Việc gây bệnh tích tế bào và kết quả RT-PCR dương tính dã xác định sự hiện diện của virus 
trong mẫu xét nghiệm. Điều này cũng cho thấy môi trường tế bào MARC-145 là môi trường 
thích hợp cho sự phát triển của virus PRRS và có thể sử dụng cho phân lập. Kết quả của chúng 
tôi phù hợp với sự nhận định của Jeong-Ki Kim và cs (2005): tế bào MARC-145 là dòng tế bào 
nhạy cảm với virus PRRS nên thích hợp cho việc phân lập virus này. 
Sự thành công trong việc chẩn đoán PRRSV bằng kỹ thuật nuôi cấy tế bào ( trên MARC-145) sẽ
là cơ sở thuận lợi cho việc nghiên cứu phương pháp điều trị căn bệnh này.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 21 trang
21 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4354 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuẩn đoán PRRSV bằng kỹ thuật nuôi cấy tế bào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
TIỂU LUẬN 
2 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Trong nhiều năm gần đây, ngành chăn nuôi nước ta ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong 
nền kinh tế vì cơ bản nước ta vẫn là nước Nông nghiệp.Nhưng từ đầu 2007 tới nay, nhà chăn 
nuôi và người tiêu dùng đang vô cùng hoang mang lo lắng vì đàn heo bị chết do biểu hiện bệnh 
tai xanh.Và càng ngày bệnh heo tai xanh diễn biến càng phức tạp.Dưới đây là một số thông tin 
về căn bệnh này. 
Bệnh tai xanh được ghi nhận lần đầu tiên ở Mỹ vào năm 1987, do chưa xác định được căn bệnh 
nên gọi là “bệnh bí hiểm” (MD: Mystery Swine). Năm 1992, hội nghi quốc tế về sức khỏe gia 
súc đã được tổ chức thú y thế giới nhất trí và công nhận bệnh bí hiểm này là Hội chứng rối loạn 
sinh sản và hô hấp ở heo (PRRS: Porcine reproductive and respiratory syndrome). Bệnh do virus 
PRRS gây ra, tiến triển phức tạp, khó khống chế lại ít biểu hiện triệu chứng, tỷ lệ mắc bệnh cao, 
bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi. Bệnh gây sảy thai ở thời kỳ cuối, chậm động dục, gia tăng số thai 
chết và heo con sơ sinh yếu, heo con chết trước khi sinh, còi cọc, chậm lớn.( “Nhà chăn nuôi cần 
biết”- Phan Bùi Ngọc Thảo,Phòng Di truyền Giống gia súc-Viện Khoa học Kỹ thuật Nông 
nghiệp miền Nam) 
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích mô tả ở phần trên để chẩn đoán. Trong phòng thí 
nghiệm, có thể dùng phản ứng Immunoperoxidase một lớp (IPMA) để phát hiện kháng thể 1-2 
tuần sau khi nhiễm; phản ứng kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFA) kiểm tra kháng thể IgM 
trong 5-28 ngày sau khi nhiễm và kiểm tra kháng thể IgG trong 7-14 ngày sau khi nhiễm; phản 
ứng ELISA phát hiện kháng thể trong vòng 3 tuần sau khi tiếp xúc, tuy nhiên chỉ xác định được 
tỷ lệ nhiễm.Một phương pháp khác là chẩn đoán bằng nuôi cấy tế bào động vật sau đó dùng RT-
PCR để xác định( có thể sử dụng phương pháp nhuộm miễn dịch, hóa miễn dịch), mặc dù việc 
nuôi cấy phân lập virus trên môi trường tế bào khó, tuy nhiên xác định sự hiện diện của virus từ 
mẫu huyết thanh dương tính và các mẫu lâm sàng là rất cần thiết để làm cơ sở cho công tác 
phòng bệnh và các nghiên cứu sau này. (“Nhà chăn nuôi cần biết”- Phan Bùi Ngọc Thảo,Phòng 
Di truyền Giống gia súc-Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam). 
II. TỔNG QUAN 
1. Tìm hiểu về bệnh do virus PRRS (Porcine reproductive and respiratory syndrome): 
Khái niệm Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở heo: Là một bệnh do virus gây nên với 
đặc điểm: 
- Gây chứng ăn không ngon, khó thở, sốt, sảy thai và chậm lên giống trở lại cùng với sự tăng 
số heo chết lúc sinh, tăng số heo con chết trước khi cai sữa. 
- Gây nên hô hấp khó khăn, chậm tăng trưởng và tăng tỷ lệ heo cai sữa chết (trên những đàn 
mắc bệnh mãn tính). 
1.1. Lịch sử căn bệnh: 
Năm 1987, bệnh được phát hiện lần đầu tiên ở Mỹ với tên gọi “bệnh thần bí trên heo” (Mystery 
Swine Disease - MSD). 
3 
Tháng 11 năm 1990, ổ dịch PRRS đầu tiên xảy ra ở Đức và lan tràn nhanh chóng sang các quốc 
gia khác ở Châu Âu. Mùa đông năm 1990- 1991, lần lượt các quốc gia Châu Âu như Hà Lan, Bỉ, 
Pháp và Tây Ban Nha đã báo cáo về hội chứng này với nhiều tên gọi khác nhau: “Bệnh tai xanh” 
(Blue-eared Pig Disease), “Hội chứng hô hấp và sảy thai trên heo” ( Porcine Epidemic Abortion 
and Respiratory Syndrome -PEARS), hay “Hội chứng hô hấp và vô sinh” (Swine Infertility and 
Respiratory Disease - SIRD). Năm 1991, lần đầu tiên Wenvoort và cộng sự đã phân lập được căn 
bệnh ở Viện thú y trung ương Lelytad – Hà Lan đã phân lập được căn bệnh và đặt tên cho loại 
virus này là “Lelystad”. Năm 1992, Collins và cộng sự ở Mỹ cũng báo cáo về việc phân lập được 
virus gây bệnh và sử dụng tên gọi VR-2332 để chỉ các chủng phân lập ở Bắc Mỹ. Cũng trong 
năm 1992, hội nghị quốc tế và tổ chức dịch tễ thế giới (OIE) đã nhất trí đặt tên cho bệnh này là 
“Hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp trên heo” (porcine reproductive and respiratory 
syndrome- PRRS) (Võ Thị Đan Thanh, 2006) Ở Việt Nam, bệnh được phát hiện vào năm 1997 
trên đàn lợn nhập từ Mỹ (10/51 con có huyết thanh dương tính). Các nghiên cứu về bệnh trên 
những trại giống lớn tại các tỉnh phía Nam cho thấy tỷ lệ lợn có huyết thanh dương tính với bệnh 
rất khác nhau, từ 1,3% cho tới 68,29%. Ở các nước khác, tỷ lệ đàn trong vùng bệnh có huyết 
thanh dương tính rất cao, như ở Anh là 6-75%, Mỹ là 36%,… (Phòng Dịch tễ-Cục Thú y) 
1.2. Đặc điểm hình thái cấu trúc: 
1.2.1. Phân loại 
Virus PRRS thuộc: 
Bộ Nidovirales. 
