Chính là thông qua việc thực hiện chức năng này mà gia đình thực
sự trở thành một cầu nối không thể thay thế được giữa xã hội và cá nhân.
Một kết luận được rút ra là, tất cả các thiết chế, xét đến cùng điều
bao hàm các giá trị xã hội, vị trí tác dụng của thiết chế này tùy thuộc phần lớn
vào các giá trị (hệ giá trị) mà xã hội ấy đang theo đuổi. Dù sao thiết chế cũng là
sự biểu hiện trình độ văn hóa của con người, do con người sáng tạo và tuân thủ,
và áp dụng thực hiện. Vì vậy, rất nhiều trường hợp sự chế tài của phát luật có
khả năng điều tiết hoặc làm biến đối các thiết chế một cách có chủ định rõ ràng.
Từ đó có thể kết luận: con người xây dựng nên thiết chế, thiết chế tồn tại là nhờ
vào cuộc sống hiện thực của chúng ta và chúng ta không thể sống mà không có
thiết chế rõ ràng.
25 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 13488 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chương VI: Thiết chế xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đảm bảo tốt cho sự phát triển của cả hệ thống xã hội. Thông qua tư
tưởng thiết chế mà mỗi cá nhân có thể tham gia vào các nhóm, các tổ chức, thích
nghi với sự phát triển của xã hội một cách nhanh chóng.
Trong xã hội tuỳ thuộc vào địa vị xã hội hay giai cấp mà mỗi cá
nhân có thể tin vào một hay nhiều hệ thống tư tưởng, tôn giáo, hoặc tuỳ thuộc
vào từng hoàn cảnh mà có thể hành xử theo một tác động của một học thuyết tư
tưởng, tôn giáo nào đó. Khi một quan niệm, một niềm tin được duy trì và trở
thành thói quen, thành tập tục thì nó có sức sống riêng khó thay đổi. Các học
thuyết tư tưởng tôn giáo có một sức sống dai dẳng bền bỉ cũng chính là vì lý do
đó. Một khi các hệ thống quan niệm, tư tưởng đã ăn sâu vào tiềm thức của con
7
người thì nó sẽ quay lại tác động vào môi trường. Qua đó, nó là cơ sở cho hành
động, nhận thức, tác động vào thế giới xung quanh, đồng thời nó cũng là cơ sở
để mỗi cá nhân yêu cầu người khác biểu hiện hành động theo cách suy nghĩ của
chính họ. Mỗi người khi đó trở thành một lực lượng tác động trở lại các hệ tư
tưởng để thay đổi hình thức biểu hiện, hay tính linh hoạt của những hệ tư tưởng
trong cuộc sống. Tuy thế các hệ tư tưởng muốn có sức sống lâu bền thì chúng
cần tác động trực tiếp đến nhận thức của con người, phải đi được vào lòng người,
và nó phải có giá trị trong thực tiễn cuộc sống và trong nhận thức của mỗi con
người.
7. Xu hướng trở thành tiêu điểm của những vấn đề xã hội.
Các thiết chế được thiết lập trên cơ sở của những nhu cầu xã hội cơ
bản, bởi vậy, bất kỳ sự đổ vỡ nào của một thiết chế xã hội nào cũng đều trở
thành những vấn đề xã hội nghiêm trọng.
VD : nạn thất nghiệp là vấn đề của thiết chế kinh tế, nạn bỏ học giữa chừng là
vấn đề của thiết chế giáo dục, tỷ lệ tội phạm tăng là vấn đề của thiết chế pháp
luật, sự suy sụp hay tan vỡ của hôn nhân là vấn đề của thiết chế gia đình...
III. Chức năng của thiết chế :
a. Điều hòa và kiểm soát :
Sự kiểm soát nhằm đưa các hành vi của các cá nhân, các nhóm vào
các khuôn mẫu đã được xã hội thừa nhận là đúng, dùng các chế tài để đẩy lùi các
hành vi lệch chuẩn vào khuôn phép hay trật tự.
Chức năng kiểm soát xã hội là tạo ra những điều kiện cho sự bền
vững, ổn định và trật tự xã hội, mặt khác tạo ra những thay đổi mang tính hợp lý
và tích cực (thay đổi trong khuôn khổ được phép, không ảnh hưởng đến độ bền
vững và tính ổn định của hệ thống xã hội).
Kiểm soát xã hội cần phải có tính mềm dẻo, linh hoạt, như vậy mới
có thể nhận biết được ý nghĩa của những sai lệch chuẩn mực. Những sai lệch nào
có tính tiêu cực, đe dọa phá hoại sự ổn định và trật tự xã hội, còn những sai lệch
nào là mầm mống của sự tiến bộ, của sự phát triển. Nếu như kiểm soát xã hội
không thể kiểm soát và phân định được vấn đề này thì nó sẽ triệt tiêu mọi nhân
tố tích cực của sự phát triển xã hội.
Thông qua quá trình xã hội hóa để các cá nhân tiếp nhận cơ chế
kiểm soát xã hội. Trong quá trình này, các cá nhân, một mặt tiếp nhận cách hành
động, cách nhận thức như thế nào là chuẩn, là đúng, mặt khác các cá nhân có thể
thực hiện sự tự kiểm soát xã hội (điều chỉnh hành vi của mình bằng cách so sánh,
đối chiếu hành vi của mình với các giá trị chuẩn mực đã tiếp nhận). Nhờ đó, các
cá nhân có thể thực hiện tốt những yêu cầu của xã hội với các vai trò mà họ đảm
nhận.
Kiểm soát xã hội biểu hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
để các cá nhân tiếp nhận cơ chế kiểm soát xã hội dưới dạng kiểm soát chính thức
và kiểm soát không chính thức. Trong đó:
8
- Kiểm soát chính thức gắn với hoạt động của một số tổ chức chính thức, với
các quy định và luật lệ để ép buộc các tổ chức phải tuân theo. Những tổ chức này
là những tổ chức thi hành pháp luật như công an, tòa án, viện kiểm sát, trại
giam…
- Kiểm soát phi chính thức thường gắn liền với các tổ chức xã hội không
chính thức và các nhóm sơ cấp, gắn liền với phản ứng xã hội (thái độ tán thành,
ủng hộ hay chê trách, phản đối) không công khai và chỉ phổ biến trong các nhóm
nhỏ.
Trường hợp thiết chế xã hội thực hiện các chức năng điều hòa và
kiểm soát xã hội không đúng cách thức có thể dẫn đến các tác động tiêu cực đối
với xã hội. Khi sự điều hòa và kiểm soát quá mạnh sẽ triệt tiêu mọi sáng tạo của
cá nhân, đồng thời thiết chế sẽ mang tính bảo thủ. Tính bảo thủ này thể hiện ở
chỗ nó cố gắng duy trì những khuôn mẫu tác phong đã lạc hậu, lỗi thời. Những
thiết chế này sẽ cản trở sự tiến bộ của xã hội.[1;160]
Sự kiểm soát và điều chỉnh quá mạnh của thiết chế xã hội khiến cho
cá nhân đôi khi cảm thấy mất đi bản tính của mình. Những người chống lại sự
kiểm soát của thiết chế đều bị coi là lệch lạc.
Tuy nhiên khi thiết chế biến đổi thì những con người này có thể
không còn là lệch lạc nữa. Đơn cử ở trong xã hội phong kiến việc tái giá của phụ
nữ góa chồng bị coi là sai trái, không được phép. Nhưng trong xã hội ngày nay
lại là bình thường, không bị phê phán.[1;161]
Sự kiểm soát và điều chỉnh quá yếu của thiết chế có thể dẫn đến tình
trạng các cá nhân, nhóm xã hội không thực hiện tốt vai trò, thậm chí trốn tránh
trách nhiệm của mình. Kết quả hoạt động của từng phần hoặc toàn bộ xã hội bị
trì trệ, những công việc đáng làm, cần làm thì không có người thực hiện.
b.Trật tự hoá hành động của các thành viên
Các thiết chế xã hội đảm bảo cho các cá nhân hoạt động với các
kiểu hành vi xã hội được chấp nhận trong nhiều trạng thái xã hội khác nhau.
