng cường nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của kiểm soát nội bộ
của ngân hàng, xem đây là điểm xuất phát để bảo đảm an toàn, hiệu quả trong hoạt
động tín dụng. Do đó cần thành lập bộ phận kiểm soát và thẩm định lại trước khi
quyết định cho vay, nhất là các dự án vay vốn lớn.
Bên cạnh đó, Tín dụng bất động sản cần được tổ chức thành một bộ phận
chuyên môn hoá vì các lý do sau:
- Các khoản cho vay bất động sản thường có quy mô lớn, kỳ hạn vay dài.
- Riêng trong lĩnh vực bất động sản đã có rất nhiều dòng sản phẩm khác nhau
như bất động sản nhà ở, bất động sản sản xuất thương mai, bất động sản du
lịch.... Mỗi dòng sản phẩm này có tính chất, đặc thù riêng về thị trường, về
phương thức quản lý.
- Do đặc điểm của thị trường bất động sản Việt Nam hiện đang trong giai đoạn
chưa hoàn chỉnh, môi trường pháp lý chưa nhất quán, thiếu minh bạch.
Do đó ngân hàng cần phải có bộ phận chuyên môn phân tích cho vay trong lĩnh
vực bất động sản. Cán bộ ngân hàng phải có kiến thức trong nhiều lĩnh vực: chi phí xây
dựng và vật liệu, giá trị địa điểm, nhu cầu bất động sản, việc cung ứng vật liệu, luật lệ
môi trường và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến bất động sản, và các vấn đề
khác có khả năng ảnh hưởng bất lợi đến dự án bất động sản cho vay.
Trang 56
¾ Phân tích tín dụng:
Mục đích duy nhất của việc phân tích, thẩm định tín dụng là nhằm đánh giá
khả năng trả nợ của người vay. Sự phân tích tín dụng đối với cho vay bất động sản
cũng tương tự như với các đối tượng cho vay khác, tập trung vào các yếu tố sau:
- Tình trạng pháp lý của người vay và dự án vay vốn
- Uy tín, lịch sử vay nợ của người vay
- Tình hình tài chính của người vay trong hiện tại và tương lai
- Mục đích vay vốn, hiệu quả kinh tế của dự án/phương án vay vốn: Đây là nội
dung thẩm định rất quan trọng do các khoản cho vay bất động sản có nguồn trả
nợ dựa vào việc bán các sản phẩm của dự án.
- Khi dự án đầu tư không hiệu quả, kéo theo hàng loạt rủi ro, gây tổn thất cho ngân
hàng, và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do
đó yêu cầu nhà đầu tư kinh nghiệm, đáng tin cậy và tài chính ổn định.
- Khi quyết định cho vay, ngân hàng cần quan tâm xét đến chi phí xây dựng dự
tính, giá trị thị trường dự tính khi công trình xây dựng hoàn tất, khả năng tài
chính và quản lý của nhà đầu tư…
- Tài sản đảm bảo: Việc đánh giá tài sản đảm bảo là bất động sản có những đặc
điểm đáng lưu ý sau:
+ Việc đánh giá tài sản đảm bảo theo giá thị trường có nhiều khả năng bị chi
phối bởi chủ quan của nhân viên trực tiếp thụ lý.
+ Do chính sách cạnh tranh, các ngân hàng ngày càng có xu hướng định giá bất
động sản theo sát giá thị trường (thậm chí có khi lên đến 90 – 100% giá thị
trường), và cho vay từ 70 – 90% giá trị định giá. Khi thị trường sụt giảm, giá
bất động sản có khả năng giảm hơn 50% so với giai đoạn tăng trưởng. Điều
này làm cho nhiều đối tượng vay nợ tiến gần đến giá trị ròng âm của bất động
sản, do đó làm tăng nguy cơ một số khách hàng sẽ chấp nhận cho ngân hàng
xử lý tài sản đảm bảo hơn là cố gắng hoàn trả khoản vay.
+ Khi thị trường bất động sản mất thanh khoản, khách hàng không có khả năng
thanh toán nợ, các ngân hàng thương mại sẽ phải phát mại bất động sản để thu
Trang 57
hồi vốn. Tình hình này càng đẩy cung nhà đất tăng mạnh, giá lại càng giảm.
Đây chính là hiệu ứng xấu của thị trường tín dụng bất động sản.
+ Đối với bất động sản là tài sản hình thành trong tương lai, cần xác định rõ tính
pháp lý, khả năng tài sản có thể xác lập đầy đủ quyền sở hữu/sử dụng của bên
bảo đảm sau khi nhận thế chấp. Hạn chế nhận thế chấp đối với bất động sản là
các căn hộ, nhà ở là tài sản hình thành trong tương lai được nhận chuyển
nhượng từ các dự án không do chính ngân hàng tài trợ, bất động sản có tính
thanh khoản thấp do có diện tích đất nhỏ, giao thông không thuận lợi, qui
hoạch không rõ ràng. Sự thận trọng của ngân hàng là cần thiết do những qui
định pháp lý chưa rõ ràng và việc hiểu, thực thi các qui định pháp luật của các
cơ quan chức năng còn chưa thống nhất
¾ Quản lý chặt chẽ khoản vay trước, trong và sau khi giải ngân:
Hầu hết các dự án đầu tư bất động sản cần nguồn vốn có quy mô lớn, vốn đầu
tư này được dàn trải theo từng giai đoạn: đền bù giải tỏa đất, xây dựng hạ tầng, nền
móng, xây thô và hoàn thiện…kéo dài qua khoảng thời gian khoảng từ 3-5 năm,
thậm chí có thể lên đến 7-10 năm đối với những dự án quy mô lớn.