Họ Arteriviridae. 
Giống Arterivirus. 
Hình 2.1. Virus PRRS 
(Nguồn: http//www. agraroldal.hu) 
1.2.2. Đặc điểm hình thái: 
Virus PRRS có cấu trúc RNA mạch đơn dương, có đường kính 40-70 nm, có vỏ bọc, kích thước 
genome dài 14,5 kb mã hoá cho việc tái tạo virus (Jeong-Ki Kim và cs, 2005). 
1.2.3. Đặc điểm cấu trúc: 
4 
Virus structure 
Genome PRRSV 
Bộ gene của virus PRRS gồm có 8 khung độc mở (ORFs) mã hoá cho các thành phần khác nhau 
của virus. Tuy nhiên chỉ có 3 khung ORFs có ý nghĩa quan trọng trong định danh virus, đó là 
ORFs 7,6 và 5 quy định tổng hợp các protein tương ứng: nucleocapsid (N) 15-kDa, matrix (M) 
19-kDa và glycoproteins envelope (protein GP5) 25-kDa. Đây là những protein cấu trúc quan 
trọng nhất, chúng chiếm 90-95% lượng protein cấu trúc của virus. 
• Protein N là một protein nhỏ (15 kDa) và có tính kiềm cao, điều này có thể giúp nó tương 
tác dễ dàng hơn với bộ gen RNA. Protein N hiện diện ở mức độ cao trong những tế bào 
bị nhiễm virus PRRS và chiếm từ 20- 40% lượng protein của phân tử virus. Hiện nay 
protein N được dùng như là một kháng nguyên để phát hiện kháng thể trong huyết thanh 
của heo. 
• Protein M có trọng lượng phân tử khoảng 18 kDa. Mặc dù chức năng của nó được biết rất 
ít nhưng nó được xem như có vai trò trong sự kết hợp với thụ thể trên tế bào đích, vì 
protein M kết hợp GP5 tạo phức hợp M-GP5 để kết hợp với thụ thể trên tế bào đích 
(Delputte và cs, 2001). 
• Protein GP5 có trọng lượng phân tử khoảng 25 kDA, là nguyên nhân gây ra hiện tượng 
apoptosis và đóng vai trò quan trọng trong việc nhận diện thụ thể trên tế bào đích 
(Nathalie và cs, 2003). 
Về mặt di truyền, khi phân tích gene của các dòng virus PRRS gây bệnh khác nhau, người ta xác 
định được 2 dòng virus riêng biệt: dòng Châu Âu (Lelystad) và dòng Châu Mỹ (VR-2332). Hai 
dòng virus này không những khác biệt về đặc tính gây bệnh mà khác nhau về mức độ nhất định 
về kiểu gene. Qua phân tích gene và theo dõi sự thay đổi trình tự Nu của các dòng PRRS, người 
ta đã xác định rằng ở dòng Châu Mỹ, các ORFs 7 và 6 có tính ổn định rất cao, chúng gần như 
không thay đổi trong suốt quá trình tiến hoá của dòng virus này, tuy nhiên, sự khác biệt giữa 
dòng virus Châu Âu và Châu Mỹ ở 2 khung đọc mở này là rất rõ, chẳng hạn sự tương đồng về 
trình tự axit amin của ORFs 7 giữa 2 dòng virus này chỉ vào khoảng 57-59% và của ORFs 6 là 
70-81%. Trong khi đó, khung đọc mở ORFs 5 lại biến đổi nhiều giữa các chủng trong cùng 1 
dòng Châu Mỹ và chỉ tương đồng với dòng Châu Âu khoảng 51-59%. Sự tương đồng về trình tự 
axit amin quy định do các khung đọc mở ORFs 2, 3 và 4 giữa các dòng Châu Mỹ và Châu Âu 
tương ứng chỉ ở từ 63,58% và 68% (Nguyễn Ngọc Hải, 2007). 
5 
Nghiên cứu virus ở mức độ phân tử còn cho phép xác định được khả năng sản xuất và sử dụng 
virus nhược độc để làm văcxin. Người ta đã ghi nhận nhiều trường hợp hội chứng PRRS trở nên 
trầm trọng hơn sau khi đàn heo được tiêm vắcxin virus PRRS nhược độc vì cấu trúc gene của 
virus nhược độc thay thế glycine bằng arginine ở vị trí 151 của ORFs 5 sẽ hoàn nguyên rất nhanh 
bộ gene của chúng so với bộ gene của virus nguyên thuỷ ngay sau khi xâm nhập vào cơ thể vật 
chủ, và như thế độc lực của chúng cũng được phục hồi (Nguyễn Ngọc Hải, 2007). 
1.3. Dịch tễ học: 
1.3.1. Cơ chế sinh bệnh: 
6 
1.3.2. Tác nhân gây bệnh: 
Bình thường, đại thực bào sẽ tiêu diệt tất cả vi khuẩn, virus xâm nhập vào cơ thể, riêng đối với 
virus PRRS, virus có thể nhân lên trong đại thực bào, sau đó phá huỷ và giết chết đại thực bào 
(tới 40%) phòng Dịch tễ-cục Thú y).. Đại thực bào bị giết sẽ làm giảm chức năng của hệ thống 
bảo vệ cơ thể và làm tăng nguy cơ bị nhiễm các bệnh kế phát. Virus xâm nhập vào tế bào bằng 
con đường nhập nội bào (endocytosis) qua trung gian receptor. Người ta đã xác định heparan 
sulfate là thụ thể của đại thực bào phế nang đối với virus(Delputte và cs, 2001; Nathalie và cs, 
2003) và trên MARC-145 là vimentin, vimentin là một yếu tố quan trọng trong việc làm ổn định 
cấu trúc của tế bào chất trong nhiều loại tế bào khác nhau (Jeong-Ki Kim và cs, 2005). Theo 
Jeong-Ki Kim và cs, 2005 thì kháng thể kháng vimentin ngăn cản sự gây nhiễm của virus trên tế 
bào MARC-145. Khi chuyển vimentin tái tổ hợp vào 2 dòng tế bào BHK-21 và CRFK (Crandall 
Rees feline kidney), không nhạy cảm với virus PRRS, thì 2 dòng tế bào này trở nên nhạy cảm 
với PRRSV, điều đó chứng tỏ sự tấn công và gây nhiễm của virus liên quan tới vimentin, 1 loại 
intermediate-filament protein (Jeong-Ki Kim và cs, 2005). 
