Trong quá trình xây dựng chủ nghiã xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, phương hướng về xây dựng cơ sở vật chất,cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế Biểu hiện của căn bệnh đó là chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế và hệ quả của nó là việc đề ra những chỉ tiêu quá cao vượt quá khả năng thực tại. Không những vậy, Đảng đã mắc sai lầm là vội cải tạo XHCN , phủ nhận nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì cơ chế quan liêu bao cấp. Đảng có nhiều sai sót trong quản lý tiền tệ cũng như quản lý giai cấp lãnh đạo. Chúng ta đã không có một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Như vậy, Đảng ta đã vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Sau khi miền Nam giải phóng thống nhất đất nước, nền kinh tế miền Bắc bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị đảo lộn và suy sụp.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp; sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thức cho người dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu, ; nền nông nghiệp bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng như: năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu hecta khai hoang, 1 triệu 200 hecta rừng mới trồng,10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng chập chạm, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội lần thứ V chưa tìm ra nguyên nhân thực sự dẫn đến sự trì trệ trong nền kinh tế và cũng chưa đưa ra chủ trương chính sách toàn diện về đổi mới nhất là kinh tế. Tại Đại hội VI, Đảng đã rút ra kinh nghiệm quan trọng, đó là: phải tôn trọng thực tế, tôn trọng và hoạt động khách quan. Đảng đã tự phê phán một cách nghiêm khắc, phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế; đồng thời đề ra định hướng, tạo ra bước ngoặt trong đổi mới đất nước đặc biệt đổi mới về kinh tế, thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận kinh tế tư sản hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lý. Đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như: lạm phát, thiếu việc làm, cơ chế quán lý còn sơ hở, lúng túng.Tình hình chính trị lúc này đã dần ổn định, khủng hoảng kinh tế giảm bớt nên đời sống nhân dân dược cải thiện, dân chủ được phát huy. Đại hội VIII tiếp tục hoàn thiện đường lối đề ra, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đảng đã chỉ ra những mục tiêu đạt được trong 5 năm tù 1991 đến 1995, quan trọng là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị, lấy đổi mới làm nền để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.Nhờ nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn: lạm phát đảy lùi; tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 8,2% so với mức đề ra là 5,6%; sản xuất lương thực tương đối toàn diện, vấn đề lương thưc được giải quyết; quan hệ đối ngoại được mở rộng theo hướng đa phương hóa; thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng; vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh; kim ngạch xuất khẩu tăng. Không những thế, khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống người dân được nâng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững.
9 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 10860 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chủ nghĩa duy vật biện chứng Vật chất và ý thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử thế giới đã trải qua bao cuộc đấu tranh sinh tồn để phát triển. Cũng từ các cuộc đấu tranh đó mà nhân loại đã có những bước tiến quan trọng qua những bậc thang của thời đại, từ thuở loài người bắt đầu xuất hiện để trở thành con người văn minh như ngày nay.Trong quá trình phát triển ấy, con người đã tích lũy được những tư tưởng có giá trị đóng góp vào kho tàng tư tưởng của thế giới.Dựa trên cơ sở những giá trị những tư tưởng đó và tổng kết thời đại, triết học đặc biệt chủ nghĩa Mac Lenin hình thành và phát triển. Chủ nghĩa Mac Lenin bao hàm nội dung rộng lớn mang những giá trị khoa học và thực tiễn. Trong đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hạt nhân lí luận của triết học Mác Lênin. Xem xét sự vật hiện tượng dưới góc độ của chủ nghĩa duy vật biện chứng, Ăng-ghen viết: “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là triết học hiện đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.Mặt khác, mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại(hay vật chất và ý thức) có vai trò quan trọng đối với sự phát triển đất nước. Đảng và nhà nước đã vận dụng mối liên hệ ấy vào mối liên hệ giữa kinh tế và chính trị, vào đường lối phát triển kinh tế xã hội giúp đất nước phát triển bền vững. Hơn nữa, nước ta trong quá trình hội nhập và quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc nhận thức đúng đường lối phát triển ngày càng quan trọng. Chính vì những lí do trên, nhóm em đã chọn đề tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức . Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước”.
