Chứng minh rằng: Với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vốn có quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế
Qua những phân tích ở trên ta đã chứng minh đuoẹc vấn đề “Với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vốn có quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế”. Từ đó chúng ta rút ra được vai trò của các yếu tố cấu thành và thuôc tính chính trị pháp lý đó để cho thấy quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể khác của luật quốc tế. Đồng thời qua việc xem xét vấn đề này ta rút ra được tầm quan trọng, vị trí, vai trò của quốc gia- với tư cách là chủ thể cơ bản, chủ yếu của luật quốc tế khi tham gia vào quan hệ quốc tế.
8 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3845 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chứng minh rằng: Với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vốn có quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ BÀI:
Chứng minh rằng : “Với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vốn có quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế”.
I.MỞ BÀI
Chủ thể luật quốc tế là những thực thể độc lập tham gia vào những quan hệ do luật quốc tế điều chỉnh, có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện. Có rất nhiều chủ thể tham gia vào đời sống chính trị pháp lý quốc tế. Nhưng không phải chủ thể nào cũng được coi là chủ thể của Luật Quốc tế khi tham gia vào các quan hệ quốc tế. Chủ thể của luật quốc tế bao gồm: Quốc gia, tổ chức quốc tế, dân tộc đang đấu tranh giành quyền dân tộc tự quyết, và một số thực thể đặc biệt khác. Mỗi chủ thể đều có những vai trò, đặc điểm và vị trí riêng, trong đó “chủ thể quốc gia được coi là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế”. Sau đây chúng ta sẽ chứng minh luận điểm trên.
II.THÂN BÀI
1.Khái niệm chung.
1.1 Quốc gia
Quốc gia là một phần tạo nên cộng đồng quốc tế, hiện nay trong khoa học pháp lý quốc tế chưa có một định nghĩa thống nhất được chấp nhận chung về thuật ngữ "quốc gia". Tuy nhiên, tại điều 1 Tuyên bố Montevideo về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia được thông qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu Mỹ ngày 27/12/1933 có đưa ra một vài yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia, đó là: dân cư thường xuyên, lãnh thổ xác định, chính phủ, năng lực tham gia vào các quan hệ với các chủ thể quốc tế khác.
1.2 Các dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết
Khi thực hiện chức năng chính trị, dân tộc đang đấu tranh vì một nền độc lập và tự do chân chính thường lập ra các cơ quan nhất định để lãnh đạo cuộc đấu tranh đó và để cụ thể hóa quyền năng chủ thể luật quốc tế của mình. Trong trường hợp nói trên dân tộc này là chủ thể của luật quốc tế đang ở trong giai đoạn quá độ thành lập một quốc gia dân tộc độc lập có chủ quyền.
1.3 Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Các tổ chức quốc tế liên quốc gia có được quyền năng chủ thể luật quốc tế không phải căn cứ vào những thuộc tính tự nhiên vốn có như quốc gia mà do thỏa thuận của các quốc gia thành viên tự trao cho.
Các tổ chức quốc tế liên quốc gia xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XIX nhưng vấn đề quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ này chỉ được đặt tra trong lý luận và thực tiễn sinh oạt quốc tế từ nửa sau thế kỷ XX.
1.4 Các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt
Các vùng lãnh thổ có quy chế pháp lý đặc biệt như Đài Loan, Hồng Kong…
2. Quyền năng chủ thể luật quốc tế Quyền năng chủ thể luật quốc tế là những phương diện thể hiện khả năng pháp lý đặc trưng của những thực thể pháp lý được hưởng những quyền và gánh vác những nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý trong quan hệ quốc tế theo quy định của LQT. có thể xem xét quyền năng chủ thể này theo 2 góc độ: Về lý luận: Là thuộc tính chủ quyền gắn với địa vị pháp lý quốc tế của quốc gia trong các quan hệ pháp lý quốc tế, tạo nên sự phân biệt về địa vị pháp lý của quốc gia với chủ thể do quốc gia tạo ra là tổ chức quốc tế liên quốc gia (liên chính phủ). Về pháp lý: Quốc gia, tổ chức quốc tế và dân tộc đang đấu tranh giành độc lập được thừa nhận là những thực thể có những quyền và nghĩa vụ quốc tế cơ bản xuất phát từ chính khả năng thực tế của những thực thể này khi tham gia vào các quan hệ pháp lý quốc tế.
