A. LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục là nền tảng văn hóa của một đất nước, là sức mạnh trí tuệ của cả tương lai dân tộc nhằm sớm đạt cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ Việt nam trong xu thế hội nhập với thế giới hiện nay. Trong lĩnh vực khoa học nói chung giáo dục chiếm vị trí rất quan trọng. Giáo dục không những cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tri thức khoa học tiến bộ của loài người đồng thời vừa hình thành nhân cách cho học sinh là điều quan trọng cốt yếu. Đặc biệt là lứa tuổi học sinh tiểu học.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự phát triển công nghệ, của tri thức thì việc giáo dục có vị trí hết sức quan trọng trong việc xây dựng con người mới XHCN nhằm đáp ứng sự phát triển chung của toàn nhân loại, đào tạo các em trong tương lai trở thành những người có đủ cả đức và tài để xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa. Do đó hiện nay đang còn ngồi trên ghế nhà trường ở bậc học tiểu học các em còn bỡ ngỡ rất nhiều đối với mọi hoạt động của nhà trường các em phải có nghĩa vụ phải học tập nghiêm túc để tiếp thu kiến thức và nhân cách làm người. Đối với các em khả năng chú ý, ý chí, ngôn ngữ và kỹ năng hành động còn nhiều hạn chế nên các em cũng cần có sự quan tâm đặc biệt, sự hướng dẫn cụ thể, chu đáo, đều đặn hàng ngày của GVCN, cha mẹ học sinh (ở nhà) nhằm giúp trẻ kịp thời điều chỉnh cách học, xử lý tình huống cụ thể hàng ngày để lối sống của các em ngày một tốt hơn, hoàn thiện về nhân cách, đạo đức cá nhân để sơm giúp các em hình thành nhân cách tốt đẹp để bước vào bậc học cao hơn trong tương lai.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” Đội ngũ GVCN là những chiến sĩ tiên phong xung kích đi đầu trong phong trào này. Chính nghề dạy học đã đào tạo con người phát triển một cách toàn diện. Để đáp ứng không ngừng yêu cầu của sự phát triển xã hội loài người, mỗi một con người không ngừng rèn luyện tư tưởng đạo đức và ra sức học tập để trở thành con người lao động có đủ tri thức và đạo đức XHCN .Đây cũng chính là mục tiêu phấn đấu của mỗi chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Do đó việc xây dựng đạo đức, kiến thức, lối sống cho các em ngay khi đang ngồi trên ghế nhà trường là vấn đề vô cùng quan trọng, đây cũng chính là thước đo để đánh giá một con người.
Trong cuộc sống hiện nay thì đa số mọi người đều sống tốt song bên cạnh đó cũng có không ít những thói hư tật xấu đang còn tồn tại cùng với các em ở trong trường học mà thầy, cô; cha mẹ và xã hội quan tâm chưa đúng mực, một vài em học sinh cá biệt đã lôi kéo các em làm những việc sai trái đã tạo nên thói hư, tật xấu cho các em. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” lứa tuổi của học sinh tiểu học (6 tuổi đến 11 tuổi) lứa tuổi mà các em bước đầu tiếp xúc với môi trường tập thể, tiếp xúc với bạn bè cùng lứa tuổi, cùng lớp, cùng trường lứa tuổi này như trang giấy trắng để tiếp thu những kỹ năng sống đang còn rất bỡ ngỡ, đơn giản của các em. Mặt khác còn có những điều kiện khách quan khác như thiếu sự chăm sóc của gia đinh, hoàn cảnh gia đình có khó khăn về kinh tế, các yếu tố tâm lý khác đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và đạo đức xấu của các em. Cụ thể các em hay bắt chước các thói xấu của người khác như: nói tục, chửi thề, trộm cắp dụng cụ học tập của bạn bè, gây gỗ, đánh nhau với bạn cùng lớp, cùng trường Chính vì vậy việc giáo dục cho học sinh ở lứa tuổi tiểu học là một nhiệm vụ cấp bách trong nhà trường để thiết thực xây dựng một môi trương giáo dục lành mạnh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của trường học.
Xuất phát từ mục tiêu chung đó, công tác giáo viên chủ nhiệm lớp đóng một vai trò vô cùng quan trọng, có thể nói “là khâu then chốt, quyết định” việc nâng cao chất lượng học tập của các em.
Nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp. Bản thân tôi đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm cũng như nhận được sự trợ giúp, tư vấn của đồng nghiệp. Qúa trình làm công tác chủ nhiệm lớp bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp. Tôi xin mạnh dạn được nêu lên những kinh nghiệm sau và mong nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp cũng như của hội đồng sư phạm.
16 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 23571 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên Tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A LỜI NÓI ĐẦU:………………………………………………. 2
B. CƠ SỞ LÝ LUẬN:………….……………………………….... 3
C. KẾ HOẠCH CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP:…………….. 4
I. LẬP KẾ HOẠCH CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP:……….. 4
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC HỌC SINH:…………… 5
THỰC HIỆN MỘT SỐ NỘI DUNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP:…………………………………………………………… 6
IV. XÂY DỰNG TẬP THỂ HỌC SINH TỰ QUẢN:…………….. 10
V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
NGOÀI GIỜ LÊN LỚP:………………………………………… 11
VI. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA HỌC SINH:……………………..13
C. PHẦN KẾT LUẬN:……………………………………………... 15
A. LỜI NÓI ĐẦU
Giáo dục là nền tảng văn hóa của một đất nước, là sức mạnh trí tuệ của cả tương lai dân tộc nhằm sớm đạt cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ Việt nam trong xu thế hội nhập với thế giới hiện nay. Trong lĩnh vực khoa học nói chung giáo dục chiếm vị trí rất quan trọng. Giáo dục không những cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tri thức khoa học tiến bộ của loài người đồng thời vừa hình thành nhân cách cho học sinh là điều quan trọng cốt yếu. Đặc biệt là lứa tuổi học sinh tiểu học.
Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự phát triển công nghệ, của tri thức thì việc giáo dục có vị trí hết sức quan trọng trong việc xây dựng con người mới XHCN nhằm đáp ứng sự phát triển chung của toàn nhân loại, đào tạo các em trong tương lai trở thành những người có đủ cả đức và tài để xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa. Do đó hiện nay đang còn ngồi trên ghế nhà trường ở bậc học tiểu học các em còn bỡ ngỡ rất nhiều đối với mọi hoạt động của nhà trường các em phải có nghĩa vụ phải học tập nghiêm túc để tiếp thu kiến thức và nhân cách làm người. Đối với các em khả năng chú ý, ý chí, ngôn ngữ và kỹ năng hành động còn nhiều hạn chế nên các em cũng cần có sự quan tâm đặc biệt, sự hướng dẫn cụ thể, chu đáo, đều đặn hàng ngày của GVCN, cha mẹ học sinh (ở nhà) nhằm giúp trẻ kịp thời điều chỉnh cách học, xử lý tình huống cụ thể hàng ngày để lối sống của các em ngày một tốt hơn, hoàn thiện về nhân cách, đạo đức cá nhân để sơm giúp các em hình thành nhân cách tốt đẹp để bước vào bậc học cao hơn trong tương lai.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” Đội ngũ GVCN là những chiến sĩ tiên phong xung kích đi đầu trong phong trào này. Chính nghề dạy học đã đào tạo con người phát triển một cách toàn diện. Để đáp ứng không ngừng yêu cầu của sự phát triển xã hội loài người, mỗi một con người không ngừng rèn luyện tư tưởng đạo đức và ra sức học tập để trở thành con người lao động có đủ tri thức và đạo đức XHCN .Đây cũng chính là mục tiêu phấn đấu của mỗi chúng ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Do đó việc xây dựng đạo đức, kiến thức, lối sống cho các em ngay khi đang ngồi trên ghế nhà trường là vấn đề vô cùng quan trọng, đây cũng chính là thước đo để đánh giá một con người.
