Trong kế t luận, m ặc dù nhữn g đóng gó p của Lewin cho tha y đổi tổ chức
đã chịu sự phê bình ngà y càng tăn g kể từ năm 1980, xuất hiện rất nhiều điều
vô căn cứ và/hoặc dựa trên sự giải thích p hiến diện về nghiê n cứu của ô ng.
Nhưng ng ược lại, trong thập kỷ qua cũng đã nh ìn nhậ n ra m ột sự đổi mới được
quan tâm về sự hiể u biết và ứng dụ ng những phương pháp của ôn g để tha y
đổi (Bargal & Bar, 1992; Elrod & Tippett, 2002; Hendry, 1996; Kippenberger,
1998a ; Macin tosh & MacLean, 200 1; Wooten & White, 1999 ). Trong n hiều khía
cạnh, điều nà y khôn g đến như một sự ngạc nhiên mà căn cứ và o sự chỉ báo và
kiến thức dàn h cho ông q ua cá c nhà ng hiên cứu l ý luận lớn như Chris Argyris
(Arg yris e t al., 1985) và Edg ar Schein (1988). Trên tất cả , m ặc dù, đó là sự
thừa nhận khắc nghiệt cho nhữn g công trình nghi ên cứu của Lewin dựa và o sự
hiểu biết sâu xa vòng đời của một lý thu yế t, sự trải nghiệm , và thực hành , và
đó là phá t biểu ý kiến tu yệ t vời bằng câu châm ngôn nổi tiếng củ a ông ".
không có điều gì thiết thực như là một lý thuyết tốt"(Lewin, 1943-1944, p.169 ).
24 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3186 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương 5: Kurt Lewin và tiếp cận thay đổi được hoạch định đối với sự thay đổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóm bằng cách chỉ ra
những nét chính và phức tạp mà ở đó hành vi của con người được đề c ập đến
(Quay lại , 1992). Mọi hành động của con người trong hoàn cảnh trước m ắt đều
làm biến đổi mối tương quan về lực trong hoàn cảnh ấy và quy luật hành vi của
chủ thể trong hoàn cảnh mới. Ông đã tiến hành thực nghiệm để chứng m inh sự
tồn tại của" trường tâm lý" và tiêu trị của các sự vật và thấy rằng trong hoàn
cảnh m à chủ thể không thực hiện được một hành động có ý nghĩa thì hành vi
sẽ trở thành hành vi tức cảnh (hành vi thoảng qua) do "trường"quy định.
Do đó, bất kỳ thay đổi nào trong hành vi cũng xuấ t phát từ các thay đổi,
thay đổi lớn hay nhỏ, m ột sự tồn tại là sự chấp nhân phụ thuộc lẫn
nhau"(LeWIN, 1946, p. 240). LeWIN tin rằng, thay đổi và đứng yên có mối liên
hệ lẫn nhau, cuộc sống là không bao giờ không thay đổi, chỉ khác nhau là thay
đổi ở mức độ nào và thay đổi những gì. Đây là lý do tại sao LEWIN sử dụng
thuật ngữ " quasi-stationary equilibrium " để cho thấy rằng trong khi có thể là
một nhịp điệu và khuôn mẫu cho các quy trình và hành vi của một nhóm, các
xu hướng dao động không ngừng nhờ có thay đổi trong áp lưc nhóm hoặc
quyền lợi của nhóm .
Theo quan điểm của Lewin nếu có thể xác định định hướng, và thiết lập
các quyền lực của nhóm, sau đó có thể hiểu lý do tại sao các cá nhân, các
nhóm, các tổ chức và hoạt động như những gì bạn làm , nhưng những gì nhóm
cũng sẽ cần phải được củng cố hoặc để mang về sự thay đổi. Vì vậy, LEWIN
thấy hành vi thay đổi như chạy c hậm quá trình; Tuy nhiên, Ông công nhận
rằng, theo một số trường hợp, ví dụ như một cá nhân, tổ chức, hay xã hội , các
nhóm trong các l ĩnh vực có thể thay đổi một cách nhanh chóng . Trong những
tình huống, việc thành lập thói quen và phá vỡ hành vi tình trạng quo là không
còn hữu hiệu; m ô hình hoạt động mới có thể nhanh chóng hiện ra và một mô
hình cân bằng mới được hình thành.
Mặc dù giá trị rõ ràng của nó như là m ột phư ơng tiện cho sự hiểu biết và
thay đổi hành vi nhóm , với sự ra đi của Lewin, sự quan tâm chung trong l ĩnh
vực lý thuyết bị suy yếu (Quay lại, 1992; vàng, 1992; Hendry, 1996). Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, với công việc của Argyris (1990) và Hirschhorn
(1988) trên sự hiểu biết và khắc phục kháng cự để tha y đổi , nghiên cứu trên
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 7
lĩnh vực lý thuyết của Lewin một lần nữa đã bắt đầu thu hút quan tâm của các
nhà khoa học. Theo Hendry (1996), ngay cả việc phê bình các công trình
nghiên cứu của LEWIN đã rút ra lý thuyết của riêng mình để phát triển các mô
hình thay đổi (xem Pet tigrew et al., 1989, 1992). Tuy nhiên, lĩnh vực lý thuyết là
bây giờ có thể hiểu ít nhất là yếu tố nghiên cứu của Lewin, tiềm năng của nó
chỉ ra tác động nhóm trên một cá nhân, nhóm, hoặc tổ chức, làm nền tảng cho
các yếu tố khác về nghiên cứu các yếu tố về công trình nghiên cứu của ông.
Nhóm Dynam ics. . . chữ "năng động". . . đến từ H y Lạp một từ có nghĩa là sức
mạnh. . . "Nhóm năng động" đề cập đến sức mạnh hoạt động trong nhóm . . .
nó là m ột nghiên cứu của các nhóm năng động: và gia tăng những gì để cung
cấp cho họ, những điều kiện s ửa đổi nhóm, những gì chinh phục họ có, vv
(Cartwright, 1951, p. 382).
LEWIN là nhà tâm lý học đầu tiên viết về "nhóm năng động" và tầm quan
trọng của nhóm là việc hình thành các hành vi của các thành viên trong nhóm
của mình (Allpo rt, 1948; Bargal et al., 1992). Thật vậy, định nghĩa của LEWIN
(1939, trang 165) về "nhóm" vẫn được chấp nhận: các cá n hân tạo nên một
nhóm, nhưng phụ thuộc lẫn nhau trong hoạt động. "Như Kippenbe rger (1998a)
ghi chú, LEWIN đã nêu ra h ai câu hỏi: cái gì là bản chất và đặc điểm của một
nhóm cụ thể mà nó đáp ứng (hành xử) , và làm thế nào nhóm năng động có
thể được thay đổi để gợi ra m ong muốn có thêm một mẫu mới củ a hành vi?
Và để trả lời ch o những câu hỏi này LEWIN bắt đầu phát triển các khái niệm
về nhóm năng động .
Nhóm năng động nhấn mạnh rằng hành vi nhóm, chứ không phải là
hành vi cá nhân tạ o nên và được tập trung chính của các thay đổi (Bernstein,
1968; Dent &Goldberg, 1999). LEWIN (1947b) cho rằng không có kế t quả thay
đổi về hành vi của các cá nhân, m à sự tập t rung của thay đổi phải được thực
hiện ở cấp độ nhóm và nên tập trung vào các yếu tố như chuẩn m ực nhóm, vai
trò, tương tác, và xã hội hóa các quy trình để tạo ra "sự thiếu cân bằng" và
thay đổi (Schein, 1988). Theo LEWIN s ự tiên phong làm việc trên của nhóm
năng động không chỉ là nền m óng cho sự hiểu biết về nhóm của ch úng tôi
(Cooke, 1999; Dent & Goldberg, 1999; Pháp & Bell, 1984; Marrow, 1969;
Schein, 1988), mà cũng có liê n kết p hức tạp bằng cách nghiên cứu lý thuyết
khám self- tổ chức không tuyến tính lý thuyết và hệ thống thông tin (Tschacher
& Brunner, 1995). Tuy nhiên, sự hiểu biết trong nội bộ nhóm năng động không
đủ để mang về sự thay đổi. LEWIN cũng được thừa nhận không c ần phải cung
cấp một quá trình mà nh ờ đó các thành viên có thể tham gia và cam kết để
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 8
thay đổi hành vi của h ọ. Điều này dẫn đến nghiên cứu hành động của LEWIN
và phát triển trong mô hình ba-bước thay đổi.
