Cuối cùng, chúng tôi nhắc lại rằng sự năng động của sự thay đổi trong các lĩnh vực
tổ chức là một vấn đề ngày càng là trọng tâm cho lý thuyết về thể chế, và cũng có thể lý
thuyết thể chế đại diện cho nhiều cơ sở về sự hiểu biết về sự thay đổi. Dưới đây là sự
trích dẫn công trình của Dacin và các đồng sự (2002, trang 48): ''sự thay đổi thể chế có
thể tiến hành từ các cá nhân nhỏ nhất, các cấp tiểu tổ chức cho đến cấp vĩ mô nhất của xã
hội và toàn cầu. Nó có thể diễn ra tương đối ngắn gọn và vào các thời điểm tập trung
hoặc trong khoảng thời gian dài tính bằng thập niên hoặc thế kỷ. Và nó có thể diễn ra
từng bước, khiến các nhà quan sát và người tham gia là hầu như không biết về sự thay
đổi, hoặc nó có thể diễn ra một cách đột ngột với các giai đoạn đầy ấn tượng biểu thị cho
một loạt các sự kiện khác xa với các các khuôn mẫu trước đây.'' Chúng tôi hy vọng và
mong muốn rằng mô hình chúng tôi đã vạch ra sẽ cung cấp một phương pháp tiếp cận
đầy hứa hẹn để xử lý với những vấn đề rất quan trọng.
38 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2121 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương 10: Sự năng động của việc thay đổi trong những lĩnh vực tổ chức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những “người
tham gia” mới. Có một kết quả quan trọng là sự hình thành các công ty trách nhiệm hữu
hạn hoạt động tư vấn về tài sản nợ có trách nhiệm chính đối với các cổ đông, có vẽ như
chống lại sự kết hợp cũng như nền tảng của sự kết hợp giữa các đối tác và khách hàng.
Một lần nữa, những hình thức tổ chức và thực tiễn mới đã xuất hiện với mức độ hợp pháp
cao từ bởi SEC55.
Những áp lực chức năng trở nên quan trọng trong việc khử thể chế hóa của lĩnh vực
tổ chức, đặc biệt thông qua những thay đổi trong thị trường. Quả thật, đã có sự tương tác
đáng kể giữa các áp lực chính trị và áp lực chức năng trong nhiều lĩnh vực trong hai thập
kỷ qua như là các chính phủ tập trung quyền lực56 đã đưa ra ngày càng nhiều việc bãi bỏ
các quy định với mục đích tạo sức cạnh tranh lớn hơn. Điều này liên quan đến việc thay
đổi các “đơn vị thực hiện” trong một lĩnh vực , đưa ra những đơn vị mới, và chuyển đổi
những đơn vị hiện hữu, điều này được mô tả bởi Scott và cộng sự (2000) trong hệ thống
chăm sóc sức khỏe Vùng Vịnh57. Bên cạnh việc xảy ra việc bãi bỏ quy định của thị
trường là sự chuyển dịch cơ cấu của thị trường cạnh tranh. Thornton (1995), Thornton và
Ocasio (1999) chỉ cho thấy cách thức những áp lực thị trường trong ngành công nghiệp
xuất bản hệ cao đẳng dẫn đến các “đơn vị thực hiện” mới bước vào ngành công nghiệp,
mang theo những thực tiễn về quản lý và cơ cấu tổ chức mới. Hinings, Greenwood, và
Cooper (1999) lập luận tương tự rằng những thay đổi thị trường trong nhu cầu về dịch vụ
kế toán dẫn đến một sự di chuyển từ hình thức cộng tác chuyên môn của tổ chức thành bộ
máy chuyên nghiệp được quản lý với một định hướng thị trường nhiều hơn.
53 SEC (Securities Exchange Commission):Ủy Ban Chứng Khoán (của Hoa Kỳ)
54
“ Big Five”- tạm dịch là 5 công ty hàng đầu
55 SEC (Securities Exchange Commission):Ủy Ban Chứng Khoán (của Hoa Kỳ)
56 Right-of-center government
57
Bay Area health system
18
Một cách quan trọng để các áp lực xã hội tạo ra sự chuyển đổi thể chế là thông qua
sự xuất hiện của những giá trị mới thách thức những lý luận thể chế hiện hữu.Việc thay
đổi những khái niệm xã hội cho phép các “đơn vị thực hiện” mới tham gia vào một lĩnh
vực. Việc thay đổi từ công việc ngành y tế đến công việc hành chính dẫn đến các lập
luận xác đáng trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã làm thay đổi các nhà cung cấp dịch vụ,
mà đỉnh cao, là ở Hoa Kỳ, với tổ chức HMO58 (Caronna và Scott, 1999). HMO là một
nguyên ảnh tổ chức mới nhằm phân phối dịch vụ chăm sóc sức khỏe với hoạt động hoàn
toàn khác các hình thức tổ chức y tế chuyên nghiệp. Scott và đồng sự (2000) chỉ rõ một
quá trình liên tục trong 60 năm qua của ba lý luận thể chế chủ đạo khác nhau: y tế, chính
phủ, và thị trường, mỗi lý luận đại diện cho các bộ giá trị xã hội khác nhau về bản chất
của sự chăm sóc sức khỏe.
Những “đơn vị thực hiện” mới đưa ra những ý tưởng mới và cách thức mới làm việc
vào trong lĩnh vực tổ chức. Dĩ nhiên "cái mới" có hai nghĩa. Các áp lực mang tính chính
trị, chức năng, xã hội có thể hoặc cho phép các “đơn vị thực hiện” đã được thiết lập từ
các lĩnh vực khác xâm nhập vào (như trong ví dụ ngành công nghiệp xuất bản của
Thornton), hoặc họ có thể tạo ra các “đơn vị thực hiện” mới hoàn toàn. Cả hai điều này
có thể xảy ra cùng một lúc. Như trong lĩnh vực tư vấn công nghệ, từng được xem như là
tiên phong (Greenwood và các đồng sự., 2002). Hoặc ngành Công Nghệ Thông Tin (IT)59
ngày càng trở thành một phần của hoạt động kinh doanh, đã có sự hội tụ lại với nhau, nói
theo cách khác, các công ty tư vấn quản lý khác như Cap Gemini Ernst và Young đã di
chuyển mạnh mẽ vào công việc Công Nghệ Thông Tin, mặt khác, các công ty Công Nghệ
Thông Tin như IBM đã trở thành những công ty tư vấn. Kết quả là một sự chuyển đổi của
lĩnh vực này khi các loại tổ chức riêng biệt trước đó bắt đầu cạnh tranh với nhau. Và hình
thức doanh nghiệp nổi trội xuất hiện là sự cung cấp dịch vụ tư vấn kết hợp Công Nghệ
Thông Tin. Trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe, đã có nhiều quá trình hình thành những
“đơn vị thực hiện” mới hoàn toàn, như HMO và hội đồng phụ trách sức khỏe khu vực
58 HMO (Health Maintenance O rganization)
59
IT (Information Technology)
19
(Reay và Hinings, sắp tới; Scott và các đồng sự., 2000). Trong tình huống này các “đơn
vị thực hiện” mới tạo ra các nguyên ảnh mới.
Tại sao các “đơn vị thực hiện” trong lĩnh vực cần tìm kiếm sự thay đổi là một vấn đề
thú vị. Điều này ít nhất có đóng góp một phần vào việc sự thay đổi có thể nhìn thấy được,
bằng cách đưa vào một cách triệt để hoặc là từng bước. Một điều được ghi nhận là những
người tham gia "ở ngoài rìa "60 thì có nhiều khả năng tìm kiếm sự thay đổi hơn (Powell,
1991). Do không được hưởng lợi từ những lợi ích vốn có của lĩnh vực này, và cũng
không có thể mở rộng đầu tư trong sự thỏa thuận hiện có, những người tham gia ngoài rìa
sẽ hưởng lợi nhiều hơn các “đơn vị thực hiện” ở trung tâm nếu có sự thay đổi. Vì vậy,
họ có nhiều khả năng suy tính và thúc đẩy cho sự thay đổi khi có cơ hội xuất hiện. Theo
Leblebici (1991, trang 358), v iệc đưa ra các thực tiễn mới một cách triệt để trong các tổ
chức "được thực hiện bởi những người cho rằng họ sẽ ít tốn kém hơn với kết quả cuối
cùng". Những ví dụ tương tự có thể thấy từ những cuộc nghiên cứu công nghệ, khi sự đổi
mới nhằm đánh tan sự cạnh tranh được kết hợp với các đại lý nằm rìa hoặc bên ngoài vì
các đơn vị này có ít lý do để tán đồng tình trạng hiện hữu (Anderson và Tusman, 1990).