Thông qua xã hội hóa, đồng thời với sự hoạt động của các thiết chế, các cá nhân
tiếp nhận các khuôn mẫu hành vi và thực hiện theo các khuôn mẫu đó tùy theo
từng tình huống cụ thể. Bởi vì thiết chế xã hội vốn là những mô hình hành vi
được đa số thừa nhận là chuẩn và thực hiện theo, do đó các cá nhân sẽ không mất
thời gian để suy tính, đắn đo xem cách thức hành động đó đúng hay sai để thực
hiện hay không thực hiện. Nói khác đi, thiết chế đơn giản hóa tác phong hành
động, lề lối tư duy của các cá nhân. Chúng ta hành động theo thiết chế một cách
tự động hóa. Ví dụ: Thiết chế văn hoá tạo ra các chuận mực xã hội như cách ăn
nói, ứng xử làm ổn định trật tự của con người.
c. Xã hội hoá vai trò của cá nhân
Các thiết chế xác định phần lớn vai trò của các cá nhân mà xã hội chấp
nhận để cá nhân nhận biết trong quá trình xã hội hóa. Từ đó, các cá nhân có thể
lựa chọn vai trò nào đó đối với mình là phù hợp,ví dụ như lựa chọn nghề nghiệp,
9
tham gia vào các tổ chức đoàn thể…Và có thể biết được sự mong đợi của vai trò
trước khi cá nhân đó thể hiện (hay đó là sự xã hội hóa đón trước), để sau đó phấn
đấu bằng học hỏi, tự rèn luyện…Nói cách khác, thiết chế là một tập hợp các vai
trò mà mọi cá nhân cần phải học hỏi để thực hiện (thông qua quá trình xã hội
hóa) điều đó có
VD : thiết chế gia đình tạo ra cho các cá nhân, các thành viên trong gia đình các
vai trò như bố, mẹ, anh, chị. Mỗi thành viên trong gia đình lại có những chức
năng, những vai trò khác nhau.
Hay như thiết chế giáo dục tạo cho các cá nhân vai trò là người thầy,
người trò. Các vai trò này có được là do các thiết chế xã hội cung cấp chứ không
phải tự các cá nhân sáng tạo ra.
d. Thiết chế áp đặt và duy trì mô hình văn hoá
Để các cá nhân hướng nhận thức của mình tới các thiết chế xã hội
như là một sự chấp nhận các giá trị, chuẩn mực xã hội và khuôn mẫu hành vi,
nhằm củng cố nhận thức và thống nhất hành động của mọi thành viên trong xã
hội..
Thiết chế xã hội là yếu tố phối hợp và ổn định cho toàn hệ thống xã
hội. Nhìn chung các cá nhân ít khi hành động ngược lại các thiết chế. Vì cách
thức tư duy và phong cách hành động đã được thiết chế hóa có ý nghĩa quan
trọng đối với con người. Thiết chế mang lại cảm giác yên tâm và an toàn cho các
cá nhân tuân thủ nó, và nó chính là cái mà xã hội cho là đúng, là chuẩn[1;162].
Khi thực hiện theo nó là thực hiện theo số đông. Ví dụ như đại đa số mọi người
đều cho rằng “trai lớn dụng vợ, gái lớn gả chồng” đó là lẽ thường tình, điều này
được cả xã hội đồng tình chấp nhận. Và khi đó cũng có một số cá nhân không
tuân theo điều này, vì vậy họ cảm thấy mất an toàn, bất an và xã hội sẽ lên tiếng
đánh giá…
e. Các chức năng khác
Ngoài các chức năng chung nêu trên, còn có các chức năng riêng
biệt cho các loại thiết chế cụ thể.
Các nhà xã hội học phân biệt hai loại chức năng riêng biệt của thiết
chế (xét theo hình thức niểu hiện) là chức năng công khai của thiết chế là những
phần bộc lộ ra bên ngoài để cho các thành viên trong nhóm hoặc xã hội nhận biết
một cách rõ ràng và chức năng tiềm ẩn là chức năng không bộc lộ ra nên ngoài
một cách rõ ràng, do đó các thành viên trong xã hội hoặc trong nhóm không nhận
thấy được.
Giữa các thiết chế này có sự di chuyển chức năng. Sự di chuyển này
xảy ra khi xuất hiện một trong hai điều kiện sau đây:
- Thiết chế không đáp ứng được nhu cầu.
- Các thiết chế đều có khả năng đáp ứng được nhu cầu,
nhưng một số đó nổi trội hơn, có khả năng đáp ứng ở mức độ cao hơn so với các
thiết chế xã hội khác.
10
VD : gia đình có nhiều chức năng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình xã
hội hóa cá nhân, nhưng trong xã hội công nghiệp hiện đại nó đã có sự di chuyển
một phần chức năng giáo dục đó cho trường học.
IV. Các thiết chế xã hội cơ bản và chức năng của nó:
A. Thiết chế gia đình
1.Định nghĩa:
Theo John.J.Macionis: “Gia đình là một tập thể xã hội có từ 2 người
trở lên trên cơ sở huyết thống, hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau.
Đời sống gia đình mang tính hợp tác, gia đình thường là các tập thể sơ cấp trong
đó thành viên có cùng tài nguyên kinh tế và trách nhiệm hàng ngày “. [5,453]
Gia đình được xem như là một thiết chế xã hội , thực hiện một chức
năng quan trọng đối với xã hội: Sản xuất của cải vật chất và tái sản xuất con
người. Đối với xã hội loài người thiết chế gia đình không những đáp ứng nhu cầu
tái sản xuất xã hội mà còn phải thỏa mãn nhu cầu kiểm soát hoạt động duy trì nòi
giống, quan hệ giữa phụ nữ và nam giới và nhu cầu di truyền xã hội. nuôi dạy
con cái và chăm sóc các thành viên.
Như vậy thiết chế gia đình là hệ thống quy định ổn định và tiêu
chuẩn hóa tính giao và sự truyền chủng của con người. Hình thức phổ biến nhất
của nó là chế độ một vợ một chồng sống với con cái trong gia đình. Nằm trong
thiết chế này là các thiết chế phụ thuộc như đính hôn, hôn nhân, nuôi dưởng trẻ
em, quan hệ thân tộc…
2.Chức năng của thiết chế gia đình
a.Xã hội hóa
Gia đình là tác nhân đầu tiên và quan trọng nhất trong quá trình xã
hội hóa cá nhân. Nhân cách trong mỗi thế hệ mới được hình thành trong gia đình
sao cho lý tưởng của con cái khi lớn lên sẽ hội nhập tốt vai trò thành viên trong
xã hội rộng lớn ( Parson, Bales ,1955 ). Dĩ nhiên trong xã hội công nghiệp,
nhóm bạn cùng tuổi , trường học, giáo hội , phương tiện truyền thông đại chúng
cũng quan trọng trong sự xã hội hóa trẻ em. Nhưng điều này vẫn là chức năng
chính của gia đình.
Gia đình cũng đóng góp cho sự tiếp tục xã hội hóa con người qua
chu kỳ sống. Người lớn nhìn vào bất kỳ người nào mà con cái mình quen biết, bố
mẹ sẽ hiểu nhiều hơn về con mình
b.Sự điều tiết của hoạt động tình dục
Mọi nền văn hóa đều đặt ra một số hạn chế đối với hành vi tình dục. Quan
hệ tình dục là vấn đề cá nhân đôí với những ai liên quan, nhưng như là nền tảng
của sự sinh sản và kế tự của con người, quan hệ tình dục cũng là vấn đề mang
tầm quan trọng xã hội đáng kể.
Tất cả xã hội đều củng cố một số loại cấm kị loạn luân , cấm quan hệ tình dục
hay hôn nhân giữa một số bà con. Đúng ra là bà con nào là đói tượng của cấm kị
loạn luân đều có thể thay đỏi theo văn hóa .