Nghiên cứu hành động.
Thuật ngữ này đã được LEWIN nêu ra (1946) trong một bài viết m ang tên "
Nghiên cứu Hành động và vấn đề thiểu số. "LEWIN nêu trong bài viết:
Trong hơn m ột năm qua tôi đã c ó dịp tiếp xúc với rất nhiều tổ chức, cơ sở giáo
dục, các cá nhân và những người đến để được giúp đỡ trong lĩnh vực quan hệ
nhóm. (LeWIN, 1946, p. 201)
Tuy nhiên, m ặc dù những người này : . . .là đa số lớn những người có thiện
chí, sẵn sàng đối m ặt với những khó khăn, sẵn sàng làm một điều gì đó, những
người mà họ c ảm thấy họ bị m ất phương hướng. Họ cảm thấy mất phương
hướng trong 3 vấn đê:
1.Tình hình hiện nay là gì ? 2.Những ngu y hiểm là gì? 3. Và quan trọng nhất là
những gì chúng tôi sẽ làm gì? (LeWIN, 1946, p. 201).
LEWIN diễn tả nghiên cứu hành động như là m ột quá trình hai m ặt mà sẽ cho
phép các nhóm đặt ra 3 câu hỏi . Trước tiên, nó nhấn mạnh mục tiêu mà đòi
hỏi phải thay đổi h ành động, và thành tựu trực t iếp đã đạt đư ợc. Thứ hai, nó
nhận ra rằng hành động thành côn g là dựa trên phân tích các tình hình chính
xác, xác định tất cả các giải pháp có thể thay thế, và một trong những lựa chọn
thích hợp nhất với tình hình hiện nay (Bennett, 1983). tuy nhiên, để thành
công, cũng cần phải có cảm giác của mỗi cá nhân thực sự cần thay đổi. Nếu
cảm giác muốn thay đổi thấp trong nhóm hay tổ chức thì việc thay đổi sẽ trở
thành vấn đ ề. Các lý thuyết của nghiên cứu hành động trong tâm lý học
Gestalt, nhấn m ạnh rằng thay đổi mà chỉ có thể thành công được bằng cách
giúp các cá nhân phản ánh được và chỉ ra tầm nhìn mới trong các t ình huống
của họ. Bắt đầu nghiên cứu hành động, xử l ý vấn đề từ từ và theo từng b ước
bao gồm một vòng tròn lập kế hoạch, hành động, và tìm về kết quả của hành
động. "Nó là một quá trình xử lý lập lại . Nghiên cứu dẫn để hành động và hành
động dẫn đến đánh giá và tiếp tục nghiên cứu. Như Schein (1996, p. 64) nhận
xét của Lewin là ". . . ai có thể không hiểu một tổ chức mà không cần cố gắng
để thay đổi nó. . . ". Thật vậy, quan điểm của Lewin là sự hiểu biết và học tập
mà quá trình này nảy s inh cho các cá nhân và các nhóm có liên quan, mà sau
đó nó là nguồn cấp dữ liệu vào thay đổi hành vi , là quan trọng hơn bất kỳ thay
đổi kết quả (LeWIN, 1946).
Cuối cùng , nghiên cứu rút ra hành động trên công việc của LeWIN trong lĩnh
vực lý thuyết để xác định các áp lực vào các nhóm phụ thuộc vào cá nhân. Nó
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 9
cũng rút ra trên nhóm năng động để hiểu lý do tại sao ứng xử của các thành
viên trong nhóm và cách ứng xử theo những gì họ làm khi thuộc hoàn toàn vào
các áp lực nhóm .
LEWIN nhấn mạnh rằng những thói quen và hành vi trong một n hóm đang có
nhiều hơn kết quả áp lực đố i lập. Họ có một giá trị của họ và có m ột vai trò tích
cực trong thực thi các chuẩn mực nhóm (LeWIN, 1947a). nghiên cứu hành
động nhấn m ạnh rằng thay đổi để được hiệu quả, nó phải được tổ chức tại cấp
độ nhóm, và phải là một quá trình hợp tác và phối hợp đó bao gồm tất cả các
những người có liên quan (Allport, 1948; Bargal et al., 1992; Pháp & Bell, 1984;
LeWIN, 1947b).Hành động đầu tiên của dự án nghiên c ứu của LEWIN là điều
tra và giảm bạo lực giữa Công giáo và các băng nhóm Do thái trẻ. Tuy nhiên,
nghiên cứu hành động đã được thông qua bởi Viện Tavistock ở Anh, và được
sử dụng để cải thiện năng lực quản lý và hiệu quả trong ngành công nghiệp
khai thác mỏ. Kể từ đó, nó đã ủng hộ m ạnh mẽ trên thế giới (Dickens &
Watkins, 1999; Eden & Huxham, 1996; Elden & Chisholm , 1993). Tuy nhiên,
LeWIN (1947a, trang 228) đã lo ngại rằng:
Một thay đổi theo hướng cao hơn mức độ hiệu quả hoạt động của nhóm
thường là chết yểu. Sau một cú vấp ngã, đời sống nhóm sẽ trở về m ức độ
trước đó. Điều này cho thấy rằng nó không đủ để xác định mục tiêu của một kế
hoạch thay đổi trong nhóm như là đạt hiệu quả hoạt động của một cấp độ khác
nhau. Cố định ở cấp độ mới, hoặc ổn định trong m ột khoản thời gian. bao gồm
trong các mục tiêu. Đó là lý do mà ông đưa ra mô hình ba-bước thay đổi.
Mô hình ba giai đoạn của sự thay đổi.
Điều này thường được trích dẫn như đóng góp chìa khóa thành công của
Lewin để thay đổi tổ chức. Tuy nhiên, nó cần phải được nhận ra rằng, khi phát
triển mô hình ba giai đoạn Lewin đã không chỉ nghĩ về các vấn đề của tổ chức.
Lewin cũng không dự định để nhận thấy sự tách biệt từ ba yếu tố khác biệt mà
bao gồm phương pháp hoạch định để thay đổi của ông (chẳng hạn như về lý
thuyết, hành vi và động lực của nhóm). Đúng hơn là Lewin đã nhận thấy bốn
khái niệm là nguồn gốc của phương pháp kết hợp để phân tích, nhận biết, và
định hướng về sự thay đổi từ các nhóm, tổ chức và các cấp độ xã hội . Lewin
(1947a) đã diễn tả rằng m ột dự án thay đổi thành công được thực hiện qua ba
giai đoạn sau:
Bước 1: Sự rã đông. Lewin tin rằng, sự ổn định về hành vi của con
người được dựa trên trạng thái ổn định cân bằng hỗ trợ bởi một l ĩnh vực phức
tạp của sự thúc đẩy xu thế và ngăn trở. Ông tin rằng sự cân bằng cần phải
được vận động trước khi hành vi quá khứ có thể bị loại bỏ và hành vi mới đã
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 10
kế thừa thành công. Các hình thức của vấn đề m à Lewin quan tâm , như một
sự mong đợi , ông đã không tin rằng sự thay đổi là dễ thực hiện hay cùng một
phương pháp tiếp cận có thể được áp dụng trong mọi tình huống:
Sự rã đông của các cấp hiện nay có liên quan tới các vấn đề khá khác
nhau trong các trường hợp khác nhau. Allport. . . đã mô tả sự hứng khởi
dường như là cần thiết trước khi sự thành kiến có thể bị loại bỏ. Sự rạn nứt mở
ra cảm giác thỏa mãn và sự chủ quan đôi khi được cho là cần thiết để mang lại
cảm xúc phấn khích. (Lewin, 1947a, trang 229)
Mở rộng quan điểm của Lewin, Schein (1996, trang 27) đã dẫn giải rằng
nguyên nhân gây chia rẽ . . . dường như là sự thay đổi , cho dù là đối với cá
nhân hay các nhóm , là m ột quá trình thúc đẩy tâm lý sâu sắc. Schein cho rằng
3 quá trình cơ bản dẫn tới hoàn thành giai đoạn rã đông là: sự phản đối của
tình trạng tù tội có hiệu lực, các dấu hiệu của tội lỗi hoặc mối băn khoăn còn
sót lại, và tạo tâm lý an phận. Ông cho rằng … trừ khi tâm lý an phận được tạo
ra, thông tin không thích hợp sẽ bị phủ nhận hoặc chống đối lại những suy nghĩ
ủng hộ, s ự không tồn tại các băn khoăn sẽ bị loại bỏ và vì vậy, sự không thay
đổi sẽ được thay thế. Nói cách khác, những vấn đề liên quan cảm giác an toàn
từ những mất m át và mất mặt trước khi họ có thể chấp nhận các thông tin mới
và loại bỏ hành vi cũ.