Khi gây nhiễm tế bào, hầu hết các chủng virus PRRS đều gây bệnh tích tế bào nhưng vẫn có một 
số chủng virus PRRS thì không (Christianson và Joo, 1994; Yoon và cs, 1992). Bệnh tích tế bào 
do virus PRRS gây ra là: tế bào co tròn, tập trung lại, sau đó dày lên, nhân co lại và cuối cùng là 
tách ra khỏi bề mặt nuôi cấy (dẫn liệu Hoàng Văn Năm, 2001). Benfield và cs (1992) cũng mô tả 
bệnh tích tế bào do virus PRRS gây ra như: các tế bào co tròn, trở nên thoái hoá (nhân kết đặc 
lại) và tách khỏi tế bào một lớp sau 2- 4 ngày nuôi cấy. Toàn bộ lớp tế bào bong ra sau 6 ngày. 
Các dòng PRRSV của Bắc Mỹ phát triển khá tốt trên MARC-145 trong khi các dòng PRRSV của 
Châu Âu phát triển nhanh hơn trên PAM. Nhiều phòng thí nghiệm ở Hàn Quốc và Bắc Mỹ chỉ sử 
dụng MARC-145 vì khó khăn khi phải nuôi cấy PAM (Han-Kook Chung và cs, 2002). Một 
nghiên cứu khác của Bloemraad (1994) cho thấy sau 40 giờ nuôi cấy, gần 40% tế bào PAM có 
bệnh tích tế bào. Tuy nhiên, kết quả này có thể thay đổi giữa các phòng thí nghiệm (Yoon, 
2003). 
1.3.3. Sức đề kháng của virus 
Virus PRRS tồn tại được trong thời gian dài hơn 4 tháng ở -700C đến -200C nhưng khoảng 90% 
khả năng gây nhiễm của virus bị mất trong vòng 1 tuần ở 40C. khả năng hồi phục của virus đã 
được báo cáo kéo dài đến 20 phút ở 560C, 24 giờ ở 370C và 6 ngày ở 210C. Virus bền vững ở 
pH từ 6,5 -7,5 nhưng chết nhanh khi pH 7,65 (Benfield và cs, 1999). Như vậy, virus 
PRRS không bền với nhiệt độ và pH. Ngoài ra, virus dễ bị diệt bởi chất sát trùng và tia cực tím 
7 
(dẫn liệu Trần Thanh Phong, 1996). Các chất tẩy uế có tác dụng làm giảm khả năng lây nhiễm 
của virus và các chất tan dầu mỡ như chloroform và eter đặc biệt hữu hiệu trong việc phá vỡ cấu 
trúc vỏ ngoài của virus và làm ngừng sự tái sản (Trần Đức Minh). 
1.3.4. Triệu chứng lâm sàng: 
Lợn nái giai đoạn đẻ và nuôi con: Biếng ăn, lười uống nước, mất sữa và viêm vú, đẻ sớm 
khoảng 2-3 ngày, da biến màu, lờ đờ hoặc hôn mê, thai gỗ (10-15% thai chết trong 3-4 tuần cuối 
của thai kỳ), lợn con chết ngay sau khi sinh (30%), lợn con yếu, tai chuyển màu xanh. Tỷ lệ chết 
ở đàn con có thể tới 70% ở tuần thứ 3-4 sau khi xuất hiện triệu chứng. Rối loạn sinh sản có thể 
kéo dài 4-8 tháng trước khi trở lại bình thường. 
Lợn đực giống: Bỏ ăn, sốt, đờ đẫn hoặc hôn mê, giảm hưng phấn hoặc mất tính dục, lượng tinh 
dịch ít, chất lượng tinh kém và cho lợn con sinh ra nhỏ. 
Lợn con theo mẹ: Thể trạng gầy yếu, nhanh chóng rơi vào trạng thái tụt đường huyết do không 
bú được, mắt có dử màu nâu, trên da có vết phồng rộp, tiêu chảy nhiều, giảm số lợn con sống sót, 
tăng nguy cơ mắc các bệnh về hô hấp, chân choãi ra, đi run rẩy.. 
Lợn con cai sữa và lợn choai: Chán ăn, ho nhẹ, lông xác xơ... tuy nhiên, ở một số đàn có thể 
không có triệu chứng. 
Bệnh tích: Viêm phổi hoại tử và thâm nhiễm đặc trưng bởi những đám chắc, đặc trên các thuỳ 
phổi. Thuỳ bị bệnh có màu xám đỏ, có mủ và đặc chắc (nhục hoá). Trên mặt cắt ngang của thuỳ 
bệnh lồi ra, khô. Nhiều trường hợp viêm phế quản phổi hoá mủ ở mặt dưới thuỳ đỉnh. 
Điều trị: Hiện nay, vẫn chưa có thuốc đặc trị để điều trị bệnh này. Có thể sử dụng một số thuốc 
tăng cường sức đề kháng, điều trị triệu chứng và chủ yếu ngăn ngừa nhiễm bệnh kế phát. 
Phòng bệnh: Có thể sử dụng vaccine và các biện pháp vệ sinh chuồng trại. Vaccine bệnh heo tai 
xanh đang có bán tại Công ty thuốc thú y TW 29 Nguyễn Đình Chiểu Quận 1 TP. HCM. Đây là 
nơi nhập khẩu duy nhất Vaccine phù hợp với bệnh heo tai xanh ở VN. 
1.4. Chẩn đoán PRRSV: 
1.4.1 Chẩn đoán lâm sàng 
8 
Theo Benfiled (1999), khi trong đàn heo có dấu hiệu rối loạn hô hấp trên các hạng heo, sinh sản 
bất ổn và năng suất đàn giảm hơn bình thường thì có thể nghi ngờ bệnh do virus PRRS. Mặt 
khác, theo Taylor (1995) và dẫn liệu của Hoàng Văn Năm (2001) có cơ sở nghi ngờ bệnh khi: 
• Tỷ lệ chết lúc sinh >20% 
• Tỷ lệ sảy thai >8% 
• Tỷ lệ heo con chết trước khi cai sữa >26% 
• Tỷ lệ heo con chết trong tuần đầu tiên vượt quá 25%. 
Tuy nhiên, để xác định đúng căn bệnh cần thực hiện các phương pháp chẩn đoán phi lâm sàng 
khác (dẫn liệu của Võ Thị Đan Thanh, 2006). 