11
VD: Hầu hết người Mỹ đều xem quan hệ tình dục với ông bà , anh chị em ruột ,
bố mẹ là trái đạo đức và trái tự nhiên. Nhưng những quan hệ tình dục như thế lại
được tha thứ ở một số nền văn hóa . Hôn nhân giữa anh chị em phổ biến ở Ai
Cập , Inca cổ đại .Điều này cho thấy cấm kị loạn luân có thể phổ biến cũng hoàn
toàn có thể thay đổi ở các nền văn hóa khác nhau.
Ý nghĩa của cấm kị loạn luân chủ yếu mang tính xã hội hơn là tính sinh học .
Trái với giả định thông thường, hoạt động tình dục giữa bà con họ hàng không
tạo ra sự bất thường về tâm thần hay dị dạng về mặt cơ thể ở con cháu. Như
Robert Murphy (1979) nêu rõ chính xã hội chứ không phải tự nhiên trừng phạt
tội loạn luân. Quả thật, chỉ có con người đang sống trong một thế giới văn hóa
hơn là bản năng- đều tuân thủ cấm kị loạn luân.
c.Sự sắp đặt xã hội
Từ quan điểm sinh học , gia đình không nhất thiết với mọi người là
để có con, con cái sinh ra không chỉ là những sinh vật sinh học mà còn là thành
viên xã hội. Nhiều địa vị xã hội quan trọng kể cả chủng tộc. dân tộc, tôn giáo và
giai cấp xã hội – được gán ngay khi sinh ra trong khắp cả dòng họ. Sinh hợp
pháp nhất là bố mẹ thuộc cùng vị trí xã hội như nhau, cho phép sự chuyển tiếp
ổn định vị trí xã hội từ bố mẹ sang con cái và làm sáng tỏ quyền thừa kế.
d.Đảm bảo vật chất và tình cảm
Theo nghĩa lý tưởng, gia đình bảo vệ và ủng hộ thành viên của mình
về theo lẽ tự nhiên, về tình cảm và thường là tài chính từ lúc mới sinh ra cho đén
khi chết. Gia đình thường là tập thể sơ cấp quan trọng nhất của một người và
thành viên gia đình có mối quan hệ gắn bó và lâu dài với người khác . Sự quan
tâm này với phúc lợi của người khác có vẻ mang lại một ý nghĩa quan trọng về
giá trị của chính mình và sự đảm bảo ở mỗi cá nhân . Cá nhân được sống trong
môi trường gia đình thường khỏe mạnh hơn những cá nhân phải sống đơn độc .
e. Cách chia khác:
- Chức năng sinh sản
- Chức năng giáo dục
- Chức năng sinh hoạt nội trợ
- Chức năng kinh tế - vật chất
- Chức năng giao tiếp
- Chức năng nghỉ ngơi
- Chức năng quản lý
- Chức năng tính dục
B. Thiết chế giáo dục :
a.Định nghĩa:
Thiết chế giáo dục là quá trình xã hội hóa phát triển một cách không
chính thức ngay trong gia đình và môi trường văn hóa chung, và một cách chính
thức trong một tổ chức giáo dục phức tạp của xã hội. Những thiết chế phụ thuộc
như thi cử, bằng cấp, học vị…
Giáo dục là thể chế hóa xã hội chính trong việc truyền dẫn kiến thức
và kỹ năng cũng như tiêu chuẩn và giá trị văn hóa cho thanh niên. Giáo dục xã
12
hội tiền công nghiệp diễn ra không chính thúc trong gia đình, xã hội công nghiệp
phát triển ở hệ thống trường chính quy.[1, 164]
b.Chức năng của thiết chế giáo dục.
* Xã hội hóa.
Tất cả xã hội đều truyền đạt cách sống của mình từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Trong các xã hội công nghệ thô sơ , chức năng truyền đạt được gia
đình đảm nhận. Khi xã hội ngày càng tiến bộ hơn về công nghệ, vô số thiết chế
xã hội xuât hiện để đóng một phần vào vai trò xã hội hóa cá nhân. Nhất là trong
các xã hội công nghiệp, gia đình không còn cung cấp tất cả những tri thức cho cá
nhân nữa.
Bắt đầu ở trường tiểu học trẻ học ngôn ngữ cơ bản và kĩ năng toán
học không thể thiếu được với xã hội công nghiệp. Hiểu biết này dần dần mở rộng
trong trường trung học và một số trường đại học. Vì xã hội công nghiệp thay đổi
nhanh chóng, giáp dục chính quy dạy cho học sinh không những thực tế mà còn
dạy cách học như thế nào để học sinh có khả năng thích ngi với thay đổi không
lường trước được của tương lai.
Trường học chuyển tải giá trị và tình cảm văn hóa. Những bài học
văn hóa khác được học theo một cách tế nhị hơn như : Giáo viên nuôi dưỡng sự
ganh đua ở học sinh bằng những lời khen hay thậm chí là cả sự so sánh giữa các
học sinh với nhau. Nhân cách cũng được học trong trường, thể hiện sự kính trọng
với các thầy cô giáo, nhân viên trong trường và cả sự tuân thủ kỉ luật. Chương
trình thể dục thế thao không những dạy giá trị ganh đua và thành tích cá nhân mà
còn dạy những chuẩn mực thi đấu công bằng.
*Hội nhập xã hội.
Giáo dục ở trường học giúp rèn luyện một dân số vào trong xã hội
đoàn kết. Việc dạy học xác nhận giá trị và tình cảm nuôi dưỡng sự tuân thủ và
ngăn chặn lầm lạc. Chức năng này đặc biệt quan trọng trong các xã hội. Nó giúp
cho các thành viên trong xã hội xích lại gần nhau hơn và nó không chỉ dừng lại ở
quy mô của một quốc gia mà còn mang tính quốc tế cao
VD: 1984, đa số simh viên ở hơn một nửa trong số 20 khu trường sở lớn nhất
nước Mỹ đều là thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số, và số lượng của họ rất
có thể tăng lên trong tương lai (Boyer, 1984)
* Sắp đặt xã hội
Giáo dục chính quy giúp định hướng thanh niên vào những địa vị
và vai trò văn hóa chấp nhận góp phần vào đời sống xã hội đang diễn tiến. Mục
đích của sự sàng lọc này là quá trình chọn lọc và phải nhận dạng và phát triển tài
năng và khả năng thay đổi của cá nhân. Vì lý do này ít nhất về mặt lý tưởng, nhà
trường đánh giá sinh viên theo nghĩa thành tựu hơn là tiềm năng xã hội, có nghĩa
là trong thực tế,"người học giỏi nhất và người thông minh nhất" được khuyến
khích theo đuổi bộ môn đòi hỏi thử thách và tiến bộ nhiều nhất, trong khi những
13
học sinh có năng lực khiêm tốn hơn được định hướng các trương trình và nghề
nghiệp phù hợp với tài năng của mình.
* Cách tân văn hóa
Hệ thống giáo dục hình thành cũng như truyền dẫn văn hóa.
Trường học khuyến khích học phải hỏi và tư duy có phê phán cũng như tạo môi
trường ổn định và phát triển lý tưởng mới. Giáo dục chính quy nuôi dưỡng sự
cách tân văn hóa và duy trì những truyền thống quan trọng.
* Chức năng tiềm ẩn của giáo dục chính thức ( thường không được
thừa nhận)
Một chức năng nhu thế là nuôi con. Vì số lượng gia đình chỉ có một
bố hay một mẹ và hôn nhân hai nghề nghiệp đang phát triển. Giáo dục ở trường
có chức năng an ủi bố mẹ có bổn phận nuôi con. Vả lại vì nền văn hóa của chúng
ta thừa nhận một giai đoạn thanh niên kéo dài. Sinh viên vào đại học ở độ tuổi
hai mươi, phản ánh kết quả của việc ngăn cản nhiều thanh niên không cạnh
tranh để tìm vị trí của mình trong lực lượng lao động.
Chức năng tiềm ẩn khác của trường học là hình thành mối quan hệ
xã hội có tầm quan trọng kéo dài từ trung cấp, cao đẳng, đại học cùng kết hợp
con người ở độ tuổi có thể kết hôn lại với nhau. Chúng ta hầu như không phải
ngạc nhiên khi gặp người vợ, người chồng trong tương lai của mình ngay trong
trường.
