Chuyên đề Cơ sở hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước lớn mạnh và có vị thế trên trường quốc tế, đi đôi với xây dựng và phát triển là nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc; đây là nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đòi hỏi phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, trong đó phải xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

doc16 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 11320 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Cơ sở hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ: CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM Việt Nam có truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước vô cùng oanh liệt. Trong suốt chiều dài lịch sử, dân tộc ta luôn phải liên tục chống lại kẻ thù xâm lược và thường ở trong tình thế chiến đấu không cân sức, nhất là vào thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa hoặc chiến tranh. So với lực lượng đối kháng, nói chung chúng ta thua kém trên nhiều phương diện, ngoại trừ tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết và ý chí độc lập tự do của nhân dân. Chính trong cuộc chiến không cân sức kéo dài ấy mà dân tộc ta đã hình thành nên rất nhiều loại hình nghệ thuật quân sự đặc sắc như nghệ thuật chiến tranh nhân dân, nghệ thuật chiến tranh du kích, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật, nghệ thuật khởi nghĩa vũ trang…Nhìn lại lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng ta càng tự hào về truyền thống hào hùng ấy. Nghệ thuật chiến tranh nhân dân đã được hình thành rất sớm trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã trải qua những bước phát triển trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc từ thấp đến cao và đạt đến đỉnh cao trong thời đại Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các cuộc chiến tranh không kéo dài như các cuộc chiến tranh trước đây, nhưng hậu quả lại vô cùng khủng khiếp, nặng nề, nó vừa là cơ hội để các nước tham chiến có điều kiện thử nghiệm, sử dụng các phương tiện, vũ khí mới hiện đại; đồng thời là cái cớ để một số nước nhảy vào can thiệp công việc nội bộ với những động cơ và mục đích riêng, vì vậy việc nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh chiến tranh và các chiến lược quốc phòng là rất quan trọng, luôn được các nước quan tâm, đưa lên hàng đầu. Với mục tiêu trước hết là nhằm bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, và quan trọng nhất là không để xảy ra chiến tranh. Lịch sử Nghệ thuật quân sự Việt Nam là lịch sử của quá trình hình thành và phát triển các nghệ thuật chỉ đạo, tổ chức và thực hành toàn quân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt trên cả ba quy mô của đấu tranh vũ trang là chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật trong từng cuộc chiến tranh và trong suốt tiến trình lịch sử Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có truyền thống đánh giặc độc đáo, mang bản sắc riêng, đó là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh, quyết đánh, biết đánh và biết đánh thắng những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn mình. Với tư cách là một bộ môn khoa học, lịch sử quân sự Việt Nam có nhiệm vụ nghiên cứu đến cơ sở hình thành và phát triển các sự vật hiện tượng trong lĩnh vực quân sự từ cổ đại đến hiện đại về chiến tranh và các lực lượng vũ trang… kinh nghiệm hoạt động của các giai cấp và chính đảng nhằm rút ra những bài học thiết thực trong chuẩn bị, thực hành xây dựng lực lượng vũ trang; chuẩn bị đưa đất nước sẵn sàng chống lại sự xâm lăng của kẻ thù. Việc nghiên cứu lịch sử quân sự của một cuộc chiến tranh không chỉ dừng lại ở sự thắng thua hay đơn thuần là sự khảo sát thuần túy về mặt quân sự mà phải đặt nó trong mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá… ứng với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để từ đó trong từng cuộc chiến tranh có một nghệ thuật quân sự khác nhau. I- KHÁI LƯỢC VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VÀ CÁC GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN 1- KHÁI NIỆM Nghệ thuật quân sự, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Là cách đánh, cách dùng binh đã trở thành thông thạo, điêu luyện trong một trận chiến đấu, một chiến dịch hay trên toàn bộ chiến trường; nghệ thuật quân sự không có một khuôn mẫu cụ thể nào, nó có thể biến hóa khôn lường muôn hình muôn vẻ. Nghệ thuật quân sự là lý luận và thực tiễn trong chuẩn bị và thực hành chiến tranh, chủ yếu là đấu tranh vũ trang ra đời cùng với quân đội và xuất hiện khi có chiến tranh, xác định những nguyên tắc và phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang, là nghệ thuật tạo ra và sử dụng có hiệu quả nhất thế và lực, tận dụng thời cơ để chiến thắng. Nghệ thuật quân sự được hợp thành từ ba bộ phận: Chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Chiến lược quân sự là bộ phận cao nhất giữ vai trò chủ đạo, chỉ đạo nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật; nghệ thuật chiến dịch giữ vai trò khâu nối liền chiến lược quân sự và chiến dịch, nó chịu sự chỉ đạo trực tiếp của chiến lược quân sự và trực tiếp chỉ đạo chiến thuật; chiến thuật là lĩnh vực đấu tranh trực tiếp tiếp xúc với chiến dịch trên chiến trường, có tác động thúc đẩy nghệ thuật chiến dịch và chiến lược quân sự phát triển. Chiến lược quân sự là bộ phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự bao