Do đó, mặc dù doanh nghiệp cần khoản tiền lớn cho dự án, nhưng nhu cầu này
được chia ra theo từng giai đoạn khác nhau. Do đó số tiền cho vay của ngân hàng cũng
phải được thiết kế để giải ngân phù hợp với từng giai đoạn đầu tư của doanh nghiệp.
Mặc dù việc kiểm soát các khoản cho vay dự án bất động sản rất phức tạp,
nhưng các ngân hàng cần có biện pháp kiểm soát để giải ngân theo tiến độ thực hiện
dự án. Yêu cầu này vừa đảm bảo cho khoản vay được sử dụng đúng mục đích, vừa
đảm bảo tiến độ thi công theo đúng kế hoạch, từ đó dự án phát huy hiệu quả và hoàn
trả nợ cho ngân hàng.
Khi cho vay, các ngân hàng thương mại cần phải kiểm soát mục đích sử dụng
các khoản vay của doanh nghiệp; có chứng từ vay vốn rõ ràng; cũng như duy trì các
kênh liên lạc giữa ngân hàng và doanh nghiệp để có thông tin trao đổi kịp thời.
Ngược lại, các doanh nghiệp cũng phải tiến hành trích lập dự phòng, khi có phát
sinh khoản thu khó đòi.
Trang 58
Ngoài ra, trong hợp đồng tín dụng cần quy định chặt chẽ về việc yêu cầu nhà
thầu phải có chứng thư bảo lãnh thực hiện hợp đồng (nhằm đảm bảo chất lượng và
thời hạn xây dựng công trình), bảo hiểm hoả hoạn, bảo hiểm thi công xây dựng,
thiết kế giải pháp thi công …
3.2.3. Xây dựng phương pháp định giá bất động sản phù hợp:
Vì khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi vay của khách hàng có thể không thực hiện
được như dự tính. Khi đó ngân hàng có thể phải xét đến giá trị tài sản đảm bảo (thường
là bất động sản) thay cho việc hoàn trả nợ gốc và lãi vay. Mục tiêu của việc định giá bất
động sản là xác định giá trị thị trường của tài sản. Mặc dù việc định giá bất động sản
không phải là yêu cầu khoa học chính xác, nhưng phải được thực hiện để tiến hành
chương trình cho vay bất động sản có hiệu quả. Thành công tùy thuộc vào khả năng và
kinh nghiệm của người định giá, và việc sử dụng các công cụ định giá như giấy tờ xác
định chủ quyền sở hữu, giấy phép xây dựng mới, cung cầu nhà cửa…..
Phương pháp phổ biến là dữ liệu về chi phí và thị trường
Phương pháp chi phí: Giá ấn định trên cơ sở của chi phí tái sản xuất của bất
động sản. Giá bất động sản được xác định bằng việc so sánh với bất động sản
tương tự trong khu vực. Chi phí xây dựng tài sản trên đất ước tính trên cơ sở chi
phí xây dựng hình thành nên bất động sản trừ phần giá trị đã sử dụng.
Phương pháp dữ liệu thị trường: so sánh bất động sản định giá với các bất động
sản tương tự mới được giao dịch mua bán trên thị trường. Giống như phương
pháp chi phí, phương pháp này không dễ dàng vì các bất động sản hoàn toàn
không giống nhau và mỗi bất động sản luôn bao hàm các yếu tố đặc thù riêng.
Điều quan trọng, việc định giá bất động sản càng chính xác càng tốt, vì đây là cơ sở
cho vay thế chấp. Nếu giá trị định giá cao sẽ gây rủi ro cho ngân hàng. Nhưng nếu
định giá thấp, khách hàng sẽ vay nơi khác.
3.2.4. Xây dựng đội ngũ cán bộ tín dụng có chất lượng
Ngân hàng cần tăng cường khả năng quản trị nhân sự, cụ thể là quản trị đội
ngũ cán bộ tín dụng, bao gồm bốn vấn đề chính: tuyển dụng; đào tạo lại; hệ thống
lương thưởng; vấn đề thăng tiến.
Trang 59
Trên thực tế, nhiều ngân hàng trên thế giới đã xây dựng hệ thống chấm điểm
kết quả công việc của cán bộ tín dụng để xác định mức lương và lộ trình thăng tiến
phù hợp. Với cán bộ tín dụng, lương và thưởng thường được dựa vào số dư nợ, số
lượng khách hàng và chất lượng tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng có dư nợ cao nhưng
chất lượng tín dụng thấp thì lương - thưởng vẫn có thể rất thấp, và tất nhiên là
không thể thăng tiến. Như vậy, việc xác định mức tổn thất ước tính với từng danh
mục cho vay của từng cán bộ tín dụng sẽ định lượng rõ chất lượng tín dụng của
từng cán bộ. Điều này buộc cán bộ tín dụng phải luôn nỗ lực tránh rủi ro nếu không
sẽ nhận mức lương - thưởng rất thấp cho dù là cán bộ có thâm niên cao.
Cán bộ tín dụng cần phải được bố trí hợp lý, thường xuyên được đào tạo và phải
đáp ứng được một số tiêu chuẩn:
- Phải có kiến thức, trình độ nghiệp vụ được đào tạo bài bản. Trong quá trình
làm việc, luôn nghiên cứu cập nhật, bổ sung kiến thức để phù hợp với yêu cầu đòi
hỏi ngày càng cao của công việc và đáp ứng được sự vận động, phát triển không
ngừng của xã hội.