Phần 1: Mối quan hệ giữa biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Để hiểu rõ về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức trước tiên ta phải hiểu phạm trù vật chất và ý thức.
Phạm trù vật chất và ý thức:
1.1.Vật chất:
a.Định nghĩa vật chất
Các nhà duy vật trước Mác đã có những quan điểm về vật chất nhưng còn hạn chế. Họ đồng nhất vật chất với vật thể có khối lượng, có quảng tính. Thời cổ đại, thuyết Ngũ hành của triết học Trung quốc quan niệm “kim, mộc, thủy, hỏa, thổ” là những tố chất vật chất xây dựng nên thế giới.Ở Hy Lạp, vật chất đầu tiên của thế giới theo quan điểm của Talet là nước, theo Anaximen là không khí , Hêraclit cho rằng đó là lửa, còn Đêmôcrit khẳng định đó là nguyên tử. Các nhà duy vật thế kỉ XVII cho rằng nguyên tử là đơn vị nhỏ nhất không thể chia nhỏ, là những viên gạch đầu tiên xây nên vật chất. Đây là quan niệm siêu hình vì nếu như vậy thì thế giới không phải là vô cùng mà có giới hạn,có khởi đầu từ những nguyên tử đồng nhất, bất biến.
Cuối thế kỷ XIX, khoa học kỹ thuật phát triển, các thành tựu khoa học ra đời đã bác bỏ những quan điểm của các nhà duy vật trước Mác: Beccoren phát hiện ra tia phóng xạ (năm 1896), Tômson phát hiện ra điện tử (năm1897), phát hiện ra hạt quác (năm 1964)… Trên cơ sở ra đời của các phát minh khoa học đó,Lenin khẳng định: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.” Đây là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất của Lenin. Theo định nghĩa trên, vật chất là pham trù rộng lớn nhất mà nhận thức luận chưa vượt qua được.Do vậy, chúng ta không thể đồng nhất vật chất với vật thể hay một thuộc tính cụ thể, cũng không thể qui về phạm trù rộng lớn hơn. Vật chất không phải là một lực lượng siêu nhiên tồn tại lơ lửng ở đâu đó như CNDTKQ đã quan niệm. Mà vật chất dùng để thực tại khách quan, là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự tồn tại ấy con người thức được hay chưa nhận thức được. Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi trực tiếp hay gián tiếp tác động lên giác quan con người, được cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh.
b.Hình thức và phương thức tồn tại của vật chất:
Lenin từng viết: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
Vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố hữu của vật chất.Khác với quan điểm siêu hình cho rằng vận động là sự di chuyển vị trí cả vật thể trong không gian, thời gian, nguồn gốc của sự vận động là bên ngoài sự vật hiện tượng. Theo quan điểm duy vật biện chứng,vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Vật chất tồn tại bằng vận động, vật chất thông qua vận động để biểu hiện sự tồn tại của mình. Vận động của vật chất là sự tự thân vận động. Vận động của vật chất không bao giờ mất đi, chỉ chuyển hóa từ hình thức vận động này sang hình thức vận động khác. Đứng im là một trạng thái vận động , đó là vân động trong sự thăng bằng, trong sự ổn định tương đối. Như vậy, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối.
Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không đâu khác “ngoài không gian và thời gian”.Không gian và thời gian là thuộc tính khách quan, nội tại, gắn liền với sự vận động của vật chất. Không gian có tính vô tận và ba chiều còn thời gian có tính vĩnh cửu và một chiều. Hai thuộc tính này không thể tách rời nhau.
1.2.Phạm trù ý thức
a. Nguồn gốc của ý thức:
Theo triết học duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của quá trình phát triển của cả tự nhiên và lịch sử xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên gồm: bộ óc con người và thế giới khách quan.
Bộ óc con người là cơ quan tổ chức vật chất của ý thức. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lí thần kinh của bộ óc con người. Ý thức không thể tách rời khỏi hoạt động của bộ óc.