gồm: Lý luận và thực tiễn trong chuẩn bị mọi mặt của đất nước và lực lượng vũ trang; xây dựng kế hoạch, tiến hành đấu tranh vũ trang và các hoạt động tác chiến; xây dựng kế hoạch huy động nguồn lực đất nước phục vụ chiến tranh. Từ lý luận và thực tiễn, chiến lược quân sự có nhiệm vụ dự báo, xác định âm mưu, hoạt động đối tượng tác chiến; nghiên cứu vận dụng quy luật đấu tranh vũ trang; xác định các nguyên tắc chỉ đạo tác chiến; xây dựng mọi kế hoạch, chuẩn bị các tiềm lực của đất nước phục vụ cho chiến tranh; đề ra phương thức tiến hành đấu tranh vũ trang cho từng lực lượng, trong từng giai đoạn; vận dụng và phát triển hệ thống kỹ thuật quân sự, trang bị quân sự cho lực lượng vũ trang; xác định về nguyên tắc chỉ huy và tổ chức lãnh đạo cho các lực lượng vũ trang; nghiên cứu lý luận tiến hành và kết thúc chiến tranh. Do vậy, chiến lược quân sự giữ vai trò chủ đạo trong hoạch định tầm chiến lược từ khâu: Xác định đối tượng tác chiến đến đề ra mục tiêu nhiệm vụ cho các lực lượng trên cơ sở triển khai thế bố trí, phương pháp huy động mọi nguồn lực của đất nước phục vụ cho chiến tranh. Tùy theo tình hình cụ thể chiến lược quân sự phải xác định cụ thể đối tượng tác chiến, chúng có số lượng, trang thiết bị như thế nào. Tùy điều kiện kinh tế - chính trị của đất nước với đối tượng tác chiến mới đề ra các chính sách và đường lối quân sự cụ thể để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chiến lược quân sự mang tính ổn định trên cơ sở phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, trình độ sản xuất của đất nước mà trước hết là trình độ khoa học công nghệ của đất nước trực tiếp sản xuất ra vũ khí, kỹ thuật quân sự, phương tiện trang bị cho cá nhân và tập thể người lính. Điều kiện kinh tế còn tạo ra cơ sở hạ tầng: đường giao thông, phương tiện cơ động chuyển quân tập trung lực lượng, tập trung vật chất để tác chiến. Chiến lược quân sự còn phụ thuộc vào đường lối chính trị, đường lối quân sự và phục vụ cho các đường lối đó. Cần phân biệt rõ Chiến lược quốc phòng và Chiến lược quân sự để trong quá trình nghiên cứu tránh sự đồng nhất hai khái niệm và có sự nhầm lẫn. Chiến lược quốc phòng là chiến lược phòng thủ quốc gia, bằng sức mạnh tổng hợp cả kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, quốc phòng – an ninh. Quốc phòng là công cụ giữ nước bằng sức mạnh của toàn dân tộc trong đó với sức mạnh quân sự là đặc trưng, lực lượng vũ trang làm nòng cốt, thực hành đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực với 2 lực lượng: Lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang. Còn quân sự là một bộ phận cấu thành của nền Quốc phòng, là một công cụ, một dạng đặc trưng của ứng xử mang tính lịch sử - xã hội khi có chiến tranh. Nghệ thuật Chiến dịch là lý luận và thực tiễn trong chuẩn bị và thực hành các loại hình chiến dịch cũng như các hoạt động tác chiến tương đương. Là bộ phận của Nghệ thuật quân sự trong tạo thế và sử dụng thế và lực trong chiến dịch; là nghệ thuật trong sử dụng lực lượng hình thành các trận đánh lớn mang tính then chốt theo mục tiêu của Chiến lược quân sự đề ra; đó là sự phối hợp, phối thuộc giữa bộ đội chủ lực, địa phương và lực lượng chính trị quần chúng…trên nền tảng thế trận chiến tranh nhân dân trong tận dụng thời cơ có lợi để thực hành chiến tranh. Trong hai cuộc chiến tranh chống Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giải phóng dân tộc, quân và dân ta đã tiến hành rất nhiều chiến dịch tiến công, phản công, phòng ngự, phòng không, tiến công tổng hợp; từ chiến dịch có quy mô nhỏ đến chiến dịch có quy mô lớn, tác chiến hợp đồng quân binh chủng. Chiến dịch diễn ra cả ở rừng núi, trung du, đồng bằng ven biển, thành phố…Không gian chiến dịch rộng, thời gian chiến dịch rút ngắn, cách đánh chiến dịch phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện sự sáng tạo, đã từng bước trực tiếp đánh các chiến lược của địch. Chiến thuật quân sự là lý luận và thực tiễn, chuẩn bị và thực hành chiến đấu, nghệ thuật về phương pháp chiến đấu của các cá nhân, tổ nhóm, phân đội, binh đoàn, quân binh chủng, bộ đội chuyên môn và lực lượng vũ trang khác. Trên phương diện lý luận, chiến thuật quân sự là nghiên cứu tính chất, quy luật, nội dung, phương pháp chiến đấu; phương pháp chuẩn bị và thực hành chiến đấu; cách thức sử dụng lực lượng trong chiến đấu. Trong thực tế, Chiến thuật thể hiện ở việc hoạt động của cá nhân, các lực lượng lập kế hoạch, chuẩn bị và thực hành chiến đấu. Nhiệm vụ của chiến thuật quân sự là nghiên cứu bản chất, quy luật của trận chiến đấu; đề ra nguyên tắc, hình thức, biện pháp tác chiến; tổng kết cái cũ, dự báo phát triển cái mới; hướng dẫn và chỉ đạo các hoạt động chiến đấu cụ thể ở từng trận đánh. Trong chỉ đạo điều hành, thực hành tác chiến trên chiến trường lĩnh vực thường xuyên biến động, chiến thuật là khâu kiểm nghiệm tính đúng đắn của đường lối chiến lược. Trong thực tiễn chiến thuật phụ thuộc vào chiến lược quân sự. Cùng với Nghệ thuật quân sự thì vũ khí, kỹ thuật quân sự, phương tiện trang bị cho quốc phòng - quân sự là yếu tố trực tiếp tác động đến sự hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự. Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, các phương tiện, vũ khí chiến tranh ngày càng hiện đại và có sức hủy diệt công phá vô cùng lớn, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng đầu tư trang bị vũ khí và phát triển kỹ thuật để đảm bảo công cuộc bảo vệ đất nước. Đồng thời đòi hỏi Nghệ thuật quân sự cũng phải thay đổi để phù hợp với phương pháp đánh, tạo dựng thế trận nhằm phát huy hết các tính năng của các loại trang thiết bị đó. Nghệ thuật quân sự luôn phát triển song hành với sự hiện đại của vũ khí trang bị, chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực và các yếu tố khác có trình độ càng cao thì nghệ thuật quân sự càng phát triển và ngược lại. Các yếu tố hình thành thế bố trí, nguồn nhân lực, trang bị kỹ thuật, tổ chức kỷ luật, tinh thần… không thể thiếu trong một trận đánh, điều đó quyết định kết quả của một trận chiến đấu… 2- SƠ LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM - Nhìn lại chiều dài lịch sử dân tộc, ngay từ thế kỷ thứ III trước Công nguyên người Việt đã biết vận dụng phương thức tác chiến du kích để tiêu hao, làm suy yếu địch, nắm thời cơ tiến hành phản công, tiến công lớn tiêu diệt địch, trong đó hình thức chiến thuật, thủ đoạn chiến đấu được vận dụng nhiều đó là tập kích, phục kích với quy mô nhỏ, phát huy thế mạnh của yếu tố địa lý…Thời kỳ nhà nước Âu Lạc đã vận dụng phòng ngự tích cực, dùng quân thành Cổ Loa là chỗ dựa, tổ chức chặn địch từ xa, nhiều lần đánh tan lực lượng của đối phương. Những cuộc chiến tranh giữ nước trước Công nguyên dưới thời nhà nước Văn Lang, Âu lạc nền nghệ thuật quân sự đã hình thành và bước đầu phát triển hai bộ phận chủ yếu là chiến lược quân sự và chiến thuật; trong đó nổi bật nhất đó là sự tham gia đánh giặc một cách rộng rãi của lực lượng quần chúng. Về chiến lược quân sự, đã quan tâm tổ chức nắm địch, chuẩn bị lực lượng và chuẩn bị đất nước cho chiến tranh, vận dụng các loại hình tác chiến, phương thức tác chiến. Về chiến thuật, có tiến công trong thành trại, đánh vận động, phòng ngự, hiệp đồng giữa thủy binh với bộ binh và sử dụng chiến thuật đánh du kích…Đến đầu thế kỷ X, dân tộc Việt Nam bị đô hộ, ở nhiều vùng miền của đất nước các nhân sỹ yêu nước đã tổ chức nhiều cuộc khởi nghĩa vũ trang, tiến hành chiến tranh giải phóng, nền nghệ thuật quân sự Việt Nam tiếp tục phát triển đa dạng phong phú, mặc dù còn ở trình độ thấp, nhưng đã khẳng định được những giá trị ban đầu, đặt nền móng cho sự phát triển rực rỡ ở các giai đoạn sau này. - Năm 938, dân tộc Việt Nam giành được độc lập và bước vào kỷ nguyên xây dựng, bảo vệ quốc gia phong kiến độc lập. Từ năm 938 đến thế kỷ XIX với sự ra đời, tồn tại và phát triển của các triều đại phong kiến Việt Nam như: Ngô: 938-965; Đinh: 965-779; Tiền Lê: 980-1009; các Triều lý: 1010-1225; Hồ 1400- 1407; Trần: 1226-1399; Lê: 1428-1572; Tây Sơn: 1788- 1801; Nguyễn: 1802-1884. Đây là giai đoạn phải tổ chức nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược, do vậy nghệ thuật quân sự Việt Nam đã có những bước tiến dài phát triển rực rỡ cả về lý luận và thực tiễn, bao gồm cả về chỉ đạo chiến lược, vận dụng các loại hình tác chiến chiến lược, tổ chức các trận đánh quyết chiến chiến lược và chiến thuật. Thời điểm này các Nhà nước đã kết hợp cả tiến công quân sự, chính trị, kinh tế, binh vận, ngoại giao để nhanh chóng giành thắng lợi, vừa khôi phục hòa hiếu lâu dài giữa hai nước, ngăn ngừa chiến tranh tiếp diễn. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIX, tùy tình hình và điều kiện các triều đại phong kiến Việt Nam đã quan tâm tiến hành tác chiến chiến lược, tạo thế và lực, tạo thời cơ bằng cách tổ chức sử dụng các lực lượng du quân, phong quân, dân binh một cách hợp lý tạo ra sức mạnh tổng hợp của ba thứ quân, kết hợp chặt chẽ tác chiến du kích với tác chiến tập trung để tạo ra sức mạnh ưu thế hơn đối phương ở các trận quyết chiến chiến lược trong điều kiện “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”. Tư tưởng quân sự nổi bật ở giai đoạn này là: Cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, mưu trí, sáng tạo những cách đánh độc đáo; đường lối chiến lược chung là đánh lâu dài, vừa đánh vừa đàm. Hình thái chiến thuật đan xen, đa dạng và phong phú: tập kích, phục kích, thủy chiến công thành, tiến công, phòng ngự…đánh địch bằng mọi vũ khí, bằng mọi lực lượng và bằng tinh thần thượng võ của người Việt. - Từ đầu thế kỷ XX đến năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công và suốt 30 năm chiến tranh giải phóng (1945-1975) giành thắng lợi vẻ vang. Nghệ thuật quân sự Việt Nam trong giai đoạn này đã vận dụng những truyền thống đánh giặc của dân tộc và phát triển toàn diện về các mặt: đánh giá đúng đối tượng tác chiến, phương thức tác chiến chiến lược, nghệ thuật chiến dịch và về nghệ thuật chiến đấu. Sau Cách mạng tháng Tám chúng ta đã sớm tổ chức phát triển đất nước, củng cố chính quyền non trẻ trên cơ sở huy động sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, với quan điểm lấy dân làm gốc; kết thúc chiến tranh chống Pháp, ta đã khẩn trương ổn định, củng cố miền Bắc để làm căn cứ địa vững chắc, làm trung tâm lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng cả nước. Đó là nhân tố vô cùng quan trọng trước khi cả nước ta bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước trường kỳ. Mặt khác, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phân tích đánh giá đúng mặt mạnh, mặt yếu của từng kẻ thù trong từng giai đoạn để có những quyết sách và có những giải pháp, chiến lược phù hợp. Trong chỉ đạo chiến lược, chúng ta tiến hành đánh lâu dài vì đất nước của chúng ta luôn phải chống chọi với những kẻ thù lớn mạnh, nhưng đồng thời luôn quan tâm lựa chọn quyết định thời điểm kết thúc cuộc