- Cán bộ tín dụng phải có đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp cao. Thể hiện qua
việc học hỏi nghiệp vụ, có trách nhiệm trong việc đề xuất các quyết định tín dụng,
đưa ra các biện pháp xử lý các tình huống nghiệp vụ của mình.
- Cán bộ tín dụng phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp. Điều này đòi hỏi
cán bộ tín dụng phải có kiến thức trong đánh giá thông tin do khách hàng cung cấp.
Trong thực tế, cán bộ tín dụng rất khó khăn trong việc tìm kiếm thông tin một cách
chính xác, kịp thời. Các nội dung thẩm định cần được quan tâm là:
+ Thông tin về tình hình tài chính doanh nghiệp (khách hàng): Bao gồm các
thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: khả năng tài
chính, kết quả kinh doanh, công nợ phải thu, công nợ phải trả, nhu cầu vốn
hợp lý, kết quả sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, giá trị tài sản thế chấp...
+ Thông tin thu thập từ bên ngoài: + Thông tin trực tiếp: Tư cách, uy tín, năng
lực quản lý, năng lực SXKD, quan hệ xã hội, gia đình, kinh tế, của người vay
hoặc người được bảo lãnh, cung cầu, thị trường... của đối tượng vay vốn. +
Trang 60
Thông tin gián tiếp: Tình hình kinh tế - xã hội, thông tin về xu hướng phát
triển khả năng cạnh tranh của ngành nghề, những thay đổi do khách quan ảnh
hưởng đến khu vực hoặc những dự đoán trong tương lai liên quan đến mục
đích vay vốn
3.2.5. Xây dựng biện pháp phòng ngừa rủi ro hiệu quả
Các ngân hàng thương mại cần xem xét những biện pháp phòng ngừa rủi ro
một cách chặt chẽ, tiến hành đánh giá tài sản thế chấp hàng tháng, thay vì hàng năm
như nhiều ngân hàng đang thực hiện, để xác định chính xác các giá trị tài sản thế
chấp đó. Tuân thủ quy định về các tỉ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các Tổ
chức tín dụng, Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lí rủi
ro trong hoạt động ngân hàng của các Tổ chức tín dụng; nâng cao chất lượng tín
dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Xử lý đối với các món vay không có khả năng thanh toán, đây là giải pháp
cuối cùng mà các ngân hàng phải thực hiện để giảm thiệt hại xuống mức thấp nhất.
Công đoạn xử lý tài sản đảm bảo rất phức tạp và mất nhiều thời gian. Ngân hàng có
thể xử lý nợ xấu thông qua việc bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ chuyên nghiệp.
Việc bán nợ này cũng có thể coi là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất, giúp ngân
hàng thu hồi một phần vốn kinh doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh
doanh mới, nhằm cải thiện tình hình tài chính.
Một số biện pháp xử lý nợ xấu:
Thứ nhất, các ngân hàng tự tổ chức quản lý hoặc bàn giao khoản nợ xấu cho
công ty quản lý nợ trực thuộc để tiếp tục theo dõi các khoản nợ nhằm thực hiện thu
hồi nợ thông qua việc xử lý các tài sản đảm bảo khoản nợ, khai thác tài sản đảm
bảo, tiếp tục theo đuổi các vụ kiện để thu hồi một phần nợ từ thanh lý tài sản của
con nợ.
Đây là hướng đi được một số Ngân hàng thương mại thực hiện, nhưng cũng
chỉ hoạt động giới hạn trong việc mua, bán đối với các khoản nợ mà tổ chức tín
dụng cho khách hàng vay, chứ chưa được phép mở rộng hoạt động kinh doanh sang
lĩnh vực mua, bán nợ của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân trong xã hội
Trang 61
Đối với giải pháp này, các ngân hàng vẫn mất nhiều thời gian và tiền bạc để
thu hồi nợ xấu, vẫn phải duy trì một bộ máy, bộ phận riêng để quản lý nợ xấu, cho
nên cho đến nay vẫn chưa hiệu quả.
Thứ hai, biện pháp thu nợ có chiết khấu. Đây là hình thức giảm giá trị khoản
nợ phải trả cho con nợ, giá trị triết khấu do ngân hàng và con nợ thoả thuận nhưng
theo hướng có lợi cho con nợ nhằm thúc đẩy con nợ thanh toán dứt điểm, tuy ngân
hàng sẽ chịu một phần thiệt hại nhưng sớm thu hồi được một phần vốn và loai bỏ
được khoản nợ xấu này trên Bảng cân đối tài sản.
Thứ ba, bán nợ cho các tổ chức có chức năng mua - bán nợ chuyên nghiệp,
đây là phương án xử lý nợ xấu nhanh nhất giúp chủ nợ thu hồi một phần vốn kinh
doanh để phục vụ cho các nhu cầu và cơ hội kinh doanh mới, nhằm cải thiện tình
hình tài chính.
