Chuyên đề Cho vay thời lạm phát

Khi số lượng những ngân hàng nhỏ đang bùng nổ một cách nhanh chóng, ban quản lý của ACB biết rằng đây là thời điểm khó khăn để đưa ra những quyết định chiến lược. Họ đã tránh sự lưỡng lự vì nó c ó thể làm vị trí dẫn đầu hiện tại của họ bị đe dọa. Họ biết rằng những ngân hàng thương mại khác, đặc biệt là những ngân hàng nước ngoài có những chức năng tương tự, có thể dành mất thị trường, lợi nhuận cũng như cơ hội kinh doanh của họ. Họ c ó nên giảm bớt sự thắt chặt c hính sách cho vay an toàn của mình để mở rộng hơn nữa thị trường cho vay?. Có nên c ung cấp thêm ưu đãi để khuyến khích khách hàng hiện có vay nhiều hơn?. Liệu họ c ó nên tránh rủi ro bằng cách dồn sức vào việc cho vay liên ngân hàng mang lại ít lợi nhuận nhưng độ an toàn cao hơn?. Liệu họ có nên cố gắng thu hút khách hàng mới bằng cái giá của chính sách cho vay an toàn không?.

pdf13 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2401 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Cho vay thời lạm phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÌNH DƯƠNG KHOA SAU ĐẠI HỌC    NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI & CỔ PHẦN Á CHÂU - ACB Chuyên đề: CHO VAY THỜI LẠM PHÁT GVHD : TS HỒ NGỌC PHƯƠNG Học viên : Nhóm 9 Lớp : MBA – 2 – Khoá 4 Khóa : K17 cao học LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Đối với các ngân hàng trong nước, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần, hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có không ít gian nan, thách thức. Làm thế nào để để tận dụng tốt các cơ hội cũng như vượt qua các thách thức để phát triển là một bài toán khó đặt ra cho các ngân hàng. So với các ngân hàng nước ngoài đã và sắp có mặt trên thị trường Việt Nam, không thể phủ nhận các ngân hàng trong nước đang có những lợi thế riêng, đó là mạng lưới rộng khắp và cơ sở khách hàng truyền thống hùng hậu. Các ngân hàng nước ngoài nếu đầu tư vào Việt Nam, chắc chắn phải mất một thời gian tương đối dài để thông hiểu được tâm tư nguyện vọng của khách hàng cũng như những tập tính kinh doanh tại Việt Nam. Bên cạnh lợi thế trên, các ngân hàng trong nước đang đứng trước thách thức là phần tài sản sinh lời từ họat động cho vay chiếm đến 60-70%. Do vậy khi gia nhập vào môi trường kinh doanh mới các ngân hàng phải đẩy mạnh hơn các sản phẩm về dịch vụ. Nhưng cũng không thể không quan tâm đến sản phẩm truyền thống là cho vay. Ngân Hàng Thương mại cổ phần Á Châu là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần lớn ở Việt Nam. Có Mạng lưới kênh phân phối Gồm 321 chi nhánh và phòng giao dịch tại những vùng kinh tế phát tr iển trên toàn quốc (tính đến 31/12/2010). Trong những năm qua, với vai trò là ngân hàng chủ lực phục vụ đầu tư phát triển và đội ngũ cán bộ tín dụng, thẩm định có uy tín, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, ACB luôn được đánh giá là Ngân hàng có thế mạnh trong hoạt động tín dụng trong số các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. ACB có khả năng đáp ứng mọi nhu cầu vay vốn của Quý khách hàng với sự đa dạng về phương thức, phù hợp về thời gian và đơn giản về thủ tục. Với mục tiêu phục vụ tốt nhất mọi đối tượng khách hàng, hiện nay ACB đã và đang triển khai nhiều loại sản phẩm tín dụng, áp dụng rộng rãi cho cả khách hàng là cá nhân lẫn doanh nghiệp. Nhằm đáp ứng các nhu cầu cụ thể về vốn của Quý khách hàng, ACB luôn nghiên cứu, không ngừng đổi