Bước 2. Thay đổi. Như Schein đã lưu ý, sự rã đông là không có giới hạn,
nó tạo động lực để hiểu nhưng không nhất thiế t cần kiểm soát hoặc theo
hướng dự báo. Những quan điểm đặc biệt của Lewin xem rằng bất kỳ sự cố
gắng để dự báo hoặc xác định một kết quả từ sự thay đổi được hoạch định là
rất khó khăn vì sự phức tạp của các thế lực có liên quan. Thay vào đó, một
điều khuyên tìm kiếm đi vào thay thế các động lực tất cả các lực lượng tại nơi
làm việc và xác định, đánh giá trên cơ sở thử nghiệm và báo lỗi, tất cả các lựa
chọn có sẵn. Đây là các khóa học, học tập cách tiếp cận thúc đẩy bởi nghiên
cứu hành động. Đó là cách tiếp cận lặp đi lặp lại của nghiên cứu, hành động và
nhiều hơn nữa mà nghiên cứu cho phép các nhóm và các nhân để di chuyển
từ một ít hơn có thể chập nhận thêm một thiết lập của các hành vi hợp lý. Tuy
nhiên, như đã nêu ở trên Lewin đã nhận ra rằng không có sự ủng hộ, s ự thay
đổi sẽ dễ thất bại .
Bước 3. Làm đông lại. Đây là giai đoạn cuối cùng trong m ình hình ba giai
đoạn. Làm đông lại tìm kiếm sự ổn định nhóm tại trạng thái ổn định cân bằng
để bảo đảm rằng hành vi mới là tương đối an toàn từ tương quan. Quan điểm
chính về làm đông lại là hành vi mới phải được tạo ra, để một số m ức độ,
tương đồng với phần còn lại của các hành vi , cá tính, và môi trường của người
học hoặc chỉ đơn giản nó sẽ dẫn đến một vòng đời mới của sự không xác nhận
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 11
(Schein , 1996). Đây là lý do tại sao Lewin thấy sự thay đổi thành công như là
một hoạt động nhóm, bởi vì trừ khi nhớm chuẩn mực và thói quen cũng thay
đổi, sự thay đổi từ hành vi cá nhân sẽ không được duy trì liên tục. Trong điều
kiện tổ chức, sự rã đông thường đòi hỏi sự thay đổi trong văn hóa của tổ chức,
quy tắc ứng xử, chính sách và từ thực tiễn (Cumm ings & Huse, 1989).
Giống như vẻ bề ngoài công việc của Lewin, mô hình ba giai đoạn của sự
thay đổi đã trở thành không phù hợp vào hai thập kỷ qua (Dawson, 1994;
hatch, 1997; Kanter et al., 1992). Tuy nhiên, đó là sự tiếp tục ảnh hưởng rằng,
như Hendry (1996, p. 624) đã nhận xét:
Sự hỗn tạp của bất kỳ bản miêu tả của sự sáng tạo và quản lý s ự thay đổi
và ý tưởng cho rằng s ự thay đổi là một quá trình ba giai đoạn mà nhất thiết
phải bắt đầu với m ột quy trình của sự rã đông sẽ không xem xét sâu xa hiện
tượng bề mặt.
Lewin và thay đổi: Một tóm tắt
Lewin chủ yếu quan tâm đến giải quyết xung đột xã hội thông qua sự thay
đổi hành vi, trong phạm vi tổ chức hoặc trong xã hội rộng lớn. Ông nhận ra hai
yêu cầu cho sự thành công:
1. Phân tích và hiểu cách hình thành, thúc đẩy và duy trì nhóm xã hội. Để
làm điều này, ông đã phát triển cả lĩnh vực lý thuyết và thuyết động lực nhóm.
2. Thay đổi hành vi của nhóm xã hội . Phương pháp chủ yếu mà ông đã
phát triển để đạt được hành động đã được nghiên cứu và m ô hình ba giai đoạn
của sự thay đổi .
Nền móng làm việc của Lewin là niềm tin tưởng m ạnh m ẽ vào đạo đức
trong thể chế dân chủ và giá trị dân chủ trong xã hội . Lewin tin rằng chỉ bằng
sự tham gia dân chủ lâu dài trong tất cả diện mạo của cuộc sống và giải quyết
xung đội có thể là sự phản đối có hiệu quả về hậu quả của chế độ chuyên
quyền, chủ nghĩa độc quyền và phân biệt chủng tộc. Từ khi Lewin mất, các vấn
đề xã hội rộng lớn của ông vẫn tiếp tục được theo đuổi dưới lĩnh vực nghiên
cứu hành động (Dickens & Watkins, 1999). Đây cũng là khu vực tiếp cận sự
thay đổi được hoạch định đã nghiên cứu chặt chẽ. Ví dụ, Bargal và Bar (1992)
đã mô tả như thế nào về vấn đề này, trong các năm qua, họ đã sử dụng
phương pháp của Lewin để giải thích sự xung đột giữa những người Ả rập
Palestine và những người Do thái trẻ ở Israel thông qua sự phát triển của hội
thảo giữa các nhóm. Các cuộc hội thảo xung quanh đã được phát triển thành
sáu nguyên tắc, dựa trên công việc của Lewin:
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 12
(a) Một quá trình liên tục của sự thu thập dữ liệu để xác định mục tiêu,
hành động để thực hiện mục tiêu và đánh giá chương trình hành động; (b)
thông tin phản hồi của kết quả nghiên cứu cho giảng viên; (c) hợp tác giữa các
nhà nghiên cứu và người quản lý; (d) nghiên cứu dựa trên các văn bản pháp
luật của vòng đời nhóm xã hội, trên ba giai đoạn của sự thay đổi "Sự rã đông"
"Thay đổi", và "Làm đông lại" - và trên các nguyên tắc của nhóm ra quyết định;
(e) xem xét các giá trị, m ục tiêu và sức m ạnh thay đổi cơ cấu của đại lý và
khách hàng; và (f) sử dụng các nghiên cứu để tạo ra những kiến thức và / hoặc
giải quyết các vấn đề (Bargal & Bar, 1992, p. 146).
Trong phạm vi của sự thay đổi trong tổ chức, Lewin và các đồng sự đã có
nghiên cứu lâu dài và mối quan hệ sản sinh với Tập đoàn sản xuất Harwood,
nơi mà phương pháp của ông đã được phát triển, áp dụng, và hoàn thiện
(Marrow, 1969). Coch và French (1948, p. 512) đã quan sát rằng tại Harwood,
"từ quan điểm của người quản lý nhà máy, có hai mục đích nghiên cứu: (1) Tại
sao con người chống lại sự thay đổi mạnh mẽ như vậy? và (2) Con người có
thể làm gì để khắc phục tình trạng chống đối này? "Vì vậy, trong cả chương
trình xã hội rộng và các cơ quan tổ chức, cơ quan của m ình hẹp hơn, Lewin đã
cố gắng giải thích các vấn đề tương tự và áp dụng các khái niệm tương tự. Kể
từ khi ông chết, các khía cạnh về tổ chức thuộc công việc của ông đã được tạo
cho sự nổi bật bởi những người ủng hộ và người nối nghiệp, chủ yếu thông
qua sự tạo ra các thay đổi trong phát triển tổ chức (Cummings & Worley, 1997;
Pháp & Bell , 1995).