Việc xử lý các khoản nợ được thực hiện thông qua nhiều biện pháp khác nhau
tùy trường hợp cụ thể như bán tài sản đảm bảo nợ, khai thác cho thuê tài sản, sử
dụng tài sản đảm bảo để góp vốn với doanh nghiệp khác; thu nợ có chiết khấu hoặc
bán nợ cho tổ chức kinh doanh nợ khác, xử lý tài chính để cơ cấu lại nợ và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp…
3.2.6. Quản lý cân đối thanh khoản:
Sự mất cân đối về cơ cấu thời hạn vốn tín dụng, cũng như việc sử dụng quá
mức nguồn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn tiềm ẩn gây ra những bất ổn trên thị
trường tín dụng bất động sản. Mặc dù các ngân hàng thương mại đã tăng cường
nhiều biện pháp huy động, nhưng khả năng huy động vốn trung, dài hạn của các tổ
chức tín dụng vẫn còn thấp so với nhu cầu vốn vốn đầu tư dài hạn của thị trường bất
động sản.
Do đó các Tổ chức tín dụng cần đảm bảo duy trì ổn định việc huy động vốn
theo kế hoạch, đảm bảo khả năng thu nợ phù hợp với yêu cầu chi trả các khoản tiền
gửi do chênh lệch về thời hạn, đảm bảo khả năng thanh toán của các ngân hàng,
nhất là đối với các ngân hàng có quy mô nhỏ, hệ số an toàn vốn thấp và sử dụng
nhiều vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn.
Trang 62
Quản lý rủi ro thanh khoản được thực hiện trong một kế hoạch tổng thể về
quản lý rủi ro thanh khoản và ứng phó với các sự cố rủi ro thanh khoản.
Quản lý rủi ro thanh khoản cần tuân thủ các nguyên tắc cụ thể sau:
- Tuân thủ nghiêm các quy định của NHNN về tỷ lệ an toàn vốn và thanh khoản
trong hoạt động ngân hàng.
- Duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản có có thể thanh toán ngay và
các tài sản nợ sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian một tháng tiếp theo.
- Duy trì tỷ lệ tối thiểu bằng một (1) giữa tổng tài sản có có thể thanh toán ngay
trong khoảng thời gian bảy (7) ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản nợ phải
thanh toán trong khoảng thời gian bảy (7) ngày làm việc tiếp theo.
- Tuân thủ các hạn mức thanh khoản quy định trong chính sách quản lý rủi ro
thanh khoản
- Tổng hợp và phân tích động thái của khách hàng gửi tiền, xây dựng kế hoạch
sử dụng vốn cho hoạt động tín dụng và các hoạt động có rủi ro vốn.
- Thiết lập các định mức thanh khoản như là một công cụ dự phòng tài chính để
ứng phó với các đột biến về thanh khoản. Căn cứ khả năng thanh toán ngay và
khả năng chuyển đổi thành thanh toán ngay, định mức thanh khoản chia làm
các cấp độ từ thấp đến cao. Trong mỗi cấp độ sẽ quy định rõ các loại thanh
khoản.
- Ngoài ra, Ngân hàng cũng xây dựng kế hoạch ứng phó tình trạng khẩn cấp
thanh khoản nhằm cung cấp cho lãnh đạo, trưởng các đơn vị, bộ phận và các
nhân viên phương cách quản lý và ứng phó khi xảy ra sự cố thanh khoản. Các
bước này có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình ứng phó tình trạng
khẩn cấp thanh khoản.
3.3. Các giải pháp kiểm soát rủi ro của Ngân hàng Nhà nước
3.3.1. Tăng cường công tác quản lý, giám sát cho vay kinh doanh bất động
sản:
Đối với kinh doanh bất động sản, nếu Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt quá
sẽ làm thị trường đóng băng, nhiều nhà đầu tư thua lỗ, mất khả năng chi trả, gây ảnh
Trang 63
hưởng tiêu cực đến các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của
các khoản cho vay bất động sản nên Ngân hàng nhà nước cần có các biện pháp đặc
biệt nhằm kiểm soát một các thích hợp. Một số biện pháp được đề xuất là:
- Biện pháp truyền thống mà Ngân hàng nhà nước cần tăng cuờng là thắt chặt hệ
thống theo dõi, thanh tra, giám sát, quản lý rủi ro tại các ngân hàng thương
mại, xử lý nhanh chóng các dấu hiệu rủi ro...
- Trích lập hệ số rủi ro với cho vay trong lĩnh vực bất động sản tuỳ theo đặc
điểm của từng loại dự án, từng loại tài sản đảm bảo, hoặc quy định tỷ lệ dư nợ
bất động sản tối đa trên tổng dư nợ. Với biện pháp này, các Ngân hàng thương
mại được tự do kinh doanh trong giới hạn rủi ro cho phép.
- Tăng cường quản lý các khoản trích lập dự phòng rủi ro của các tổ chức tín
dụng, nhất là các khoản cho vay kinh doanh đầu tư bất động sản nhằm tạo điều
kiện hình thành các quỹ dự phòng cho hoạt động tín dụng một cách tập trung
và kịp thời.
- Về cơ chế tín dụng, Ngân hàng Nhà nước cần tập trung ban hành hệ thống văn
bản mang tính chất khung pháp lý chung tổng hợp tất cả các quy định về loại
hình hoạt động tín dụng. Không nên quy định quá chi tiết thuộc nghiệp vụ kinh
doanh của các Tổ chức tín dụng để hạn chế việc can thiệp sâu không phù hợp
với cơ chế thị trường và tạo chủ động cho các Tổ chức tín dụng trong kinh
doanh tín dụng.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước phải là cơ sở, định hướng cho
các Tổ chức tín dụng xác định mục tiêu, mức độ, cơ cấu huy động nguồn vốn
cũng như đầu tư tín dụng cho nền kinh tế. Trong điều hành chính sách tín
dụng, cần nghiên cứu tiến tới tách bạch chức năng cơ quan chủ quản với chức
năng giám sát, kiểm tra đảm bảo an toàn tín dụng và an toàn hệ thống của
Ngân hàng Nhà nước. Tiếp tục ban hành các văn bản quy định nhằm đảm bảo
an toàn cho nghiệp vụ tín dụng bất động sản như quy định về tỷ lệ nguồn vốn
ngắn hạn để cho vay trung dài hạn, đăng ký giao dịch bảo đảm (nhất là tài sản
đảm bảo hình thành trong tương lai)....