mới và đa dạng hoá các phương thức cho vay. Từ đó nhóm chúng em đi vào tìm hiểu cho vay thời lạm phát tại ngân hàng Thương Mại cổ phần Á Châu ( ACB) A. KINH TẾ VI ỆT NAM THỜI LẠM PHÁT (12/2007 - hết năm 2008) Lạm phát là một trong bốn yếu tố quan trọng nhất của mọi quốc gia (tăng trưởng cao, lạm phát thấp, thất nghiệp ít, cán cân thanh toán có số dư). Tình hình lạm phát hiện nay ở Việt Nam lên tới mức báo động là 2 con số, vượt qua ngưỡng lạm phát cho phép tối đa là 9% của mỗi quốc gia. Điều này sẽ dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống kinh tế của chính phủ: làm suy vong nền kinh tế quốc gia. Bên cạnh đó là sự tác động mạnh tới đời sống của người dân, nhất là dân nghèo khi vật giá ngày càng leo thang. Năm 2007, với việc tung một khối lượng lớn tiền đông để mua ngoại tệ từ các nguồn đổ vào nước ta đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông với mức tăng trên 30%, hạn mức t ín dụng cũng tăng cao, mức tăng 38%. Ấy là chưa kể sự tăng t ín dụng trong các năm trước đã tạo nên hiện tượng tích phát tác động đến năm 2007 và có thể cả những năm sau. Cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ tăng 25.09%. Chênh lệch giữa cung t iền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng trưởng kinh tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước, và cuối năm 2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai. Nguồn: WB và Vietstock dự báo 1. Giai đoạn 1: cuối năm 2007 đến tháng 2 năm 2008 Chỉ số tăng trưởng GDP giảm xuống rất thấp và lạm phát ở mức rất cao (trên 20%). Chỉ số tăng trưởng GDP hiện nay rất thấp, chỉ còn 6,7% mặc dù tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2007 cao nhất trong 10 năm qua. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2008 do Quốc hội đề ra từ kỳ họp cuối năm trước là 8,5- 9%, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo phấn đấu đạt trên 9%. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế quý 1/2008 đã chậm lại so với tốc độ của quý 1/2007. Lạm phát vượt qua mức tối đa cho phép 9% và lạm phát năm 2008 là 22,3%. Lạm phát năm 2007 đã ở mức hai chữ số (12,63%), 3 tháng 2008 tiếp tục lồng lên đến mức 9,19%, cao gấp ba lần cùng kỳ và bằng gần ba phần tư mức cả năm 2007, đã vượt qua mức theo mục tiêu đã đề ra cho cả năm 2008; nhập siêu gia tăng cả về kim ngạch tuyệt đối (3.366 triệu USD so với 1.933 triệu USD), cả về tỷ lệ nhập siêu so với xuất khẩu (56,5% so với 18,2%)... Đời sống nhân dân được tăng lên, thu nhập GDP bình quân đầu người từ 402 USD năm 2000 tăng lên 836 USD năm 2007, số hộ nghèo giảm dần, đời sống nông dân cải thiện rõ rệt, nhiều công trình kinh tế xã hội được hoàn thành, hội nhập sâu rộng với các nước trên thế giới (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu VN năm 2007 chiếm 156% GDP), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO,.. VN được các nước trên thế giới đánh giá tốt và khen ngợi,. Giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 3,56% so với tháng trước, cao hơn mức tăng giá tiêu dùng 2,38% của tháng 01/2008 so với tháng 12/2007. So với tháng 12/2007, giá tiêu dùng tháng 02/2008 tăng 6.02% và bình quân hai tháng đầu năm giá tiêu dùng đã tăng 14.89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó tăng cao nhất vẫn là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (hàng thực phẩm tăng 26.82 %; ăn uống ngoài gia đình tăng 22,03%; hàng lương thực tăng 17,43%). 