Để bộ óc con người sinh ra được ý thức cần phải có sự tác động của thế giới khách quan. Mọi vật chất có thuộc tính chung là phản ánh, ý thức là hình thức phản ánh thế giới hiện thực cao nhất của bộ óc thông qua mối liên hệ giữa bộ óc với thế giới khách quan.
Điều kiện cần cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc tự nhiên song vẫn chưa đủ mà lao động và ngôn ngữ là hai nguồn gốc xã hôi quyết định trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của ý thức.
Lao động đã sáng tạo ra con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.Lao động giúp con người cải tạo thế giới và hoàn thiện chính mình.Thông qua lao động,thế giới khách quan tác động nên não người và não người càng phát triển tư duy trừu tượng.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung của ý thức. Ngôn ngữ còn là phương tiện giao tiếp trong xã hội,là phương tiện của tư duy. Nhờ có ngôn ngữ mà con người tổng kết được thực tiễn, trao đổi thông tin, tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ý thức là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội.
b. Bản chất của ý thức:
CNDVBC cho rằng bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động sáng tạo. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Ý thức ra đời trong quá trình con người lao động để cải tạo thế giới nên sự phản ánh của ý thức không phải thụ động như sao chép, chụp ảnh mà có tính năng động, sáng tạo. Theo Cacmac và Ăngghen, ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong óc con người và được cải biến đi ở trong đó”.
c. Kết cấu của ý thức:
Tính sáng tạo của ý thức thể hiện rất phong phú. Nếu xét theo bình diện cắt ngang, ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ước muốn…Trong đó, tri thức là hạt nhân của ý thức. Còn nếu xét theo chiều sâu của ý thức, ý thức bao gồm tiềm thức, vô thức và tự ý thức.
Ý thức không chỉ phản ánh bản chất của sự vật mà còn vạch ra quy luật vận động phát triển của chúng, không chỉ phản ánh hiện thực mà còn sáng tạo hiện thực.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Theo chủ nghĩa duy tâm thì ý thức quyết định vật chất. Thuyết nhị tâm một mặt thừa nhận vật chất là thực tại khách quan mặt khác thừa nhận ý thức là một khởi nguyên độc lập không phụ thuộc vào vật chất. Nhà duy tâm chủ quan Beccoli thì cho rằng: “Tồn tại có nghĩa là bị tri giác”.Ông coi tồn tại không khách quan, bị tri giác, do cảm giác sinh ra. Những cái vốn là thực tại khách quan nhưng không được tri giác thì cũng không tồn tại. Khác với các quan điểm trên, CNDVBC cho rằng vật chất là thực tai khách quan, đối lập với ý thức. Vật chất là tính thứ nhất,cảm giác ý thức là tính thứ hai.Vật chất là cái được phản ánh còn ý thức là cái phản ánh. Quan điểm này đã được đề cập tới ngay trong định nghĩa của Lenin về vật chất.Với định nghĩa này, Lenin đã phân biệt CNDVBC với CNDT đồng thời cũng nêu lên mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất
và ý thức thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và tính độc lập tương đối,sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
Tác động trở lại
Quyết định
Vật chất Ý thức
2.1 .Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức:
Trước hết, vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung và sự biến đổi, phát triển của ý thức.
Về nguồn gốc:
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người. Con người là kết quả quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất. Như vậy xét đến cùng, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc sinh ra ý thức. Theo Cacmac và Angghen, “ ý thức cũng là tư duy của chúng ta dù có vẻ siêu cảm giác như thế nào đi chăng nữa cũng chỉ là sản vật của một khí quan vật chất, nhục thể, tức là bộ óc”.
Bên cạnh bộ óc, thế giới tự nhiên cũng quyết định sự ra đời của ý thức.Nếu có bộ óc phát triển mà không sống trong thế giới tự nhiên đa dạng phong phú tức là không có sự tác động của thế giới tự nhiên vào bộ não thì ý thức của con người chẳng khác nào loài vật, khó nhận thức đầy đủ được.
Lao động và ngôn ngữ là nguồn gốc xã hội của ý thức. Chúng là những dạng tồn tại của vật chất, cùng với nguồn gốc tự nhiên quyêt định sự hình thành, tồn taị, phát triển của ý thức.