Trang 64
- Sử dụng linh hoạt các công cụ quản lý như lãi suất, hạn mức, tín dụng liên
ngân hàng, thông tin tín dụng, xử phạt tài chính... để hỗ trợ cho hoạt động kinh
doanh của hệ thống ngân hàng đúng hướng, an toàn và hiệu quả, từ đó tác
động nhằm mở rộng hay thắt chặt tín dụng nhằm mục tiêu của chính sách tiền
tệ. Xác định rõ quy trình kiểm tra, kiểm soát, trách nhiệm dân sự và xử lý vi
phạm hợp đồng tín dụng theo luật để các Tổ chức tín dụng thực hiện.
3.3.2. Phát triển thị trường vốn trung, dài hạn cho thị trường bất động sản:
Một trong những nguyên nhân gây áp lực mạnh mẽ và làm cho tín đụng ngân
hàng tăng trưởng nóng chính do xuất phát từ nhu cầu vốn đầu tư rất lớn của thị
trường bất động sản, nhất là vốn trung dài hạn mà thị trường tín dụng chưa giải
quyết được quan hệ cung cầu đó.
Vì vậy, để phát triển thị trường vốn cần tập trung vào các vấn đề sau:
Thứ nhất: Tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư dài hạn của các tổ chức tiết
kiệm, ngân hàng tiết kiệm, các công ty bảo hiểm nhân thọ…đầu tư vào hoạt động
kinh doanh bất động sản. Vì kênh tài chính này hoạt động dài hạn nên đảm bảo
nguồn tài chính ổn định và thị trường bất động sản sẽ không bị sức ép trong việc
đáo nợ, lãi suất vay như từ ngân hàng.
Thứ hai: Xây dựng các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ đầu tư
với chức năng chính là tham gia vào thị trường vốn trung dài hạn, có cơ chế khác
với các ngân hàng thương mại hiện nay là tham gia vào thị trường tiền tệ.
3.4. Các giải pháp vĩ mô của Nhà nước đối với cho vay kinh doanh bất động
sản
3.4.1. Nhà nước cần tạo lập cơ sở pháp lý bảo vệ quyền chủ nợ của ngân hàng
Quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng là một trong
những hình thức quan hệ kinh tế mang tính phổ biến và có vai trò quan trọng trong
các nền kinh tế, mối quan hệ này có những rủi ro do nguyên nhân khách quan và
chủ quan.
Vì vậy, Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
quyền chủ nợ và xử lý tình trạng mất khả năng thanh toán của các doanh nghiệp, vì
Trang 65
chúng đóng vai trò là nền tảng giúp cho các quốc gia duy trì, cải thiện tính vững
chắc của hệ thống các tổ chức tín dụng và ổn định nền kinh tế - (trên phương diện vĩ
mô), bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ (các tổ chức tín dụng) và tăng cường trách
nhiệm của các khách hàng vay vốn (doanh nghiệp) – (trên phương diện vi mô).
Một hệ thống luật pháp về bảo vệ quyền chủ nợ hữu hiệu sẽ là động lực giúp
cho các tổ chức tín dụng tích cực hơn trong việc chấp thuận cho vay với những ràng
buộc về tài sản đảm bảo. Nhờ đó, sẽ tạo điều kiện cho thị trường thế chấp phát triển,
giúp cho các doanh nghiệp có nhiều khả năng hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ
thị trường nợ nói chung và từ hệ thống ngân hàng nói riêng. Điều này đặc biệt hữu
ích đối với các doanh nghiệp tại các nước đang phát triển nơi thị trường chứng
khoán chưa phát triển.
3.4.2. Các biện pháp nhằm phát triển ổn định thị trường bất động sản
¾ Hạn chế đầu cơ đất đai, minh bạch hoá thông tin bất động sản:
- Thông tin về đất đai và thị trường bất động sản cần phải được minh
bạch và tiếp cận một cách dễ dàng, đặc biệt là thông tin về quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất, tình trạng pháp lý của bất động sản. Đây là điều kiện để tạo
sự an tâm, mạnh dạn đầu tư cho các doanh nghiệp và người dân, góp phần làm nâng
cao chất lượng, phong phú hàng hóa cho thị trường bất động sản, từ đó hạn chế
hành vi đầu cơ bất động sản.
- Đổi mới và tăng cường hiệu lực của hoạt động quản lý nhà nước về đất
đai. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ được
kết nối thông suốt dữ liệu thông tin địa chính trên toàn quốc, từ đó có thể kiểm soát
được việc tích tụ đất đai của các chủ thể sử dụng đất, hạn chế đầu cơ đất đai. Việc
quản lý đất đai không chỉ đơn thuần quản lý hành chính mà còn gắn với việc tự
điều tiết của thị trường đất đai. Thực hiện nghiêm túc pháp luật và xử lý nghiêm
minh những hành vi vi phạm pháp luật đất đai, nhất là với các giao dịch bất hợp
pháp, góp phần ngăn chặn hành vi đầu cơ đất đai.