2. Giai đoạn từ tháng 3 năm 2008 đến tháng 8 năm 2008 Với những nỗ lực thắt chặt chính sách tiền tệ, đặc biệt cao độ trong 2 quý đầu, tốc độ lạm phát đã chậm lại, giá tiêu dùng trong tháng 6 chỉ tăng 2,14% - thấp nhất kể từ đầu năm. Tốc độ tăng tổng phương t iện thanh toán giảm dần, tăng 4,48% so với cuối năm 2007. Tính đến cuối tháng 6, dư nợ tín dụng chỉ tăng 20%, lượng t iền mặt trong lưu thông cũng giảm 7,13% so với cuối năm 2007, và chỉ số giá tiêu dùng quý 2 tăng 8,47%. Bước sang quý III, sau một độ trễ nhất định, tác dụng từ chính sách tiền tệ thắt chặt thể hiện rõ nét hơn. Nỗi lo lạm phát tạm thời lắng xuống, chỉ số giá tiêu dùng CPI so với cùng kỳ đã tăng lên mức cao nhất trong tháng 8 (1,56%) và có dấu hiệu giảm mạnh. 3. Từ tháng 9 năm 2008 đến tháng 12 năm 2008 Bước sang tháng 9 năm 2008 chỉ số giá tiêu dùng hầu như không tăng, CPI tháng 9 tăng 0,18% và giảm trong suốt cả quý 4 năm 2008 (tháng 10 giảm 0,19%, tháng 11 giảm 1,76%, tháng 12 giảm 0,68%). Giữa sóng to gió cả của cơn bão khủng hoảng tài chính toàn cầu, có thể nói con tàu kinh tế Việt Nam đã được neo giữ an toàn. Cuối năm 2008, lạm phát được kiềm chế và tăng trưởng kinh tế đạt ngưỡng trung bình. Dù rằng thuốc đắng không tránh khỏi tác dụng phụ nhưng những tín hiệu tích cực từ nền kinh tế cho thấy chính sách tiền tệ thắt chặt linh hoạt mà NHNN đeo đuổi trong năm 2008 đã cán đích khi dung hoà được cả hai mục tiêu. Tuy nhiên, cơn bão khủng hoảng toàn cầu chưa tan và sẽ còn diễn biến phức tạp, bất thường với nguy cơ suy thoái sâu trong năm 2009. Bởi vậy bài toán tăng trưởng kinh tế cùng với kiềm chế lạm phát vẫn là thách thức lớn đặt ra cho ngành Ngân hàng, đòi hỏi một chính sách tiền tệ quyết liệt và linh hoạt hơn trước những biến động mới. B. ĐẶC ĐIỂM LÃI SUẤT TIỀN GỬI, CHO VAY VÀ NHU CẦU VAY Ở VIỆT NAM Nhận thấy dấu hiệu lạm phát, Ngân hàng nhà nước (NHNN) đã đưa ra một loạt biện pháp nhằm hỗ trợ tích cực tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát như: ổ định lãi suất và tỷ giá, giảm tốc độ tăng trưởng của tín dụng, kiểm soát tổng phương tiện thanh toán. Trước hết NHNN đã có những động thái mạnh mẽ để hút bớt tiền từ lưu thông, giảm sức tăng của giá cả. Ngày 16/1/2008, NHNN thông báo điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng lên 11% (tăng thêm 1%). Để đảm bảo thanh khoản, các ngân hàng thương mại b ị cuốn vào cuộc đua lãi suất huy động vốn khốc liệt, đẩy lãi suất trên thị trường liên ngân hàng lên cao tới mức 30%, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của một số ngân hàng khác. Chính vì vậy, để ổn định thanh khoản, hạ cơn sốt lãi suất, trong tháng 2, NHNN buộc phải bơm ra thị trường một lượng tiền lớn trong ngắn hạn. Đồng thời xác lập trần lãi suất huy động không vượt quá 12%/năm và mức lãi suất thoả thuận giữa các ngân hàng trong Hiệp hội không quá 11%/năm dù việc này đi ngược với quá trình tự do hoá lãi suất. Việc tăng lãi suất đã thúc đẩy người dân tiếp tục giữ tiền gửi tiết k iệm bằng VNĐ đồng thời kiềm chế tăng trưởng tín dụng, nhu cầu nhập khẩu và tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, nhìn từ những tổn thương của khu vực doanh nghiệp thì đây thực sự là sự đánh đổi giữa kiềm chế lạm phát và đáp ứng mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Bởi thực tế không ít doanh nghiệp đã gặp khó khăn do t ác động lãi suất, chi phí tăng, vốn ít. Nhưng nhìn từ phía khác, t ại thời điểm đó áp lực mà lạm phát đè nặng lên đời sống của nhân dân và nền kinh tế trong dài hạn lớn hơn rất nhiều. Đây cũng còn là cơ hội để chúng ta sàng lọc, tái cơ cấu lại sản xuất, kinh doanh theo hướng hiệu quả hơn. Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các Ngân hàng thương mại (NHTM) phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt chặt điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. + Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% , mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và NH Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. + Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của NHNN tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. + NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây. + Ngày 15/2/2008 NHNN công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng t ín phiếu NHNN bắt buộc. Lãi suất ngân hàng đã ở mức "cực kỳ nguy hiểm" Trước chuyển biến trên, bài toán chống giảm đà tăng trưởng đã được tính đến nhằm giảm bớt khó khăn cho khu vực sản xuất. Trong tháng 9, NHNN đã đưa ra những quyết định quan trọng, duy trì lãi suất cơ bản ở mức 14%/năm, t ăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 1,2%/năm lên 3,6%/năm (con số được điều chỉnh lên 5% vào cuối tháng 9 và tăng gấp đôi lên 10% gần 1 tháng sau). Bên cạnh đó, NHNN cũng mở cơ chế cho phép các tổ chức tín dụng sử dụng tín phiếu bắt buộc làm công cụ tham gia nghiệp vụ thị trường mở, giải phóng trước hạn 20.300 tỷ đồng. Tiếp đó vào tháng 11, NHNN hai lần điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng VNĐ, giảm 1% vào ngày mùng 3/11 và giảm tiếp 2% vào ngày 20/11. Đây là lần đầu tiên sau 5 năm tỷ lệ này giảm, giải phóng một nguồn tiền mới cho các ngân hàng. Chỉ trong vòng 1 tháng, lãi suất cơ bản 4 lần được điều chỉnh giảm, tính đến ngày 20/11 chỉ còn 11% do những dấu hiệu lạc quan từ cuộc chiến chống lạm phát và thanh khoản trên hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng thương mại trên cả nước cũng đồng loạt có những đợt giảm lãi suất tín dụng nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Hiện nay mức lãi suất cho vay của một số ngân hàng lớn giảm từ 7% - 9%/năm so với lãi suất cao đỉnh điểm hồi giữa năm. Đáng chú ý từ ngày 8/12, lãi suất cho vay VNĐ thấp nhất của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã bằng với lãi suất cơ bản của NHNN (10%/năm). Năm 2008, giữa bối cảnh lạm phát nhảy vọt, thâm hụt cán cân thương mại lớn, dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào nhiều, NHNN đã phải giải một bài toán hóc búa về cơ chế điều hành tỷ giá. Bởi theo lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”, với dòng vốn ra vào tự do, một quốc gia không thể đạt được cùng một lúc hai mục t iêu ổn định lạm phát và ổn định tỷ giá mục tiêu. Xác định kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, NHNN đã thực hiện chính sách tỷ giá vừa linh hoạt vừa có kiểm soát, nói cách khác là “thả nổi có điều tiết” nhằm ổn định thị trường tiền tệ trước mắt nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu kiềm chế lạm phát trong trung hạn. Theo đó, tính đến tháng 11, NHNN đã bốn lần can t hiệp vào t hị trường ngoại hối qua việc từng bước nới rộng biên độ tỷ giá từ +/- 0,75% vào đầu năm 2008 lên +/- 3% vào ngày 7/11. Căn cứ vào biên độ đó, các tổ chức tín dụng tự n định tỷ giá nhưng trong phạm vi kiểm soát, tránh gây xáo trộn thị trường. Thêm vào đó, việc