Phát triển tổ chức đã trở thành tiêu chuẩn tiếp nối cho kinh nghiệm trong
công việc của Kurt Lewin về khoa học hành vi nói chung, và phương pháp
hoạch định sự thay đổi trong từng trường hợp cụ thể (Cummings & Worley,
1997). Tính đến những năm 1970, Phát triển tổ chức đã hướng tới việc tập
trung về vấn đề nhóm trong tổ chức, và tìm cách thúc đẩy tính dân chủ và tính
nhân văn của Lewin đem đến sự thay đổi các giá trị trong sự tán thành
(Conner, 1977; Gellermann et al ., 1990; Warwick & Thom pson, 1980 ). Tuy
nhiên, như French và Bell (1995) lưu ý, kể từ cuối năm 1970, để giữ tốc độ với
các nhu cầu nhận thức của các tổ chức, có một yếu tố cơ bản được mở rộng
trong phạm vi lý thuyết về phát triển tổ chức. Nó đã được di chuyển từ không
ngừng rừ các vấn đề nhóm và hướng về các vấn đề rộng lớn hơn của tổ chức,
chẳng hạn như hạ tầng xã hội , văn hoá của tổ chức, tổ chức học tập, và trạng
thái thay đổi toàn diện. Tuy nhiên, mặc dù phát triển tổ chức đã nỗ lực để đổi
mới mình, trong hai m ươi năm cuối cùng gia tài của Lewin đã đáp ứng với sự
cạnh tranh ngày càng gia tăng cao.
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 13
Những triển vọng thay đổi trên phiên bản mới hơn
Những năm đầu thập niên 1980, với sự chấn động của giá dầu vào những
năm 1970, sự phát triển của Công ty Nhật Bản, và sự suy sụp trầm trọng về
kinh tế của Phương Tây, nó đã cho thấy rất rõ rằng rất nhiều các tổ chức cần
biến đổi mình nhanh chóng và thường khốc liệt hơn nếu nó vượt qua được và
tồn tại (Burnes, 2000 ). D ựa trên các nhóm, liên tưởng, và sức sống lan tỏa từ
từ, phương pháp hoạch định của Lewin bắt đầu thu hút những sự bình phẩm
như sự thích hợp và tính hiệu quả, đặc biệt là từ các trường phái văn hóa tuyệt
hảo, hậu hiện đại, và chủ nghĩa hiện thực.
Trường phái về văn hóa tuyệt hảo tiếp cận các tổ chức, cũng như thúc
đẩy bởi Peters và Waterm an (1982) và Kanter (1989), đã có một sự ảnh hưởng
chưa có tiền lệ đến việc quản lý của các tổ chức do sự thành công của các tổ
chức tương đồng với các sở hữu của văn hóa tổ chức phù hợp (Collins, 1998;
Watson, 1997; Wilson, 1992).
Peters và Waterman (1982) diễn giải rằng Phương Tây đã đánh mất
những lợi thế cạnh tranh của m ình vì họ đã quá quan liêu, bảo thủ, và chậm
thay đổi. Thay vì truyền thống về vị trí dẫn đầu, chi phối và kiểm soát các
phong cách quản lý, là xu hướng hướng về các phân đoạn nhỏ tổ chức vào
những quy định mang tính định hướng thật cụ thể, đề xuất của văn hóa tuyệt
hảo đã nhấn mạnh bản chất hòa nhập của tổ chức, cả nội tại và trong phạm vi
môi trường của nó (Kanter, 1983; Watson, 1997). Để tồn tại, nó đã được giải
thích, các tổ chức cần thăm nhò, khảo sát về chính bản thân mình để xây dựng
nội bộ và ủng hộ từ bên ngoài, và các nhà quản lý cần khuyến khích tinh thần
đổi mới, sự thử nghiệm và nhà doanh nghiệp cho đến khi tạo thành sự chắc
chắn, văn hóa tổ chức thích hợp (Collins, 1998; Kanter, 1983 ; Peters &
Waterman, 1982; Wilson, 1992).
Với những người khởi xướng của văn hóa tuyệt hảo, thế giới về cơ bản
được xác định là một vị trí m ơ hồ, nơi mà kế hoạch chi tiết là thông thể và sự
linh hoạt là cần thiế t. Thay vì sự giám sắt chặt chẽ và các quy định khắt khe,
mục tiêu của tổ chức cần được xúc tiến bởi sự điều hành linh hoạt dựa sự chia
sẻ niềm tin và văn hóa, và đeo đuổi sự né tránh trao quyền cho người lao động
sử dụng chính óc sáng kiến của người lao động (Watson, 1997). Họ tranh luận
rằng sự thay đổi có thể không được kiểm soát từ cấp lãnh đạo nhưng phải sinh
ra từ trong tổ chức, tạo thành nền tảng thực hiện hàng ngày trong tất cả các
hoạt động của tổ chức (Collins, 1998; hatch, 1997). Những người đề xướng về
văn hóa tuyệt hảo không chấp thuận khi phản đối sự thay đổi được hoạch định,
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 14
thỉnh thoảng hoàn toàn thô bạo, như đoạn trích dẫn tiếp theo từ Kanter et al.
(1992, p. 10) cho thấy:
Mô hình của Lewin là đơn giản, với sự thay đổi của tổ chức bao gồm 3
giai đoạn: làm rã đông, thay đổi và làm đông lại … Sự quan niệm kỳ quặc và
bất biến của tổ chức như là m ột tảng băng quá lộn xộn không thích hợp đến
nỗi khó được thừa nhận là lý do tại sao không chỉ đối với vấn đề tồn tại và
thành đạt… Đáp ứng điều đó ở đây, trước tiên các tổ chức đã không bao giờ bị
đông lạnh, rất ít sự ổn định, nhưng lại là m ột thực thể luôn biến đổi với nhiều
nhân cách khác nhau. Thứ hai , sự phát triển đến mức m à có những giai đoạn,
chúng chồng chéo và thâm nhập với nhau trong cách quan trọng.
Cũng trong thời gian đó trường phái văn hóa tuyệt hảo đã chỉ trích, phê
phán lý thuyết thay đổi được hoạch định, những quan điểm khác, đặc biệt là
Pfeffer (1981, 1992), đã khẳng định rằng các m ục tiêu, và kết quả, của chương
trình thay đổi được xác định bởi các cuộc đấu giành giật quyền lực hơn bởi bất
kỳ quá trình nhất trí xây dựng hoặc quyết định tiến bộ dựa trên lý trí. Đối với
những người theo chủ nghĩa hậu hiện đại, quyền lực cũng là m ột đặc điểm
trung tâm của sự thay đổi tổ chức, nhưng nó phát s inh từ bản chất chủ nghĩa
tạo dựng xã hội của vòng đời của tổ chức:
Theo chủ nghĩa tạo dựng xã hội thế giới, trách nhiệm đối với vấn đề môi
trường là thuộc về các nhà đầu tư kinh doanh … Áp lực này ít ra cũng tạo ra
hai viễn cảnh có tính cạnh tranh cho sự thay đổi của tổ chức. Đầu tiên, sự thay
đổi tổ chức tó thể là một vòng luẩn quẩn về vị thế cho những người có tham
vọng thống trị thế giới và những lĩnh vực khác … Một sự lựa chọn thay thế cho
chủ nghĩa tạo dựng xã hội là tạo ra một chế độ dân chủ trở thành thiết chế
trong đó các quy trình, quy định được tạo dựng và sẵn sàng dành cho tất cả …
Chẳng hạn như chúng ta tạo cơ hội cho sự tự do và sự đổi mới dường như
đơn giản hơn cho vị thế mới. (Hatch, 1997, pp. 367-368).
Những triển vọng quan trọng khác về thay đổi tổ chức nổi lên vào những
năm 1980 là phương pháp quá trình, phương pháp này bắt nguồn từ các công
việc nghiên cứu của Andrew Pettig rew (1973, 1979, 1985, 1990a, 1990b,
1997). Các nhà quá trình từ chối triển vọng, phương pháp định hướng cách
làm để thay đổi và là một nguyên nhân gây ra nghi ngờ hay s ự giải thích đơn
giản về các sự kiện. Thay vào đó, khi nghiên cứu về sự thay đổi, họ tập trung
vào các quan hệ cá nhân, nhóm, tổ chức và xã hội. Trong thực tế, họ than
phiền rằng quá trình thay đổi là quá trình quyết định lý trí phức tạp và hỗn độn,
nhận thức cá nhân, chính sách đối với những nỗ lực và sự tạo dựng liên kết.