- Sử dụng có hiệu quả công cụ tài chính trong quản lý nhà nước về đất đai.
Trong đó, thuế là công cụ hữu hiện được sử dụng để chống đầu cơ đất đai, được
Trang 66
thực hiện với sự hỗ trợ của kỹ thuật công nghệ, quản lý dữ liệu thông suốt đối với
hoạt động quản lý đất đai và thu thuế bất động sản.
- Tạo lập thị trường bất động sản minh bạch: Vì nhà ở là tài sản có giá trị rất
lớn, nên Nhà nước phải bảo vệ đầy đủ các quyền về nhà ở như quyền sở hữu, sang
nhượng, cho tặng, thế chấp, góp vốn...
Nhà nước cần thiết lập cơ chế hành chính giao dịch bất động sản tiện lợi, đơn
giản. Do thị trường bất động sản gắn liền với các hoạt động như xây dựng, mua bán,
sang nhượng, cầm cố, cho thuê…Các hoạt động này liên quan đến hành chính công
và cần được hỗ trợ nhanh nhất, tiện lợi nhất.
- Tổ chức giao dịch bất động sản qua sàn giao dịch: Để lành mạnh hóa thông
tin bất động sản và tạo hệ thống lưu thông sản phẩm, Nhà nước cần tổ chức việc
giao dịch bất động sản qua các sàn giao dịch.
¾ Quản lý chặt chẽ thị trường bất động sản hình thành trong tương lai:
Đối với nhà ở hình thành trong tương lai, Nhà nước cần quản lý chặt chẽ để
tạo sự an toàn và minh bạch trong giao dịch. Đối với các nước đang phát triển như
Việt Nam, phần lớn các giao dịch của thị trường bất động sản là tài sản hình thành
trong tương lai, nhất là mua nhà trả chậm theo tiến độ xây dựng, nhà ở chưa hình
thành. Đối với các sản phẩm này, người mua nhà chịu rất nhiều rủi ro như chậm tiến
độ giao nhà, sử dụng tiền trả trước sai mục đích, chất lượng nhà sai quy cách so với
nhà mẫu...
Để bảo đảm quyền lợi cho người mua nhà và giữ ổn định thị trường nhà ở,
Nhà nước phải có trách nhiệm kiểm soát chất lượng của những sản phẩm này trước
khi cho phép bán ra thị trường. Cần đặt ra tiêu chuẩn tối thiểu cho sản phẩm nhà ở
chưa hình thành, quy trình chuẩn cho việc bán trước, kiểm soát việc thu tiền và sử
dụng tiền đúng mục đích của chủ dự án thông qua tài khoản đặc biệt của chủ đầu tư
được mở tại ngân hàng để phục vụ cho việc bán nhà trả trước.
Bên cạnh việc chuẩn hoá sản phẩm được phép bán ra thị trường, Nhà nước tạo
điều kiện để các hàng hoá đúng chuẩn được dễ dàng giao dịch, luân chuyển tự do,
tạo tính thanh khoản và khuyến khích thị trường phát triển.
Trang 67
Kiểm soát và khuyến khích được thị trường nhà ở mua trả trước, Nhà nước
không chỉ bảo vệ tốt cho thị trường nhà ở phát triển mà còn thu được thuế, phí và
kích thích các doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh, xây dựng phát triển nhà ở.
¾ Xây dựng các định chế quản lý và hỗ trợ cho thị trường bất động sản:
Củng cố và phát triển các trung tâm thông tin, giao dịch, định giá bất động
sản, thí điểm lập sàn giao dịch bất động sản, bán đấu giá quyền sử dụng đất, đấu
thầu xây dựng các dự án. Các định chế này sẽ góp phần thúc đẩy các giao dịch của
thị trường bất động sản, làm giảm chi phí giao dịch, tăng hiệu quả hoạt động của thị
trường và làm giảm nguy cơ “kinh tế bong bóng” do đầu cơ quá mức vào bất động
sản.
3.4.3. Xây dựng hệ thống thông tin bất động sản:
Thiết kế và phát triển cơ sở dữ liệu thống kê cho thị trường bất động sản phục
vụ nhu cầu của công tác quản lý, điều tiết thị trường và nghiên cứu, đánh giá, dự
báo tác động chính sách liên quan tới bất động sản.
Những lợi ích của việc xây dựng chỉ số bất động sản:
¾ Đối với Chính phủ và các cơ quan thuộc trung ương:
Đây là cơ sở để thiết lập các dự án quy hoạch một cách khoa học, phù hợp với
nhu cầu thị trường và xu hướng phát triển chung của nền kinh tế. Chính phủ chỉ cần
can thiệp ở tầm vĩ mô để bảo đảm sự hoạt động lành mạnh của thị trường, hoặc sử
dụng công cụ tài chính để điều tiết khi có dự báo khả năng mất cân đối của thị
trường. Dựa vào cơ sở dữ liệu, các cơ quan Nhà nước có thể dự báo để tư vấn kịp
thời cho chính sách vĩ mô. Hệ thống thông tin bất động sản chính là thước đo hiện
tại và dự đoán tương lai của thị trường bất động sản để đảm bảo các chính sách có
hiệu lực lâu dài và hiệu quả thực sự.
¾ Đối với hệ thống Ngân Hàng và các Quỹ đầu tư:
Hệ thống thông tin bất động sản sẽ là cơ sở dữ liệu đáng tin cậy để Ngân hàng
Nhà nước quyết định các chính sách tiền tệ.