3. Chứng minh với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vốn có, quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể của Luật quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế.
3.1 Các yếu tố cấu thành quốc gia
Điều 1 Tuyên bố Montevideo về quyền và nghĩa vụ của các quốc gia được thông qua tại Hội nghị quốc tế các nước châu Mỹ ngày 27/12/1933 có đưa ra một vài yếu tố chính dẫn đến sự hình thành quốc gia, đó là: Thứ nhất, có lãnh thổ xác định: đây là dấu hiệu cơ bản nhất hình thành quốc gia. Không tồn tại lãnh thổ thì không thể có quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được xác định là một phần của trái đất và được coi là cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là ranh giới để xác định chủ quyền quốc gia đối với dân cư của mình. Vấn đề kích thước lãnh thổ rộng hay hẹp, địa hình thuận lợi hay bất lợi đều không có ý nghĩa quyết định đến sự tồn tại hay mất đi của danh nghĩa quốc gia.
Thứ hai, có cộng đồng dân cư ổn định: Theo nghĩa rộng, dân cư của một quốc gia là tất cả những người sinh sống trên lãnh thổ một quốc gia nhất định và tuân theo pháp luật của nhà nước đó. Theo nghĩa hẹp, dân cư dùng để chỉ tất cả những người có quốc tịch của quốc gia đó.Mối quan hệ pháp lý ràng buộc giữa nhà nước với cộng đồng dân cư của quốc gia chủ yếu thông qua chế định quốc tịch. Thứ ba, có chính phủ với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong quan hệ quốc tế. Chính phủ này phải là chính phủ thực thi một cách có hiệu quả quyền lực nhà nước trên phần lớn hoặc toàn bộ lãnh thổ quốc gia một cách độc lập, không bị chi phối, khống chế bởi quốc gia khác. Thứ tư, có khả năng độc lập tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế: "khả năng" này có được xuất phát từ chủ quyền quốc gia khi thực hiện chức năng đối ngoại của mình. 3.2 Thuộc tính chính trị pháp lý của quốc gia
Như đã phân tích ở trên dù một thực thể có đây đủ các yếu tố cấu thành quốc gia nhưng không thể buộc các quốc gia khác phải công nhận tư cách quốc gia của thực thể này trong một mối quan hệ song phương. Việc công nhận và thiết lập quan hệ hợp tác giữa các quốc gia với nhau hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí và mong muốn chủ quan của các quốc gia trên cơ sở chủ quyền quốc gia.
Quốc gia là chủ thể có thuộc tính chính trị pháp lý đặc thù là chủ quyền, bới thuật ngữ phổ cập là chủ quyền quốc gia. Và cũng có nhiều học thuyết về chủ quyền quốc gia như học thuyết chủ quyền tương đói, tuyệt đối…nhưng không còn phù hợp với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Hiện nay, chủ quyền quốc gia được hiểu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc ;ập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong quan hệ quốc tế, quốc gia hoàn toàn độc lập không bị lệ thuộc vào các quốc gia khác trong giải quyết vấn đề đối ngoại của mình. Việc tham gia của quốc gia vào tổ chức quốc tế, vào các hoạt động quốc tế liên quốc gia và các hình thức hợp tác quốc tế khác là biểu hiện rõ nét kết quả thực hiện chủ quyền đối ngoại của quốc gia.
3.3 Phân tích
Dựa vào những yếu tố cầu thành của mình và thuộc tính chính trị pháp lý quốc gia được coi là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất so với các chủ thẻ của Luật Quốc tế khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Điều này được thể hiện :
Thứ nhất, nhờ các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý mà quốc gia là chủ thể có nhiều quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế hơn các hcur thể khác. Bà khả năng tự thực hiện quyền năng đó mà không bị lệ thuộc vào ai. Do đó nó được coi là chủ thể có đầy đủ quyền năng nhất so với các chủ thể của luật quốc tế.