Trong cuộc sống hiện nay thì đa số mọi người đều sống tốt song bên cạnh đó cũng có không ít những thói hư tật xấu đang còn tồn tại cùng với các em ở trong trường học mà thầy, cô; cha mẹ và xã hội quan tâm chưa đúng mực, một vài em học sinh cá biệt đã lôi kéo các em làm những việc sai trái đã tạo nên thói hư, tật xấu cho các em. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” lứa tuổi của học sinh tiểu học (6 tuổi đến 11 tuổi) lứa tuổi mà các em bước đầu tiếp xúc với môi trường tập thể, tiếp xúc với bạn bè cùng lứa tuổi, cùng lớp, cùng trường lứa tuổi này như trang giấy trắng để tiếp thu những kỹ năng sống đang còn rất bỡ ngỡ, đơn giản của các em. Mặt khác còn có những điều kiện khách quan khác như thiếu sự chăm sóc của gia đinh, hoàn cảnh gia đình có khó khăn về kinh tế, các yếu tố tâm lý khác … đã làm ảnh hưởng rất lớn đến hành vi và đạo đức xấu của các em. Cụ thể các em hay bắt chước các thói xấu của người khác như: nói tục, chửi thề, trộm cắp dụng cụ học tập của bạn bè, gây gỗ, đánh nhau với bạn cùng lớp, cùng trường …Chính vì vậy việc giáo dục cho học sinh ở lứa tuổi tiểu học là một nhiệm vụ cấp bách trong nhà trường để thiết thực xây dựng một môi trương giáo dục lành mạnh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của trường học.
Xuất phát từ mục tiêu chung đó, công tác giáo viên chủ nhiệm lớp đóng một vai trò vô cùng quan trọng, có thể nói “là khâu then chốt, quyết định” việc nâng cao chất lượng học tập của các em.
Nhận thức được vai trò vô cùng quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp. Bản thân tôi đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm cũng như nhận được sự trợ giúp, tư vấn của đồng nghiệp. Qúa trình làm công tác chủ nhiệm lớp bản thân tôi rút ra được một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp. Tôi xin mạnh dạn được nêu lên những kinh nghiệm sau và mong nhận được sự đóng góp của đồng nghiệp cũng như của hội đồng sư phạm.
B. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1/ Cơ sở thực tiễn:
-Dựa vào triết học Mác-lê nin: “Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”.
-Từ thực tế công tác ở bậc học Tiểu học.
-Tâm lý lứa tuổi học sinh ở bậc học Tiểu học.
-Tình hình thực tế tại địa phương và sự chăm sóc của các đoàn thể xã hội khác…
2/ Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp 4A Trường TH Bùi Thị Xuân (Năm học 2010 – 2011)
3/Điều tra khảo sát:
Trường PTDTBT TH & THCS Bùi Thị Xuân thuộc địa bàn Xã EaSin Huyện Krông Buk Tỉnh Đăk Lăk. Được thành lập tháng 08 năm 2011 là tiền thân của Trường TH Bùi Thị Xuân (thành lập năm 2007)
Trong năm học 2011 – 2012 Trường có tổng số học sinh là 285 em được biên chế thành 12 lớp( trong đó khối 1, 3 lớp 61 em, khối 2, 2 lớp 45 em, khối 3, 2 lớp 40 em, khối 4, 1 lớp 27 em, khối 5, 2 lớp 40 em, khối 6, 2 lớp 70 em.). Học sinh trong trường có 99% là học sinh dân tộc thiểu số gồm Êđê, Tày, Hoa….Trong đó học sinh dân tộc Êđê chiếm tới 90 %.
Trường được xây dựng trên địa bàn Xã EaSin Huyện Krông Buk là một Xã vùng ba đặc biệt khó khăn, nằm cách xa trung tâm Huyện Krông Buk 40 km. Điều kiện kinh tế xã hội của địa phương hết sức khó khăn, các bậc Cha, Mẹ của học sinh hầu hết làm nghề nông, trồng trọt, chăn nuôi, theo mùa vụ ở nương rẫy, thường xuyên xa nhà.
Học sinh trong trường hơn 99% là dân tộc thiểu số, có nhiều dân tộc cùng nhau chung sống. Do vậy mỗi dân tộc lại có những tâm lý, lối sống, phong tục tập quán khác nhau. Mức độ tiếp thu, nhận thức cũng như khả năng hòa nhập vào cộng đồng cũng ở nhiều cấp độ khác nhau. Đặc biệt các em học sinh dân tộc thiểu số lại thường hay tự kỷ, ít giao tiếp, đời sống tâm lý, tinh thần của các em gần như “Đóng kín”. Vì vậy công tác chủ nhiệm lớp gặp rất nhiều khó khăn, trong khi đó bản thân tôi được nhà trường phân công, công tác chủ nhiệm lớp 4A. Một đơn vị lớp khi tôi trông nhận, mặt học lực xếp loại giỏi có 2/30 em = 6%, khá 8/30 em = 26%, trung bình 15/30 em = 50%, yếu 5/30 em = 16% ( năm học 2010 – 2011). Để hoàn thành nhiệm vụ của năm học 2010 - 2011 nói chung và dần từng bước nâng cao chất lượng học tập của các em học sinh.