1.4.2 Chẩn đoán phi lâm sàng: 
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và bệnh tích mô tả ở phần trên để chẩn đoán. Trong phòng thí 
nghiệm, có thể dùng phản ứng Immunoperoxidase một lớp (IPMA) để phát hiện kháng thể 1-2 
tuần sau khi nhiễm; phản ứng kháng thể huỳnh quang gián tiếp (IFA) kiểm tra kháng thể IgM 
trong 5-28 ngày sau khi nhiễm và kiểm tra kháng thể IgG trong 7-14 ngày sau khi nhiễm; phản 
ứng ELISA phát hiện kháng thể trong vòng 3 tuần sau khi tiếp xúc, tuy nhiên chỉ xác định được 
tỷ lệ nhiễm.Một phương pháp khác là chẩn đoán bằng nuôi cấy tế bào động vật sau đó dùng RT-
PCR để xác định( có thể sử dụng phương pháp nhuộm miễn dịch, hóa miễn dịch), mặc dù việc 
nuôi cấy phân lập virus trên môi trường tế bào khó, tuy nhiên xác định sự hiện diện của virus từ 
mẫu huyết thanh dương tính và các mẫu lâm sàng là rất cần thiết để làm cơ sở cho công tác 
phòng bệnh và các nghiên cứu sau này 
1.4.2.1. Phương pháp phát hiện kháng thể 
1.4.2.1.1. Phản ứng IPMA (Immuno peroxidase Monolayer Assay) 
Đây là phản ứng đầu tiên được sử dụng để phát hiện kháng thể kháng virus PRRS được gọi là kỹ 
thuật miễn dịch peroxidase một lớp. Kỹ thuật này có thể thực hiện trên các dòng tế bào PAM, 
CL2621, MARC-145. Tế bào sau khi nuôi cấy 24 giờ sẽ được gây nhiễm với PRRSV và được ủ 
ở 370C trong 24 giờ. Sau đó tế bào được gây nhiễm sẽ được cố định và tác dụng với huyết thanh 
mẫu, ủ khoảng 1 giờ ở 370C và được cho tác dụng tiếp tục với kháng kháng thể heo cộng hợp 
HRPO (horseradish peroxidase). Nếu mẫu huyết thanh có chứa kháng thể kháng virus thì 30-
50% tế bào sẽ có màu đỏ khi cho lớp tế bào tác dụng với dung dịch chromogen trong 30 phút. 
Không có sự thay đổi màu của tế bào khi kết quả là âm tính. IPMA được sử dụng nhiều ở châu 
âu. Trong chẩn đoán phát hiện thú nhiễm sớm, người ta thường sử dụng IPMA vì xét nghiệm này 
cho phép xác định thú nhiễm sau 7-15 ngày và có thể phát hiện kháng thể đến 3 tháng sau khi 
nhiễm PRRSV (Nguyễn Ngọc Hải, 2007). Nhược điểm của phương pháp này là không thể xác 
định trực tiếp hàm lượng kháng thể bảo vệ. 
1.4.2.1.2. Phản ứng IFA (Indirect Immunhofloresence Assay) 
Giống như trong kỹ thuật IPMA, kỹ thuật IFA (kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang gián tiếp) cũng 
sử dụng nuôi cấy tế bào. Quá trình thực hiện IFA cũng giống với IPMA, chỉ khác là kháng kháng 
thể heo sử dụng không cộng hợp với HRPO mà cộng hợp với chất phát huỳnh quang FITC 
(fluorescein isothiocynate). Việc đọc kết quả cần phải có kính hiển vi huỳnh quang. sự hiện diện 
9 
của màu huỳnh quang trong mẫu xét nghiệm chứng tỏ mẫu có kháng thể kháng virus. Phản ứng 
có độ đặc hiệu cao 99,5% và cho phép phát hiện kháng thể kháng virus đến 3 tháng sau khi 
nhiễm (Nguyễn Ngọc Hải, 2007). Nhược điểm của IFA và IPMA là không thể làm tự động nên 
khó thực hiện với quy mô lớn. 
1.4.2.1.3. Phản ứng SN (Serum Neutralizing) 
Đây là phản ứng trung hòa virus, phản ứng này có độ đặc hiệu cao nhất, được sử dụng để phát 
hiện và định hiệu giá kháng thể kháng virus. Nhược điểm của phản ứng này là đắc tiền, khó thực 
hiện và tốn thời gian vì kháng thể trung hoà xuất hiện chậm (1-2 tháng sau khi nhiễm). Tuy 
nhiên đây là phản ứng rất tốt để xác định miễn dịch bảo hộ (Nguyễn Ngọc Hải, 2007 và dẫn liệu 
của Võ Thị Đan Thanh, 2006). 
1.4.2.1.4. Phản ứng ELISA (Enzyme Linked Immunosorbent Assay) 
Xét nghiệm ELISA (xét nghiệm miễn dịch hấp phụ gắn kết enzyme) có độ nhạy và độ đặc hiệu 
cao và thực hiện đơn giản hơn so với IFA và IPMA, có thể phát hiện kháng thể trong vòng 3 tuần 
sau khi nhiễm bệnh. Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của phương pháp này là dễ cho kết quả dương 
tính giả. Tỷ số S/P (sample/position)≥0,4 thì kết quả được ghi nhận là dương tính. Các phản ứng 
IFA, SN, ELISA được sử dụng nhiều trong các phòng thí nghiệm ở miền Nam nước Mỹ 
(Nguyễn Ngọc Hải, 2007). 
1.4.2.2. Các phương pháp phát hiện kháng nguyên 
Phương pháp FA (florescent antibody staining-kháng thể huỳnh quang) và IHC 
(immunohistochemistry staining-hoá mô miễn dịch) có thể được sử dụng để phát hiện kháng 
nguyên virus trong mẫu mô. 
Phương pháp FA có thể thực hiện trực tiếp trên các mẫu đông lạnh. Phương pháp này cho kết 
quả nhanh và chi phí thấp, tuy nhiên lại có độ nhạy và độ đặc hiệu không cao. để đảm bảo kết 
quả chẩn đoán, mẫu cần được lấy và làm lạnh nhanh. 
Phương pháp IHC cũng được thực hiện trên mẫu mô cắt lát, tuy nhiên phương pháp này có thể 
thực hiện với các mẫu mô đã được cố định bằng formol. Điều này là khá quan trọng vì rất thuận 
lợi trong việc bảo quản mẫu bệnh phẩm. IHC có độ nhạy cao hơn so với FA nhưng mất nhiều 
thời gian và tốn chi phí hơn (Nguyễn Ngọc Hải, 2007). 
1.4.2.3 Phát hiện gen của virus PRRS 
Kỹ thuật PCR được phát triển để phát hiện RNA của virus PRRS trong các mẫu bệnh phẩm. Kỹ 
thuật này không những có độ đặc hiệu và độ nhạy cao mà thời gian cần thiết thực hiện xét 
nghiệm cũng ngắn hơn so với phương pháp nuôi cấy tế bào vì thế nó được sử dụng khá rộng rãi 
trong chẩn đoán phát hiện virus. Nhiều dạng khác nhau của PCR được sử dụng, hầu hết chúng 
được sử dụng để phát hiện các vùng ORFs 7, ORFs 6 hay ORFs 1b của virus. Để gia tăng độ 
nhạy trong chẩn đoán PRRSV, nhất là để phân biệt 2 dòng virus thì Han-Kook Chung và cs 
(2002) đã sử dụng phương pháp multiplex reverse transcription-nested PCR (RT-nPCR) . Fun in 
wang (1994) đã sử dụng kỹ thuật RT-PCR trực tiếp để phát hiện sự tồn tại của virus PRRS trong 
xác heo thương phẩm và trong tinh dịch con đực. Tuy nhiên kết quả chẩn đoán chưa đủ làm cơ 
10 
sở để kết luận bệnh mà chỉ cho phép xác định tình trạng nhiễm của đàn và kỹ thuật này đòi hỏi 
kỹ thuật viên phải có trình độ kỹ thuật cao. Các quy trình thu nhận và trữ mẫu, quy trình chiết 
tách và tinh sạch RNA phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt. Do đó kết quả của phản ứng 
PCR giữa các phòng thí nghiệm khác nhau có thể sẽ khác nhau. 