Với Ngân hàng thương mại, hệ thống dữ liệu này là cơ sở để đánh giá mức độ
khả thi của các dự án đầu tư xây dựng bất động sản. Hệ thống thông tin bất động
Trang 68
sản sẽ cung cấp cho các ngân hàng các số liệu đa chiều để đánh giá giá trị thực của
các dự án hình thành trong tương lai, từ đó tính toán chính xác hơn việc cân đối
dòng tiền của các dự án nhằm tránh rủi ro nếu cho vay quá giá trị thực. Hiện nay
việc đánh giá của các ngân hàng thường chỉ lệ thuộc vào các thông tin thị trường tại
thời điểm, hoàn toàn thiếu các số liệu để dự báo tình hình thị trường trong tương lai.
Trong khi đó, các hợp đồng tín dụng cho các dự án đầu tư bất động sản thường phải
kéo dài trong khoảng 3- 10 năm, do vậy nếu không có hệ thống thông tin thì mức độ
rủi ro của ngân hàng sẽ rất cao.
¾ Đối với các nhà đầu tư bất động sản:
Từ cơ sở dữ liệu hiện tại và dự báo trong tương lai về tình hình cung cầu thị
trường, Nhà đầu tư sẽ có quyết định đầu tư vào phân khúc thị trường được dự báo
có khả thi hoặc có thể điều chỉnh thời gian triển khai dự án cho phù hợp với cung
cầu của thị trường.
¾ Đối với dân chúng, người mua nhà ở:
Người mua nhà có thể dựa vào các phân tích của các công ty tư vấn trên cơ
sở các thông tin của hệ thống dữ liệu để có quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn
sản phẩm có giá trị thực phù hợp và lựa chọn thời điểm mua nhà khi có nguồn cung,
tránh thiệt hại khi mua nhà vào lúc nguồn cung căng thẳng.
¾ Đối với các công ty trong ngành xây dựng:
Các công ty trong ngành xây dựng bao gồm cả các công ty xây dựng, các
công ty sản xuất và kinh doanh nhập khẩu vật liệu xây dựng, có thể căn cứ dự đoán
khối lượng cung cầu để lên kế hoạch sản xuất và tồn trữ hàng hóa trong mức độ phù
hợp tránh thừa hoặc thiếu hàng, gây phát sinh chi phí.
¾ Đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh, môi giới bất động
sản (các sàn giao dịch bất động sản):
Các sàn giao dịch bất động sản có thêm thông tin để đánh giá mức độ giao
dịch thành công khi lựa chọn khách hàng công bố thông tin trên sàn giao dịch bất
động sản để tránh việc giao dịch trên sàn không thành công sẽ ảnh hưởng đến uy tín
của sàn.
Trang 69
¾ Đối với các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán:
Khi thị trường chứng khoán đạt đến mức hoạt động chuyên nghiệp như các
nước trong khu vực thì giá trị chứng khoán của các công ty liên quan đến bất động
sản (bao gồm cả các công ty xây dựng và vật liệu xây dựng) sẽ có các mối liên quan
chặt chẽ đến thông tin về nhiệt độ của thị trường bất động sản mà hệ thống thông
tin cung cấp. Các nhà đầu tư chứng khoán sẽ căn cứ vào các thông tin này để ra
quyết định đầu tư trong ngắn han hoặc dài hạn đúng đắn hơn.
¾ Đối với các công ty tư vấn đầu tư, các nhà nghiên cứu:
Các nhà tư vấn và nghiên cứu sẽ có nguồn thông tin cơ bản để lập các báo cáo
theo yêu cầu của khách hàng, giúp cho việc dự báo mang tính dài hạn và có khoa
học hơn.
Trang 70
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
Một số biện pháp chủ yếu nhằm kiểm soát rủi ro đối với cho vay kinh doanh
bất động sản gồm:
Thứ nhất: Phát triển các nghiệp vụ tín dụng hiện đại, phù hợp với tính chất và
đặc điểm của các khoản cho vay bất động sản, gồm: nghiệp vụ tín thác bất động sản,
phát triển thị trường thế chấp thứ cấp bất động sản, tiến tới giai đoạn tài chính hoá
thị trường bất động sản.
Thứ hai: Các giải pháp vĩ mô từ phía Chính phủ và các cơ quan lập pháp
nhằm tạo sự phát triển ổn định, minh bạch cho thị trường bất động sản; thiết lập các
định chế nhằm huy động nguồn vốn đầu tư dài hạn cho thị trường bất động sản; vai
trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát hoạt động cho vay bất động sản
của các Ngân hàng thương mại, đảm bảo sự phát triển ổn định của thị trường tiền tệ.
Thứ ba: Các giải pháp từ bản thân các Ngân hàng thương mại khi hiện nay
đang đóng vai trò quan trọng trong việc cung ứng vốn chủ yếu cho các dự án đầu tư
bất động sản, trong đó cần giải quyết mối nguy cơ về thanh khoản do mất cân đối về
kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động và nhu cầu cho vay trung dài hạn của các dự án
bất động sản, khả năng quản lý kiểm soát khoản vay một cách hiệu quả, an toàn.