Phổ biến hơn , quan hệ xã hội hình thành trong quá trình giáo dục ở
trường có thể có giá trị đáng kể hơn về sau này. Mối quan hệ hình thành trong
trường học có thể có trở thành cơ sở cho hệ thống xã hội kéo dài. Trong khi cơ
hội và lợi thế của những hệ thống như thế thay đổi theo vị trí xã hội của những
người có liên quan thì ở mức độ ít nhất, tình bạn hình thành trong trường học có
tầm quan trọng lâu dài sau khi trường.
*. Cách chia khác:
- Chức năng kinh tế
- Phát triển cơ cấu xã hội của xã hội
- Chức năng chính trị
- Chức năng văn hóa tinh thần
- Định hướng và kiểm soát xã hội
- Xã hội văn hóa.
- Hội nhập xã hội.
- Sắp đặt xã hội
- Chọn lọc
- Đổi mới.
14
c. Tình hình giáo dục ở Việt Nam
Hiện nay ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục ngày càng tăng. Từ
2000 -2003 ngân sách chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo tăng từ 11,63%(2000)
lên 12,63%(2003) trong tổng chi của ngân sách nhà nước. So với các khoản chi
khác từ ngân sách nhà nước thì chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo chiếm tỷ lệ
cao nhất. Điều này thể hiện Đảng và Nhà nước ta có quan điểm đúng đắn, kế
thừa và phát huy tinh thần hiếu học của dân tộc coi giáo dục là sự nghiệp hàng
đầu, “hiền tài là nguyên khí Quốc gia”. Có thể nói kinh tế phát triển cộng với sự
quan tâm của Nhà nước là hai nguyên nhân quan trọng làm cho giáo dục ngày
càng được đầu tư mạnh mẽ.
Nền giáo dục của Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã có những
chuyển biến mạnh mẽ, đặc biệt là về quy mô và hình thức, ngoài ra, các bộ phận
như đội ngũ giáo viên, học sinh, sinh viên, số lượng trường lớp, sách và giáo
cụ… cũng có gia tăng đáng kể. Song bất cứ sự thay đổi nào cũng có những mặt
tích cực và tiêu cực nhất định của nó đối với xã hội. Sự biến đổi của thiết chế
giáo dục cũng không nằm ngoài quy luật khách quan đó. Chính sự biến đổi đó đã
tạo nên bộ mặt mới cho nền giáo dục Việt Nam như hiện nay. Việc phân tích một
số biến đổi trong thiết chế giáo dục sẽ chỉ ra được ảnh hưởng của nó tới những
người có liên quan trực tiếp tới ngành giáo dục nói riêng và toàn bộ xã hội nói
chung.
Biến đổi xã hội hiểu theo một cách rộng nhất là một sự thay đổi so
sánh với một tình trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước. Trong một phạm vi
hẹp hơn, người ta cho rằng sự biến đổi xã hội được đề cập đến sự biến đổi về cấu
trúc của xã hội (hay tổ chức xã hội đó) mà sự biến đổi này ảnh hưởng sâu sắc
đến phần lớn các thành biên của một xã hội. Theo A.Comte, thông qua biến đổi
xã hội nhân loại từ người nguyên thuỷ dốt nát đến con người được giáo dục, và
những cái mà chúng ra đươic học hoặc được phát triển tiến về con đường tách
khỏi sự sắp đặt của Thượng đế vì sự tiến bộ của nhân loại. Tất cả xã hội đều ở
trong một thực trạng “đứng yên trong sự vận động liên tục”. Áp dụng điều này
vào phân tích biến đổi thiết chế giáo dục ở nước ta thì thấy rằng:
Biến đổi thiết chế giáo dục Việt Nam là quá trình mang tính hoạch định.
Đây là tính hai mặt của sự biến đổi. Nói cách khác, những biến đổi xã hội do con
người tạo nên đều xuất phát từ tính tự giác, chủ động của con người, do đó có thể
kiểm soát được. Song, đồng thời cũng khó kiểm soát ngay chính những biến đổi
xã họi do con người tạo ra. Ví dụ như Nhà nước ta đã đặt ra những chiến lược,
những mục tiêu cụ thể như việc xây dựng các kế hoạch: kế hoạch 5 năm, xây
dựng luật giáo dục (đưa ra nội dung, phương pháp giáo dục, quản lí các
trường…) dựa trên thực tế của nền giáo dục. Tuy nhiên, trên thực tế triển khai kế
hoạch có nhiều phát sinh mà những người hoạch định chính sách không lường
15
trước được, cần sự tham gia góp ý của người dân, ví dụ việc cải cách sách giáo
khoa, phân ban hiện nay… có nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa
các địa phương (miền núi và đồng bằng, nông thôn và đô thị) và giữa các ban
ngành liên quan.
Căn cứ vào phạm vi ảnh hưởng của biến đổi xã hội, người ta chia nó ra
làm hai cấp độ biến đổi vĩ mô và biến đổi vi mô. Sự biến đổi thiết chế giáo dục ở
nước ta vừa mang tính vĩ mô và vi mô. Biến đổi vĩ mô diễn ra và xuất hiện trên
một phạm vi rộng lớn, không thể nhận thấy được vì nó diễn ra chậm chạp đối với
con người. Tính vĩ mô thể hiện qua việc cải cách các chính sách của Nhà nước,
tác động tới từng khía cạnh của giáo dục nói chung. Còn biến đổi vi mô liên
quan đến những biến đổi nhỏ, nhanh được tao nên những quyết định không thể
thấy hết được. Ví dụ như sự biến đổi ở các nhà trường học hay từ chính các lớp
học thông qua quá trình thay đổi phương pháp dạy và học.
Sự biến đổi thiết chế giáo dục ở Việt Nam vừa mang tính bên trong vừa
mang tính bên ngoài. Giáo dục nước ta không nằm ngoài mục đích đào tạo ra
một nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển của nhân loại nói chung, hay nói
cách khác, giáo dục Việt Nam đang và sẽ phải cố gắng nắm bắt kịp sự phát triển
khoa học kĩ thụât, cũng như kinh tế, văn hoá – xã hội… để có thể vững bước trên
con đường toàn cầu hoá vừa có tính hội nhập, vừa có tính cạnh tranh. Về yếu tố
bên trong thể hiện ở thiết chế hiện hành như chính trị (các chính sách của Nhà
nước), kinh tế, gia đình cần phải phù hợp trong mỗi giai đoạn phát triển của nền
giáo dục nước nhà. Mỗi thiết chế này đều có tác động hai chiều đến sự phát triển
của thiết chế giáo dục nói chung.
Tác động tiêu cực của sự biến đổi quy mô giáo dục:
Ngoài những thành tựu đạt được từ sự biến đổi nhanh chóng về số
lượng trường học, giáo viên, học sinh, sinh viên, thì kéo theo đó là những bất cập
phát sinh. Từ năm 1986, Nhà nước tiến hành áp dụng cơ chế thị trường, điều này
không chỉ tác động tới hoạt động kinh tế nói riêng mà nó còn ảnh hưởng mạnh
mẽ tới lối sống, khuôn mẫu hành vi ứng xử của con người trong xã hội. Một liên
hệ tới giáo dục được chỉ ra đó là tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền
trong công tác xin việc của các giáo viên. Việc này xuất phát từ việc ít người
muốn nhận công tác ở các vùng sâu vùng xa, hải đảo, miền núi. Hầu hết đều cố
gắng tìm hoặc “chạy” vào một trường công lập ở tỉnh hoặc thành phố. Điều này
dẫn đến hiện tượng chỗ thừa vẫn thừa, chỗ thiếu vẫn thiếu. Trường học được xây
dựng nhiều theo chương trình phổ cập giáo dục của Nhà nước, song không phải
tất cả các trường đều có đủ giáo viên và đủ chất lượng đảm bảo việc truyền đạt
kiến thức cho học sinh các cấp.
16
C.Thiết chế kinh tế.
a.Định nghĩa.
Nhìn theo góc độ xã hội học,kinh tế là hiện tượng xã hội đóng vai
trò là cơ sở, nền tảng, con đường, cơ chế điều kiện để thông qua đó mối quan hệ
giữa con người hình thành và biến đổi.