Các quan điểm chính của Pettigrew (1990a, 1990b) cho rằng phương pháp
hoạch định là quá đơn giản và không nhận đủ sự quan tâm cần thiế t để phân
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 15
tích và chấp nhận thay đổi tổ chức. Ổng đã chỉ trích rằng sự thay đổi cần phải
nghiên cứu thông qua các cấp độ phân tích khác nhau và các thời điểm khác
nhau, và rằng nó phớt lờ chức năng, ranh giới thức bậc kết nối và không rõ
ràng về điểm bắt đầu hay điểm kết thúc; thay vì nó là m ột quá trình phân tích
phức tạp, chính sách và quá trình thử thách và thay đổi lóng tin cốt lõi, cấu trúc
và chiết lược của công ty "(Pettigrew, 1987, p. 650).
Nhìn vào thay đổi được hoạch định chống lại phương pháp quá trình,
Dawson (1994, pp. 3-4) nhận xét rằng:
Mặc dù lý thuyết này của Lewin đã chứng minh tính hữu ích trong hiểu
biết về thay đổi được hoạch định dưới các điều kiện có liên quan bền vững, với
sự năng động và bản chất thay đổi năng động trong kinh doanh ngày nay trên
thế giới , làm cho nó không còn cảm giác để thực hiện một kế hoạch cho quá
trình làm “làm đông lại” của lý thuyết thay đổi hành vi . . . Một quá trình trong cơ
cấu kế tục những quan điểm về sự thay đổi là quá trình phức tạp và năng
động, thay vì nên cứng nhắc hoặc đối xử như là một chuỗi các sự kiện tuyến
tính … trọng tâm của phương pháp quá trình thay đổi là rất cần sự phân tích về
chính sách của quản lý sự thay đổi.
Cũng như một triển vọng của quá trình, Buchanan và Storey chỉ trích
chính những người ủng hộ lý thuyết thay đổi được hoạch định là
… những cố gắng của họ buộc một trật tự và một chuỗi hành động để
thực hiện tiến trình là sự bừa và lộn xộn tính xác thực, và nó bộc lộ một sự lặp
đi lặp lại tạo thành thói quen với nhiều sự quay trở về theo lối cũ và s ự phớt lờ.
Mặc dù có những khác biệt giữa các phương pháp thay đổi mới hơn,
không ít các trọng tâm theo lệ của phương pháp văn hóa tuyệt hảo phản kháng
lại những phân tích mang tính định hướng của các nhà quá trình, cũng có một
số sự tương đồng ấn tượng mà họ đòi hỏi sự kích thích mạnh mẽ những căn
cứ của phương pháp hoạch định sự thay đổi. Các phương pháp tiếp cận mới
hơn có xu hướng chấp nhận một chỉnh thể/bối cảnh về quan điểm của tổ chức
và môi trường, họ kích thích những khái niệm về sự thay đổi như là một sự bắt
buộc mang tính sống còn, có chủ định và là quá trình tuyến tính; và có một sự
nhấn m ạnh vào việc thay đổi như là một quá trình liên tục là bị ảnh hưởng
nặng nề bởi yếu tố văn hóa, quyền lực, và chính sách (Buchanan & tầng, 1997;
Burnes, 2000; Dawson, 1994; Kanter et al., 1992; Pettigrew, 1997). Thêm vào
sự bổ trợ cho những phương pháp mới tiếp cận sự thay đổi là những triển
vọng mới về bản chất của sự thay đổi trong tổ chức. Tính đến cuối năm 1970,
sự phát triển của m ô hình về sự thay đổi đã trở thành thống trị. Những người
ủng hộ chủ trương đã nhận thấy sự thay đổi được xem là m ột quá trình mà
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 16
nhờ đó các bộ phận riêng biệt của tổ chức gia tăng thỏa thuận và tách biệt với
những vấn đề riêng và một mục tiêu tại một thời điểm. Bởi những nhà quản lý
đáp lại các áp lực của họ trong nội bộ và môi trường bên ngoài, theo thời gian
của tổ chức của họ trở nên thay đổi (Cyert & March, 1963; Hedberg et al .,
1976; Lindblom, 1959; Quinn, 1980, 1982).
Trong năm 1980, hai triển vọng m ới về sự thay đổi nổi bật lên: m ô hình coi
trọng trạng thái cân bằng và mô hình chuyển đổi liên tục. Các phương cách để
tiếp cận sự thay đổi
… m ô tả tổ chức như s ự mở ra mặc dù các tổ chức tương đối ổn định
trong thời gian dài trong các mô hình hoạt động cơ bản được phân định do mối
liên hệ dấy lên tương đối ngắn của quy tắc cơ bản thay đổi. Thời kỳ cách mạng
trọng yếu đã phá vỡ những mô hình hoạt động đã được thiết lập và tạo dựng
ra các cơ sở cho trạng thái cân bằng mới (Rom anelli & Tushm an, 1994, p.
1141).
Cảm hứng cho các mô hình này phát sinh từ hai nguồn: đầu tiên, từ
những thách thức về thuyết tiến hóa của Darwin trong khoa học tự nhiên
(Gould , 1989); thứ hai, từ các nghiên cứu cho thấy rằng trong khi các tổ chức
làm xuất hiện s ự phù hợp với những thay đổi của m ô hình tiến hóa cho một
thời gian, có một thời điểm từ không có gì đến khi họ đi qua một khoảng thời
gian và nhanh chóng thay đổi căn bản (Gersick, 1991).
Những người đề xướng của mô hình biến đổi tiếp diễn từ chối cả mô hình
phát triển lẫn mô hình coi trọng trạng thái cân bằng. Họ đã tranh luận rằng, để
tồn tại, các tổ chức phải phát triển khả năng của mình để thay đổi liên tục theo
nguyên tắc cư xử cơ bản. Đây là trường hợp đặc biệt trong lĩnh vực biến đổi
nhanh như bán lẻ (Greenwald, 1996). Brown và Eisenhardt (1997, p.29) đã gợi
đến công việc của các nhà lý luận về độ phức tạp để hỗ trợ cho những yêu cầu
của thay đổi liên tục:
Giống như các tổ chức, các hệ thống phức tạp có số lượng lớn những tác
nhân tương tác độc lập. Hơn nữa, thậm chí thiết lập trạng thái cân bằng,
những sự thích ứng nhất của hệ thống phức tạp (ví dụ như vùng intertidal) vẫn
tiếp tục thay đổi liên tục bởi sự lưu lại tại giới hạn của thời đại hỗn nguyên tồn
tại giữa sự trật tự và s ự hỗn loạn. Ở vùng trung gian này, những hệ thống này
không bao giờ ổn định hoàn toàn vào m ột trạng thái cân bằng nhưng không
bao giờ chia tách hoàn toàn. Thay vào đó, những hệ thống này, m à sự cản trở
làm cân bằng liên tục giữa trật tự và không trật tự, phô bày ra nguyên nhân sản
sinh, sự phức tạp và thay đổi liên tục …
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 17
Các lý thuyết về độ phức tạp ngày càng phát triển và trở nên được phổ
biến bởi các nhà lý luận về tổ chức và các nhà thực hành như là một cách để
hiểu và thay đổi tổ chức (Bechtold, 1997; Black, 2000; Boje, 2000; Choi et al .,
2001; Gilchrist, 2000; Lewis, 1994; Macbeth, 2002 ; Shelton & Darling, 2001;
Stacey et al., 2002; Tetenbaum , 1998). Nhiều lý thuyết về độ phức tạp đến từ
khoa học tự nhiên cho thấy rằng sự mất cân bằng là điều kiện cần thiết cho
quá trình phát triển năng động của hệ thống (Prigogine & Stengers, 1984). Với
quan điểm này, các tổ chức, giống như hệ thống phức tạp trong tự nhiên, được
xem như là m ột hệ thống năng động tuyến tính. Kết quả của những hành động
của họ là không thể dự đoán nhưng giống như sự náo loạn trong khí ga và
chất lỏng, nó được khống chế bởi một tập hợp các điều lệ phát sinh m ới, cho
phép tổ chức thành công và sống sót (Macintosh & MacLean, 2001).