1.4.2.4. Phân lập virus trên môi trường tế bào 
Trong phân lập virus, cũng như các phương pháp chẩn đoán khác, khâu đầu tiên và quan trọng 
nhất đó là cách lấy mẫu và bảo quản mẫu. Mẫu xét nghiệm có thể là huyết thanh, dịch tràn ổ 
bụng, dịch phế nang, dịch mẫu mô (hạch, phổi, lách). 
Trong số đó thì dịch phế nang và huyết thanh được đánh giá là mẫu tốt nhất cho việc phân lập 
virus khi dịch bùng phát. PRRSV tồn tại trong huyết thanh lâu hơn trong mô, nhưng đối với thú 
già thì lại có nhiều PRRSV trong mô hơn trong máu. Đối với các trường hợp sảy thai ở thời kỳ 
cuối hay sinh sớm thì nên lấy mẫu ở những heo con sinh ra yếu, trước khi cho bú hơn là thai khô, 
thai chết lưu. Việc phân lập virus đối với những thú nhiễm bệnh mãn tính thì hạch amiđan, dịch 
rữa khí quản là những mẫu có khả năng nuôi cấy tốt hơn so với mẫu huyết thanh và phổi. Một 
điểm quan trọng khác cần chú ý là nhiệt độ bảo quản mẫu trong quá trình vận chuyển và phân lập 
virus. Các mẫu bệnh phẩm cần phải được bảo quản ở 40C hay thấp hơn trong quá trình vận 
chuyển mẫu đến phòng thí nghiệm và thời gian giữ mẫu ở nhiệt độ này tốt nhất là không quá 48 
giờ. Những mẫu bệnh phẩm lưu giữ trong một thời gian dài bắt buộc phải được bảo quản ở -
700C, không được đông và rã đông mẫu nhiều lần. Việc phân lập virus gặp nhiều khó khăn vì 
virus chỉ có thể nhân lên trên hai loại tế bào, đó là: đại thực bào phế nang heo (Porcine Alveolar 
Macrophage-PAM) và tế bào thận khỉ (MARC-145, CL2621). Tuy nhiên theo Yoon và 
Stevenson (1999) thì không phải tất cả virus PRRS đều phát triển ở cả hai loại tế bào này mà 
PAM nhạy cảm với virus hơn so với CL2621, đặc biệt khi mẫu được dùng là huyết thanh. Còn 
Han-Kook Chung và cs (2002) cho rằng PRRSV chủng Châu Mỹ phát triển tốt hơn trên MARC-
145, ngược lại PRRSV chủng Châu Âu lại phát triển nhanh hơn trên PAM. 
Trong Tiểu luận Chẩn đoán PRRSV bằng kỹ thuật nuôi cấy tế báo này, chúng ta sẽ tìm hiểu 
kỹ về phương pháp chẩn đoán PRRSV bằng cách phân lập trên môi trường tế bào MARC-145 và 
xác định bằng RT-PCR. 
2. Chẩn đoán PRRSV bằng cách phân lập trên môi trường tế bào MARC-145 và xác 
định bằng RT-PCR 
2.1. Tổng quan về nuôi cấy tế bào 
Nuôi cấy tế bào là kỹ thuật duy trì và phát triển các tế bào ở ngoài cơ thể sống nhưng vẫn thực 
hiện đầy đủ các chức năng biến dưỡng và chức năng chuyên biệt của tế bào. Quá trình nuôi cấy 
tế bào cho phép mỗi tế bào đóng vai trò như những tế bào độc lập, nó có thể phân chia nhờ quá 
trình nguyên phân và quần thể tế bào tiếp tục phát triển cho đến khi bị giới hạn bởi bề mặt nuôi 
cấy hay sự cạn kiệt dinh dưỡng. Kỹ thuật nuôi cấy tế bào được tiến hành lần đầu tiên vào năm 
1907 bởi Harrison. Ngày nay kỹ thuật này đã được ứng dụng rộng rãi trong y học và thú y học để 
nghiên cứu tác động của các chất lên tế bào hay nghiên cứu virus để phân lập, giám định, chuẩn 
độ virus, xác định tính chất huyết thanh học, quan sát hình thái siêu cấu trúc của virus và đặc biệt 
là sản xuất vaccine. Quá trình nuôi cấy thường gồm những tế bào thuộc cùng một loại. 
11 
2.1.1. Thành phần dinh dưỡng của môi trường nuôi cấy tế bào 
Môi trường nuôi cấy tế bào phức tạp và giàu chất dinh dưỡng để tạo điều kiện tốt nhất cho sự 
phát triển của tế bào. Môi trường có thể được cung cấp dưới dạng dung dịch để sử dụng ngay hay 
dưới dạng dung dịch đậm đặc hoặc dạng bột. Dạng dung dịch đậm đặc có thể sử dụng sau khi 
pha loãng với nước cất tiệt trùng, trong khi dạng bột phải được hoà tan trong nước và tiệt trùng 
bằng cách lọc qua lưới lọc 0,22μm. 
Thành phần cơ bản của môi trường nuôi cấy: 
• Carbonhydrate: glucose (5-10mM) được dùng trong hầu hết các công thức để cung cấp 
nguồn năng lượng cũng như tiền chất cho tổng hợp sinh học, như ribose cần cho tổng hợp 
acid nucleic. 
• Amino acid (0,1-0,2mM) cũng được dùng như là nguồn tiền chất cho tổng hợp protein. 
Người ta thường sử dụng glutamine, tuy nhiên, ammoniac được thành lập từ chuyển hoá 
glutamine có thể ức chế sự sinh trưởng trong một số quá trình nuôi cấy. 
• Muối cũng được dùng để làm cho môi trường có tính đẳng trương, duy trì sự cân bằng 
với phần bên trong tế bào. 
• Bicarbonate (NaHCO3) cũng được dùng để đóng vai trò như hệ thống đệm trong sự kết 
hợp với 5-10% CO2 được cung cấp bởi tủ ủ. Điều này cho phép môi trường duy trì có pH 
từ 7,2-7,4. 
• Vitamin và hormone hiện diện ở nồng độ tương đối thấp và được dùng để kích thích sinh 
trưởng. Lượng vitamin và hormone thay đổi nhiều giữa các công thức môi trường khác 
nhau. Điều này cho thấy nhu cầu vitamin của các dòng tế bào là khác nhau. 