thông tin minh bạch về dự trữ ngoại hối mà Thống đốc NHNN công bố kịp thời cũng giúp củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư, giúp ổn định tỷ giá. Xét toàn diện thì lời giải trên của NHNN đã lập được cú hat-trick, vừa đưa tỷ giá sát với diễn biến thị trường, góp phần hạn chế nhập siêu và thúc đẩy xuất khẩu đồng thời đảm bảo tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững. C. NGÂN HÀNG TM & CP Á CHÂU - ACB 1. Giới thiệu ngân hàng TMCP Á Châu 1.1 Giới thiệu chung: - 24/4/1993: Thành lập NHTM CP Á Châu (ACB) - 04/6/1933: Bắt đầu hoạt động kinh doanh - 31/12/2010: Vốn điều lệ 9.376.965.060.000 đồng - Mạng lưới kênh phân phối: 321 chi nhánh và phòng giao dịch. - Nhân sự: đến ngày 28/02/2010 tổng số nhân viên là 6.749 người. - Quy trình nghiệp vụ: được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 Sản phẩm dịch vụ chính: + Huy động vốn. + Sử dụng vốn: cung cấp tín dụng, đầu tư, hùn vốn liên doanh + Dịch vụ trung gian: thanh toán trong và ngoài nước, ngân quỹ, chuyển tiền, bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng. + Kinh doanh ngoại tệ và vàng + Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ - Công ty trực thuộc: - Cty chứng khoán ACB (ACBS) - Cty Quản lý và khai thác tài sản NH Á Châu (ACBA) - Cty cho thuê tài chính NH Á Châu (ACBL) - Cty Quản lý Quỹ ACB (ACBC) - Công ty liên kết: - Cty CP Dịch vụ bảo vệ NH Á Châu (ACBD) - Cty CP Địa ốc ACB (ACBR) - Công ty liên doanh: - Cty CP Sài Gòn kim hoàn ACB-SJC 1.2 Hoạt động của ACB: ACB tư định vị là một định chế tài chính, tập trung vào thị trường NH bán lẻ, doanh nghiệp vừa và nhỏ. ACB xem mình là một NH bảo thủ, áp dụng các tiêu chuẩn khắc khe trong tín dụng và thế chấp Nợ xấu của NH chưa đạt mức 1% Năm 2000, ACB mở rộng kinh doanh ra ngoài phạm vi ngân hàng thương mại: mua bán chứng khoán (ACBS); quản lý và khai thác tài sản (ACBA); cho vay tài chính (ACBL); quản lý quỹ (ACBC) ACB luôn khẳng định chính sách cho vay an toàn: + Nợ quá hạn duy trì dưới mức 0,4% so với mục tiêu là 1%. + Tích cực tham gia vào thị trường cho vay liên NH. + Mua trái phiếu của Chính phủ. Về cơ bản thu nhập ít hơn nhưng an toàn, mặt khác tích cực đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm. + ACB tăng cường đầu tư vào hoạt động quản lý quỹ, thị trường vốn và quỹ huy trí để đa dạng hóa sản phẩm và giảm bớt rủi ro. Chiến lược sản phẩm của ACB: - Cuối năm 2006, tổng số cho vay của NH chiếm 40% tổng tài sản, thấp hơn mức trung bình của toàn ngành công nghiệp trong khi thu t iền gửi tăng gấp đôi so với năm trước. - Năm 2006: cho vay đóng góp 50% lợi nhuận gộp cho ACB, có lợi nhuận cao hơn trái phiếu và cho vay liên ngân hàng. - Tỉ lệ hoàn vốn trên tài sản trung bình khá cao 35-40%, NH chú trọng các tài nguyên nhằm tăng hiệu quả hoạt động hơn là tìm cách thu nhiều tiền gửi 2. HỌAT ĐỘNG CHO VAY CỦA ACB - Chiến lược: Chuyển đổi từ chiến lược các quy tắc đơn giản (simple rule strategy) sang chiến lược cạnh tranh bằng sự khác biệt hóa (a compettive strategy of differentiation. Định hướng ngân hàng bán lẻ. - ACB dành 10% số cho vay của mình cho các doanh nghiệp quốc doanh và phần lớn là cho nhu cầu vốn lưu động của họ, 46,5% cho cá nhân và 43,4% cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Không có sự khác biệt về lĩnh vực cho vay. Tuy nhiên các khoản vay phải đáp ứng được những yêu cầu khắc khe. - Việc cho vay thực hiện theo t iêu chuẩn lợi nhuận và thế