“Kinh tế là một thể chế xã hội quan trọng qua đó hàng hóa dịch vụ
được sản xuất, phân phối và tiêu thụ. Mặc dù là mọi bộ phận trong xã hội, kinh
tế có thể hoạt động theo nhiều cách khác nhau.”
Theo H.Spencer: “Thiết chế kinh tế nhằm đáp ứng nhu cầu thích
nghi của tổ chức xã hội đối với môi trường và thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao
của con người về các sản phẩm và dịch vụ.”
Thiết chế kinh tế là thiết chế mà nhờ đó xã hội được cung cấp đầy
đủ về vật chất và dịch vụ. Nó bao gồm chủ yếu là sự sản xuất phân phối, trao đổi
và tiêu thụ sản phẩm. Nó còn nhiều thiết chế phụ thuộc như tín dụng, ngân hàng,
quảng cáo…
b.Chức năng của thiết chế kinh tế.
Nhìn chung, thiết chế kinh tế đều có chung chức năng là điều chỉnh
cung cầu trong xã hội và kiểm soát chất lượng của hàng hóa, dịch vụ, kiểm soát
lợi ích của người tiêu dùng.
+, Sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ.
+, Phân phối hàng hóa và dịch vụ.
+, Tiêu dùng sản phẩm và dịch vụ.
D. Thiết chế chính trị.
a.Định nghĩa.
“Chính trị là một thể chế xã hội quan trong bao gồm sự tổ chức
quyền lực trong xã hội. Hệ thống chính trị cố gắng nuôi dưỡng quan niệm cho
rằng quyền lực của họ là hợp pháp chứ không phải là ép buộc. Uy quyền – quyền
lực được xem là hợp pháp bắt nguồn từ truyền thống, quy tắc và quy định ban
hành hợp lý và sức thu hút của cá nhân”
Thiết chế chính trị xuất hiện chủ yếu để giải quyết các xung đột bên
trong và bên ngoài xã hội. Sự tập trung quyền lực càng lớn thì càng bộc lộ rõ sự
phân chia giai cấp trong xã hội, do vậy càng đặt ra yêu cầu cao đối với việc củng
cố và tăng cường cơ quan quyền lực.
Thiết chế chính trị biểu hiện tập trung về quan hệ chính trị tồn tại
trong xã hội. Tổng thể các thiết chế chính trị quy định bản chất giai cấp xã hội
của hệ thống chính trị xã hội, quy định mức dân chủ hóa đời sống xã hội.
17
b.Chức năng của thiết chế chính trị.
Thiết chế chính trị có chức năng cơ bản là điều hòa các hoạt động
về phân chia quyền lực chính trị và kiểm soát việc củng cố thi hành quyền lực
chính trị.
Thể chế hóa hiến pháp, các bộ luật hoặc các quy định dưới luật vào
đời sống xã hội.
Thực thi các điều luật đã được thông qua.
Giải quyết các xung đột xã hội về quyền lực chính trị giữa các nhóm
thành viên trong xã hội.
Thiết lập các bộ phận an sinh xã hội như chăm sóc sức khỏe cộng
đồng, giáo dục, phúc lợi.
E. Thiết chế tôn giáo.
a .Định nghĩa.
Theo E.Durkheim: “Tồn giáo là hệ thống cấu kết những tín ngưỡng
và thực hành có liên quan đến các sự vật linh thiêng, tức là những sự vật được
tách ra riêng, bị cấm đoán, đó là những tín ngưỡng và thực hành nối kết tất cả
những ai tin theo thành một cộng đồng giáo hội”. Cũng theo ông cho rằng tôn
giáo là sự thể hiện quyền lực xã hội dối với cá nhân.
“Thiết chế tôn giáo có yếu tố cơ bản là tạo dựng niềm tin vào lực
lượng siêu tự nhiên, siêu nhân. Biểu hiện của thiết ché tôn giáo là việc tập hợp
các cá nhân cùng chia sẻ niềm tin và cùng tham gia các hoạt động nghi lễ đặc thù
của tôn giáo”.Quan niệm của H.Spencer.
Tôn giáo là thể chế xã hội quan trọng dựa trên sự khác nhau giữa
thiêng liêng và trần tục. Không phải là vấn đề đánh giá khoa học tôn giáo là vấn
đề đức tin bao gồm nhiều hình thức hành vi nghi lễ khác nhau.
Thiết chế tôn giáo được biểu lộ qua những tín ngưỡng và hình thức
thờ phụng mà con người thực hiện với nhau. Bao giờ nó cũng bao gồm những hệ
thống luận lý và đạo đức chỉ rõ điều phải trái trong những khuôn mẫu tác phong,
các thiết chế phụ thuộc là những thể thức cầu nguyện, cách thức tổ chức thánh
lễ… có nơi ta thấy hành ma thuật và những mê tín dị đoan được các tổ chức tôn
giáo biến thành các thiết chế.
b.Chức năng của các thiết chế tôn giáo.
* Chức năng liên kết xã hội
Tôn giáo thúc đẩy tính cố kết xã hội , đoàn kết thành viên xã hội
qua các giá trị xã hội và tình cảm chung.
Tôn giáo có thể rối loạn chức năng này bằng cách gây ra sự chia rẽ
trong xã hội hoặc tạo ra sự mâu thuẫn trong xã hội. Vào đầu thời kì trung cổ
niêm tin tôn giáo đã thúc đảy các tin đồ Cơ đốc châu Âu tổ chức thành những
đạo quan Thập tự chống lại tín đồ Hồi giáo phương Đông.
18
* Kiểm soát xã hội
Mọi xã hội đều phát triển bằng những cách khác nhau để thúc đẩy
tính tuân thủ xã hội ổn định cách sống của mình. Nhiều tình cảm văn hóa- nhất là
tình cảm có tầm quan trọng về đạo đức được niêm tin tôn giáo ban cho tính hợp
pháp thiêng liêng.
VD: Ở châu Âu thời trung cổ, các mâu thuẫn được mọi người xem là ý chúa, nhà
vua thường cai trị xã hội theo quyền của thần thánh.,
Thực hiện chức năng tôn giáo đã tạo ra một hệ thống các chuẩn
mực, những giá trị nhằm điều chỉnh hành vi trong đời sống hàng ngày của những
người theo đạo
* Chức năng đền bù hư ảo
Luận điểm Mac cho rằng “ tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” đã
làm nổi bật chức năng này của tôn giáo. Có nghĩa là tôn giáo đã làm giảm tạm
thời nỗi đau khổ của con người, đồng thời cũng có thể gay ra những tác dộng có
hại đối với con người khi tạo ra ở họ những nhu cầu thường xuyên tách khỏi hiện
thực, tiêm nhiễm cho họ những quan điểm hư ảo.
Niềm tin tôn giáo tạo cảm giác an ủi rằng nhiều kinh nghiệm con
người - từ khi s inh ra cho tơi lúc chết - đều có mụch đích nhiều hơn. Củng cố bởi
niềm tin như thế, con người ít bị sự tuyệt vọng quật ngã hơn khi đối mặt với
những khó khăn, thử thách trong cuộc sống và rất có thể tiếp tục dóng góp tích
cực vào sự phát triển của xã hội.
* Chức năng giao tiếp
Chức năng này thể hiện khả năng liên hệ giữa những người có cùng
tín ngưỡng với nhau. Sự liên hệ được thực hiện chủ yếu trong hoạt động thờ
cúng, và sự giao tiếp với thánh thần được xem là giao tiếp tối cao.
Ngoài mối liên hệ, giao tiếp trong quá trình thờ cúng, ở giáo dân
còn có mối liên hệ ngoài tôn giáo : liên hệ trong gia đình, liên hệ kinh tế, liên hệ
trong sinh hoạt hàng ngày...Những mối liên hệ này có thể củng cố và tăng cường
các mối liên hệ tôn giáo của họ.