• Huyết thanh: được bổ sung vào môi trường nuôi cấy để cải thiện sự sinh trưởng của tế 
bào, giúp tế bào dễ bám vào bề mặt thủy tinh và phát triển mạnh hơn. Huyết thanh thai bò 
(Fetal Bovine Serum- FBS) thường được sử dụng bổ sung vào cho môi trường nuôi cấy, 
nhưng lại đắt tiền và hiếm. Nồng độ huyết thanh thường được dùng từ 5- 20%. Các 
protein trong huyết thanh như albumin, fibronectin, globulin giúp tế bào bám dính và 
phát triển. 
• Kháng sinh thường được cho vào môi trường nuôi cấy trong thời gian ngắn nhằm làm 
giảm nguy cơ tạp nhiễm. Nồng độ tối ưu của kháng sinh được xác định theo kinh nghiệm 
của người tiến hành nuôi cấy. Kháng sinh thường được dùng dưới dạng kết hợp. Có thể 
sử dụng Penicilin G, Streptomycin và Amphotericin B để ức chế sự phát triển của vi 
khuẩn Gram dương, Gram âm và chống nấm (Butler, 2004). 
2.1.2. Điều kiện nuôi cấy 
Hầu hết tế bào trong môi trường nuôi cấy sinh trưởng tốt ở nhiệt độ 370C và pH 7,4. Nếu ở nhiệt 
độ thấp hơn một chút so với 370C thì tốc độ sinh trưởng sẽ giảm xuống nhưng tế bào không bị 
phá hủy. Tuy nhiên nhiệt độ cao hơn, từ 39- 400C sẽ phá huỷ tế bào. Do vậy, việc đảm bảo rằng 
nhiệt độ không tăng trong tủ cấy là rất quan trọng (Butler, 2004). 
2.1.3. Sự tạp nhiễm và cách hạn chế 
Nguyên nhân chính của sự thất bại trong nuôi cấy tế bào là sự tạp nhiễm. Sự tạp nhiễm thường 
do tiệt trùng dụng cụ không đạt yêu cầu và thường bắt nguồn từ sự tiếp xúc của con người như là 
từ bàn tay, hơi thở, tóc. Môi trường và thiết bị ngày nay được cung cấp sẵn nhằm hạn chế tới 
12 
mức tối đa những nguy cơ tạp nhiễm này. Nguy cơ này cũng có thể được giảm bớt hơn nữa bởi 
sự quan tâm cẩn thận tới từng chi tiết khi tiến hành nuôi cấy. Nhằm giảm bớt các nguồn tạp 
nhiễm, cần chú ý các điểm sau: 
• Rửa tay với xà phòng diệt khuẩn trước và sau quá trình có liên quan đến cấy tế bào. Có 
thể dùng găng tay nhựa. 
• Hạn chế những con đường tới phòng thí nghiệm khi thí nghiệm đang tiến hành. 
• Làm sạch bề mặt làm việc trước và sau mỗi quá trình nuôi cấy. 
• Dùng không gian tiệt trùng (ví dụ tủ cấy tiệt trùng) cho tất cả các thao tác. 
• Dùng ống nghiệm nuôi cấy bằng plastic được tiệt trùng và chỉ dùng một lần. 
• Mua môi trường và huyết thanh từ nhà cung cấp đáng tin cậy để đảm bảo rằng sự tạp 
nhiễm không phát sinh từ nguồn này (Butler, 2004). 
2.2. Tổng quan về phương pháp RT-PCR 
RT- PCR (reverse transcriptase polymerase chain reaction) là một phương pháp dùng để khuyếch 
đại cDNA được tạo ra từ RNA dựa vào đặc tính phiên mã ngược. RT- PCR thường được sử dụng 
để tạo ra thư viện cDNA (complementary DNA) lớn từ một lượng rất nhỏ mRNA, sử dụng trong 
việc nhận biết các đột biến và đa hình dựa vào những trình tự phiên mã ngược và sử dụng trong 
việc định lượng mức độ phân tử của gene. Ngoài ra, RT- PCR còn có một ứng dụng quan trọng 
nữa đó là chúng được sử dụng trong việc chẩn đoán các bệnh do virus RNA. 
Nguyên tắc : 
Trong kỹ thuật RT-PCR có sự tham gia của 2 loại enzyme tổng hợp chuỗi oligonucleotide: 
enzyme phiên mã ngược ( reverse transcriptase) và DNA polymerase. Enzyme reverse 
transcriptase cần cho quá trình tổng hợp sợi cDNA từ RNA và enzyme cần cho sự tổng hợp sợi 
DNA từ cDNA. Do enzyme reverse transcriptase chịu nhiệt kém nên quá trình phiên mã ngược 
để tạo ra cDNA phải được thực hiện ở nhiệt độ thấp (thường khoảng từ 42-450C). Điều này gây 
ra những trở ngại: 
• Sự tạo thành các sản phẩm khuếch đại không mong muốn do sự bắt cặp không đặc hiệu 
của các primers. 
• Giảm hiệu quả kéo dài chuỗi gen do sự hình thành RNA cấu trúc bậc hai. 
• Tuy nhiên những trở ngại này có thể được giải quyết nhờ vào việc sử dụng enzyme DNA 
polymerase chịu nhiệt được chiết từ vi khuẩn Thermus thermophilus. Enzyme này trong 
những điều kiện nhất định, có đặc tính sinh học đặc biệt là có thể thực hiện cùng lúc 2 
chức năng: chức năng của reverse transcriptase và chức năng của DNA polymerase. 
2.3. Phương pháp tiến hành: 
2.3.1. Vật liệu và dụng cụ 
2.3.1.1. Thiết bị và dụng cụ dùng cho nuôi cấy tế bào và phân lập virus PRRS 
• Các dụng cụ lấy mẫu: xilanh lấy mẫu, lọ đựng mẫu, túi nylon, bình đá… 
• Tủ cấy; tủ ấm CO2. 
• Kính hiển vi soi ngược. 
• Máy ly tâm.Ống ly tâm vô trùng. 
• Lọ nuôi cấy tế bào 25cm2. 
13 
• Pipette. 
2.3.1.2. Vật liệu dùng cho nuôi cấy tế bào MARC- 145 
- Dòng tế bào và gốc virus chuẩn do AAHL (Australian Animal Health Laboratory) cung cấp. 
- Môi trường phát triển: trong 100ml môi trường gồm: 
• EMEM (Egle Minimun Essential Medium): 86,25 ml 
• Huyết thanh thai bò (FBS): 8ml. 
• Glutamine 2,92%: 1ml. 
• Na Pyruvate 100mM: 1ml. 
• LAH (Lactalbumin hydrolysate) 25%: 2ml. 
• Sodium Bicarbonate 7%: 1ml. 
• Kháng sinh (trong 1ml dung dịch có 40000UI Penicillin, 40000μg Streptomycin): 0,25ml. 
• Kháng nấm (trong 1ml có 500μg Amphotericin B): 0,5ml 
• Môi trường duy trì: giống môi trường phát triển nhưng chỉ dùng 2% huyết thanh thai bò. 
• PBSA (Phosphate buffer saline solution A). 
• Trypsin X. 