chấp. ACB tiên phong trong cho vay tiêu dùng, cho vay mua nhà và trong bảo hiểm thẻ ghi có (debit card issuance) - Hiện tại ACB có hơn 1.800 đại lý chấp nhân thanh toán thẻ của Trung tâm thẻ ACB đang hoạt động - 1003 đại lý chi trả của Trung tâm chuyển t iền nhanh ACB-Western Union - ACB tích cực trong việc thiết lập hệ thống mạng lưới ATM. Những hoạt động này cho thấy quyết tâm của ACB đối với dịch vụ NH bán lẻ. 3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO ACB 1- Lợi nhuận cao hơn hay cho vay ít rủi ro hơn?. Trung thành với chính sách cho vay an toàn của mình. ACB cần bảo đảm rằng các khoản cho vay phải được cấp cho người vay có thành tích tín dụng tốt. Trong nhiều năm ACB đặc biệt chú ý đến hoạt động cho vay liên ngân hàng bên cạnh các đối tượng vay lành mạnh khác của mình. Chiến lược này dẫn đến kết quả là ACB phải duy trì lãi suất cho vay thấp cho các khách hàng trung thành và được chọn lọc kỹ của mình bao gồm cả ngân hàng và định chế tài chính. Mặt khác, ngân hàng chụi áp lực phải đưa ra lãi suất hấp dẫn đối với người gửi. Lợi nhuận cho vay vì vậy bị thu hẹp đáng kể. Để duy trì lợi nhuận, đẩy mạnh cho vay tiêu dùng dường như là giải pháp then chốt. Nếu ngân hàng chấp nhận chiến lược này, lợi nhuận cao hơn từ cho vay tiêu dùng có thể bù đáp lợi nhuận mong manh của hình thức cho vay trước đây. Một sự điều chỉnh nhỏ của chính sách cho vay có thể thu hút thêm người vay. Nếu từ bỏ chính sách cho vay an toàn ngân hàng có thể dành lấy hàng loạt khách hàng từ cạnh tranh nhờ vào danh tiếng thương hiệu của mình. Nhiều khách hàng mới cũng có thể suất hiện. Một nghiên cứu cho thấy có thể tăng số lượng người vay với cách thức này. Ước lượng này nếu gia tăng tỷ lệ trong thuế chấp lên 60% giá tr ị tài sản từ mức 50% hiện nay, ngân hàng có thể tăng khối lượng cho vay lên 10-15% từ cùng một đối tượng người vay. Tổng số cho vay có thể tương đương 130% số cho vay hiện tại nếu tính luôn khả năng có thêm khách hàng mới nhờ vào sự thay đổi nay. Giảm bớt khắt khe trong chính sách cho vay đồng nghĩa với việc đưa ngân hàng đến rủi ro cho vay đến nợ xấu. Cho vay đến nợ xấu có thể làm tổn hại danh t iếng của ngân hàng. Nếu chấp nhận BQL ACB phải xác định mức độ, thời gian và với chính sách này sẽ áp dụng. Hiện không rõ các khoản cho vay nhờ vào sự dễ dãi của chính sách sẽ nâng cao thương hiệu và sự tin cậy của khách hàng vào ngân hàng đến bao nhiêu. Không thể nới lỏng mà không có sự hy sinh, chính sách cho vay an toàn đòi hỏi phải lựa chọn khách hàng một cách khắt khe. Tiêu chuẩn lựa chọn khắt khe có thể ngăn ngân hàng thu hút đủ khách để đạt được sự cân bằng vừa kể trên. Ngân hàng không muốn giảm nhẹ tiêu chuẩn của mình, đặc biệt là khi ban quản trị của họ quyết tâm biến ngân hàng thành định chế tài chính hàng đầu trên thị trường. 2- Khuyến khích khách hàng vay thêm bằng các ưu đãi hấp dẫn Cách này rất đơn giản, có nghĩa là, đưa ra ưu đãi để khuyến khích khách hàng hiện có vay thêm. Với lượng khách hàng lớn ACB có thể thấy hình thức này là cách dễ nhất mà không cần nỗ lực gì thêm thật lớn lao. Những gì mà ACB có thể cần là xem lại hồ sơ khách hàng và tự hỏi xem nhưng khách hàng vay có tình trạng tín dụng lành mạnh có muốn vay thêm không. Mặc dù tính ưu đãi có thể làm tăng tốn phí trên mỗi đơn vị cho vay, nó có thể bù đắp bằng lợi nhuận tăng thêm từ các khoản cho vay mới. Tuy nhiên một giải pháp cho vấn đề này là chú ý đưa ra thời hạn thanh