* Chức năng thế giới quan
Khi phản ánh một cách tưởng tượng, hư ảo về thế giới hiện thực,
tôn giáo tham vọng tạo ra một bức tranh của mình về thế giới nhằm thỏa mãn
nhu cầu nhận thức của con người. Bức tranh chung của tôn giáo về thế giưois
bao gồm 2 bộ phận : thế giới thánh thần và thế giới trần tục, trong đó tôn giáo
giải quyết những vấn đề tự nhiên, về con người, về xã hội. Sự lý giải của tôn
giáo về thế giới nhằm hướng con người tới cái siêu nhiên thần thánh do đó đã
xem nhẹ đời sống hiện thực.
F. Mối quan hệ giữa các thiết chế chủ yếu trong xã hội .
Các thiết chế chủ yếu đã nêu trên đây có mối quan hệ qua lại ở mức
độ cao. Trong qua trình vận động và phát triển, hệ thống xã hội cần thiết phải
duy trì sự cân bằng và ổn định của các thiết chế chủ yếu. Bởi vì nhiều chức năng
của các thiết chế chủ yếu có thể có một phần hay toàn bộ trùng nhau, cho nên
19
việc duy trì sự cân bằng của các thiết chế trong cùng một thời gian, cùng một vị
trí là hết sức khó khăn.
Các thiết chế xã hội được hình thành tồn tại và phát triển để phục vụ
cho một xã hội nhất định, bởi vậy giữa chúng phải có sự hỗ trợ và bảo vệ lẫn
nhau. Thiết chế giáo dục và thiết chế chính trị bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với
nhau từ trung ương tới địa phương. Hơn thế nữa sự thay đổi của một thiết chế
này thường dẫn tới sự thay đổi của một thiết chế khác .
Giữa các thiết chế cơ bản trong xã hội cũng không thể tránh khỏi
mâu thuẫn và cạnh tranh lẫn nhau. Sự mâu thuẫn và cạnh tranh có thể đưa tới sự
suy yếu ở một hoặc nhiều thành phần trong thiết chế.
Ví dụ: Sự cạnh tranh giữa thiết chế chính trị và thiết chế tôn giáo có thể
làm thay đổi thành phần, cơ cấu của giáo sĩ trong quốc hội .
Xu hướng hợp tác giữa các thiết chế là xu hướng cơ bản, xuyên suốt
quá trình vận động và biến đổi phát triển của xã hội. Đó là điều kiện để duy trì
trật tự và ổn định xã hội .
Kết luận: Một xã hội phát triển là sự phối hợp của hệ thống những thiết
chế chủ yếu trong sự lê thuộc và tương hỗ lẫn nhau. Không có một thiết chế nào
có thể đứng một mình, có thể thiếu ảnh hưởng của các thiết chế kinh tế khác. Các
thiết chế có tác động tuy khác nhau nhưng lại có tác động qua lại ảnh hưởng lẫn
nhau.
V. Sự vận hành của các thiết chế trong hệ thống xã hội:
1. Điều tiết cân bằng của hệ thống xã hội:
Xã hội loài người phức tạp đến mức nào? Đã có rất nhiều nhà khoa
học đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi này, một trong số đó là Parson. Parson đặc
biệt quan tâm tìm hiểu: mỗi yếu tố cấu trúc lên xã hội đóng góp vào hoạt động
ổn định của xã hội ra sao?
Parson đã đưa ra định nghĩ về hệ thống xã hội: “ một hệ thống xã
hội chứa đựng đa số những tác nhân hành động cá biệt có sự tương tác với nhau
trong một tình huống mà ít nhất cũng có một khía cạnh vật lí hoặc môi trường,
các tác nhân hành động bị thúc đẩy trong phạm vi một xã hội hướng tới sự lạc
quan của sự ban thưởng và mối quan hệ của họ với môi trường”
Địa vị vai trò là đơn vị cơ bản của hệ thống, ngoài ra còn là các tập
thể, các tiêu chí và các giá trị.
Yêu cầu của hệ thống xã hội:
+ Hệ thống xã hội phải có sự hỗ trợ cần thiết từ các hệ thống khác.
+ Hệ thống xã hội phải có sự tham gia của các thành tố trong hệ thống
+ Hệ thống xã hội đòi hỏi một ngôn ngữ để tồn tại.
+ Hệ thống xã hội phải có sự kiểm soát đối với các hành vi phá huỷ.
Cách thức điều tiết cân bằng của hệ thống xã hội chính là cách thúc
hoà hợp các khuôn mẫu giá trị và các xu hướng nhu cầu. Mối quan tâm mà ông
chỉ ra là các quá trình chủ quan hoá và xã hội hoá. Parson xem sự xã hội hoá là
20
một kinh nghiệm suốt đời. Bởi vì các tiêu chí và các giá trị in sâu trong thời thơ
ấu có xu hướng trở nên rất phổ biến nó được bổ sung trong suốt vòng đời với
một loạt kinh nghiệm xã hội hoá cụ thể.
Xã hội hoá và kiểm soát xã hội là các cơ cấu chủ yếu cho phép hệ
thống xã hội duy trì sự cân bằng của nó.
Một mặt, một số cơ cấu kiểm soát xã hội co thể được sử dụng để
kếo dài sự tuân thủ trật tự. Nhưng mặt khác, một hệ thống xã hội vận hành và
quan trọng hơn tốt nhất là khi kiểm soát xã hội chỉ được sử dụng ít nhất một hệ
thống xã hội phải có khả năng chịu một số dao động biến đổi, một số lệch lạc,
một hệ thống xã hội phải linh hoạt, ứng phó hiệu quả trước một số dao động,
biến đổi. Trật tự xã hội được xây dựng nên trong hệ thống xã hội của parson:
“Có khả năng dự báo và tái lập các su hướng lệch lạc nằm khuất sâu
để đi vào chu kì khắc nghiệt đã đặt nó ra ngoài sự kiểm soát của sự chấp nhận –
không chấp nhận bình thường và các khen thưởng - trừng phạt’’.
Là một nhà chức năng cấu trúc, Parson đã phân biệt 4 tiểu hệ thống
trong hệ thống xã hội :
+ Kinh tế là tiểu hệ thống thực hiện chức năng đối với xã hội về việc
thích nghi với môi trường thông qua lao động, sự sản xuất và phân phối. Qua các
công việc này, nền kinh tế thich nghi với môi trường, với các nhu cầu của xã hội
và nó giúp xã hội thích nghi vối thự tại ngoại vi này.
+ Chính trị: thực hiện chức năng đạt được mục tiêu bằng cách theo
đuổi các đối tượng thuộc về xã hội, các tác nhân hành động và các nguồn tài
nguyên để đạt được mục đích đó.
+ Hệ thống uỷ thác (trường học, gia đình ) xử lí chức năng tiềm tàng
bằng cách chuyển giao văn hoá (các chuẩn mực và giá trị) cho các tac nhân hành
động và cho phép họ chủ quan nó.
+. Thể chế cộng đồng (pháp luật) thực hiện chức năng hoà hợp, liên
kết các thành tố khác nhau của xã hội.
Sơ đồ:
Hệ thống uỷ thác Thể chế cộng đồng
(trường học, gia đình) (pháp luật)
Kinh tế Chính trị
Mỗi thành tố trong hệ thống xã hội thực hiện tốt chức năng của mình là
đã góp phần cho sự tồn tại và cân bằng của hệ thống xã hội.
Hệ thống xã hội
21
2. Sự cạnh tranh giữa các thiết chế xã hội:
Hệ thống các thiết chế chủ yếu của xã hội là : thiết chế kinh tế , gia
đình, văn hoá, giáo dục , chính trị. Mặc dù tất cả các thiết chế có sự phụ thuộc
qua lại với nhau, nhưng mỗi một thiết chế tự nó được cấu trúc ở mức cao và
được tổ chức xung quanh hệ thống các gia trị, chuẩn mực, quy tắc, các khuôn
mẫu đã được xã hội thừa nhận [ 1;170] .
Có một ví dụ rất sinh động để minh hoạ cho sự cạnh tranh giữa các
thiết chế xã hội, đó là giữa thiết chế văn hoá - thiết chế gia đình.