chiến tranh càng sớm càng tốt. Từ đánh giá tình hình sát đúng, có quan điểm chủ trương và biện pháp phù hợp, vận dụng sáng tạo nghệ thuật chiến tranh nhân dân vào việc phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng với phương thức sáng tạo, vận dụng đồng bộ các biện pháp đấu tranh, từng bước tạo thế tạo lực, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của Mỹ tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc rộng khắp với tinh thần quyết chiến quyết thắng, đấu tranh sáng tạo và độc đáo, với ý chí kiên cường bất khuất, quyết tâm trụ bám thực hiện khẩu hiệu “một tấc không đi, một ly không rời”, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc, “Đảng bám dân, dân bám đất, lực lượng vũ trang bám địch”… làm cho thế trận chiến tranh nhân dân ngày càng vững chắc, địch không thể phá nổi. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã có hơn 50 chiến dịch được thực hiện; trên cơ sở chỉ đạo chiến lược, nghệ thuật chiến dịch Việt Nam luôn phát triển cả chiều rộng và chiều sâu; chúng ta đã tổ chức và thực hiện nhiều loại hình chiến dịch như: Chiến dịch tiến công, chiến dịch phản công (chiến dịch phản công đường số 9-Nam Lào năm 1971), chiến dịch phòng ngự (chiến dịch cách đồng Chum), chiến dịch tiến công tổng hợp. Về cách đánh, chiến dịch của ta là chiến dịch chiến tranh nhân dân phát triển cao, là vận dụng cách đánh của nhiều lực lượng, kết hợp nhiều phương thức, quy mô tác chiến, trong đó tác chiến hiệp đồng ngày càng giữ vai trò chủ yếu…Nét đặc sắc về nghệ thuật chiến dịch của ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là các cuộc tiến công như vũ bão của các binh đoàn chủ lực ở bất cứ hướng nào, trong chiến dịch nào cũng luôn gắn liền với nổi dậy của quần chúng ở cả nông thôn và đô thị trên địa bàn chiến dịch, thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ. Đó là hệ quả tất yếu của quá trình phát triển, kết hợp hai hình thức đấu tranh: Đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, hai phương thức tiến hành chiến tranh: chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích, kết hợp tiến công với nổi dậy tiêu diệt địch và giành quyền làm chủ trong phạm vi chiến dịch tạo sức mạnh phi thường trong các chiến dịch tiến công mùa xuân 1975… Có thể thấy, nghệ thuật quân sự Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đã kế thừa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, không ngừng phát triển cả ba bộ phận chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật góp phần quyết định thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Để làm được điều đó phải có sự nhất quán về mục đích chính trị, có tinh thần cảnh giác trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đánh giá đúng kẻ thù, có quyết sách linh hoạt và chủ động, vận dụng linh hoạt về sách lược để đạt mục đích chính trị của chiến tranh; đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh; có nghệ thuật khởi đầu và kết thúc chiến tranh gắn bó rất chặt chẽ với truyền thống thượng võ của dân tộc ta suốt mấy ngàn năm lịch sử chống chiến tranh xâm lược của kẻ thù. Những nội dung về nghệ thuật đánh giặc đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho kho tàng quân sự Việt Nam. II- CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM 1- Điều kiện kinh tế và nhân lực của đất nước Vũ khí quân sự, kỹ thuật quân sự và phương tiện trang bị cho quốc phòng, quân sự là yếu tố trực tiếp tác động đến sự hình thành và phát triển nghệ thuật quân sự. Những điều kiện kinh tế mà trước hết là trình độ khoa học công nghệ của đất nước trực tiếp sản xuất ra vũ khí, kỹ thuật quân sự, phương tiện trang bị cho cá nhân và tập thể người lính. Điều kiện kinh tế còn tạo ra cơ sở hạ tầng như đường giao thông, phương tiện cơ động chuyển quân tập trung lực lượng, vật chất tác chiến hợp đồng quy mô lớn. Nền kinh tế nước ta trước đây chủ yếu lấy sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp là chính theo mô hình tự cung tự cấp, trình độ canh tác thấp, quy mô nhỏ, có tính chất phân tán. Trình độ phát triển kinh tế thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nghệ thuật đánh giặc của dân tộc. Vì vậy ngay từ thời kỳ đầu dựng nước, dân tộc ta đã biết kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng đất nước đi đôi với chăm lo củng cố quốc phòng, sẵn sàng đánh giặc giữ nước theo tinh thần tự lực tự cường, quán triệt tư tưởng “Quốc phú binh cường”. Trong xây dựng đất nước tổ tiên ta đã đề ra những chính sách nhằm phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng như “ngụ binh ư nông” của nhà Lý, “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc” của nhà Trần, “Ra sức làm đường, đắp đê, đào kênh rạch cải tạo đồng ruộng, đẩy mạnh chăn nuôi sản xuất ra các loại công cụ lao động, đóng thuyền bè để phát triển sản xuất, cơ động quân đội”. Trong đánh giặc nhân dân ta đã biết cất giấu lương thực để ổn định đời sống, nuôi quân, sử dụng các công cụ lao động sản xuất, tạo ra các loại vũ khí trang bị như mũi tên đồng, cung nỏ, vót chông...