Về nội dung:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tất cả những hiện tượng ý thức đều hình thành trên những điều kiện sống và hoạt động thực tiễn của con người và xã hội loài người.
Sự biến đổi, phát triển của ý thức:
Vật chất là tiền đề cho sự phát triển của ý thức nên khi vật chất thay đổi thì ý thức thay đổi theo. Ví dụ, những sinh hoạt vật chất thay đổi sẽ làm cho thói quen, tâm lý con người thay đổi. Hay một người bình thường nếu vì lí do nào đó mà não bị tổn thương thì hoạt động của ý thức cũng bị rối loạn. Cơ sở vật chất của trường học được nâng cấp cải tiến thì trình độ dạy và học cũng được nâng cao.
Bên cạnh đó, vật chất là điều kiện khách quan để hiện thực hóa ý thức tư tưởng. Những chủ trương, kế hoạch của con người chỉ được thực hiện trên những cơ sở vật chất nhất định.
Vật chất quyết định tính năng động, sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn. Do vậy,vật chất quyết định tính phong phú, đa dạng, nhiều vẻ của ý thức.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
Nói ý thức là tính thứ hai, CNDV không hề hạ thấp mà hiểu đúng vai trò thực sự của ý thức. Nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người vì ý thức là của con người và bản thân ý thức không làm thay đổi gì hiện thực. Ý thức có tính tương đối tác dụng trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Ý thức trang bị cho con người tri thức về thực tại khách quan trên cơ sở ấy con người đề ra phương hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp để thực hiện mục tiêu làm thay đổi hiện thực. Sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, sáng tạo và chủ động chứ không máy móc, nguyên xi thế giới vật chất. Ý thức chỉ phát huy được vai trò của mình khi có sự kết hợp chặt chẽ giữa nhân tố chủ quan và điều kiện khách quan. Nhiều công trình nghiên cứu đã xác nhận trạng thái tâm lí (vui,buồn,phấn khởi, chán nản,…) ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến trạng thái thể lực, tốc độ,năng suất lao động,…
Ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu:
Nếu ý thức phản ánh đúng điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy, tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất. Trong trường hợp này, ý thức có tác động trở lại tích cực đối với thực tiễn, đặc biệt là sự tác động của khoa học, lí luận. Đây là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu, phương hướng và biện pháp chính xác trong hành động và thực tiễn.
Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan và kìm hãm sự phát triển của vật chất. Tức là ý thức đã có tác động tiêu cực đối với thực tiễn. Khi con người không nhận thức đúng, không hiểu rõ sự việc hiện tượng thì họ sẽ hành động sai và thường chịu những thất bại trong cuộc sống.
Ví dụ, thuyết nhật tâm phản ánh đúng thế giới sẽ giúp khoa học phát triển. Còn thuyết địa tâm của Aristot coi Trái Đất là trung tâm của vũ trụ đã kìm hãm sự phát triển của thế giới vật chất, làm cho “ loài người ngủ trong giấc ngủ triền miên của những đêm dài trung cổ.”
Vì vậy, con người phải thừa nhận tính khách quan của vật chất ,thừa nhận quy luật tự nhiên của xã hội để phát huy tính năng động của ý thức, nhận thức đúng sự vật hiện tượng. Thế giới vật chất với những thuộc tính, quy luật của nó tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức con người nên trong hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho hoạt động của mình.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Vật chất quyết định ý thức là tuyệt đối. Nhưng trong một số trường hợp cụ thể hoặc trong một giai đoạn ngắn, ý thức lại quyết định vật chất. Mác chỉ rõ lí luận sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó thâm nhập vào quần chúng.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ như chủ thể và khách thể, lí luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan….
Phần 2: Ý nghĩa phương pháp luận
-Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng khách quan, nhận thức và hoạt động theo đúng quy luật khách quan.
-Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên cần phát huy tính năng động chủ quan, đặc biệt phát huy vai trò của tri thức, khoa học, chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người. Mác nói: “Cố nhiên vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất nhưng lí luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở thành lực lượng vật chất”.