Quốc gia có đày đủ các quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào quan hệ quốc tế, điều này đươc ghi nhân trong các văn kiện quốc tế hiện đại, đó là:
Quyền :
-Quyền bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi
-Quyên tự bảo vệ cá nhân hoặc tự vệ tập thể
-Quyền tồn tại trong hòa bình
-Quyền được tự do quan hệ với các chủ thể khác của luật Quốc tế
-Quyền được trở thành thành viên của tổ chức quốc tế phổ biến
-Quyền được tham gia vào việc xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế
Nghĩa vụ:
-Tôn trong chủ quyến của quốc gia
-Tôn trọng sự bất khả xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác
-Giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các phương pháp hòa bình
-Tôn trọng nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế
-Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau
-Không áp dụng vũ lực hoặc đe dọa vằng vũ lực
-Hợp tác hữu nghị với các quốc gia khác nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế
-Tôn trọng những quy phạm mệnh lệnh và những cam kết quốc tế
Ngoài các quyền và nghĩa vụ trên đây, các quốc gia[ khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế có thể tự hạn chế những quyền và nghĩa vụ của mình trong những lĩnh vực và phạm vi nhất định, không trái với các quy ước quốc tế.
Dân tộc đang đấu tranh nhằm thực hiện quyền dân tộc tự quyết khi tham gia quan hệ quốc tế cũng có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định:
-Được thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình trong bất cứ hình thức nào, dưới bất cứ dạng nào kể cả việc áp dụng những biện pháp để chống lại nước đang cai trị mình.
-Được pháp luật quốc tế bảo vệ các quốc gia, các dân tộc và nhân dân trên thế giaois, các tổ chức quốc tế giúp đỡ
-Quyền được thiết lập những quan hệ chính thức với các chủ thể của luật quốc tế hiện đại
-Được tham gia vào hoạt đông của các tổ chức quốc tế và hội nghị
-Được tham gia vào việc xâydựng những quy phạm của luật quốc tế và độc lập trong việc thực thi luật này
Và các tổ chức quốc tế liên chính phủ, quyền năng của các tổ chwucs này dựa trên điều lệ, hiến chương…trong đó quy định rõ quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức này. Như vậy các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác nhau sẽ có phạm vi quyền hạn khác nhau
Quyền:
-Được trao đổi đại diện tại các tổ chức của nhau
-Được ký kết các điều ước quốc tế
-Được yêu cầu kết luận tư vấn của tòa án quốc tế của liên hợp quốc
-Được hưởng quyền miễn trừ và ưu đãi ngoại giao
-Được giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên và các tổ chức quốc tế đó
Như đã xem xét các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của pháp luật quốc tế ở trên chúng ta có thể thấy quốc gia có những quyền mà các chủ thể khác của luật quốc tế không có như quyền bình đẳng về chủ quyền, quyền bất khả xâm phạm về lãnh thổ…những quyển này chỉ quốc gia mới có mà các dân tộc đấu tranh đang đấu tranh nhằm mục đích thực hiện quyền dân tộc tự quyết cà các tổ chức quốc tế liên minh chính phủ không thể có được Điều này cũng xuất phat từ thuộc tính chính trị pháp lý của nó đó là yếu tố chủ quyền quốc gia, và cũng nhờ những yếu tố cấu thành của quốc gia mà quốc gia mới có thuốc tính chính trị pháp lý này. Với chủ quyền quốc gia có đày đủ quyền năng để xác lập quan hệ quốc tế với quốc gia khác, quốc gia mới có quyền yêu cầu các quốc gia khác tôn trọng độc lập, chủ quyền và thông nhất toàn vẹn lãnh thổ của mình khi tham gia vào các