• Thuốc nhuộm Trypan Blue 0,22%. 
2.3.1.3. Thiết bị và dụng cụ dùng cho phản ứng PCR 
• Tủ cấy vô trùng. 
• Máy ly tâm (Mikro Z2K/ Sigma 3K30C). 
• Tủ -700C (Sanyo Ultra Low). 
• Tủ -200C (CFC Free Sanyo Brandt) 
• Tủ lạnh. 
• Máy vi sóng (Electrolux). 
• Máy chụp gel (Biorad). 
• Máy PCR (Biorad). 
• Máy Vortex. 
• Bộ nguồn và bồn điện di. 
• Micropipet, đầu tuýp và eppendorf. 
2.3.1.4. Vật liệu và hoá chất cho chiết tách RNA 
• Vật liệu và hoá chất trong phương pháp không sử dụng TRIzol - Dung dịch ly giải tế 
bào(guanidium isothicyanate 4M; sodium citrate 25mM; sarkosyl 0,5%; 2-
mercaptoethanol, pH 7.0). 
• Phenolchloroform. 
• Isopropanol. 
• Ethanol 75%. 
• RNAse - free water. 
2.3.1.5. Vật liệu và hoá chất sử dụng cho RT-PCR 
• Nước không có Rnase. 
• Tfl DNA Polymerase (Promega). 
14 
• dNTPs (Promega). 
• Cặp mồi. 
• RNA mẫu chuẩn. 
• RNA thu được từ mẫu ly trích. 
• AMV reverse transcriptase (Promega). 
• MgSO4 (Promega). 
• AMV/Tfl reaction buffer (Promega). 
2.3.1.5. Vật liệu và hoá chất cho điện di sản phẩm RT-PCR 
• Agarose (Biorad). 
• TBE 0.5X (Tris HCl, acid boric, Na2EDTA, nước cất hai lần khử ion đã hấp khử trùng). 
• Loading dye (Bromophenol blue, sucrose, TE). 
• Ladder 100bp. 
• Ethidium bromide. 
2.3.2. Phương pháp lấy mẫu 
• Huyết thanh: cố định heo, lấy máu khoảng 4- 5ml tại tĩnh mạch cổ (heo cai sữa), tĩnh 
mạch tai (heo nái). Sau đó cho vào bình đá vận chuyển về phòng thí nghiệm và chắt lấy 
huyết thanh vào eppendorf vô trùng. 
• Hạch phổi, phổi (chỉ lấy ở heo chết sau khi sinh và heo sau cai sữa): lấy mẫu hạch phổi, 
phổi cho vào bao nylon sạch, buộc chặt và cho vào bình đá vận chuyển về phòng thí 
nghiệm. 
Mẫu sau khi lấy được chuyển về phòng thí nghiệm và được xử lý tiến hành phân lập virus ngay. 
Nếu mẫu chưa được phân lập ngay sẽ đem bảo quản ở -700C 
2.3.3.Phương pháp nuôi cấy tế bào MARC- 145 
2.3.3.1.Hồi phục tế bào : 
Tế bào được trữ dưới dạng đông lạnh ở trong nitơ lỏng, khi muốn sử dụng thì phải hồi phục lại tế 
bào. Các bước hồi phục tế bào: 
• Lấy lọ đựng tế bào từ bình nitơ lỏng ra, ngâm vào nước ấm 370C, chờ đến khi nước đá 
tan hết thì lấy ra. 
• Dùng pipette chuyển lượng tế bào bên trong lọ sang ống ly tâm. Cho thêm 10ml môi 
trường phát triển vào, chầm chậm từng giọt một. Dùng pipette trộn nhẹ để hỗn hợp hòa 
đều với nhau. 
• Ly tâm 1500 vòng/phút trong 5 phút. Sau đó bỏ phần nước trên, búng đều vào đáy lọ ly 
tâm để các tế bào tách rời nhau. 
• Cho 3ml môi trường phát triển vào, dùng pipette trộn đều rồi hút khoảng 0,1ml ra để 
đếm. 
• Cho tế bào vào lọ nuôi cấy đã có sẵn 8-10ml môi trường phát triển. Đưa lọ tế bào vào tủ 
ấm ở 370C có bổ sung 5% CO2. 
• Sau 24 giờ thì thay đổi môi trường. 
15 
2.3.3.2. Cấy chuyển tế bào : 
Khi tế bào đã mọc đầy bề mặt nuôi cấy, tạo thành tế bào một lớp thì tiến hành cấy chuyển. 
Tách tế bào ra khỏi lọ : 
• Rút bỏ môi trường trong lọ nuôi cấy, rửa lớp tế bào bằng 8-10ml PBSA, rồi rút bỏ. 
• Cho vào 3ml trypsin, để trong tủ ấm 5 phút sau đó cho một tay cầm lọ tế bào đập nhẹ vào 
lòng tay kia để đảm bảo tách ra thành những tế bào riêng lẻ. 
• Bất hoạt trypsin bằng 3ml môi trường phát triển, rồi rút cho vào ống ly tâm (loại 15ml). 
Dùng thêm 7ml môi trường phát triển để rửa lại lọ nuôi cấy rồi hút cho vào ống ly tâm. 
• Ly tâm 1500 vòng/phút trong 5 phút. Sau đó đổ phần nước trên, búng vào đáy lọ ly tâm 
cho các tế bào rời nhau. Cho vào ống ly tâm 3ml môi trường phát triển, trộn đều bằng 
pipette rồi lấy ra 0,1ml để đếm tế bào. 
Đếm tế bào bằng buồng đếm Neubauer : 
 Cách tiến hành : 
• Trộn 100μl huyễn dịch tế bào và 900μl thuốc nhuộm trypan blue 0,22% (tỷ lệ pha là 
1/10). 
• Đưa hỗn hợp thuốc nhuộm và tế bào này lên buồng đếm bằng cách chạm đầu hút có 
chứa hỗn hợp vào chỗ tiếp giáp giữa buồng đếm và lamella. 
• Chỉ đếm những tế bào còn sống (màu vàng nhạt, có điểm sáng ở giữa), không đếm 
những tế bào chết (bắt màu xanh). Vùng đếm là 4 ô vuông lớn (ký hiệu L). 
 Cách tính kết quả : 
Trong đó: C: số tế bào trong 1ml. n: số tế bào trong 4 ô vuông. d: nồng độ pha loãng. 
16 
• Cho lượng tế bào cần cấy chuyển vào trong lọ nuôi cấy mới đã có 8-10 ml môi trường 
phát triển. 
• Đưa lọ tế bào vào ủ ấm 370C có bổ sung 5%CO2. 
• Theo dõi cứ 3 giờ một lần sự phát triển của tế bào đầy bề mặt nuôi cấy lọ 25cm2 với 
những lượng tế bào 7.105 và 106. 
Kết quả được xử lý bằng phần mềm staTGraphics Ver. 7,0. 
2.3.4.Phương pháp phân lập virus 
Virus PRRS được phân lập theo sơ đồ 3.1. 