Ví dụ, Hargadon và Douglas (2001) mô tả các công ty gas mạnh mẽ chống lại các thí
nghiệm tiên phong của Edison sản xuất điện dùng cho khu dân cư và kinh doanh. Hơn
nữa, như Greenwood và Suddaby (2002) lưu ý, người tham gia ngoài rìa ít nằm bên
trong, và do đó ít có khả năng bị trói buộc bởi những thực tiễn trong một lĩnh vực.
Thuật ngữ doanh nhân thể chế61 hữu ích bởi vì nó thể hiện ý tưởng của các “đơn vị
thực hiện” tranh thủ cơ hội để nắm bắt lợi thế. Nhưng trong một chừng mực ý nghĩa nào
đó, thuật ngữ này là gây hiểu nhầm, bởi vì nó tạo ra cảm tưởng rằng những người khởi
xướng sự thay đổi đều giống như “những người nổi dậy” như được mô tả trong lý thuyết
về phong trào xã hội. Lý thuyết về phong trào xã hội (McAdam và các đồng sự., 1996) đề
cập đến cách thức các cá nhân và các nhóm không có lợi trong xã hội huy động và thách
thức cấu trúc thể chế đang nắm ưu thế và cả các tác động của nó. Theo McAdam và các
60 “ Peripheral”
61 Institutional Entrepreneur - đã được dị ch là “ doanh nhân thể chế” suốt chương này, ở phần n ày được tác gi ả giải
thích rõ hơn ý nghĩa sử dụng của nó.
20
đồng sự, có một "sự đồng thuận mới xuất hiện" bao gồm ba yếu tố có tầm quan trọng khi
phân tích các phong trào xã hội: "cơ hội chính trị," "sự huy động cơ cấu" và "sự tạo
khung quy trình" (vấn đề này sẽ được nói đến nhiều hơn sau này). Những cơ hội chính
trị, theo ghi chú McAdam (1996, trang 23), đang sinh ra "người nổi dậy có đủ điều kiện
bằng cách chuyển dịch cấu trúc thể chế và bố trí lại các hệ tư tưởng đang thống trị" (điểm
nhấn mạnh này được thêm vào).
Lý thuyết phong trào xã hội bổ sung cho lý thuyết thể chế bởi vì nó nhắc nhở chúng
ta rằng không phải tất cả các “đơn vị thực hiện” trong lĩnh vực đều có đặc quyền như
nhau qua các thực tiễn thể chế hiện hành và có thể đối đầu với các thực tiễn này.Trong ý
nghĩa này, các “đơn vị thực hiện” tập hợp các “đơn vị tham gia” nằm ngoài rìa đã được
đề cập trước đó. Nhưng phải hiểu là chúng khác nhau. Doanh nghiệp thể chế như được
mô tả bởi những nhà thể chế62 được thúc đẩy bởi vấn đề kỹ thuật là chủ yếu, đó chính là,
các thực tiễn hiện hành không thành công trong việc đối phó với những thách thức và
trong một số trường hợp của lĩnh vực thì những lựa chọn thay thế lại được xem là hiệu
quả hơn. Thật vậy, từ ngữ của "doanh nhân" nhằm để vay mượn ý nghĩa trong sự miêu tả
chân dung của từ đó63. Nhưng một số sự thay đổi được đấu tranh vì lý do chính trị, kh i
các nhóm tìm cách vượt qua bất lợi của họ và có được uy thế và đặc quyền. Những chủ
thể thay đổi64 như vậy càng giống như “những người nổi dậy" trong lý thuyết phong trào
xã hội. Ví dụ là phong trào của người tiêu dùng chống các bệnh viện tư nhân trong hệ
thống y tế, hoặc các phong trào của phụ nữ thách thức sự đối xử bất bình đẳng, hoặc công
đoàn phản đối các cổ đông ưu thế.
Nói tóm lại, chúng tôi đang đề nghị khi (1) có các áp lực chính trị, chức năng, và xã
hội, (2) các doanh nhân thể chế, xuất phát từ cả trong nội bộ và bên ngoài, nổi lên như
“đơn vị thực hiện” quan trọng, và (3) vai trò của các “đơn vị thực hiện” này là để khởi tạo
sự thay đổi. Những doanh nhân thể chế và những người đối kháng rất quan trọng trong
việc kích hoạt quá trình thay đổi. Họ phá vỡ các ý tưởng và thực tiễn hiện tại (như vậy,
62 institutionalist
63 (chú thích người dịch : ý tác giả dùng chữ “ doanh nhân thể chế” để thể hiện người có lợi trong một thể chế )
64
Change agent
21
thúc đẩy sự khử thể chế hóa) và đưa ra cách thay thế của việc tổ chức (tái thể chế hóa).
Suddaby (2001) cho thấy rằng điều này mô tả chính xác các hành động của "năm tổ chức
hàng đầu"65 trong quá trình tạo các thực tiễn đa kỷ luật về kế toán và pháp luật. Tuy
nhiên, như Greenwood và Hinings (1996) đã lập luận, áp lực cho sự thay đổi, thậm chí
kết hợp với các thử nghiệm địa phương, không tự động dẫn tới sự truyền bá đồng đều và
trơn tru của một nguyên ảnh mới. Vì vậy, chúng tôi cần chuyển đến các quá trình mà sự
truyền bá được mạnh mẻ hơn.
Giai đoạn III: quá trình khử và thiết lập lại thể chế hóa
Có 3 mặt trong việc triển khai sự khử và thiết lập lại sự thể chế hóa là lý thuyết
hóa66, sự hợp pháp hóa 67 và sự phổ biến 68. Lý thuyết hóa là sự phát triển và đặc tả các
phạm trù trừu tượng và tạo ra các chuỗi nhân quả; điều đó có nghĩa là nó bao gồm cả việc
xây dựng một mô hình cho các hình thức tổ chức và thực tiễn mới làm việc và cung cấp
một sự điều chỉnh để thích hợp cho cả hiện tại và tương lai (Strang và Meyer,1993 trang
492). Sự hợp pháp hóa là tiến trình liên kết các ý tưởng mới, các hình thức và thực tiễn
cho các tập hợp của giá trị và lý luận được duy trì bởi sự kính trọng bởi các “đơn vị thực
hiện” trong lĩnh vực và bối cảnh xã hội chung quanh. Các hình thức tổ chức mới sẽ
không đạt tới tình trạng nguyên ảnh “được thừa nhận một cách đương nhiên”69 trừ khi
chúng được chấp nhận như là pháp chế. Sự phổ biến lan truyền nguyên ảnh mới trong
lĩnh vực, qua cơ chế của sự ép buộc, chuẩn mực, các đẳng cấu sao chép nhau70
Lý thuyết hóa
Lý thuyết hóa bao gồm một tiến trình của sự trừu tượng hóa (Abbott 1988), lấy các
đặc trưng, thiết lập trường hợp cục bộ của các ý tưởng mới và tổng quát hóa chúng cho
những bối cảnh khác nhau. Trong những giai đoạn trước, giai đoạn II, các thực tiễn mới
được cục bộ hóa một cách cơ bản.Có nghĩa là, các tổ chức đặc thù tiến hành thực nghiệm
65 “ Big Five”
66 Theorization
67
Legitimation
68 Dissemination : ở đây tạm dịch là : sự truyền bá ; sự phổ biến; sự lan tỏa
69 Taken-for-granted
70
Mimetic isomorphism
22
với nỗ lực để cải thiện các thực tiễn hiện hữu, có khi kết quả thực nghiệm cao hơn, vượt
qua các thực tiễn hoàn toàn bất ngờ. Tiến trình thực nghiệm có thể được kiểm soát hay là
một bị vô tình lệch hướng. Một cách trầm trọng, sự thực nghiệm và sự lệch hướng được
gắn kết chỉ với một thiểu số của những “đơn vị tham gia” trong ngành. Lý thuyết hóa
chuyển các thực nghiệm cục bộ thành một câu chuyện tổng quát về cách thức liên quan,
thích hợp cho đối tượng thụ hưởng rộng hơn. Lý thuyết hóa nhằm vào hai việc. Trước
hết, nó cho các đối tượng thụ hưởng71 biết về các thực nghiệm cục bộ. Sau đó nó biện hộ
cho việc bỏ các thực nghiệm cũ mà chấp nhận cái mới. Sự chấp nhận sâu rộng tùy thuộc
vào việc trình bày các ý tưởng mới có thành công đối với những người có xu hướng chấp
nhận (Strang và Meyer 1993, trang 494). Những ý tưởng và thực nghiệm mới phải được
thấy, và được xem là hấp dẫn hơn là các thực nghiệm hiện hữu. Như trình bày của Strang
và Meyer (1993 trang 495) “các mô hình phải thực hiện 1 sự chuyển đổi từ công thức lý
thuyết các phong trào xã hội đến các quy định thể chế.72” Qua điều này thể hiện những ý
tưởng tổ chức mới sẽ được đưa ra với tính “hợp pháp của đạo đức” (Suchman,1995)
nhằm gia tăng chất lượng hấp dẫn của chúng.