Như có thể nhận thấy, các phương pháp tiếp cận m ới hơn về sự thay đổi
và viễn cảnh mới hơn về bản chất của sự thay đổi có nhiều điểm chung. Một
trong những vấn đề với tất cả ba viễn cảnh về sự thay đổi – sự gia tăng, coi
trọng trạng thái cân bằng và thay đổi liên tục – là, tất cả ba viễn cảnh trên là
hiện diện trong đời sống của tổ chức và không xuất hiện ảnh hưởng lớn. Thực
vậy Burnes (2000) thậm chí các câu hỏi cho dù là riêng biệt và lý thuyết cạnh
tranh, hoặc các hướng nhìn đơn thuần khác nhau về cùng hiện tượng như
nhau: sự thay đổi. Ông chỉ ra rằng lĩnh vực hoạt động, thời gian, và vòng đời
của tổ chức có thể ghi chép cho sự lớn lên về kinh nghiệm của tổ chức, coi
trọng trạng thái cân bằng hoặc thay đổi liên tục (Kimberley & Miles, 1980). Ông
cũng rút ra từ khoa học tự nhiên, trong lề thói của mối liên hệ trong m ôi trường
dân cư để tranh luận rằng trong bất cứ m ột tổ chức của dân số trông đợi nhận
thấy tất cả ba loại hình về sự thay đổi (Hanan & Freeman, 1988). Do đó, giống
như khái niệm Jungian về ánh sáng và bóng tối , những viễn cảnh khác nhau về
sự thay đổi có thể làm lu mờ hình ảnh của các vẫn đề khác, không có các viễn
cảnh nào có khả năng tự miêu tả sinh động trọn vẹn (Matthews, 2002).
Nghiên cứu của Lewin: Các phê bình và các phản hồi
Từ những năm 1980 trở đi , như triển vọng mới hơn của cấu trúc tổ chức
và việc thay đổi đã bắt đầu, phương pháp tiếp cận sự thay đổi được hoạch
định m à Lewin đưa ra đã phải đối mặt với sự gia tăng các phê bình. Ở phần
này tóm tắt các phê bình và đáp ứng tới kế hoạch cho họ.
Phê bình 1
Nhiều tranh luận đưa ra phương pháp tiếp cận của Lewin quá đơn giản và
máy m óc cho m ột thế giới, nơi tổ chức là một thay đổi liên tục và không giới
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 18
hạn (Dawson, 1994; Garvin, 1993; Kanter et al ., 1992; Nonaka, 1988;
Pettigrew, 1990a, 1990b; Pettigrew et al., 1989; Stacey, 1993; Wilson, 1992).
Phản hồi 1: Các phê bình đều xuất phát từ m ột sự hiểu nhầm về cách
Lewin nhận thức sự ổn định và thay đổi. Lewin nêu rõ:
Thứ nhất nên xem tình hình hiện tại - hiện trạng như đang được duy trì bởi
một số điều kiện hoặc lực lượng vũ trang. Ví dụ như một văn hoá: các thói
quen ăn uống của một nhóm tại một thời gian không phải tĩnh, m à là m ột quá
trình sống như một dòng sông nhưng mà còn giữ được di chuyển đến mẫu
công nhận. Các thói quen ăn uống không xảy ra trong không gian trống rỗng.
Các thói quen này là bộ phận hoặc phần nào của nhịp điệu hàng ngày, của
việc đang tỉnh giấc và đang ngủ; của việc đang m ột mình và trong một nhóm ;
thu nhập của nhóm sinh hoạt và sân chơi; của thành viên trong một thị xã, một
lớp học xã hội, một nhóm tôn giáo … trong một khu vực với các cửa hàng tạp
hoá và các nhà hàng tốt hoặc trong khu vực của người nghèo và không đồng
đều cung cấp lương thực. Tất cả các yếu tố này ảnh hưởng đến thói quen ăn
uống tại bất kỳ thời điểm nào. Họ xác định lương thực, thực phẩm của một
nhóm mỗi ngày cũng giống như số tiền cấp nước và dòng chảy của các con
sông, mọi thứ đều bất biến hoặc thay đổi (Lewin , 1943a, pp. 172-173).
Từ lâu các nhóm xã hội và tổ chức xem như là cố định và ổn định, Lewin
hiểu các giới hạn của sự ổn định ít nhất cũng như các phê bình của m ình.
Lewin tranh luận rằng xã hội được thiết lập trong m ột tiểu bang của s ự thay
đổi, giống như dòng sông, tỷ lệ khác nhau tuỳ thuộc vào môi trường. Lewin
xem thay đổi không như một dự báo và như là kế hoạch chuyển từ một trạng
thái này sang trạng thái khác, thay đổi là một sự phức tạp và quá trình học tập
lặp lại, việc thay đổi giống như hành trình mà quan trọng hơn điểm đến, sự ổn
định tốt nhất là chuyển động có chừng mực và luôn thay đổi , ở đâu các lực
lượng tham gia phức tạp, kết quả không thể dự đoán, nhưng nảy sinh ra vấn
đề dựa trên thử nghiệm và báo lỗi (Kippenberger, 1998a; LeWIN, 1947a).
Vì vậy, thay vì theo nguyên tắc, Lewin thừa nhận bản chất của sự thay đổi
có thể dự báo được, như Hendry (1996) ghi chú, Lewin chấp nhận cùng ngữ
cảnh và học tập theo phương pháp tiếp cận thiện chí bởi nhiều phê bình của
mình.
Thực vậy, như đã vạch ra trước đó, một vài tranh luận đưa ra rằng Lewin
quan niệm của sự ổn định và thay đổi thì tương tự như nhiều lý thuyết về độ
phức tạp (Quay lại , 1992; Elrod & Tippett, 2002; Kippenberger, 1998a;
Macintosh & MacLean, 2001; Tschacher & Brunner, 1995).
Chúng ta nên lưu ý rằng khi Lewin viết từ Làm đông lại (refreezing),
Lewin giới thiệu để ngăn ngừa các cá nhân và các nhóm từ thoái bộ tới các
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 19
hành vi cũ của họ. Trong khía cạnh này, Lewin xem tương tự tới các phê bình
của mình. Ví dụ, trong giai đoạn cuối cùng trong Kanter e t al. 'S (1992, p . 384),
thay đổi m ô hình để “củng cố và thể chế hoá các thay đổi”. Hơn nữa khi Tippett
và Elrod (2002) là một so sánh phạm vi rộng các m ô hình thay đổi , họ thấy
rằng hầu hết các phương pháp tiếp cận để tổ chức thay đổi được gây ấn
tượng tương tự với Lewin của mô hình ba bước. Khi họ mở rộng để nghiên
cứu các hình thức khác của thay đổi con người và tổ chức, họ cũng được tìm
thấy, "mô hình của quá trình thay đổi, như cảm nhận đa dạng và dường như
không liên quan chuyên môn [như Bereavement lý thuyết, lý thuyết chuyển đổi
cá nhân, quá trình sáng tạo, cUL- tural Revolutions và khoa học Revolutions]. .
. theo LeWIN's. . . ba giai đoạn mô hình thay đổi. . . "(Elrod & Tippett, 2002, p.
273).
Phê bình 2
Công việc Lewin chỉ liên quan đến gia tăng và thay đổi riêng biệt các dự
án và không có khả năng kết hợp chặt chẽ hoàn toàn và thay đổi chuyển hoá
(Dawson, 1994; Dunphy & Stace, 1992, 1993; Harris, 1985; Miller &
Friesen , 1984; Pettigrew, 1990a, 1990b).
Phản hồi 2 : Việc chỉ trích xuất hiện liên quan đến tốc độ hơn là vì cường
độ của các thay đổi , như Quinn (1980, 1982) chỉ ra, theo thời gian gia tăng thay
đổi có thể dẫn đến chuyển hoá cơ bản. Việc thay đổi cần thiết để công nhận
rằng, Lewin quan tâm đến thay đổi thái độ, thay đổi cá nhân, nhóm, tổ chức và
các cấp độ xã hội (Dickens & Watkins , 1999), trong khi đó thay đổi chuyển hoá
được áp dụng cho các tình huống yêu cầu cấu trúc chính thay đổi (Allaire &
Firsirotu, 1984; Bia & Nohria , 2000; Burnes, 2000; Cummings & Worley, 1997).