quan hệ quốc tế, còn dân tộc đấu tranh nhằm giành quyền tự quyết chưa có sự toàn vẹn lãnh thổ, mà mới chỉ đang đấu tranh để giành quyền đó.Còn với các tổ chức liên chính phủ, vấn đề lãnh thổ quốc gia không được đặt ra khi tham gia vào quan hệ pháp lý quốc tế. Bởi nó được tham gia với tư cách trên cơ sở sự thỏa thuận của các quốc gia thiết lập nên nó. Do đó có thể thấy được yếu tố cấu thành quos gia và thuộc tính chính trị pháp lý của nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhò nó mà quốc gia có những quyền mà các chủ thể khác không có được
Ngoài ra quốc gia còn có những quyền như quyền ưu đãi và miễn trư ngoại gia, đay là quyền chỉ quốc gia và tổ chức quốc tế liên chính phủ có còn các dân tộc đấu tranh thì không,
Quốc gia có quyền và nghĩa vụ mang tính tự quyết không phụ thuộc vào ai, cũng không bị chi phối, còn với các dân tộc đang đáu tranh thì quyền tự quyết còn phụ thuộc nhiều yếu tố
Đồng thời khi tham gia vào quan hệ quốc tế, quốc gia còn có thể tự hạn chế quyền và nghĩa vụ xơ bản của mình. Ví dụ: trước năm 2001 Thụy sĩ tuyên bố trung lập, không là thành viên của tổ chức nào…
Qua những phân tích ở trên ta thấy được , dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết là chủ thể đặc biệt của luật quốc tế vì nó chưa phải là quốc gia mà chỉ đang tham gia quá trình hình thành quốc gia. Tổ chức quốc tế liên chính phủ là chủ thể hạn chế bởi nó được chính các quốc gia thành lập, nó chỉ tham gia quan hệ quốc tế trong lĩnh vực mình.Còn quốc gia thì có đầy đủ các điều trên.
Thứ hai, quốc gia là nhân tố quyết định sự ra đời và tồn tại luật quốc tế vì luật quốc tế chỉ được hình thành khi xuất hiện quốc gia và các quốc gia này pahir có sự liên hệ với nhau. Luật quốc tế điều chỉnh nhiều vân đề giữa quan hệ giữa các quốc gia với nhau nên nó được trao nhiều quyền hơn chủ thể khác.
Thứ ba, với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vồn có là chủ quyền quốc gia, quốc gia có đủ tư cách tham gia vào tất cả các quan hệ quốc tế, nên quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất so với các chủ thể khác.
Thứ tư,quốc gia mang trong mình yếu tố chủ quyền quốc gia và nó sẽ chi phối đến toàn bộ với các chủ thể khác đặc biệt là các tổ chwucs quốc tế liên chính phủ. Yếu tố chủ quyền được thể hiện là quốc gia đó có toàn quyền lựa chọn và quyết định đối với đất nước về mọi mặt mà không phải xin phep, đây là điều làm cho quốc gia là chủ thể cơ bản hơn chủ thể khác.
Thứ năm, chủ quyền quốc gia được coi là chủ thể có tồn tại bền vững nhất, nó đi liền với sự ra đời của luật quốc tế.Điều này cho thấy nó là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất so với các chủ thể khác.
III.KẾT BÀI
Qua những phân tích ở trên ta đã chứng minh đuoẹc vấn đề “Với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vốn có quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể của luật quốc tế khi tham gia quan hệ quốc tế”. Từ đó chúng ta rút ra được vai trò của các yếu tố cấu thành và thuôc tính chính trị pháp lý đó để cho thấy quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể khác của luật quốc tế. Đồng thời qua việc xem xét vấn đề này ta rút ra được tầm quan trọng, vị trí, vai trò của quốc gia- với tư cách là chủ thể cơ bản, chủ yếu của luật quốc tế khi tham gia vào quan hệ quốc tế.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chứng minh rằng - Với các yếu tố cấu thành và thuộc tính chính trị pháp lý vốn có quốc gia là chủ thể có quyền năng đầy đủ nhất trong số các chủ thể c.doc