Hợp pháp hóa
Miznuchi và Fein (1999) chỉ ra rằng hầu hết các bài viết trong lý thuyết tổ chức đã
bỏ qua phần lớn cách thức để các ý tưởng mới trở thành hợp pháp, ngoại trừ các ý tưởng
này xuất hiện qua sự đẳng cấu bắt chước nhau. Tuy nhiên, có một vài sự ảnh hưởng của
cấu trúc của sự hợp pháp cho các hình thức tổ chức mới trong sự thay đổi thể chế không
đẳng cấu. Holm (1995) trong nghiên cứu của ông ta về việc đánh cá của người Na Uy đã
nhận định trạng thái như là các “đơn vị thực hiện” quan trọng73 trong việc hợp pháp hóa
sự cải tổ. Trong nghiên cứu của mình, Holm xử lý việc dịch chuyển các hệ tư tưởng, cấu
trúc xã hội và quyền lực ở các cấp khác nhau, điều đó tạo ra kết quả là thay thế các pháp
chế hiện hữu bằng cái mới. Leblebici với một số công trình (1991) cho rằng sự hợp pháp
hóa xảy ra khi sự đổi mới khiến cho những “đơn vị tham gia” cực đoan được chấp nhận
71
Audience - ở đây tạm dịch là “đối tượng thụ hưởng”
72 Institutional imperative
73 Critical actor.Ở đây từ actor đ ược lặp lại nhiều lần trong b ài viết,có thể tạm dịch là ““ đơn vị thực hiện”, “đơn vị
tham gia”
23
bởi những “đơn vị thực hiện” đã được thiết lập. DiMaggio (1991) qua sự quan sát cho
thấy sự hợp pháp của một dạng mới của bảo tàng đã trao quyền cho các phong trào cải
cách bảo tàng, và như vậy là cho phép sự khử tính hợp pháp của các hình thức đang tồn
tại. Những quan sát này chọn những nghiên cứu của sự thay đổi thể chế xác định sự hợp
pháp như là điều cốt yếu cho sự thiết lập các dạng mới của việc tổ chức (Scott 2001).
Sự thay đổi thể chế bao gồm những đoan quyết với sự hợp pháp có cơ sở rộng rãi
đã được tạo ra cho sự đa dạng của các đối tượng thụ hưởng bằng cách liên kết sự thay đổi
trong các thực tiễn nguyên ảnh đến các giá trị xã hội rộng hơn. Bài thuyết trình về sự hợp
pháp (hay lời tuyên bố ăn khớp ) ăn khớp với giá trị và thuộc tính của các ý tưởng mới,
hình thức , và các thực tiễn cho những điều được giữ trong xã hội ở mức rộng, có nghĩa là
những giá trị rộng hơn nằm ngoài lĩnh vực tổ chức riêng biệt. Sự thay đổi thể chế thì
được tổ chức ban đầu quanh những bàn cãi về sự thích hợp của các hình thức tổ chức đặc
biệt, với những “đơn vị tham gia” cố gắng “mang sự thích thú của họ vào các luồng của
giá trị xã hội và do đó tạo ra hoặc che chở sự hợp pháp của các định nghĩa về các “thứ tự
xã hội hợp lý” (Miles,1982 trang 23). Đạt được sự hợp pháp có nhiều cách mới tổ chức
liên hệ quyền hạn cho các “đơn vị tham gia” nào đó để điều khiển các quy trình hiện tại
và tương lai cho sự thể chế hóa.
Sự phổ biến (truyền bá)
Các thực tiễn thể chế đã được lý thuyết hóa và hợp pháp hóa (hai tiến trình này
tương tác lẫn nhau) sau đó có thể được truyền bá cho những “đơn vị tham gia” khác qua
các tiến trình bắt buộc,chuẩn mực,và các đẳng cấu bắt chước nhau. Nhiều tác giả đã
khám phá khuôn mẫu (Greve 1995, 1996), và cơ chế này (Baron, Dobbin, và Jenming
1986; Burns và Wholey 1993; davis 1991; Davis và Greve 1997;Funstein 1995; Gulati
1995; Haveman 1993; Haunschild và miner1997; Kraatz 1998; Mizruchi 1996; Palmer
Jenmings và Zhou 1993; Tolbert và Zucker 1983,Westphal và Zajac 1997) bằng cách này
các ý tưởng được chuyển trong cộng đồng tổ chức. Thật ra, sự tập trung vào lý thuyết thể
chế có nghĩa là dựa vào cách thức như thế nào các tiến trình bắt chước thực hiện để duy
trì cấu trúc, tương tác và nhận thức trong các lĩnh vực thuộc về thể chế. Chúng tôi cho
24
rằng có nhiều tiến trình giống nhau cùng đóng góp trong việc truyền bá các ý tưởng và
các thực tiễn mới ở cấp lĩnh vực 74, khi nó khử thể chế hóa và sau đó tái thể chế hóa.
Tolbert và Zuker (1983) triển khai tiến trình gồm hai g iai đoạn qua các nghiên cứu
của họ từ sự cải cách đô thị75 ở Hoa Kỳ, bắt đầu với các áp lực xã hội, chính trị và chức
năng. Làn sóng đầu tiên được chấp nhận là các bộ phận nhỏ76 với các loại khác nhau về
khoảng cách hiệu quả công việc 77. Giai đoạn 2 (là giai đoạn III của chúng ta) có một sự
dâng cao xu thế đẳng cấu sao chép nhau theo sau sự lý thuyết hóa và sự pháp chế hóa cúa
các hình thức tổ chức mới. Tương tự như vậy, Lee và Pennings(2002) cho rằng sự gia
tăng kiến thức sẽ là tính cạnh tranh và các quy trình thuộc thể chế tương tác với nhau
trong sự sản xuất sẽ hội tụ về mặt cấu trúc. Khuôn mẫu của mô hình liên kết các thành
phần78 được chấp nhận trong các công ty luật nhận được sự hợp pháp qua sự hồi tiếp của
thị trường, đã chứng thực hành vi ( và như vậy là hợp pháp) của việc chấp nhận các công
ty. Sau đó đã có một sự khuếch đại của sự truyền bá qua sự gia tăng tính hợp pháp của
hình thức mới.
Westphal với các đồng sự (1997) đã khẳng định và mở rộng mô hình của Tolbert
và Zucker. Họ xem xét sự chấp nhận ở các bệnh viện về các thực tiễn quản lý chất lượng
toàn phần (TQM)79 và đã nhận thấy có những đơn vị sớm chấp nhận80 các thực tiễn tối ưu
hóa của TQM, nhằm nâng cao hiệu quả. Đối với những đơn vị chấp nhận trễ hơn thì
ngược lại, chấp nhận các thực tiễn TQM tổng quát nhiều hơn, ngay cả mặc dầu sự chấp
nhận có tuần tự ngược lại với sự thực hiện của bệnh viện. Westphal và các đồng sự kết
luận rằng những đơn vị chấp nhận trễ theo đuổi sự hợp pháp vì áp lực chuẩn mực bất kể
tuần tự thực hiện.