2.3.4.1 Phương pháp xử lý mẫu để phân lập virus 
Mẫu hạch phổi, phổi được nghiền trong dung dịch đệm phosphat PBS (cứ 1gam bệnh phẩm 
nghiền trong 5ml PBS). Sau đó, ly tâm huyễn dịch 5000vòng/phút trong 15 phút. Hút phần nước 
trong cho vào eppendorf vô trùng và bảo quản trong tủ -700C. Huyết thanh và mẫu sau khi được 
xử lý sẽ lọc qua lưới lọc 0,2μm trước khi đưa vào môi trường tế bào. 
2.3.4.2. Phương pháp gây nhiễm tế bào lần thứ nhất với các mẫu đã xử lý 
17 
Khi tế bào đã phát triển đầy bề mặt lọ nuôi cấy tạo thành tế bào một lớp thì tiến hành gây nhiễm 
tế bào. 
• Lấy lọ tế bào ra, thay môi trường phát triển bằng môi trường duy trì. 
• Gây nhiễm tế bào bằng mẫu huyết thanh, phổi, hạch phổi đã được xử lý với thể tích là 
1ml. Lưu ý khi đưa mẫu vào môi trường tế bào cần đưa vào bề mặt khác bề mặt tế bào 
tăng trưởng trong lọ nuôi cấy. 
• Cho lọ tế bào đã được gây nhiễm vào tủ ấm 370C có 5%CO2. Sau 24 giờ thay môi 
trường duy trì. 
• Theo dõi và ghi nhận bệnh tích tế bào hằng ngày. Sau 7 ngày thu hoạch dịch tế bào nuôi 
cấy. 
2.3.4.3.Phương pháp thu hoạch dịch tế bào 
• Để lọ tế bào sau khi gây nhiễm 7 ngày vào ngăn đá tủ lạnh cho đến khi tế bào và môi trường 
đông thành đá, sau đó lấy ra đánh nhẹ vào lòng bàn tay để tế bào bong ra hết rồi để ở nhiệt 
độ phòng để rã đông tế bào và môi trường. Lặp lại động tác trên thêm 2 lần nữa. 
• Hút toàn bộ môi trường trong lọ tế bào vào một ống ly tâm. Ly tâm 5000 vòng/phút trong 10 
phút. Hút lấy phần nước bên trên cho vào eppendorf vô trùng và bảo quản ở -700C. 
2.3.4.4.Phương pháp gây nhiễm lần hai bằng dịch tế bào đã thu hoạch 
Các bước thực hiện giống như gây nhiễm lần thứ nhất nhưng thay mẫu huyết thanh, phổi và hạch 
phổi bằng dịch tế bào đã thu hoạch. 
2.3.4.5.Phương pháp xác định sự hiện diện của virus bằng kỹ thuật RT-PCR 
Phản ứng RT- PCR được thực hiện theo sơ đồ 3.2 với các mẫu thu hoạch được sau hai lần gây 
nhiễm. 
18 
Để thực hiện phản ứng phiên mã ngược và khuếch đại đoạn cDNA sau phiên mã ngược với độ 
nhạy và độ đặc hiệu cao, chúng tôi thực hiện kỹ thuật RT-PCR một bước nhằm hạn chế sự lây 
nhiễm. 
2.4. Kết quả: 
2.4.1. Kết quả sau 2 lần gây nhiễm: 
19 
20 
Như vậy, sau 2 lần gây nhiễm trên môi trường tế bào MARC-145, có 3 mẫu có biểu hiện bệnh 
tích tế bào, chiếm tỷ lệ 27,27% (3/11) là 2 mẫu hạch phổi và 1 mẫu phổi. 
2.4.2. Kết quả RT-PCR: 
III. KẾT LUẬN 
21 
Việc gây bệnh tích tế bào và kết quả RT-PCR dương tính dã xác định sự hiện diện của virus 
trong mẫu xét nghiệm. Điều này cũng cho thấy môi trường tế bào MARC-145 là môi trường 
thích hợp cho sự phát triển của virus PRRS và có thể sử dụng cho phân lập. Kết quả của chúng 
tôi phù hợp với sự nhận định của Jeong-Ki Kim và cs (2005): tế bào MARC-145 là dòng tế bào 
nhạy cảm với virus PRRS nên thích hợp cho việc phân lập virus này. 
Sự thành công trong việc chẩn đoán PRRSV bằng kỹ thuật nuôi cấy tế bào ( trên MARC-145) sẽ 
là cơ sở thuận lợi cho việc nghiên cứu phương pháp điều trị căn bệnh này. 
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hoàng Thanh Hải, 2005. Thử nghiệm nuôi cấy tế bào MARC-145, ứng dụng kỹ thuật 
ELISA và nuôi cấy tế bào để chẩn đoán bệnh do virus PRRS trên heo. Luận văn tốt 
nghiệp, khoa Chăn Nuôi Thú Y, trƣờng Đại Học Nông Lâm Tp. HCM. 
2. Hoàng Văn Năm, 2001. Hội chứng sinh sản và hô hấp ở lợn (bài dịch tổng hợp). Tạp chí 
khoa học thú y. Số 1/2002. Tr. 74- 87. 
3. Nguyễn Ngọc Hải, 2007. Công nghệ sinh học trong thú y. NXB Nông Nghiệp, Tp.HCM. 
4. Phòng Dịch tễ-Cục Thú y. Hội chứng rối loạn hô hấp và sinh sản ở lợn. 
5. Trần Đức Minh. Virus gây hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn (Bài dịch từ 
“Theriogenology 66 (2006): 655-662”). 
6. Võ Thị Đan Thanh, 2006. Phân lập virus PRRS trên môi trường tế bào MARC-145 và 
xác định virus bằng kỹ thuật RT-PCR. Luận văn tốt nghiệp, Khoa Chăn Nuôi Thú Y, 
Trƣờng Đại Học Nông Lâm, Tp. HCM. 
7. “Nhà chăn nuôi cần biết”- Phan Bùi Ngọc Thảo,Phòng Di truyền Giống gia súc-Viện 
Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam 
8. Porcine Reproductive and Respiratory Syndrome Virus: Description of Persistence in 
Individual Pigs upon Experimental Infection. (JOURNAL OF VIROLOGY) 
9. Benfield D.A., Collins J.E., Dee S.A., Halbur P.G., Joo H.S., Lager K.M., Mengelling 
W.L., Murtaugh M.P., Rossow K.D., Stevenson G.W., and Zimmerman J.J., 1999. 
Porcine reproductive and respiratory syndrome. In disease of swine, 8th edition. 
Ed.Straw B.E., D’Alleire S.D., Mengelling W.L., Taylor D.J..Iowa State University 
Press, Ames- Iowa, USA. p.201- 220 
10. Tài liệu Internet 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nguyen_thanh_minh_06126078_dh06sh_6502.pdf nguyen_thanh_minh_06126078_dh06sh_6502.pdf