“Xã hội truyền thống quan niệm người đàn ông là người mạnh mẽ ,
quyết đoán, năng động, chỉ huy, có thần kinh vững hơn phụ nữ. Quan niệm bất
thành văn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và được củng cố liên tục
bằng các khuôn mẫu về vai trò giới tính đã đưa ngươi đàn ông đến vai trò là
người chiu trách nhiệm chính trong gia đình.
Các khuôn mẫu về vai trò giới tính hướng nam giới đạt tới những
hình ảnh được lý tưởng hoá, tương ứng với mỗi vai trò xã hội mà họ đang đảm
nhiệm. Về phía mình có thể người đàn ông cũng có nhu cầu thể hiện bản thân.
Nam giới cũng là người phải chịu tác động rất lớn từ phía xã hội với những
khuôn mẫu có sẵn dành cho họ.
Quan niệm phải có người chịu trách nhiệm chính trong gia đình
xuất phát từ ý tưởng bảo tồn trật tự để gia đình trở nên ổn định hơn, thống nhất
hơn…Có thể hoạt động một cách có trật tự.
Nếu chỉ gán cho nam giới vai trò luôn là người gánh lấy trách nhiệm
này (đặc biệt là trách nhiệm kinh tế) thi đó xẽ là một gánh nặng đối với nam
giới.Bởi vì không phải trong thời điểm nào, không phải người nam giới nào cũng
có đầy đủ phẩm chất và năng lực để đảm đương được những trách nhiệm đó.
Nhất là hiện nay, khi người phụ nữ đang dần trở thành một lực lượng cạnh tranh
với nam giới trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thực tế cho thấy, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
đang tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào các hoạt động xã hội và đòi hỏi nam
giới cùng chia sẻ gánh nặng công việc trong gia đình. Tuy nhiên đối với nam
giới, vấn đề xoá bỏ những quan niệm về vai trò trụ cột của họ lại chưa được xã
hội và phụ nữ nhìn nhận.
Chúng ta đều biết nguồn gốc của áp lực giới tính chính là các khuôn
mẫu về vai trò giới tính. Sẽ là một han chế đối với nam giới nếu họ vẫn giữ lấy
những khuôn mẫu truyền thống về vai trò trụ cột của mình mà không nhân thấy
phụ nữ đang có sự biến chuyển mạnh mẽ, nhanh chóng trong nhận thức và thực
tiễn về khả năng và trách nhiệm của họ đối với gia đình và xã hội.
Như vậy đối với phụ nữ, sự thay đổi quan niệm trụ cột gia đình sẽ
giúp họ khẳng định vị thế của mình trong xã hội, có được sự chia sẻ của nam
giới trong gia đình(nội trợ, giáo dục chăm sóc con cái).
Về phía nam giới, sự thay đổi quan niệm sẽ làm họ thấy thoải mái
hơn, sẽ sống thật với cảm xúc của mình, đồng thời nhiều điều kiện đểcó thể chia
sẻ với vợ con những công việc của gia đình.
22
Có thể nói: áp dụng tâm lí đối với người đàn ông sẽ giảm xuống khi
chính phụ nữ và nam giới tự nguyện rút ngắn khoảng cách giữa quan niệm và
thực tế.
Ở ví dụ trên, chúng ta đã thấy được sự mâu thuẫn hay khắc chế lẫn
nhau giữa thiết chế văn hoá (khuôn mẫu, quan niệm, giá trị) với thiết chế gia
đình(trong việc thực hiện cac chwcs năng của nó).
Như vậy là, tuỳ theo tính chất và nội dung các đoàn thể, các cộng
đồng mà thiết chế có những mục tiêu khác nhau, có định hướng khác nhau: các
tôn giáo co quy phạm tín điều khác với doanh nghiệp,các doang nghiệp tất nhiên
khác với các tổ chức chính trị xã hội.
3. Sự hợp tác giữa các thiết chế.
Giữa các thiết chế trong hệ thống xã hội có sự gắn bó, liên kết chặt
chẽ với nhau , tạo ra những điệu kiện đảm bảo sự phát triển xã hội. Các quan hệ
thiết lập trong thiết chế tỏ ra khá bền vững. Các khuôn mẫu hành vi được hình
thành trong thiết chế trở thành một phần của truyền thống văn hoá.
Mỗi một thiết chế có tầm bao quát rộng đến mức các hoạt động của
nó chiếm một vị trí trung tâm trong xã hội.Khi mà có sứ thay đổi trong thiết chế
là có thể đưa đến sứ thay đỏi đáng kể ở các lĩnh vực khác.Chẳng hạn khi thiết
chế kinh tế xảy ra sự biến động dữ dội như lạm phát, khủng hoảng, suy thoái thì
điều đó không chỉ đơn thuần ảnh hưởng tới việc làm,thu nhập mà còn ảnh hương
tới sự tồn tại của gia đình,chất lượng giáo dục,khnăng phục vụ người dân của
chính phủ.[1;171].
Sự xuất hiện của các phương tiện truyền thông đại chúng dẫn đến
việc hình thành nền văn hóa đại chúng.Nhờ đó văn hóa vốn có nguồn gốc từ
nông nghiệp, trở nên phổ biến thông dụng trong xã hội hiện đại, gắn với văn
minh công nghiệp và ngày càng mở rộng ảnh hưởng. Văn hóa đại chúng kinh tế
với nền kinh tế thị trường, văn hóa trong tôn giáo với sự chi phối của hệ thống
giáo lí và thiết chế xếp thành chương trìn, văn hóa gia đình với tư cách là văn
hóa nhóm nhỏ hay tiểu vănn hóa. Văn hóa gia đình phản ánh các quan hệ gia
đình.(ví dụ ở nhà chủ nhật). Nó chịu sự chi phối từ các giá trị, các chuẩn mực
được hình thành trong việc tiếp thu và sử dụng các thông điệp từ hệ thống truỳen
thông tin đại chúng.
Họ có thái độ phê phán nhiều khi gay gắt đối với việc quảng bá bạo
lực và lạm dụng hình ảnh phụ nữ, trẻ em trong các chương trình phim, quảng
cáo...vi mục đích thương mại.Điều ấy có nghĩa rằng gia đình có sự tác động đến
kinh tế, đến văn hóa đại chúng nói chung.
Sự tác động giữa các thiết kế chế còn được thể hiện trong các "chiến
lược sống của hộ gia đình" trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế thị trường,
tạo ra sự linh hoạt và khả năng lờn hơn trong sử dụng nguồn lực của hộ gia đình.
Những hộ gia đình có nhiều rượng và nhiều lao động sẽ có điều kiện hơn đẻ phát
triển kinh tế. Trong điều kiện còn nhiều đất hoang hóa, hộ gia đình nhiều lao
động cũng có lợi thế hơn trong việc mở rộng đất đai. Tuy nhiên, hiện nay tăng
23
mức sinh để tăng số lao động trong gia đình không phải là một chiến lược mà gia
đình chọn.
Nguồn lực của hộ gia đình( đất đai, nhân công, vốn) quyết định khả
năng mở rộng sản xuất, địa vị, giai cấp xã hội và việc đảm đương các vai trò
chính trị và quản lý khả năng của gia đình trước những biến đổi kinh tế và lựa
chọn xã hội. Trong phạm vi hộ gia đình ở nông thôn, việc kết hợp giữa sản xuất
nông nghiệp và dịch vụ, buôn bán là cơ sở cho việc phát triển ổn định chiến lược
của nhiều hộ gia đình. Từ góc độ nhân khẩu học thì đầu tư cho con cái, di chuyển
lao động là một chiến lược để phát triển kinh tế gia đình. Trong làn sóng cổ phần
hóa các doanh nghiệp, có hộ gia đình lựa chọn hình thức mua cổ phần.
Như vậy, dưới tác động của chính sách đổi mới, của cơ chế, chính
sách, việc lựa chọn chiến lược phát triển kinh tế, mô hình giáo dục, văn hóa, cấu
trúc gia đình...sẽ đảm bảo cho gia đình thích ứng với các thách thức về kinh tế-
chinh trị-xã hội. Toàn cầu hóa ngày càng được đảy mạnh thì những ảnh hưởng
đến chiến lược hộ gia đình và cấu trúc gia đình càng lớn.