Greenwood và Hinning (1996) gợi ý rằng những cơ chế này của sự truyền bá thay
đổi qua các lĩnh vực thuộc về thể chế. Đây là phần định nghĩa của một lĩnh vực tổ chức
74
Field level
75Municipal reform
76 contingent
77
Performance gap
78 Partner-associ ate model
79 Total quality management
80
Adopter ở đây được hiểu là đơn vị chấp nhận chứ không phải là 1 “đơn vị thực hiện”
25
trưởng thành, đó chính là cấu trúc, là các khuôn mẫu của sự tương tác và là những hệ
thống mang ý nghĩa chung nhất đã được thiết lập. Thực tế mà nói, các khái niệm trên gắn
chặt với nhau từng cặp và khó thâm nhập vào nhau. Tình trạng này có hai hàm ý. Một là
tiến trình của sự lý thuyết hóa và pháp chế hóa các ý tưởng mới khó mà thực hiện.
Greenwood và các đồng sự (2002) chỉ ra rằng phải mất cả thập niên để các ý tưởng của
sự cộng tác đa lĩnh vực81 được chấp nhận trong các lĩnh vực kế toán, ngay cả những đơn
vị đề xuất các ý tưởng này là những bộ phận tham gia có quyền lực và lớn hơn. Tuy
nhiên, hàm ý thứ hai là vì sự hiện diện của các cơ chế sao chép và mang tính chuẩn mực
trong các trường hợp đặc biệt, sự truyền bá một khi được khai hỏa có thể xẩy ra rất nhanh
chóng. Trong trường hợp mối liên kết từng cặp càng lỏng thì các lĩnh vực càng dễ thâm
nhập82 lẫn nhau và khi đó có càng nhiều ý tưởng được lý thuyết hóa - như là khi các nhà
lý thuyết phong trào xã hội đưa ra, thì càng “tạo khuôn khổ sự tranh tài ”83 (McAdam và
đồng sự 1996, trang 17), thì kết quả sẽ làm sự truyền bá sẽ khó khăn hơn vì sự cho phép
những cơ chế.
Dĩ nhiên, có những lĩnh vực tổ chức trong tất cả quốc gia là những chủ đề quan
trọng cho pháp chế và luật lệ và khi đó sự thay đổi về chất 84 có thể xẩy ra cực nhanh85.
Dobbin (2000),Dobbin và Dowd (1997) phân tích làm thế nào những chế độ chính sách
khác nhau - sự huy động vốn từ công chúng, ủng hộ các liên minh86 ,chống lại tập đoàn87
– của những năm 1825 -1992 đã ảnh hưởng đến sự thành lập và hình thành hệ thống
đường sắt ở Massachusetts. Hinings và Greenwood(1988) đã chỉ ra cách thức mà các lĩnh
vực của chính quyền địa phương ở Anh đã được chuyển đổi bằng sự sinh ra pháp chế từ
sự kết hợp của các áp lực chức năng, xã hội và chính trị trong hệ thống. Vào thời điểm
1/4/1974 khoảng chừng 1300 tổ chức đã trở thành 430 tổ chức với sự phân bố chủ yếu lại
công việc, biên giới địa lý, thay đổi mối quan hệ, tất cả đều dựa vào một tập hợp khác về
81
multidisciplinary
82 Permeable field
83 “ Framing contest”
84
Transformational change
85 “ At a stroke” tạm dịch là “ cực nhanh ”
86 Pro-cartel
87
Anti-trust
26
niềm tin về nhứng cách thức mà các dịch vụ địa phương phân bố. Reay (2000) mô tả một
sự chuyển đổi pháp chế tương tự trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở Alberta, Canada.
Hơn 200 hội đồng sức khỏe và bệnh viện được phân ra thành 17 hội đồng sức khỏe địa
phương (Regional Health Authorities- RHAs). Một lần nữa, điều này cũng thể hiện sự
phân phối chủ yếu lại công việc, ranh giới địa lý mới, và các mối quan hệ đã được thay
đổi. Toàn bộ sự thay đổi được tập trung bao quanh một tập hợp các giá trị nhấn mạnh một
hướng tiếp cận mang “dáng dấp kinh doanh”88 cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe, được
nhấn mạnh bằng việc đưa ra quy trình lập kế hoạch kinh doanh cho từng RHA và đề cao
sự hội họp giữa các thành viên hội đồng có kinh nghiệm kinh doanh hơn là có kiến thức
về sự chăm sóc sức khỏe.
Trong một vài trường hợp đặc biệt, giai đoạn III là một trong những phạm trù
được nghiên cứu nhiều nhất về tính năng động thuộc về thể chế. Nhưng cũng có trường
hợp, giai đoạn này không được nghiên cứu nhiều. Việc xảy ra sự truyền bá và (không ở
cùng 1 đối tượng) các khuôn mẫu phân tán cũng được tìm hiểu kỹ. Như được ghi chú ở
trên, cách thức của việc truyền bá các thực tiễn mới đã là những chủ đề thu hút nhiều học
giả. Nhưng gần đây, sự chú ý đã chuyển qua quy trình về lý thuyết hóa và sự hợp pháp
(Strang và Soule.1988; Suchman 1995). Sự lý thuyết hóa là một yếu tố cốt lõi trong giai
đoạn III. Nó liên kết sự xảy ra của sự biến đổi cục bộ (giai đoạn II) với tiến trình phát tán.
Sự lý thuyết hóa “đã làm rõ hơn những biến đổi không rõ nét trong các mô hình có thể
nhận dạng được và …công bố các chức năng của chúng” (Greenwood và Suddaby 2002
trang 4). Sự lý thuyết hóa chỉ ra rằng những thực tiễn được thể chế hóa thì kiên định và
chống lại sự thay đổi, sự lý thuyết hóa là một yếu tố cho phép quan trọng, nhưng lại là
một vấn đề tương đối khó hiểu. Công trình của Snow và các đồng sự (Snow và Benford
1992; Snow, Rochford, Worden và Benford 1986) trong lý thuyết phong trào xã hội cung
cấp một cái nhìn sâu bên trong. Snow và đồng sự (1986) tập trung vào cách thức mà
phong trào xã hội thu hút các thành phần tham gia. Theo như các ghi chú của Goffman
(1974) về “sự tạo khuôn mẫu,” Snow gợi ý những cách mà các phong trào xã hội phản
88
‘Businesslike”
27
ứng lại các sự kiện và các việc xảy ra thí dụ như lời kêu gọi “các nguồn dự trữ dùng
chung trên cơ sở tình cảm”89 (1986, trang 468). Bốn khía cạnh trong việc tạo khuôn mẫu
được chỉ ra một cách tổng quát là: sự bắc cầu90 (liên kết các nguồn dự trữ riêng biệt
nhưng đồng dạng và cùng ý thức hệ 91), sự khuếch đại92 [“sự phân loại và sự tiếp
sức”(1986 trang 469)], sự mở rộng 93 (mở rộng khung lõi để kêu gọi), và sự chuyển đổi 94
(cấu hình lại giá trị). Trọng tâm công việc này là dùng ngôn ngữ và các hình ảnh súc tích
để “tạo khung” các vấn đề khiến chúng có thể tăng thêm giá trị cho những người sử
dụng95 quan trọng. Trừ khi tiến trình tạo khung thành công , vì nó thường thất bại trong
việc thu hút sự tham gia: “Nhiều sự tạo khuôn mẫu có thể được tán dương, nhưng chúng
tôi nghi ngờ rằng chỉ có vài cái góp phần vào tổng thể và như vậy các khuôn mẫu này cần
được đặc trưng bằng cấp độ cộng hưởng khung96 mới đúng” (Snow 1986 trang 477).Việc
cung cấp sự cộng hưởng qua ngôn ngữ đã nêu lên những giá trị chúng ta thấy như là một
cơ chế quan trọng của sự lý thuyết hóa.
Để hiểu tốt hơn làm cách nào một sự lý thuyết hóa xảy ra đòi hỏi chúng ta phải nổ
lực chú ý hơn đến việc làm thế nào các vấn đề và thực tiễn được tạo khuôn - làm thế nào
các hình thức của các tổ chức ưu việt lại trở thành kém hiệu quả và nảy sinh vấn đề, và
làm thế nào các biện pháp thay thế được đưa ra như là giải pháp và được nhấn mạnh cho
cả đơn vị được chấp nhận tiềm năng và cho “đơn vị tham gia” chủ chốt vốn là những đơn
vị phê chuẩn.