-Chống quan điểm duy ý chí, tuyệt đối hóa vai trò của ý thức mà hạ thấp, đánh giá không đúng vai trò của các điều kiện vật chất. Đó là hành động lấy ý chí áp đặt thực tế,lấy ảo tưởng thay cho hiện thực. Bệnh chủ quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự hạn chế trong quá trình áp dụng lí luận vào thực tiễn nói riêng. Đó là “sự mù quáng chủ quan”,là sai lầm tự phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Chúng ta cũng không nên tuyệt dối hóa vai trò của vật chất trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nghĩa là chống lại”chủ nghĩa khách quan” thái độ thụ động trông chờ ỷ lại vào điều kiện vật chất.
- Đảm bảo tính thống nhất biện chứng giữa tính khách quan và chủ quan trong hoạt động của con người cũng là một yếu tố quan trọng trong quá trình nhận thức.
Phần 3: Sự vân dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước.
Sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị:
Như đã trình bày ở trên, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại vật chất. Nhưng trong nhiều trường hợp, ý thức lí luận lại quyết định sự thành bại của con người. Điều đó được thể hiện trong đường lối chủ trương đổi mới kinh tế của Đảng, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Nếu đường lối chính sách của Đảng phù hợp với quy luật phát triển sẽ làm cho đất nước phát triển, ngược lại nếu nó đi ngược lại với quy luật phát triển thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Nhưng xét cho cùng, đường lối được đề ra phải phụ thuộc vào điều kiện khách quan, hoàn cảnh cụ thể. Thế giới luôn vận động, vai trò tích cực của ý thức cũng chỉ tồn tại trong một giai đoạn,điều kiện nhất định, nếu đường lối không phù hợp thì sớm muộn cũng bị đào thải. Nếu một đất nước có một nền kinh tế phát triển giàu mạnh mà chính trị bất ổn thì đất nước đó sẽ không phát triển bền vững, cuộc sống của người dân sẽ không được yên bình, hạnh phúc. Còn đất nước có nền kinh tế phát triển, chính trị ổn định thì sẽ trở nên giàu mạnh, người dân có một cuộc sống ấm no. Như vậy, kinh tế (vật chất) là tính thứ nhất, chính thị (ý thức) là tính thứ hai.
Mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị thay đổi theo từng hình thái kinh tế: cộng sản nguyên thủy- chiếm hữu nô lệ-phong kiến-tư bản chủ nghĩa-chủ nghĩa xã hội. Mỗi hình thái kinh tế đều có một đặc điểm riêng, nền kinh tế và chính trị phù hợp với nền kinh tế đó là khác nhau. Nếu hình thái kinh tế thay đổi thì đường lối chính sách cũng thay đổi để phù hợp với nền kinh tế đó. Trình độ tổ chức quản lý và tính hiện đại của nền sản xuất chính là nhân tố quyết định trình độ và mức sống của xã hội.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị càng được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng đổi mới đất nước.
2.Vân dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong quá trình phát triển kinh tế đổi mới đất nước.
Trong quá trình xây dựng chủ nghiã xã hội “Đảng ta đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan” trong việc xác định mục tiêu, phương hướng về xây dựng cơ sở vật chất,cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế… Biểu hiện của căn bệnh đó là chúng ta đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế và hệ quả của nó là việc đề ra những chỉ tiêu quá cao vượt quá khả năng thực tại. Không những vậy, Đảng đã mắc sai lầm là vội cải tạo XHCN , phủ nhận nền kinh tế nhiều thành phần, duy trì cơ chế quan liêu bao cấp. Đảng có nhiều sai sót trong quản lý tiền tệ cũng như quản lý giai cấp lãnh đạo. Chúng ta đã không có một đường lối, chính sách phát triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Như vậy, Đảng ta đã vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Sau khi miền Nam giải phóng thống nhất đất nước, nền kinh tế miền Bắc bị phá hoại, nền kinh tế miền Nam bị đảo lộn và suy sụp.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp; sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thức cho người dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hóa cho xuất khẩu,…; nền nông nghiệp bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh.
Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao và phát triển sản xuất quá khả năng như: năm 1975, phấn đấu đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu hecta khai hoang, 1 triệu 200 hecta rừng mới trồng,10 triệu tấn than sạch, 2 triệu tấn xi măng…Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng chập chạm, tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1,5%, công nghiệp tăng 2,6%, nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội lần thứ V chưa tìm ra nguyên nhân thực sự dẫn đến sự trì trệ trong nền kinh tế và cũng chưa đưa ra chủ trương chính sách toàn diện về đổi mới nhất là kinh tế. Tại Đại hội VI, Đảng đã rút ra kinh nghiệm quan trọng, đó là: phải tôn trọng thực tế, tôn trọng và hoạt động khách quan. Đảng đã tự phê phán một cách nghiêm khắc, phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế; đồng thời đề ra định hướng, tạo ra bước ngoặt trong đổi mới đất nước đặc biệt đổi mới về kinh tế, thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương thực- thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, hình thành nền kinh tế nhiều thành phần, thừa nhận kinh tế tư sản hàng hóa và kinh tế tư bản tư nhân, đổi mới cơ chế quản lý. Đúc rút kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra những tồn tại lớn cần giải quyết như: lạm phát, thiếu việc làm, cơ chế quán lý còn sơ hở, lúng túng...Tình hình chính trị lúc này đã dần ổn định, khủng hoảng kinh tế giảm bớt nên đời sống nhân dân dược cải thiện, dân chủ được phát huy. Đại hội VIII tiếp tục hoàn thiện đường lối đề ra, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đảng đã chỉ ra những mục tiêu đạt được trong 5 năm tù 1991 đến 1995, quan trọng là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị, lấy đổi mới làm nền để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.Nhờ nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn: lạm phát đảy lùi; tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 8,2% so với mức đề ra là 5,6%; sản xuất lương thực tương đối toàn diện, vấn đề lương thưc được giải quyết; quan hệ đối ngoại được mở rộng theo hướng đa phương hóa; thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng; vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh; kim ngạch xuất khẩu tăng. Không những thế, khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống người dân được nâng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững.
Công cuộc đổi mới ngày càng được những thành tựu to lớn nhờ Đảng đã kịp thời khắc phục sai lầm, nghiên cứu, tìm ra những mặt han chế để từ đó vận dụng đúng mối quan hệ vật chất và ý thức vào sự phát triển kinh tế. Những thành công trong quá trình đổi mới ngày càng khẳng định con đường đúng đắn mà Đảng ta đã chọn: phù hợp với nền kinh tế thị trường, hướng tới CNXH bỏ qua TBCN, phát triển kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Qua đây, chúng ta càng thấy rõ tác động của kinh tế đối với chính trị và xã hội, công tác đối ngoại quốc phòng an ninh… nhưng các nhân tố xã hội, chính trị đối ngoại … cũng tác động trở lại nền kinh tế.
Kết luận:
Đất nước ta đang bước vào thời kì công nghiệp hóa hiên đại hóa đất nước, Đảng ta chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, nâng cao trình độ dân trí, trình độ tri thức và tay nghề cho người lao động. Muốn vậy “ phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài chí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo nàn, lạc hậu” (tức là phát huy tính năng động của ý thức). Đảng đẩy mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH nước ta. Ngoài ra, ta cũng nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo nên sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân.
Quá trình xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự đoàn kết của cả dân tộc Việt Nam, toàn Đảng toàn dân phải nhạy bén, tỉnh táo với thời cuộc, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mac- Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc phát triển kinh tế xã hội xây dựng đất nước.
__The end__
Tài liệu tham khảo:
Tìm hiểu môn triết học Mác- Lenin (Nhà xuất bản chính trị)
Giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin (Nhà xuất bản chính trị quốc gia)
Văn kiện đại hội lần IV
Văn kiên đại hội lần VI
Văn kiện đại hội lần VII
Công cụ tìm kiếm: trang web:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng- Vật chất và ý thức.docx