Thậm chí, trong tình huống này, như Kanter et al . (1992) duy trì, những “bold
strokes” thường cần theo sau một chuỗi các thay đổi gia tăng, để điều chỉnh
văn hoá tổ chức và hành vi với cơ cấu mới. Lewin nhận thấy rằng nền tảng
hành vi hoặc văn hoá thay đổi diễn ra nhanh chóng trong thời gian khủng
hoảng (Kippenberger, 1998a; Lewin,1947a). Các cuộc khủng hoảng có thể yêu
cầu hướng dẫn thay đổi , sự thay đổi thành công trong giới hạn của cấu trúc
thay đổi nhưng nghiên cứu của Lewin và những người khác cho rằng cấu trúc
thay đổi hiếm khi xảy ra trong trường hợp thay đổi hành vi bị bắt buộc (Lewin,
1947b; Kanter et al., 1992; Schein, 1996; Stace & Dunphy, 2001).
Phê bình 3
Lewin đã bỏ qua vai trò của các quyền lực và chính trị trong tổ chức và
bản chất các xung đột của nhiều cấu trúc tổ chức (Dawson, 1994; hatch, 1997;
Pettigrew, 1980; Pfeffer, 1992; Wilson, 1992).
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 20
Phản hồi 3:
Các vấn đề mà Lewin đã nghiên cứu, điều này dường như là m ột phê
bình lạ. Bất cứ ai nghiêm túc về nghiên cứu không dung hoà giữa kỳ thị chủng
tộc và tôn giáo, như Lewin, không thể bỏ qua vấn đề này. Như Bargal et al
(1992, trang 8) lưu ý, cách tiếp cận để thay đổi yêu cầu của Lewin" ... vào tài
khoản khác nhau trong hệ thống giá trị và cấu trúc quyền lực của tất cả các
bên liên quan ... Điều này rõ ràng là từ trích dẫn (Lewin, 1946, p. 203):
Một nỗ lực để cải thiện quan hệ giữa các nhóm đã phải đối mặt với nhiều
nhiệm vụ khác nhau. Các nhiệm vụ này xử lý các vấn đề khó khăn của thái độ
và các mẫu rập khuôn liên quan đến các nhóm khác và nhóm của riêng mình,
với các vấn đề về phát triển thái độ và chỉ đạo trong suốt tuổi thơ và thời thanh
niên, với vấn đề về nhà ở, và những thay đổi của cơ cấu luật pháp của cộng
đồng. Các nhiệm vụ này xử lý các vấn đề về tình trạng và đẳng cấp, với các
vấn đề phân biệt đối xử về kinh tế, người đứng đầu chính phủ, và với lãnh đạo
ở nhiều khía cạnh của đời sống cộng đồng. Các nhiệm vụ này xử lý từng cá thể
xã hội nhỏ trong gia đình, trong câu lạc bộ hoặc một nhóm bạn, với cá thể xã
hội lớn hơn của một trường h ọ c hoặc hệ thống trường học, với các khu vực
lân cận và với các cá thể xã hội kích thước của một cộng đồng, của nhà nước
với các vấn đề quốc tế. Chúng tôi đã bắt đầu nhận thấy rằng các nhiệm vụ đó
thì không có khả thi để ảnh hưởng quan hệ giữa các nhóm mà không cần xem
xét những người khác.
Cần ý thức rằng, m ô hình về quyền lực/sự tương tác của French và
Raven (French & Raven, 1959; Raven, 1965), Lewin đã dựa trên nhiều các tài
liệu về năng lực và chính trị để thực hiện (Raven, 1993). French đã từng là
cộng sự trong thời gian dài với Lewin và Raven trong công tác nghiên cứu tại
tại Trung tâm Nghiên cứu về năng động nhóm vào những năm 1950. Lewin và
Raven đã được thừa nhận tầm quan trọng và ảnh hưởng của mình lên những
suy nghĩ quyền lực của họ (House, 1993; Raven, 1993, 1999).
Phê bình 4
Lewin được xem như một ủng hộ từ trên xuống, quản lý –thay đổi cách
tiếp cận để thay đổi và bỏ qua tình huống yêu cầu thay đổi phía bên dưới
(Dawson, 1994; Kanter et al ., 1992; Wilson, 1992).
Phản hồi 4: Phương pháp tiếp cận thay đổi của Lewin đã giúp đỡ m ột loạt
các nhóm và các tổ chức:
Các nhóm và tổ chức này đại diện cộng đồng, hệ thống trường học, các tổ
chức vị thành niên và các đối tượng. Các nhóm và tổ chức này cũng bao gồm
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 21
lực lượng lao động và các quản lý đại diện, văn phòng của các quốc gia và
chính phủ các nước (Lewin, 1946, p. 201) .
Lewin nhận thấy rằng những áp lực cho sự thay đổi đến từ nhiều lần,
không chỉ các quản lý và lãnh đạo, cung cấp một phương pháp tiếp cận mà có
thể điều tiết. Tuy nhiên, bất kể những người xác định rõ cần phải thay đổi,
Lewin tranh luận rằng hiệu quả thay đổi không xảy ra, trừ khi có một "cảm thấy-
cần" bởi tất cả những người có liên quan; Lewin đã không nhìn thấy một nhóm
hay cá nhân như lái xe hoặc các quá trình thay đổi vượt trội nhưng thấy mọi
người đều hoạt động trong sân chơi bình đẳng. (Lewin, 1947b). Ông tin rằng,
chỉ bằng cách đưa ra các cam kết của tất cả những người có liên quan, thông
qua tham gia đầy đủ của họ trong những thay đổi quy trình, sẽ được thay đổi
thành công (Bargal et al., 1992; Dickens & Watkins, 1999; Pháp & Bell, 1984).
Do đó, theo Lewin việc thay đổi hành vi phải là quá trình từ trên xuống,
thay đổi thái độ không thể thành công mà không có sự tham gia hoạt động,
bình đẳng của tất cả m ọi người.
Kết luận:
Lewin đã ảnh hưởng lớn trên các l ĩnh vực thay đổi. Kế hoạch cách tiếp
cận thay đổi của Lewin đưa ra ba vấn đề:
- Bản chất các đóng góp của Lewin
- Tính hợp lệ của các mức phê bình chống lại Lewin
- Sự thích hợp của nghiên cứu Lewin cho xã hội đương đại và thay đổi
tổ chức.
Các đóng góp của Lewin để thay đổi lý thuyết và thực hành, có ba điểm
mấu chốt cần lưu ý:
- Đầu tiên, nghiên cứu của Lewin bắt đầu mối quan tâm của mình để tìm
một cách tiếp cận hiệu quả để giải quyết xung đột xã hội thông qua việc
thay đổi hành vi của nhóm (cho dù những xung đột đang ở trong nhóm ,
tổ chức, hoặc cấp xã hội) .
- Thứ hai điểm là để công nhận rằng, Lewin thúc đẩy đạo đức và nhà
nghiên cứu khoa học nhân văn thay đổi cách tiếp cận để thấy rằng học
tập và tham gia như là chìa khóa để đạt được các quy trình thay đổi
hành vi. Thay đổi hành vi gồm hai l í do: (1) Lewin thấy rằng phương
pháp tiếp cận này giúp đỡ để phát triển và tăng cường các giá trị dân
chủ trong xã hội như một tổng thể và như vậy, hành động như là một bộ
đệm chống kỳ thị chủng tộc và chuyên chế; (2) dựa trên nền tảng của
mình trong tâm lý học Gestal t và nghiên cứu riêng của mình, ông đã
thấy được cách tiếp cận này là hiệu quả nhất trong đưa đến về sự thay
đổi hành vi.
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 22
- Điểm cuối cùng mối quan tâm bản chất nghiên cứu của Lewin. Kế
hoạch tiếp cận thay đổi của Lewin dựa trên bốn củng cố: lĩnh vực lý
thuyết, nhóm năng động, hành động nghiên cứu, và các ba-bước mô
hình, được sử dụng kết hợp để mang lại hiệu quả thay đổi. Các phê
bình của Lewin, có xu hướng xử lý như các yếu tố riêng biệt và độc lập
của nghiên cứu Lewin, tập trung vào mình ba-bước mô hình của sự
thay đổi.