Giai đoạn IV: sự năng động của việc khử và tái thể chế hóa
Bức tranh chúng ta đã trình bày cho đến nay chủ yếu liên quan đến những gì đã xảy
ra ở cấp độ các lĩnh vực của tổ chức, nhấn mạnh đến tiến trình tạo áp lực để khử việc thể
chế hóa và cho các nguyên ảnh thể chế mới nảy sinh qua các doanh nhân thể chế hay các
89 “ untapped…sentiment pools”. Từ “pool” ở đây có thể hiểu là các nguồn dự trữ góp chung
90
Bridging
91 Ideologic: tạm dịch là “ ý thức hệ”
92 Amplification
93
Extension
94 Transformation
95 Audience: tạm dịch là “người sử dụng”, “ người thụ hưởng.”
96
Frame resonance
28
nhà chống đối thể chế và làm thế nào các nguyên ảnh đó bắt đầu được bảo đảm bằng các
phương tiện của sự lý thuyết hóa, pháp chế và sự truyền bá. Theo Tolbert và Zucker
(1983), đa phần các lý thuyết về thể chế đã được trình bày là những tiến trình hơi giống
nhau, theo 1 đường cong chữ S. Nhưng có một vài nguyên ảnh mới được chấp nhận bởi
những “đơn vị thực hiện”97, thường là các tổ chức trong một lĩnh vực nhưng khác về cách
thức và tốc độ. Greenwood và Hinings (1996) đưa ra một khuôn mẫu để hiểu những tiến
trình bên trong của những tổ chức trong cùng một lãnh vực, nhấn mạnh vai trò của sự tận
tụy các giá trị, sự không thỏa mãn quyền lợi, quyền lực và năng lực.
Lập luận của họ là có hai cấp của sự chuyển đổi các lĩnh vực có liên kết với nhau.
Một cấp chính là lĩnh vực theo đúng bản chất vốn dĩ của nó. Ở cấp lĩnh vực các nguyên
ảnh mới nảy sinh trong sự phản ứng với áp lực của sự thay đổi, đã bàn luận ở trên. Cấp
thứ hai là “đơn vị thực hiện”/các tổ chức trong “lĩnh vực.” Đầu tiên, họ có thể là các
doanh nhân thể chế (những nhà cải cách và kỹ sư) hoạt động trong sự triễn khai và cải
tiến những ý tưởng, cấu trúc và quy trình mới này. Ngay cả khi không phải như vậy,
những đơn vị này cũng phải có trong các tiến trình lý thuyết hóa và hợp pháp hóa. Thứ
hai nữa, những tổ chức phản ứng lại các nguyên ảnh hợp pháp mới bằng sự thông dịch
(chúng ta hiểu được gì qua việc này?) và sự đánh giá chúng (chúng ta có nên chấp nhận
không?). Không thể mong đợi có một tiến trình chấp nhận đơn giản (ngay cả khi cái mới
này không quan trọng). Ngay trong tình huống được Hinnings và Greenwood (1988) sơ
lược chỉ ra, khi có sự chuyển đổi lĩnh vực mang tinh hợp pháp và một nguyên ảnh mới có
tính hợp pháp mạnh, thì sau 10 năm nhiều tổ chức sẽ không còn chấp nhận nguyên ảnh
đó nữa. Sự giải thích tại sao, khi nào và làm thế nào các tổ chức chấp nhận một nguyên
ảnh mới là do bên trong sự năng động nội bộ của từng tổ chức. Các thành phần năng
động chủ yếu của tiến trình này được trình bày trong giai đoạn IV của hình 10.1. Mục
đích của chúng tôi ở đây không phải là lập lại mô hình của họ trong chi tiết, mà chỉ tập
trung chú ý vào các thành phần cơ bản mà thôi.
97 Từ “Actor” trước đây cũng đã được dịch là: “ đơn vị tham gia”,người đóng vai,”đơn vị thực hiện” ( trong các phần
khác từ “ player” cũng được dịch là “ đơn vị tham gia” )
29
Greenwood và Hinnings (1996) gợi ý rằng cách thức và sự mở rộng của việc chấp
nhận các nguyên ảnh thể chế mới do các tổ chức riêng rẻ trong một lĩnh vực thì tùy thuộc
vào 4 thành phần tương tác với nhau:
1./ Sự mở rộng cho những nhóm khác nhau trong một tổ chức tận tụy với những
giá trị xây dựng những nguyên ảnh mới. Trong nhiều tổ chức có sự tận tụy cạnh tranh
giữa các cũ và cái mới sẽ làm cho việc chấp nhận trở nên khó khăn.
2./ Sự mở rộng cho những nhóm có sự bất mãn lợi ích 98. Có những nhóm trong tổ
chức mà cảm thấy không thuận lợi phần lớn trong các thực tiễn hiện hành và lại nhận ra
các ưu điểm trong sự thỏa hiệp mới, hay nói một cách khác là những nhóm sẽ đấu tranh
để duy trì thuận lợi của họ?.
3./ Những cách thức mà cấu trúc quyền lực của một tổ chức liên quan đến sự tận
tụy với các giá trị và các lợi ích. Các cách thức nằm trong quyền lực này có được sự tận
tụy với những cách thức mới và chúng có thấy những ưu điểm trong việc di chuyển đến
một nguyên ảnh mới không ?
4./ Khả năng của một tổ chức để triển khai sự thay đổi. Những nhóm nằm trong
một tổ chức có lẽ có sự tận tụy với những giá trị thích hợp và các quyền lợi thiết thực
trong việc chuyển đến một nguyên ảnh mới. Các nhóm có quyền lực này có lẽ là được ưa
thích nhưng nhóm có hiểu cách thức để triển khai sự thiết kế mới cả về kỹ thuật và xã hội
không? Tổ chức có những kỹ năng cần thiết trong cả quản lý sự thay đổi và trong những
thành phần kỹ thuật đặc biệt của nguyên ảnh mới, để bảo đảm sự triển khai thành công
hay không?
Bốn nguyên tố cơ bản này tương tác lẫn nhau để cho phép sự truyền bá và chấp
nhận sự thay đổi hay ngăn cản nó. Rõ ràng, khuôn mẫu này gợi ý là sự năng động của sự
tái lập thể chế hóa mang nhiều khó khăn khi được xem xét từ quan điểm về các cách thức
mà trong đó các khuôn mẫu tổ chức mới có trong khắp cả lĩnh vực trên nền tảng quan hệ
98
Interest dissatisfaction
30
giữa tổ chức với tổ chức99. Lawrence, Hardy và Phillips (2002) theo đuổi chủ đề về sự
khó khăn này bằng sự liên hệ đến khái niệm “tiền thể chế ”100, qua đó họ cho rằng “những
thực tiễn, công nghệ, và quy luật thì dễ lẫn lộn với nhau và sự cách biệt giữa chúng rất
mong manh, nhưng xu hướng này lại trở thành phổ biến trong sự thể chế hóa.”(trang 202)
Họ theo đuổi một tiến trình hay mô hình gồm các giai đoạn của sự phát triển thể chế. Seo
và Creed (2002) khi phân tích và mở rộng công trình của Greenwood và Hinnings (1996),
đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc phối hợp các lợi ích , đại diện, và quyền lực vào lý
thuyết thể chế: “sự hình thành thể chế và sự thay đổi là kết quả của việc đấu tranh chính
trị trong số rất nhiều các cử tri chính trị có quyền lực không bằng nhau”(trang 223). Dựa
vào Benson (1977), họ cho rằng sự mâu thuẫn về thể chế là then chốt dẫn đến sự đấu
tranh chính trị giữa những thành phần tham gia với các lợi ích khác nhau và quyền lực
bất đối xứng. Các đơn vị thực hiện trong xã hội như các tổ chức và các doanh nhân thể
chế, là các nhà khai phá tích cực cho những mâu thuẫn này, vận động những đơn vị thực
hiện và tài nguyên khác cho sự thay đổi. Tương tự, trong khi xem xét các tính chất thời
gian của sự thể chế hóa. Lawrence và các đồng sự (2001) nhấn mạnh các kiểu và mục
tiêu của quyền lực có ảnh hưởng đến kiểu thay đổi và sự ổn định của các thể chế được
hình thành.