Trang 71
KẾT LUẬN
Trên thế giới, cho vay trong lĩnh vực bất động sản hoặc cho vay thế chấp bằng
bất động sản là dịch vụ tài chính phổ biến của ngân hàng. Tuy nhiên nguồn vốn chủ
yếu cho thị trường bất động sản được huy động từ các nguồn tài chính là các quỹ
như quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí, các quỹ của nhà nước và các quỹ của các công ty tài
chính nói chung chứ không phải của ngân hàng
Ở Việt Nam tuy thị trường bất động sản chỉ mới bắt đầu khởi sắc từ năm 2003
trở lại đây, nhưng do thị trường tài chính chưa phát triển nên nguồn vốn cho thị
trường bất động sản phụ thuộc hoàn toàn vào ngân hàng.
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, với nhiều nguyên nhân khác nhau, thị
trường bất động sản Việt Nam đang phát triển thiếu tính bền vững, môi trường pháp
lý chưa chặt chẽ, thông tin về thị trường còn thiếu... Điều này sẽ ảnh hưởng nhất
định đến hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp kinh doanh bất
động sản, qua đó gây rủi ro cho hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng bất động
sản của các ngân hàng thương mại nói riêng.
Mặt khác, tín dụng bất động sản thường có quy mô lớn và kỳ hạn dài, nên những rủi
ro về tính thanh khoản trong suốt quá trình cho vay là rất lớn.
Do vậy, các ngân hàng thương mại cần phải thận trọng cho vay trong lĩnh vực
bất động sản, như tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về đất đai, đầu
tư và xây dựng, tín dụng ngân hàng; phải ban hành quy định về nghiệp vụ cho vay
bất động sản, đảm bảo kiểm soát rủi ro hệ thống, khống chế tỷ trọng và tốc độ tăng
trưởng dư nợ cho vay bất động sản ở mức hợp lý so với tổng dư nợ và nguồn vốn;
theo dõi chặt chẽ, có tính hệ thống và liên tục các hoạt động cho vay bất động sản,
diễn biến cung - cầu và giá cả trên thị trường ..
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, giám
sát việc cho vay của các Ngân hàng thương mại trong lĩnh vực bất động sản; Đồng
thời, giữa các bộ, ngành cần có sự phối hợp triển khai những giải pháp nhằm phát
triển ổn định thị trường bất động sản, như hoàn thiện môi trường pháp lý, xây dựng
Trang 72
hệ thống thông tin thị trường bất động sản, minh bạch hoá thông tin năng lực các
của doanh nghiệp kinh doanh bất động sản.
Đề tài của luận văn nhằm mục đích nghiên cứu các giải pháp nhằm hạn chế rủi
ro trong cho vay kinh doanh bất động sản của các Ngân hàng thương mại, góp phần
ổn định thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, do giới hạn về thời
gian nghiên cứu, tài liệu tham khảo, số liệu thu thập, cũng như hạn chế về kinh
nghiệm thực tế của tác giả trong cho vay bất động sản. Do đó luận văn sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý
kiến của Quý thầy cô và bạn đọc.
Tác giả xin chân thành cảm ơn.
Trang 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. T.S. Lê Xuân Bá (2003), “Sự hình thành và phát triển thị trường bất động sản
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam”, NXB Khoa học-Kỹ thuật Hà Nội.
2. Edward W.Reed, Ph.D và Edward K.Gill, Ph.D (2004),“Ngân hàng thương
mại”, tổ chức biên dịch và hiệu đính PGS.TS Lê Văn Tề, T.S Hồ Diệu, NXB
Thống kê.
3. Thời báo kinh tế Việt Nam 2007, 2008, 2009.
4. Nguyễn Hồng Quân (2008), “Khủng hoảng tài chính - tín dụng bất động sản
tại Hoa Kỳ”,
5. (2006), “Thị trường bất động sản của Việt Nam -Thực trạng và các giải
pháp”,
6. Thanh Hải (2005), “Phá "tảng băng" thị trường bất động sản”,
7. Vũ Phương Liên (2005), “Giải pháp chiến lược cho thị trường bất động sản”,
8. Minh Đức (2009), “Dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán bất động sản tăng
mạnh”,
tu-chung-khoan-bat-dong-san-tang-manh.htm.
9. Vân Linh (2009), “Tăng trưởng tín dụng cao: Tiềm ẩn rủi ro nợ xấu”
360/Tang_truong_tin_dung_cao_Tiem_an_rui_ro_no_xau/.
10. (2009),“Thị trường bất động sản sẽ bị ảnh hưởng”,
se-bi-anh-huong.24h.
11. Minh Đức (2009), “Số liệu lợi nhuận ngân hàng 6 tháng đầu năm 2009”,
ngan-hang-6-thang-dau-nam-2009.htm.
Trang 74
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA LUẬN VĂN
Cho vay kinh doanh bất động sản là nghiệp vụ phổ biến của các ngân hàng
thương mại, trong đó mức độ rủi ro tín dụng phụ thuộc nhiều vào sự biến động của
thị trường bất động sản.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng về tình hình cho vay kinh
doanh bất động sản của các Ngân hàng trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, luận văn đã
nhận diện các rủi ro tín dụng liên quan đến nghiệp vụ kinh doanh này, đặc biệt là rủi
ro thanh khoản và rủi ro khi thị trường bất động sản biến động xấu.
Từ đó, luận văn đã đề xuất một số giải pháp đối với nghiệp vụ cho vay kinh
doanh bất động sản, góp phần ổn định hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại và thị trường tài chính.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- cho_vay_kinh_doanh_bat_dong_san_tai_cac_ngan_hang_thuong_mai_tp_ho_ch_.pdf