Khi thấy kết hợp các yếu tố khác của kế họach tiếp cận thay đổi, nó trở
thành tiếp cận thay đổi mạnh mẽ.
Bây giờ chúng tôi có thể kiểm tra những phê bình tạo nên kế hoạch tiếp
cận thay đổi của Lewin. Các mức phê bình chính là:
(1) Tính ổn định và thay đổi của Lewin trong các tổ chức được vận dụng
tốt nhất và tồi tệ nhất “wildl y inappropriate”. (Kanter et al., 1992, p. 10)
(2) Cách tiếp cận của Lewin để thay đổi chỉ phù hợp cho việc kết hợp và
gia tăng tình huống thay đổi.
(3) Lewin bỏ qua vai trò của trò của các quyền lực và chính trị trong tổ
chức , Lewin chấp nhận quản lý việc thay đổi từ trên xuống.
Các phê bình đã đề cập ở trên, nhưng để tóm tắt lại:
1. Có số lượng đáng kể bằng chứng rằng Lewin (1947a, trang 199) thừa
nhận rằng, thay đổi và không thay đổi có khái niệm liên quan; cuộc
sống là không bao giờ mà không có thay đổi, chỉ khác biệ t trong số
lưọng và các loại thay đổi tồn tại. "Ngoài ra còn có một số lượng đáng
kể của cá thể chứng cứ trong xã hội , và thậm chí cả vật lý khoa học, để
hỗ trợ Lewin của ba bước viễn tượng trên thay đổi (Elrod và Tippett,
2002; Hendry, 1996).
2. Như Dickens và Watkins (1999, p. 127) quan sát: cách tiếp cận sự thay
đổi của Lewin”. . . nhằm thúc đẩy sự thay đổi về nhóm, tổ chức và thậm
chí cả cấp xã hội ”. Lewin đã được thấy sự thay đổi như là quá trình
chậm xử lý công việc chậm thông qua các nhóm để đạt được thay đổi
hành vi và văn hóa. Tuy nhiên, nhiều tác giả như Quinn (1980, 1982) và
Kanter et al. (1992) đã được công nhận rằng một gia tăng cách tiếp cận
có thể đạt được biến đổi tổ chức. Lewin cũng nhận ra rằng,nhờ các
cuộc khủng hoảng s ự biến đổi của tổ chức được gia tăng nhanh hơn
(Kippenberger, 1998a; Lewin, 1947a). Tuy nhiên giữa các phê bình của
Lewin của phê bình, nhìn chung thay đổi cấu trúc và kỹ thuật đạt được
tương đối nhanh chóng (Dawson, 1994; Kanter et al ., 1992; Pettig rew et
al., 1989, 1992; Wilson, 1992).
3. Mối quan tâm của Lewin với các vấn đề như xung đột chủng tộc và tôn
giáo, sự tố cáo rằng ông bỏ qua vai trò của các quyền lực và chính trị
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 23
thì khó khăn để duy trì. Một trong những thế m ạnh của lĩnh vực chính lý
thuyết và năng động nhóm là họ xác định các lực lượng vũ trang trong
và giữa các nhóm và cá nhân hành xử xem như thế nào. Ngoài ra, việc
lặp đi lặp lại, khảo sát và học tập phương pháp tiếp cận mà nằm ở
trung tâm của hành động nghiên cứu và m ô hình ba bước cũng được
thiết kế để reval và địa chỉ các vấn đề (Bargal và quầy bar, 1992).
4. Những vấn đề Lewin tìm cách giải quyết được rất nhiều và đa dạng
(Cartwright, 1952; Lewin, 1948a). Sự đồng cảm của Lewin được thể
hiện rõ ràng với các người bị áp bức , người tàn tật, và chống lại sự kỳ
thị (Cooke, 1999; Marrow, 1969). Lewin đã nhận được sự giúp đỡ một
loạt các bên bao gồm các quốc gia và địa phương chính phủ, các nhóm
tôn giáo và chủng tộc, và người sử dụng lao động và đoàn thể; người
phản hồi chú trọng học tập và tham gia do tất cả các quan tâm (Lewin,
1946). Trong phần này, các chi phí mà ông đã được thấy thay đổi như
chỉ được từ trên xuống hoặc định hướng quản lý là khó duy trì.
Các phê bình của Lewin chỉ ra rằng kế hoạch tiếp cận sự thay đổi của
Lewin quá đơn giản và lỗi thời . Bằng cách từ chối những phê bình, và đưa ra
bản chất cách tiếp cận của mình, Ở phần này cũng chỉ ra sự liên quan nghiên
cứu của Lewin tập trung trong tổ chức và xã hội . Sự cần thiết để giải quyết
xung đột xã hội đã chắc chắn không kém bắt nguồn ghi ngày tháng của Lewin.
Hoặc có thể nói rằng một trong cách tiếp cận dựa vào việc xây dựng sự hiểu
biết, tạo ra các học tập, được nhìn mới, và xác định và kiểm tra (và tái kiểm tra)
các giải pháp (Bargal & Bar, 1992; Darwin et al., 2002). Chắc chắn, dường như
có chứng cứ chứng minh rằng ít nhất có thể đạt được hòa bình, hoà giải, hợp
tác, hoặc tin tưởng bởi lực lượng vũ trang (Olsen, 2002). Tương tự, trong các
tổ chức, các vấn đề của hiệu quả nhóm, hành vi , và sự thay đổi không có suy
giảm trong nửa thế kỷ kể từ khi Lewin chết, m ặc dù họ có thể thường xuyên
trong tình trạng được ghán cho là khác nhau. Tuy nhiên, như trong thời đại của
Lewin, không có cách nhanh chóng hay dễ dàng đạt được của các thay đổi
như vậy, và cách tiếp cận của Lewin rõ ràng là vẫn còn có giá trị và ảnh hưởng
trong các l ĩnh vực này (Cummings & Worley, 1997). Điều này có thể nhìn thấy
rất lớn từ các nhấn m ạnh rằng tiếp tục được đặt trên tầm quan trọng của các
nhóm hành vi và trao quyền (Argyris, 1992; Handy, 1994; Hannagan, 2002;
Huczynski & Buchanan, 2001; Kanter, 1989; Mullins, năm 2002; Peters, 1982;
Schein, 1988; Senge, 1990; Wilson, 1992). Thật vậy, sự tới của độ phức tạp
xuất hiện định hướng cho m ột sự quan tâm đổi m ới về nghiên cứu của Lewin
(Back, 1992; Kippenberger, 1998a; Macintosh & MacLean, 2001; Tschacher &
Brunner, 1995).
Bài dịch môn Quản trị thay đổi.
Học viên thực hiện : Nhóm 5 - Lớp MBA7 – ĐH Mở Tp.HCM Trang 24
Trong kết luận, m ặc dù những đóng góp của Lewin cho thay đổi tổ chức
đã chịu sự phê bình ngày càng tăng kể từ năm 1980, xuất hiện rất nhiều điều
vô căn cứ và/hoặc dựa trên sự giải thích phiến diện về nghiên cứu của ông.
Nhưng ngược lại, trong thập kỷ qua cũng đã nhìn nhận ra một sự đổi mới được
quan tâm về sự hiểu biết và ứng dụng những phương pháp của ông để thay
đổi (Bargal & Bar, 1992; Elrod & Tippett, 2002; Hendry, 1996; Kippenberger,
1998a; Macin tosh & MacLean, 2001; Wooten & White, 1999). Trong nhiều khía
cạnh, điều này không đến như một sự ngạc nhiên mà căn cứ vào sự chỉ báo và
kiến thức dành cho ông qua các nhà nghiên cứu lý luận lớn như Chris Argyris
(Argyris et al., 1985) và Edgar Schein (1988). Trên tất cả, m ặc dù, đó là sự
thừa nhận khắc nghiệt cho những công trình nghiên cứu của Lewin dựa vào sự
hiểu biết sâu xa vòng đời của một lý thuyết, sự trải nghiệm, và thực hành, và
đó là phát biểu ý kiến tuyệt vời bằng câu châm ngôn nổi tiếng của ông "...
không có điều gì thiết thực như là một lý thuyết tốt"(Lewin, 1943-1944, p.169).
HẾT BÀI DỊCH.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_dich_qttd_nhom_5_1707.pdf