Giai đoạn V: Sự tái lập thể chế hóa
Giai đoạn V của hình 10.1 liên quan đến sự tái thể chế hóa, giai đoạn này xem ra
cũng không được chú ý nhiều (Tolbert và Zucker 1996). Suchman(1995) cho rằng sự tái
lập thể chế hóa đã xảy ra khi mức độ chấp nhận đưa ra những ý tưởng hợp pháp trong
nhận thức để mở rộng những gì mà chúng được đương nhiên công nhận như là một sự
thống nhất phù hợp cho tất cả các tổ chức bên trong lĩnh vực. Điều này cũng có thể được
suy nghĩ như là sự tái lập thể chế hóa “mạnh,” sản sinh ra một lĩnh vực được chuyển đổi
như là một lĩnh vực trưởng thành, được xác định bởi DiMaggio và Powell (1983,1991).
Điều này nảy sinh một câu hỏi “mật độ như thế nào thì được gọi là chặt?”101
99 Organization – organization basis
10 0 Proto- institutions
10 1
“ How dense is dense”
31
Có hai mặt cho vấn đề này. Trước hết, như lý thuyết chúng tôi đã gợi ý, có một sự
phân biệt giữa mật độ ở cấp của thể chế lĩnh vực và mật độ ở cấp của tổ chức riêng rẻ.
Thứ hai, là mật độ ở cấp của tổ chức biểu thị là số lượng, hay là biểu thị theo cách chung
như sự biểu thị quyền lực?
Ở cấp lĩnh vực, có những đại diện mang tính điều lệ như tiểu bang, những bộ phận
có tính hợp pháp cao102 như Ủy Ban Chứng Khoán103, và các tổ chức chuyên nghiệp.
Những đơn vị này có thể là cực kỳ quan trọng trong tiến trình khử và thiết lập lại sự thể
chế hóa vì chúng cho phép biểu thị và tái sản sinh các ý nghĩa được chia sẽ. Chúng cũng
phán xét các phán quyết cạnh tranh, tăng cường sự hợp pháp của các quan điểm và thực
tiễn đối với nhau. Theo Hinnings và Greenwood (1988), tiến trình chuyển đổi104 lĩnh vực
của chính quyền địa phương ở Anh phát triển đáng kể khi tất cả các hiệp hội chuyên
nghiệp và hiệp hội địa phương thống nhất với các quy định mới về chức năng và tổ chức.
Những “đơn vị thực hiện” cấp lĩnh vực này có một vai trò quan trọng trong việc theo dõi
sự đồng thuận với những kỳ vọng được phê chuẩn một cách ép buộc và theo chuẩn mực.
Những niềm tin và thực tiễn mới gắn kết với sự đổi mới được tái sản sinh qua các tiến
trình như huấn luyện, giáo dục, thuê mướn và chứng nhận, và những buổi lễ kỷ niệm sự
thành lập. Bộ khung điều tiết cấp lĩnh vực sẽ vận hành trong các tiến trình trên (Rueff,
Scott, 1988), chẳng hạn theo phương thức “xác định hoặc ép buộc phải theo105” (Oliver,
1997, trang 102) các niềm tin tập thể ( xem Freidson, 1970, 1986; Star, 1982).
Do bản chất phản xạ và lặp đi lặp lại của sự chuyển đổi lĩnh vực106, có thể lập luận
rằng ít nhất cấp đầu tiên của sự chuyển đổi đã diễn ra khi các “đơn vị thực hiện” trung
ương đầy quyền lực chấp nhận những niềm tin và thực tiễn mới. Theo Leblebici (1991)
chỉ ra, ngay cả khi thực tiễn mới đến từ khu vực nằm rìa, tại một số điểm các thực tiễn
mới phải nhận được sự công nhận từ các “đơn vị thực hiện”- kiểm soát các quá trình như
vậy. Một lý do quan trọng để nhấn mạnh vai trò quan trọng của quyền lực là bởi vì, như
10 2 Quasi-legal bodies
10 3
(SEC) Securities and Exchange Commission
10 4 Transformation - ở đây tạm dịch là chuyển đổi, tuy rằng hàm ý bên trong là sự thay đổi về chất
10 5 “ Define or enforce”
10 6
Field transformation- nhắc lại từ “ transformation” ở đây hàm ý sự biến đổi về chất
32
đã nói trước đó, nó thường được các thành viên lĩnh vực khác, hoạt động như các doanh
nhân thể chế hoặc người chống đối, chính là những người đóng vai trò như một bộ phận
của nguồn gốc tạo ra ý tưởng và thực tiễn mới. Một khi được chấp nhận bởi cơ quan
quyền lực, quá trình thực hiện trong một lĩnh vực đã bắt đầu. Nó thường không phải là,
một quá trình từ trên xuống. Ngay cả trong tình huống được mô tả bởi Hinings và
Greenwood (1988), nơi cải cách chính quyền địa phương đã được hợp pháp hóa, những ý
tưởng tổ chức nhằm cải cách đến từ một nhóm các thành phố tự trị tận tụy thúc đẩy một
nguyên ảnh mới, mà họ đã thực hiện. Những bộ phận Trung ương thường không ''thoát
ra”107 từ các “đơn vị thực hiện” khác của tổ chức; những đơn vị này, hay ít nhất là một
phần của những đơn vị này, thường xuyên bao gồm các thành viên của các bộ phận này.
Các khía cạnh quyền lực được kể đến, vì các “đơn vị thực hiện” không nhất thiết
phải là cộng đồng thuần nhất (Barker, 1998; Powell, 1991). Sự ra quyết định trong bất kỳ
lĩnh vực nào cũng là một tiến trình chính trị (Van Hoy, 1993; Dezalay và Garth, 1996),
trong đó lợi ích cạnh tranh của các tiểu cộng đồng được hòa giải trên nền tảng phát triển
liên tục. Một số các “đơn vị thực hiện” có quyền lực hơn những đơn vị khác và vì thế có
nhiều cơ hội hơn để đưa ra giả thuyết, hợp pháp, và phổ biến. Ví dụ, trong thập kỷ qua,
vai trò của SEC tại Hoa Kỳ đã đặc biệt có quyền lực trong chuyển dịch cơ cấu các lĩnh
vực về kế toán và tư vấn quản lý.
Chúng tôi đề nghị các lập luận tương tự áp dụng đối với mật độ ở cấp độ của tổ
chức. Đó là, các “đơn vị thực hiện” và nhóm trung tâm, đầy quyền lực rất quan trọng
trong việc đánh giá mức độ thể chế hóa; nó không hoàn toàn là vấn đề số lượng. Giai
đoạn IV của mô hình của chúng ta nhấn mạnh quyền lực tương tác như thế nào với sự tận
tụy với giá trị và lợi ích vật chất cho phép, định hướng, và kiểm soát việc giới thiệu một
nguyên ảnh mới. Trong khi nhiều tài liệu về thay đổi tổ chức nhấn mạnh tầm quan trọng
của sự cam kết rộng rãi, thực tế là sự thay đổi tổ chức căn cơ có quy mô lớn có xu hướng
xảy ra, và trở thành thể chế hóa, từ sự khởi tạo và hoạt động của các quyền lực, cho dù
chúng tôi có gọi đó là các nhà lãnh đạo sự biến đổi vế chất hay là người có tầm nhìn hay
10 7
“ Disembodied”
33
không. Cũng vì thế, chúng tôi sẽ nói về vai trò quan trọng của quyền lực, trong các quá
trình của cả sự khử thể chế hóa và tái thể chế hóa (Clegg, 1989). Các công trình
Lawrence và các đồng sự (2001), là một ví dụ, cho rằng sự thống trị, là nơi có tính hệ
thống chứ không phải là các mảng quyền lực và mục tiêu của quyền lực đó, vốn được
xem như là một đối tượng chứ không phải là một chủ thể, sẽ tạo ra một mức cao của sự
ổn định trong sự thể chế hóa mang tính chung cuộc. Nhiều mảng quyền lực cố gắng kết
hợp với cơ quan cấp cao bằng các chủ thể thì sẽ tạo ra một thể chế không ổn định.