4. Khả năng tự biến đổi của thiết chế:
Con người phải uyển chuyển, linh hoạt, mềm dẻo, cơ động trong tán
phong xã hội, có khả năng thích ứng cao mới có thể phát triển được trong sự phát
triển liên tục của xã hội. Các thiết chế xã hội cũng không nằm ngoài quy luật ấy.
Các thiết chế xã hội cũng có sự biến đổi qua các thời kì cho phù hợp với xu thế
mới. Và theo cách nói của parson: " một hệ thống linh hoạt sẽ vững chắc hơn
một hệ thống dễ tan vỡ do không thích ứng kịp với các dao động, biến đổi".
Gia đình- có lẽ là một trong những thiết chế được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm.
Thế kỉ XX đã chứng kiến những thay đổi to lớn của tổ chức gia đình
trên toàn thế giới
Sự chuyển biến từ gia đình phụ quyền sang gia đình hạt nhân thể
hiện ở sự biến đổi về cơ cấu gia đình, nhưng điều nổi bật nhất là sự biến đổi về
chức năng kinh tế của gia đình. Trước kia, gia đình có chúc năng sản xuất nhưng
hiện nay chức năng chủ yếu của gia đình là tiêu dùng. Các tác giả ấy đều nói đến
vai trò của nhà nước ngày càng tăng trong việc thực hiện các chức năng khác của
gia đình. Nhưng riêng đối với việc xây dụng nhân phẩm cho con cái, làm phát
triển nhân cách của con cái thì họ đều cho gia đình có vai trò tuyệt đối trong việc
giáo dục lí trí và tinh cảm.
Các nhà xã hội học Mác xít đã nghiên cứu về vấn đề này trên một
cơ sở rộng lớn hơn gắn liền với sự biến đổi của gia đình với sự biến đổi về quan
hệ xã hội, do đó đã xác định với sự biến đổi về quan hệ xã hội,do đó đã xác định
đầy đủ tác động biện chứng qua lại giữa gia đình và xã hội. Trước hết, các nhà
xã hội học mác xít đã nêu bật những biến đổi xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến
những biến đổi về chức năng gia đình. Đó là những biến đổi xã hội dần tới sự tự
do tương đối và tính độc lập của các thành viên trong gia đình. Sự tham gia ngày
càng nhiều của các phụ nữ về lao động xã hội, việc pháy triển mạng lưới nuôi
24
dạy trẻ, mở rộng các hình thức thời gian nghỉ ngơi, sự phát triển với tốc độ
nhanh của trẻ về mặt tâm lí và thể lực kèm theo việc kéo dài thời gian phụ thuộc
của con cái vào cha mẹ về mặt kinh tế. Cùng với sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội,gia đình phát triển theo xu thế mới, gia đính trở thành một trong những kiểu
hệ thống của xã hội, sự hoạt động, sinh sống của nó là do các quy luật phát triển
chung của hệ thống xã hội quyết định.tuy nhiên, nó vẫn là một bộ phận tự phat
triển tương đối độc lập của xã hội, có nhiều xu hướng phát triển riêng của mình.
Trong những điều kiện như vậy, các chức năng của gia đìnhcó
những biến đỏi căn bản. Một số chức năng (kinh tế, giáo dục) bắt đầu được thưc
hiện với sự hợp tác của gia đình với các đoàn thể và các thể chế xã hội khác.
Việc sinh đẻ và nuôi dạy con cái đã trở thành nhưng chức năng tình
cảm vì trong phần lớn trương hợp, con cái không còn là hình thức đầu tư có tính
chất vụ lợi đối với tương lai nữa. Tất nhiên, chức năng kinh tế và quản lí gia
đìnhvề mặt đời sống vẫn là chức năng quan trọng.Trong mọi trường hợp, gia
đình vẫn phải tạo ra những quan hệ đáp ứng nhu cầu nhất địnhcó tính chất chung
cho những thành viên trong gia đình. Đó là vì nhu cầu đời sống (ăn, ở, tiện nghi)
cộng đồng kinh tế giữa vợ và chồng với tính chất là sự hợp tác, là mối quan hệ
qua lại giữa vợ và chồng nhằm thỏa mãn nhu cầu ấy. Thế nhưng điều đó không
có nghĩa là những chức năng ấy đóng vai trò chủ yếu trong hệ thống gia đình.
Ngay cả các vùng nông thôn, mặc dù gia đình còn ở vào một trình đọ phát triển
thấp hơn so với các vùng thành thị và công nghiệp, rất ít người coi gia đình là
một phương tiện bảo hiểm nhưng lại nghèo túng, già yếu, bệnh tật, chủ yếu do có
hệ thống bảo hiểm và y tế của nha nước Xã Hội chủ nghĩa. Đối với chức năng
của gia đình trong việc làm cho đời sống trở nên dễ chịu, phần đông người dân ở
nông thôn coi đó là một chức năng thuộc hạng thứ yếu, điều đó chứng minh rằng
tính chất độc lập của người dân sống ở nông thôn không ngừng tăng lên. Và từ
đó đi đến một kết luận dứt khoát: trọng tâm của gia đình đã chuyển từ chức năng
về đời sống vật chất sang chức năng tình cảm.
Trong xã hội hiện nay, gia đình cũng trở thành một lĩnh vực thể
hiện tình cảm sâu sắc nhất. Quan trọng nhất ở đây là việc hạn chế các động cơ vụ
lợi và tính toán khi lập gia đình.
Những cuộc hôn nhân xây dưng trên tình yêu là những cuộc hôn
nhân vững bền nhất vì đó là sự kết hôn lý tưởng về mặt đạo đức xã hội, trí dục và
đức dục đối với con người. Tiếc thay trong cơ chế thị trường, có một số gia đình
do tư tưởng vụ lợi, tính toán để thu vén tiền cho con mình, gia đình mình bất
chấp nghi lễ và phong tục của xã hội.
Trong những chức năng tình cảm, các nhà xã hội học coi chức năng
nuôi dạy con cái chiếm vị trí hàng đầu. Nói cách khác gia đình đóng vai trò ngày
càng quan trọng việc xây dựng nhân cách của trẻ em, trong việc xã hội hóa trẻ
em. Nhà xã hội học Ba Lan nổi tiếng Szczepanski đã đưa ra một nhận xét rất sâu
sắc; “Gia đình là môi trường đầu tiên và môi trường xã hội của con người và là
chủ thể của sự giáo dục”. Nhà khoa học đã xác định rất rõ rằng: cơ sở trí tuệ và
tình cảm của cá nhân thường hình thành vào thời thơ ấu. Gia đình đưa lại cho trẻ
25
em những ý niệm đầu tiên về đời sống trong xã hội, tiếng mẹ đẻ, hệ thống khái
niệm đầu tiên để lí giải thế giới sự vật và hành vi con người, những ý niệm cơ
bản về thiện-ác, dạy trẻ con hiểu rõ đời sống và con người, đưa trẻ em vào thế
giới của những giá trị ma gia đình thừa nhận và thực hiện trong đời sống hằng
ngày của nó.
Chính là thông qua việc thực hiện chức năng này mà gia đình thực
sự trở thành một cầu nối không thể thay thế được giữa xã hội và cá nhân.
Một kết luận được rút ra là, tất cả các thiết chế, xét đến cùng điều
bao hàm các giá trị xã hội, vị trí tác dụng của thiết chế này tùy thuộc phần lớn
vào các giá trị (hệ giá trị) mà xã hội ấy đang theo đuổi. Dù sao thiết chế cũng là
sự biểu hiện trình độ văn hóa của con người, do con người sáng tạo và tuân thủ,
và áp dụng thực hiện. Vì vậy, rất nhiều trường hợp sự chế tài của phát luật có
khả năng điều tiết hoặc làm biến đối các thiết chế một cách có chủ định rõ ràng.
Từ đó có thể kết luận: con người xây dựng nên thiết chế, thiết chế tồn tại là nhờ
vào cuộc sống hiện thực của chúng ta và chúng ta không thể sống mà không có
thiết chế rõ ràng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_6_9538.pdf