toán và dựa vào độ điều chỉnh lãi suất để trang trải các chi phí cho các ưu đãi làm phát sinh. Chẳng hạn, thay vì cố định mức lãi suất ở 9.3% hàng năm đối với các hợp đồng cho vay một năm. ACB có thể chào lãi suất ở 9.6% cho cùng thời hạn hợp đồng mà không cần phải tăng thêm thế chấp hiện tại đã cao hơn khi hợp đồng được thương lượng trước đây. Một số công việc hành chính như kết thúc hợp đồng hiện tại và thương lượng hợp đồng mới thì đương nhiên phải được thực hiện đòi hỏi nào của việc cho vay. Cách chọn này có liên quan đến một mức độ rủi ro nào đó do sự mở rộng cho vay mà vẫn dựa vào cùng một tài sản thế chấp. Mặc dù các tài sản thế chấp có thể tăng giá trị, không có một bảo đảm nào rằng giá trị đó là bền vững và là sự phản ánh khả năng thanh toán của bên vay. Ban quản trị của ACB đắn đo rằng liệu và có khi nào thị trường của các tài sản thế chấp đó bị trì trệ khiến làm giảm giá trị của tài sản. Bên vay có khả năng thanh toán tiền vay không?. Khả năng sảy ra điều đó là ra sao?. 3- Phát triển và quảng bá sản phẩm cho vay liên ngân hàng Sản phẩm cho vay liên ngân hàng là một trong những hoạt động của các ngân hàng thương mại. đây là một hoạt động ngắn hạn, chủ yếu cho vay trong khoảng thời gian rất ngắn giữa các ngân hàng thương mại. Mặc dù không mang lại lợi ích cao, nhưng đây là hoạt động cho vay đảm bảo nhất của ngân hàng thương mại. Biết rằng thị trường của những hợp đồng cho vay đơn lẻ vẫn đang tăng, nhưng nhu cầu của hoạt động vay vốn liên ngân hàng cũng ở mức cao và ACB có thể khai thác. Bằng cách tập trung vào cho vay liên ngân hàng, ACB có thể trung thành với chính sách cho vay an toàn này trong khi mở rộng các hoạt động cho vay vốn có. Có thể lợi nhuận sẽ không đạt ở mức cao nhất nhưng ngân hàng cũng không bị rơi vào tình trạng rủi ro cao từ những hợp đồng cho vay lẻ mang lại như những ngân hàng khác. Nhưng du sao, cho vay liên ngân hàng cũng không phải là một sản phẩm lý tưởng trong việc cạnh tranh. Ở một khía cạnh nào đó, ACB phải điều chỉnh mức lãi thấp đủ thấp để thu hút các ngân hàng nhưng cũng phải đủ cao để chi trả tiền gử i cho khách hàng. Tình huống tiến thoái lưỡng nam mà ACB phải đối phó là khách hàng muốn chuyển tiền gửi của mình sang ngân hàng có lãi suất cao hơn do nhu cầu tiền mặt tăng cao. Liệu sự lựa chọn này có nên được thông qua?. Nếu phương án này được lựa chọn, những nhà quản lý của ACB phải cân nhắc tỉ lệ cho vay liên ngân hàng trong tổng khối lượng cho vay. 4. VIỄN CẢNH CỦA NGÂN HÀNG Khi số lượng những ngân hàng nhỏ đang bùng nổ một cách nhanh chóng, ban quản lý của ACB biết rằng đây là thời điểm khó khăn để đưa ra những quyết định chiến lược. Họ đã tránh sự lưỡng lự vì nó có thể làm vị trí dẫn đầu hiện tại của họ bị đe dọa. Họ biết rằng những ngân hàng thương mại khác, đặc biệt là những ngân hàng nước ngoài có những chức năng tương tự, có thể dành mất thị trường, lợi nhuận cũng như cơ hội kinh doanh của họ. Họ có nên giảm bớt sự thắt chặt chính sách cho vay an toàn của mình để mở rộng hơn nữa thị trường cho vay?. Có nên cung cấp thêm ưu đãi để khuyến khích khách hàng hiện có vay nhiều hơn?. Liệu họ có nên tránh rủi ro bằng cách dồn sức vào việc cho vay liên ngân hàng mang lại ít lợi nhuận nhưng độ an toàn cao hơn?. Liệu họ có nên cố gắng thu hút khách hàng mới bằng cái giá của chính sách cho vay an toàn không?.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhe_21_5824.pdf
Luận văn liên quan