Tuy nhiên, có hai vấn đề khác đáng xem xét, cụ thể là sự xuất hiện của những phong
trào và xu hướng nhất thời, và các ý tưởng ớ lớp trầm tích108. Có một bộ phận đang lớn
lên từ các hoạt động của phong trào và xu hướng nhất thời trong tư tưởng và thực tiễn
quản lý (Abrahamson, 1991, 1996; Clark và Fincham, 2001). Công việc này cho thấy
rằng sự thể chế hóa thường không diễn ra mặc dù có thể có những cơ hội ngay khi mới
bắt đầu. Các câu hỏi được nêu ra,''bao lâu một nguyên ảnh mới hoặc thực tiễn phải tồn tại
thì mới đủ để được thể chế hóa ?'' Một thực tiễn như quản lý chất lượng toàn diện có thể
đạt đến một việc phổ biến rộng rãi và thậm chí như thể có một sự hợp pháp ở mức độ
cao, nhưng sau một vài năm mật độ chấp nhận giảm đáng kể. Rao, Greve, và Davis
(2001) kiểm tra các quá trình để các nhà phân tích chứng khoán dùng để lựa chọn các
công ty mà họ sẽ phân tích sâu. Không ngạc nhiên, do sự không chắc chắn trong việc lựa
chọn, tiến trình bắt chước đã xẩy ra (phù hợp với những phát hiện tân thể chế109 trước
đó). Tuy nhiên, Rao và đồng sự cũng cho thấy các nhà phân tích đã dễ bị thiên về đánh
giá cao triển vọng tương lai của công ty và nhanh chóng không chịu bảo hiểm. Đó là, tiến
trình bắt chước tuy có xẩy ra nhưng không nhất thiết dẫn đến hành vi thể chế hóa. Những
thực tiễn đó đã được sự chấp nhận rộng rãi có lẽ có lẽ tốt nhất là xếp loại chúng như là
một mốt hay xu hướng tạm thời (Abrahamson, 1996) hoặc như một tiền thể chế 110
(Lawrenceetal, 2002).
10 8 Sedimentation- từ này gợi ra hình ảnh các lớp lắng ở đáy, hóa thạch, tồn tại với theo thời gian
10 9 Neoinstitutional
11 0
Proto-Institution
34
Một vấn đề khác trong tái thể chế hóa là mức độ thật sự mà một nguyên ảnh thay
đổi căn cơ -sự chuyển từ nguyên ảnh này qua nguyên ảnh khác - hoặc liệu có một sự kết
hợp của liên tục và thay đổi (Child và Smith, 1987; Pettigrew, năm 1985, 1987). Cooper,
Hinings, Greenwood, và Brown (1996) đã sử dụng từ “trầm tích”111 làm ẩn dụ. Khi họ
diễn đạt,”những ẩn dụ chất trầm tích cho phép chúng ta xem xét sự thay đổi một cách
biện chứng hơn là một cách tuyến tính'”(trang. 624). Lý lẽ cơ bản của Cooper là sự thay
đổi thể chế đại diện cho một lớp của nguyên ảnh chứ không phải là một sự thay đổi từ
một nguyên ảnh này ra nguyên ảnh khác. Những điểm trầm tích cho thấy sự bền bỉ còn
lại của giá trị, ý tưởng và thực tiễn, ngay cả khi các cơ cấu chính thức và quy trình dường
như thay đổi, và ngay cả khi thấy có vẽ lộn xộn. Cách tiếp cận này hình thành chủ đề của
sự liên tục và thay đổi xẩy ra đồng thời, phản ánh công trình của Morris và Pinnington
(1999). Theo đó, ngay cả trong một tình huống mà người ta có thể nói về một sự thay đổi
thể chế, điều này cũng không có nghĩa là các thực tiễn đã được thể chế hóa trước đó đã
biến mất, mà chỉ có thể nói chúng đã được khử tính hợp pháp hóa tương đối và không
còn có sự hỗ trợ đầy đủ của các “đơn vị thực hiện” quyền lực trong lĩnh vực này. Nhưng,
như rất nhiều công trình gần đây đã nhấn mạnh, vẫn có những lý luận ngược lại không
kém phần thuyết phục ở cấp lĩnh vực tổ chức (Garud et al., 2002; Seo và Creed, 2002;
Scott et al., 2001; Thornton, 2002; Townley, 2002 ). Các hình ảnh của trầm tích nhắc nhở
chúng ta, một lần nữa, rằng sự ổn định của một lĩnh vực tổ chức luôn luôn là tạm thời, và
những căng thẳng thường nằm yên bên dưới ngay cả đối với các lĩnh vực xem ra là đã
trưởng thành.
Kết luận
Nỗ lực của chúng ta ở đây là nhằm cung cấp một lý do chặt chẽ và nhất quán hơn về
sự năng động của vấn đề thay đổi trong một lĩnh vực thể chế, là một vấn đề liên quan đến
sự quan hệ tổ chức, và cũng là phản ứng của các tổ chức riêng lẻ và những nhóm trong tổ
chức. Sự thay đổi trong các lĩnh vực thể chế chỉ có thể chỉ được hiểu là tương tác không
đổi giữa các cấp khác nhau của phân tích. Hướng nhân quả không phải là một chiều mà là
11 1
sedimentation
35
thuận nghịch. Các chủ thể phản thân112 tham gia vào bất kỳ loại thay đổi ở mọi cấp độ
phân tích, cho dù đây là những đơn vị xúc tác đưa ra những ý tưởng mới từ bên ngoài
lĩnh vực, những nhà cải cách nhìn thấy cơ hội bên trong lĩnh vực này để di chuyển theo
các hướng mới, hoặc thậm chí tạo ra cái mới hoàn toàn, hoặc là các kỹ sư đầy quyền lực
thấy được lợi ích của họ từ sự chấp nhận những niềm tin và thực tiễn mới.
Mô hình tiến trình này chỉ ra một số ý nghĩa quan trọng và định hướng cho các lý
thuyết và nghiên cứu. Trước tiên, thay đổi thể chế cần phải được hiểu thông qua các hành
động lặp đi lặp lại của các tiến trình được miêu tả năng động trong mô hình (đồ thị 10.1).
Nó được trình bày như là một quá trình tuần hoàn với ý nghĩa rằng sự khử và tái thể chế
hóa là một hoạt động lên tục. Aldrich (1999) đã đưa ra một lý do tuyệt vời của sự tiến hóa
của tổ chức, nên chúng tôi đã phải đồng nhất khái niệm lĩnh vực thể chế như là sự tiến
hóa. Thông thường, các lý thuyết thể chế đã chứng minh sức mạnh của lực lượng thể
chế. Gần đây câu hỏi đã được nêu ra là như thế nào sự khử thể chế hóa có thể xảy ra,
nhưng vấn đề này lại luôn được xem như là phần đầu của sự tái thể chế hóa. Và trong khi
đây là một quá trình hoàn toàn có thể có, đưa ra một số nhấn mạnh bên trong các lý
thuyết tổ chức dựa trên bản chất liên tục của sự thay đổi, đó là điều quan trọng được nhấn
mạnh khi nghiên cứu các lĩnh vực thể chế. Vì vậy, các nghiên cứu nên được tập trung ít
hơn vào các khuôn mẫu thể chế nào đó được chuyển đổi thành một khuôn mẫu thay thế
khác, mà tập trung nhiều hơn vào các quá trình xảy ra và cách thức các quá trình giữ cố
định, tính liên tục, và sự tiến hóa. Điểm kết thúc, sự ổn định, và tái thể chế hóa cũng là
những vấn đề có liên quan.
Thứ hai, điều quan trọng cần nhấn mạnh là sự tương tác đa cấp trong mô hình giữa
cấp lĩnh vực, cấp tổ chức và bên trong tổ chức. Sự đổi mới thể chế có thể xảy ra trong các
tổ chức riêng lẻ hoặc cụm của các tổ chức đó có ý nghĩa đối với cấp lĩnh vực của sự phân
tích. Tương tự, sự đổi mới có thể xảy ra ở cấp lĩnh vực tác động đến các tổ chức riêng lẻ
và các mối quan hệ giữa các tổ chức. Theo định nghĩa, một lĩnh vực thể chế có nhiều
thành phần đi theo, bao gồm cấu trúc và ý nghĩa cấp lĩnh vực, các nguyên ảnh thể chế, hệ
11 2
Reflexive agent : các chủ thể tác động lên chính nó
36
thống tổ chức, và các lớp diễn giải113 và các “đơn vị thực hiện” trong tổ chức. Không chỉ
là sự hình thành các doanh nhân thể chế, mà chúng còn có thể bao gồm các quá trình và
sự năng động của sự khử và tái thể chế hóa theo những cách khác nhau. Những nghiên
cứu cần đến các quá trình và sự năng động các cấp bên trong 114 có ảnh hưởng lớn đến
việc tách bạch các vai trò có liên quan và sự tác động của các cấp khác nhau tại các điểm
khác nhau trong sự tiến hóa của một lĩnh vực thể chế.