để đánh giặc bảo vệ Tổ quốc. Khả năng kinh tế còn là điều kiện để huy động nguồn nhân lực, bảo đảm lương thực, thực phẩm, thuốc men cho lực lượng vũ trang và nhân dân tác chiến. Dân tộc Việt Nam đã đúc kết "thực túc binh cường", binh có cường thì nghệ thuật quân sự mới phát triển. Nền kinh tế phát triển đồng thời kéo theo nguồn nhân lực phát triển tương ứng để sử dụng vũ khí, phương tiện ngày càng hiện đại. Hay nói cách khác, nguồn nhân lực quốc gia bao gồm cả về số lượng và chất lượng là cơ sở để phát triển nghệ thuật quân sự. 2- Kế thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên và tiếp thu tinh hoa quân sự thế giới Từ khi vua Hùng dựng nước đến nay, dân tộc ta đã bao lần chiến đấu chống ngoại xâm phong kiến phương Bắc mạnh hơn ta gấp nhiều lần về quân sự lẫn kinh tế, biết bao chiến tích oai hùng trước những kẻ thù mạnh nhất thời đại như quân Mông Cổ, đế chế phong kiến Trung Quốc đời Tần, Đường, Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh…Mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đó của dân tộc đã hun đúc lên truyền thống yêu nước nồng nàn, anh dũng, kiên cường, đoàn kết, cố kết dân tộc, ý chí tự lực tự cường và tinh thần quyết đánh, quyết thắng, với tư tưởng tích cực chủ động tiến công, toàn dân là binh cả nước đánh giặc, đánh giặc mưu trí sáng tạo, dùng nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh…Tinh thần kiên cường, bất khuất chiến đấu cho chính nghĩa đã thôi thúc mọi người dân Việt không ngại gian khổ và sự hy sinh, luôn chủ động tiến công địch. Truyền thống "quyết đánh và biết đánh", "lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều" là những dấu ấn sâu sắc trong nghệ thuật quân sự Việt Nam; "ít địch nhiều thường dùng mai phục, yếu trị mạnh hay đánh bất ngờ", "công ở chỗ không có thành, đánh ở nơi không có lũy, chiến ở chỗ không có trận", luôn chủ động đánh địch, đưa địch vào thế bị đối phó; kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố: lực, thế, thời, mưu, phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp để đánh địch. Mỗi khi Tổ quốc có họa xâm lăng thì tinh thần ấy lại dấy lên mạnh mẽ, không chỉ trong lực lượng vũ trang mà còn ở cả tinh thần của toàn dân tộc…Kế thừa, phát triển nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng phát triển, gắn liền với thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Nghệ thuật quân sự Việt Nam gồm ba bộ phận hợp thành: Chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và chiến thuật. Ba bộ phận của nghệ thuật quân sự là một thể thống nhất có quan hệ biện chứng chặt chẽ, thúc đẩy nhau phát triển, trong đó chiến lược quân sự đóng vai trò chủ đạo. Trong thế kỷ XX, dưới sự lãnh đạo của Đảng toàn dân ta lại nhất tề đứng dậy đánh đuổi Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mạnh hơn ta gấp bội; dân tộc ta, quân đội ta đã làm lên một Điện Biên "chấn động địa cầu" và "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", thống nhất Tổ quốc, non sông thu về một mối. Cùng với việc phát huy truyền thống quân sự của dân tộc, tích lũy, đúc kết kinh nghiệm, phát triển lý luận phù hợp với thực tiễn, quân đội và nhân dân ta còn luôn quan tâm, chọn lọc, học tập những kinh nghiệm độc đáo của nền nghệ thuật quân sự thế giới như: Binh pháp Tôn Tử của Trung Quốc, kinh nghiệm tác chiến chính quy hiệp đồng binh chủng hiện đại của Hồng quân Liên Xô, những tinh hoa quân sự trong từng giai đoạn của lịch sử quân sự thế giới. 3- Mục đích chính trị Các cuộc khởi nghĩa vũ trang của dân tộc Việt Nam trong lịch sử là đánh đổ chính quyền đô hộ, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước giành chính quyền và nền độc lập, tự chủ của dân tộc; đó là những cuộc đấu tranh chính nghĩa nhằm bảo vệ quốc gia, dân tộc mình. Trong các cuộc đấu tranh đó, đấu tranh vũ trang giữ vai trò đặc biệt quan trọng không thể thiếu, đồng thời hỗ trợ trực tiếp cho quần chúng nổi dậy giành chính quyền. Đấu tranh vũ trang nhằm vào những mục tiêu cần thiết, bộ phận quân địch ngoan cố, hỗ trợ đắc lực cho quần chúng giành chính quyền ở những nơi, những địa bàn trọng yếu, thúc đẩy cuộc khởi nghĩa phát triển mạnh mẽ đến toàn thắng và thường kết hợp với công tác binh vận để vô hiệu hóa lực lượng vũ trang của địch. Mục đích chính trị của chiến tranh giải phóng là đánh đuổi quân xâm lược, khôi phục lại nền độc lập, tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đối với dân tộc Việt Nam, bảo vệ nhà nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chính quyền và nhân dân là rất kiên quyết, triệt để; vì vậy, đặt ra yêu cầu đó là phải huy động sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, tập trung trên mặt trận đấu tranh vũ trang, ngăn chặn, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận, tiêu diệt bộ phận trọng yếu đạo quân xâm lược, kết thúc thắng lợi chiến tranh. Trong chiến tranh, mục đích chính trị là cơ sở quan trọng (thậm chí là nghệ thuật) tạo lập niềm tin, qua đó huy động sức mạnh tổng hợp toàn dân; đó chính là là cơ sở, nền tảng để phát động được sự tham gia rộng khắp trong nhân dân, chiến tranh nhân dân. Theo Lênin: xét về mặt lịch sử, giai cấp nào lãnh đạo được quần chúng nhân dân thì giai cấp đó giành thắng lợi. Đối với quân đội Việt Nam: Quân đội không đối đầu, không tiến công ai nhưng luôn sẵn sàng tự vệ chống lại mọi cuộc tiến công xâm lược và bạo loạn lật đổ; không chạy đua vũ trang nhưng giữ quyền xây dựng và phòng thủ đất nước. Nghệ thuật quân sự Việt Nam coi trọng yếu tố chính trị, tinh thần, dựa trên sự hiểu rõ tính chất chính nghĩa của chiến tranh, của việc mình làm, giác ngộ mục đích chiến đấu vì nước, vì dân và vì chính bản thân mình. Ở Việt Nam không có quân đội đánh thuê, đội quân chuyên nghiệp như ở nhiều nước, nhưng quân và dân Việt Nam chiến đấu có mục đích, lý tưởng rõ ràng nên luôn có tinh thần rất cao, sẵn sàng "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh", họ luôn có niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng và vào tương lai tươi sáng của dân tộc. 4- Đối tượng tác chiến Cơ sở hình thành cách đánh. Dân tộc Việt Nam đã phải chiến đấu chống lại các đạo quân xâm lược, đô hộ của nhiều nước, ở nhiều thời đại, chúng có số lượng đông, tổ chức trang bị và cách đánh khác nhau. Để đánh thắng các đạo quân xâm lược một cách có lợi nhất, nghệ thuật quân sự Việt Nam phải tìm hiểu, đánh giá đúng đối tượng tác chiến, phân tích đúng điểm mạnh, điểm yếu, cách đánh, biệp pháp, thủ đoạn tác chiến của địch trên chiến trường. Đứng trước đối tượng tác chiến lớn mạnh, sử dụng vũ khí mới, cách đánh và thủ đoạn tác chiến mới thì quân và dân Việt Nam lại phải tìm hiểu, điều tra kỹ, phát triển cách đánh lên trình độ cao hơn để chiến thắng kẻ thù. Trong chiến tranh, mỗi loại đối tượng tác chiến có sở trường, sở đoạn khác nhau, nhưng chúng đều có đặc điểm chung của những đạo quân xâm lược đó là: Có lực lượng đông, vũ khí nhiều và thường hiện đại hơn chúng ta, có thái độ ngạo mạn, hiếu chiến với những âm mưu thủ đoạn hết sức thâm độc và xảo quyệt, hành động tàn bạo, dã man, coi thường đạo lý, các quy ước, nguyên tắc của chiến trường…Về chiến lược, chúng thường chủ trương "đánh nhanh, thắng nhanh", lợi dụng những ưu thế vượt trội về quân sự của các đạo quân xâm lược, hòng tránh bị sa lầy, tiêu hao. Trong tác chiến, Để chiến thắng kẻ địch mạnh, nghệ thuật quân sự Việt Nam đã biết khắc phục và hạn chế những điểm mạnh của địch, khoét sâu những điểm yếu của chúng, tiêu hao, tiêu diệt từng bộ phận quân địch, từng bước làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng có lợi cho Việt Nam, bất lợi cho đối phương, tạo và nắm thời cơ giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. 5- Môi trường địa lý quân sự Thiên thời, địa lợi, nhân hòa là những điều kiện không thể thiếu để giành thắng lợi trong chiến tranh. Mỗi cuộc chiến tranh diễn ra trong một không gian, thời gian nhất định và chịu sự tác động bởi địa hình, thời tiết, khí hậu. Địa hình: Đồng bằng, trung du, miền núi ảnh hưởng cơ động, thế bố trí lực lượng; thời tiết, khí hậu…ảnh hưởng sức khoẻ, độ bền vũ khí. Môi trường địa lý quân sự là yếu tố khách quan tác động đến hành động tác chiến của cả hai bên tham chiến. Nước ta nằm ở cực đông bán đảo Đông Dương, phía Đông Nam lục địa Châu Á; phía Đông và Nam tiếp giáp Thái Bình Dương trong vùng nhiệt đới gió mùa, biên giới giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, Bắc Bộ và Biển Đông ở phía Tây, Trung Quốc ở phía Bắc, Lào và Campuchia ở phía Tây. Đất nước ta có dạng hình chữ S, với khoảng cách từ Bắc đến Nam khoảng 1.650km, vị trí hẹp nhất chiều Đông sang Tây là 50 km (ở Quảng Bình); đường bờ biển dài 3.260km không kể các đảo... Nước ta có địa hình đa dạng bao gồm rừng núi cao nguyên, trung du chiếm 3/4 lãnh thổ, nhiều sông ngòi kênh rạch. Nước ta có 2 con sông lớn nhất là sông Hồng và sông Mêkông bắt nguồn từ Tây Bắc lục địa Châu Á chảy ra Biển Đông tạo lên hệ thống giao thông, thuỷ chiến lược rộng khắp. Do Việt Nam là nước nằm ở vành đai thiên tai, lụt lội, khí hậu không điều hoà, mặt khác lại ở một vị trí chiến lược hết sức quan trọng, cửa ngõ đi vào lục địa Châu Á, đi ra Thái Bình Dương vì thế nước ta luôn bị nhiều thiên tai địch họa và kẻ thù thường xuyên nhòm ngó tiến công xâm lược. Điều này đòi hỏi dân tộc ta phải biết đoàn kết, cảnh giác, sát cánh bên nhau, cùng nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp chống lại sự tàn phá của thiên nhiên, đánh bại mọi kẻ thù để tồn tại, xây dựng và phát triển đất nước. Trong đánh giặc, tổ tiên ta đã biết vận dụng yếu tố “thiên thời, địa lợi”, sáng tạo ra nhiều cách đánh phù hợp hiệu quả như: Lợi dụng núi rừng, đèo dốc, sông biển, đồng ruộng ao hồ, đầm lầy...để tiêu diệt kẻ địch, bảo vệ mình. Nguyễn Trãi đã viết “Quan hà bách nhị do thiên thiết” (quan hà hiểm yếu hai người chống lại được trăm người). Để bảo vệ đất nước, bảo vệ sự trường tồn của dân tộc, ông cha ta đã đoàn kết và phát huy tối đa ưu thế của địa hình để lập thế trận đánh giặc. Như Lý Thường Kiệt chặn giữ 20 vạn quân Tống ở địa bàn bắc sông Như Nguyệt, chia cắt hai cánh quân thuỷ, bộ của chúng, quần cho chúng nhược mới tổ chức phản công chiến lược, đánh tiêu diệt, đánh tan đạo quân chủ chốt của giặc trên bộ; Trần Hưng Đạo đã đưa đạo quân Nguyên-Mông khổng lồ vào địa hình nhiều đầm lầy, sông ngòi, khiến sở trường tác chiến bằng kỵ binh của chúng không phát huy được mà còn bị vây hãm, tiêu hao đến nguy hiểm. Trần Hưng Đạo tiến hành vây hãm thuỷ trại Chương Dương, một điểm yếu trong thế trận giặc, buộc chúng phải đưa quân từ Thăng Long ra ứng cứu. Ta vừa đánh Thăng Long, tiêu diệt quân địch đi ứng cứu bằng cách đánh vận động, vừa lợi dụng sơ hở đánh úp thành nơi tập trung quân của giặc và buộc giặc tan vỡ tháo chạy…Trong kháng chiến chống Thực dân Pháp và đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, lợi dụng địa hình địa vật, tùy theo từng kẻ thù và chiến trường cụ thể, mà quân và dân ta đã vận dụng linh hoạt địa thế hiểm trở của núi, rừng, sông ngòi, kênh rạch…để chiến đấu đánh đuổi kẻ thù. Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã mang yếu tố nhân hòa, môi trường địa lý quân sự mang lại cho Việt Nam yếu tố thiên thời, địa lợi. Biết vận dụng đúng đắn các yếu tố ấy là cơ sở để nghệ thuật quân sự Việt Nam phát triển sáng tạo và đánh thắng kẻ thù xâm lược cho dù chúng có được trang bị hiện đại và đông đảo đến đâu. III- Ý NGH ĨA THỰC TIỄN Mục tiêu của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt nam chúng ta hiện nay là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm chỉ đạo nhất quán của Ðảng ta về bảo vệ Tổ quốc là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ và tự bảo vệ trong mọi hoạt động, mọi lúc mọi nơi, trong đó tự bảo vệ là phương thức hữu hiệu nhất để bảo vệ Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp trọng yếu của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; trong đó, sức mạnh trong nước với sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh, kinh tế, đối ngoại và các lĩnh vực khác là nhân tố quyết định. Ðó còn là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân không ngừng được củng cố, tăng cường ngay từ trong thời bình, bảo đảm đủ sức ngăn ngừa chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đòi hỏi phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; trong đó, phải xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ đã làm lên sự biến đổi rất lớn về các phương thức tác chiến, cách thức thực hành tác chiến trong chiến tranh, do vậy, ngoài việc thực hiện tốt những giải pháp đồng bộ như nêu trên, thực tiễn đòi hỏi phải xây dựng nghệ thuật quân sự phù hợp với điều kiện, yêu cầu của tình hình mới nhằm quy định cách tổ chức, hoạt động và tổ chức khai thác, sử dụng có hiệu quả thế và lực: THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH P.Th.T.C Sức mạnh vật chất và sự khôn ngoan Ranh giới giữa hậu phương và tiền tuyến rõ ràng, thời gian chiến tranh được xác định từ trước… THỜI KỲ VŨ KHÍ NÓNG P.Th.T.C Tính tổ chức và khả năng hiệp đồng THỜI KỲ VŨ KHÍ CÔNG NGHỆ CAO P.Th.T.C Thông tin đóng vai trò là trung tâm Không phân tuyến, tác chiến theo thời gian thực, sử dụng vũ khí VN cao… Tình hình an ninh thế giới những năm đầu thế kỷ XXI diễn biến phức tạp, song hòa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn là xu thế lớn. Tuy ít có nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới, chiến tranh sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang giữa các quốc gia hay trong một quốc gia do mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, can thiệp, lật đổ, ly khai, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên và các quyền lợi quốc gia khác có chiều hướng gia tăng, tác động mạnh tới hòa bình, an ninh của các dân tộc. Tình hình thế giới đã và đang thay đổi nhanh chóng, khó lường. Sự phân bố lại sức mạnh kinh tế và quân sự trên phạm vi toàn cầu đang làm cho cục diện chính trị thế giới biến đổi sâu sắc với xu thế đa cực ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Nhiều cường quốc và các trung tâm quyền lực mới nổi lên, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực và trên toàn thế giới. Sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các cường quốc, các trung tâm quyền lực với nhau diễn ra quyết liệt và có chiều hướng gia tăng. Ngoài ra, với sự lớn mạnh và trỗi dậy của Trung Quốc là một hiện tượng mang tầm cỡ quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến thị trường cũng như chính trị của khu vực và thế giới. Đến nay nền kinh tế của Trung Quốc đã đứng thứ 2 thế giới và theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế thì đến năm 2020 Trung Quốc sẽ là nước đứng đầu thế giới về kinh tế. Ngoài ra, do sự điều chỉnh về chiến lược quân sự, quốc phòng của một số quốc gia ảnh hưởng trực tiếp đến quốc phòng an ninh Việt Nam nhất là các quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong đó đó có sự thay đổi về biện pháp chiến lược của Mỹ; cùng với giai đoạn Trung Quốc đang ở thời kỳ tích cực đẩy mâu thuẫn ra ngoài…Do vậy chúng ta cần phải có sự chuẩn bị, thay đổi có tính chất chiến lược, cần thiết và toàn diện trên các mặt để thích ứng với khả năng chống chiến tranh trong tương lai. Với đất nước phải làm tốt công tác chuẩn bị lực lượng vũ trang, chuẩn bị mọi nguồn lực, sẵn sàng huy động thành sức mạnh quân sự quốc gia, chủ động đối phó với mọi tình huống: Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, trước hết là trình độ khoa học công nghệ của đất nước để trực tiếp sản xuất ra vũ khí, kỹ thuật quân sự, trang bị cho cá nhân và tập thể người lính; tạo ra cơ sở hạ tầng để tác chiến hiệp đồng với quy mô lớn bảo đảm sự ổn định…tránh để địch lợi dụng. Thực hiện tốt công tác đối ngoại hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quốc phòng an ninh; hạn chế tới mức thấp nhất sử dụng can thiệp vũ trang trong giải quyết các bất đồng, tranh chấp. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của các cấp, các ngành trong phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng an ninh. Thực hiện tốt việc phân vùng chiến lược gắn với phát triển kinh tế-xã hội, an ninh quốc-phòng, đối ngoại. Xây dựng lực lượng vũ trang có bản lĩnh chính trị vững vàng, nghiệp vụ quân sự hiện đại, được trang bị vũ khí, khí tài phù hợp với tác chiến hiện đại. Chuẩn bị thế trận, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, phát huy đúng mục đích, hiệu quả nền thế trận quốc phòng toàn dân, tập trung xây dựng phân vùng chiến lược bảo đảm yêu cầu tác chiến; từng bước điều chỉnh phương thức tác chiến phù hợp với chiến tranh công nghệ cao, đặc biệt được trang bị kỹ năng tác chiến, chiến thuật đánh lừa đối phương, phát huy hiệu quả địa hình, địa vật…, xây dựng được thế trận lòng dân, bảo đảm sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân. Với Quân đội, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ "Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp khó lường. Hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp". Mặt khác, cục diện thế giới đa cực đã hình thành ngày càng rõ hơn và sẽ tác động lớn đến độc lập, chủ quyền của các quốc gia. Chính vì vậy việc xác định phải tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc là nhằm: Tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh cả về tiềm lực và thế trận; xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh, xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trong thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng an ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Vì vậy tăng cường quốc phòng an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân là lực lượng nòng cốt, giữ vị trí trung tâm trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Do vậy chúng ta cần: Phải xây dựng lược lượng quân đội ngày càng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, có số lượng hợp lý, có sức chiến đấu cao, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống. Tăng cường sức mạnh quốc phòng đi đôi với xây dựng sự vững mạnh về chính trị, nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt. Xây dựng, phát triển lực lượng dự bị động viên hùng hậu, dân quân tự vệ rộng khắp. Tiếp tục đẩy mạnh nền công nghiệp quốc phòng, nhằm từng bước đảm bảo vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại cho lực lượng quân đội. Hoàn thiện các chiến lược quốc phòng và hệ thống cơ chế, chính sách nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp đánh thắng chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao của các thế lực thù địch. Phát huy kỹ năng tác chiến, chiến thuật đánh lừa đối phương, phát huy hiệu quả địa hình địa vật, đặc biệt phải điều chỉnh phương thức tác chiến cho phù hợp với chiến tranh công nghệ cao. Biết phát huy, kế thừa truyền thống nghệ thuật quân sự của cha ông để lại kết hợp với những tinh hoa của nền nghệ thuật quân sự Thế giới. Quốc phòng ngày nay không chỉ nhằm đối phó với chiến tranh mà trước hết phải đấu tranh có hiệu quả với các tình huống quốc phòng trong thời bình. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, lực lượng quốc phòng phải gồm nhiều thành phần, lực lượng trong đó lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Như vậy lực lượng quốc phòng là một lực lượng tổng hợp gồm cả lực lượng vũ trang và phi vũ trang thuộc nhiều lĩnh vực có liên quan đến quốc phòng, như quân sự, an ninh, đối ngoại, chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội ... Ngày nay, chúng ta đang sống và thừa hưởng thành quả của cha ông, chính vì vậy luôn cần phải trân trọng, bảo vệ, giữ gìn và phát huy những thành quả ấy, đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Dân tộc ta luôn tự hào với truyền thống đánh giặc ngoại xâm và giải phóng dân tộc; với nghệ thuật quân sự độc đáo, Việt Nam chúng ta đã đánh bại tất cả những kẻ thù xâm lược kể cả những kẻ thù được coi là mạnh nhất thời đại. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang thực hiện công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước lớn mạnh và có vị thế trên trường quốc tế, đi đôi với xây dựng và phát triển là nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc; đây là nhiệm vụ lớn lao, nặng nề đòi hỏi phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu ngày càng cao, trong đó phải xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại làm lực lượng nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; quán triệt tư tưởng tích cực tiến công, toàn dân đánh giặc, phải kết hợp sức mạnh giữa lực, thế, thời và mưu kế, xây dựng tổ chức lực lượng phải phù hợp với nghệ thuật quân sự, xây dựng thế trận vững chắc, tích cực tạo ra thời cơ và hành động kịp thời; khai thác triệt để về kinh nghiệm nghệ thuật quân sự độc đáo của dân tộc và thế giới, chủ động toàn diện ngay trong thời bình, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của chiến tranh, đồng thời tiếp tục sáng tạo không ngừng. Sau khi học tập, tiếp thu chuyên đề này, tôi đã có những nhận thức sâu sắc hơn về Nghệ thuật quân sự Việt Nam; về phương thức tác chiến, chiến thuật và nghệ thuật toàn dân đánh giặc... Đồng thời cũng nhận thức sâu sắc hơn về Lịch sử nghệ thuật quân sự Việt Nam, những cơ sở hình thành và phát triển, về nghệ thuật toàn dân đánh giặc, giữ nước do nhân dân Việt Nam sáng tạo, tích lũy từ thực tiễn đấu tranh oanh liệt suốt mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời học tập tinh hoa quân sự Thế giới được vận dụng phù hợp với tính chất, đặc điểm của chiến tranh Việt Nam. Bắt nguồn từ truyền thống yêu nước nồng nàn, yêu hòa bình, yêu công lý, là sự đoàn kết, cả nước chung sức cùng toàn dân đánh giặc, chủ động tiến công địch một cách toàn diện, bằng sức mạnh tổng hợp, quyết đánh, quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược. Truyền thống quân sự Việt Nam được các thế hệ người Việt Nam giữ gìn, kế thừa, vun đắp, phát huy, phát triển ngày càng rực rỡ. Là một trong những "cẩm nang" để nhân dân và lực lượng vũ trang Việt Nam vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay và trong tương lai./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCHUYÊN ĐỀ- CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM.doc
Luận văn liên quan