Hai vấn đề đầu tiên ở trên sẽ hình thành lên vấn đề thứ ba. Mô hình này được trình
bày như là một loạt các giai đoạn. Đây là một sự biểu thị mang tính phân tích hợp lý
trong điều kiện của hoạt động cần thiết từ sự khử đến sự tái thể chế hóa. Tuy nhiên, giống
như tất cả các mô hình giai đoạn, sẽ nẩy sinh vấn đề khi trình bày chúng từng phần riêng
lẽ. Có khả năng là xảy ra sự chồng lên nhau một cách phi tuyến các công việc trong các
giai đoạn. Do đó, một hướng nghiên cứu rất quan trọng là để gỡ rối các trình tự phát triển
ở những trường hợp đặc biệt của sự năng động thể chế. Điều gì xảy ra khi các nhà doanh
nhân thể chế rơi vào khó khăn trong việc hợp pháp hóa và phổ biến những ý tưởng của
họ? Họ từ bỏ, hay họ hợp tác với người tham gia thể chế khác (Selznick, 1949)? Khi đó
có một “sự tái sinh”115 từ các tiến trình (giai đoạn III) đến nguồn gốc (giai đoạn II)?
Những câu hỏi tương tự cũng có thể được nêu ra về mối quan hệ giữa tất cả các giai
đoạn. Trong sự năng động của giai đoạn IV, làm thế nào những áp lực trong giai đoạn I
lại đối phó với các vấn đề trong việc đảm bảo đảm sự tận tụy các giá trị hay thỏa mãn các
quyền lợi? Chúng tôi mong rằng giai đoạn III và IV được liên kết và tương tác mật thiết
với nhau, để thấy sự rõ ràng của sự lý thuyết hóa và sự hợp pháp có những hàm ý mạnh
mẻ về sự năng động trong việc chấp nhận hay loại bỏ các công việc ở cấp độ tổ chức.
Chính điều này làm mô hình được xem lá có tính tương tác cao, và nghiên cứu cần tập
trung xử lý các tương tác này và sự phản thân nằm bên dưới.
Điểm thứ tư là vai trò của quyền lực trong thay đổi thể chế, đây là một thành phần
quan trọng, cần phải tìm hiểu thêm. Quyền lực và chính trị thể hiện trong suốt mô hình.
11 3 Interpretive schemes
11 4 Intralevel
11 5
“ Recycle”
37
Chúng ta nhìn thấy sự thay đổi thể chế là một tiến trình chính trị ớ mức cao ở cả hai cấp
lĩnh vực và tổ chức (Greenwood và Hinings năm 1996; Greenwood và đồng sự, 2002;
Lawrence và đồng sự, 2002.) Đây là điểm đặc biệt quan trọng bởi vì nói chung, lý thuyết
thể chế có xu hướng không phải để nói rất nhiều về quyền lực, như công trình của
Selznick (1949) và Meyer và Rowan (1977). Quyền lực, tất nhiên, hoạt động ở nhiều cấp
độ (Clegg, 1989); trong trường hợp ở đây là các cấp: lĩnh vực, tổ chức, và nhóm trong tổ
chức. Những nghiên cứu nên tập trung vào tính chất công cụ của quyền lực để tạo ra
thành tựu của cả hai việc khử và tái thể chế hóa; và mở rộng ra cho trường hợp nguồn gốc
sinh ra các thực tiễn mới được đánh giá trên cơ sở quyền lực; và vai trò của quyền lực
trong cả hai mặt quá trình và sự năng động của sự thay đổi thể chế.
Điểm thứ năm liên quan đến tốc độ của thay đổi. Chúng ta đã xác định một thay đổi
thể chế là sự chuyển đổi từ một nguyên ảnh thể chế này qua nguyên ảnh thể chế khác.
Một trong những câu hỏi mà tất cả các lý thuyết về sự thay đổi đều đặt ra, mặc dù có rất ít
câu trả lời liên quan đến tốc độ của một sự thay đổi cụ thể nào đó. Trong khi có rất nhiều
các nghiên cứu về thời kỳ làm báo cáo thay đổi, nhưng các nghiên cứu này lại có xu
hướng không xem xét vấn đề này như là một phần quan trọng mà chúng ta cần tìm hiểu.
Các câu hỏi nghiên cứu này chỉ nêu ra phải mất bao lâu để từ giai đoạn I của mô hình
sang giai đoạn V, và cách thức để sự can thiệp vào các giai đoạn này ảnh hưởng đến
khoảng thời gian đó. Thời gian là một khái niệm và là biến cần thiết trong nghiên cứu
trong sự thay đổi thể chế (Scott et al., 2001; Zaheer, Albert, và Zaheer, 2000).
Điểm cuối cùng là hàm ý về phương pháp luận từ các câu hỏi mà chúng tôi sẽ đưa
ra. Không hẵn là hầu hết, hay là tất cả, nhưng những gì chúng tôi đề xuất có thể được
thực hiện thông qua các nghiên cứu định lượng quy mô lớn. Scott và các đồng sự (2001)
tuy đã gần như đồng ý với những gì chúng ta đang ủng hộ, nhưng ngay cả nghiên cứu
xuất sắc của họ cũng không gồm nhiều khái niệm mà chúng ta coi là quan trọng (nghiên
cứu của họ đã làm mất thời gian đáng kể của nhiều người!). Các vấn đề về mối quan hệ
giữa các cấp, các vai trò phản thân của các “đơn vị thực hiện”, và các quy trình và sự
năng động đòi hỏi các công việc chi tiết với các tài liệu liên quan đến các cuộc phỏng vấn
38
với các “đơn vị thực hiện” hiện tại và quá khứ, các cuộc khảo sát về thực tiễn, và sự quan
sát các hoạt động. Và tất nhiên, điều này cần được thực hiện trong những khoảng thời
gian chừng mực nào đó. Như trong công việc Scott và đồng sự (2001) và Van de Ven,
Polley, Garud và Venkataraman (1999); nghiên cứu sự năng động của sự thay đổi trong
các lĩnh vực thể chế đã được hình tượng và triển khai như một chương trình dài hạn, gồm
các nhà nghiên cứu tận tụy ngày càng mở rộng trong nhiều năm qua. Do đó, việc thực
hiện nghiên cứu chủ đề quan trọng nhất này trong lý thuyết thể chế đại diện cho sự thách
thức chủ yếu về mặt lý thuyết và phương pháp luận.
Cuối cùng, chúng tôi nhắc lại rằng sự năng động của sự thay đổi trong các lĩnh vực
tổ chức là một vấn đề ngày càng là trọng tâm cho lý thuyết về thể chế, và cũng có thể lý
thuyết thể chế đại diện cho nhiều cơ sở về sự hiểu biết về sự thay đổi. Dưới đây là sự
trích dẫn công trình của Dacin và các đồng sự (2002, trang 48): ''sự thay đổi thể chế có
thể tiến hành từ các cá nhân nhỏ nhất, các cấp tiểu tổ chức cho đến cấp vĩ mô nhất của xã
hội và toàn cầu. Nó có thể diễn ra tương đối ngắn gọn và vào các thời điểm tập trung
hoặc trong khoảng thời gian dài tính bằng thập niên hoặc thế kỷ. Và nó có thể diễn ra
từng bước, khiến các nhà quan sát và người tham gia là hầu như không biết về sự thay
đổi, hoặc nó có thể diễn ra một cách đột ngột với các giai đoạn đầy ấn tượng biểu thị cho
một loạt các sự kiện khác xa với các các khuôn mẫu trước đây.'' Chúng tôi hy vọng và
mong muốn rằng mô hình chúng tôi đã vạch ra sẽ cung cấp một phương pháp tiếp cận
đầy hứa hẹn để xử lý với những vấn đề rất quan trọng.
Ghi chú
Sự phát triển của các ý tưởng trong chương này được thực hiện bởi tài trợ từ Hội
đồng nghiên cứu Khoa học Xã hội và Nhân văn116, Trung Tâm Hỗ Trợ Nghiên Cứu Dịch
Vụ Sức Khỏe Canada117,và Trung Tâm Hỗ Trợ Di Sản Alberta cho Nghiên Cứu Y Tế118.
11 6 Social Sciences and Humanities Research Council
11 7 The Canadian Health Service Research Foundation
11 8
The Alberta Heritage foundation for Medical Research
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_dich_nhom_10_mba8_hoanchinh_lancuoi__3348.pdf