C. KẾ HOẠCH CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
I/ LẬP KẾ HOẠCH CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP
1. Những điều kiện để xây dụng kế hoạch
Để có kế hoạch xác với thực tế, cần tìm hiểu rõ về:
- Mục tiêu và nhiệm vụ năm học
- Kế hoạch giáo dục chung của trường
- Kế hoạch công tác Đoàn TN, Đội TNTPHCM nhà trường.
- Hệ thống cộng tác viên để thực hiện các mặt giáo dục.
- Đặc điểm tình hình của lớp, những mặt mạnh và thuận lợi của lớp về mọi mặt và những mặt yếu và hạn chế của lớp.
- Đặc điểm của gia đình học sinh: Hoàn cảnh gia đình về mặt kinh tế, tình cảm, trình độ, mức độ quan tâm giáo dục con cái và phương pháp giáo dục con cái….v…v..
2. Lập kế hoạch hoạt động
a. Cơ cấu tổ chức học sinh của lớp
b. Xác định mục tiêu phấn đấu chung của lớp
- Học tâp: Chỉ tiêu cần đạt, kế hoach bồi dưỡng học sinh khá giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém….
- Lao động
- Xây dựng tập thể lớp
- Các hoạt động giáo dục
II. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ GIÁO DỤC HỌC SINH
Đánh giá kết quả GD HS là một trong những nội dung lớn và hết sức quan trọng của công tác chủ nhiệm lớp. Bỡi lẽ nó không phải chỉ phản ánh kết quả GD HS mà còn phản ánh nội dung, phương pháp GD của lực lượng GD nói chung, của GVCN nói riêng. Đánh giá đúng sẽ là một động lực giúp HS nổ lực rèn luyện tu dưỡng, phát huy ngững ưu điểm, không ngừng rèn luyện, phấn đấu vươn lên hoàn thiện mình. Nói cách khác, sự đánh giá đúng, mang tính GD và kết quả GD. Ngược lại đánh giá không đúng, không khách quan đối với HS của nhà trường nói chung, của GVCN nói riêng đưa lại hậu quả xấu – phản GD.
Hậu quả này không lường trước được, không đo đếm được. Trong thực tế hiện nay do đánh giá của GVCN có những sai lầm ( có thể cố tình hay vô tình) đã dẫn tới những phản ứng của HS. Vì vậy, yêu cầu đánh giá đúng, khách quan là yêu cầu có tính nguyên tắc đối với GVCN trong việc đánh giá thành tích của lớp và từng HS.
Đánh giá kết quả GD chất lượng HS cần căn cứ vào các chỉ tiêu GD đạo đức cho HS trong nhà trường. Đó là phẩm chất đạo đức cần được giáo dục thông qua thái độ hành vi ứng xử trong các mối quan hệ đa dạng của các em như: đối với công việc, với xã hội, với mọi người, với bản thân mình.
Đối với công việc: Đánh giá tinh thần tự giác, tích cực học tập, tinh thần trách nhiệm và quan tâm đến hiệu quả học tập, lao động, các hoạt động tập thể, tận tụy trong công việc và hoàn thành tốt các công việc được giao.
Đối với mọi người và xã hội: Đánh giá lòng nhân ái, vị tha, hướng thiện, đoàn kết giúp đỡ bạn bè, kính trọng người lớn, giúp người tàn tật, thương yêu, nhường nhịn em nhỏ, tôn trọng pháp luật, bảo vệ của công, bảo vệ môi sinh, ý thức cộng đồng và hợp tác.
Đối với bản thân: Đánh giá lòng tự trọng bản thân, điều này được thê hiện ở cách ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, nói năng lịch sự, lễ phép, văn minh, quyết tâm khắc phục những yếu kém của bản thân để không ngừng tiến bộ, sống có hoài bão, ước mơ.
Tóm lại: Đánh giá kết quả HS cũng chính là GD các em. GVCN cần tổ chức cho HS tham gia vào quá trình tự đánh giá và kết quả đánh giá, kết quả rèn luyện của bản thân mỗi em nói riêng, của cả lớp nói chung theo các phẩm chất nói trên. Việc tổ chức cho HS tham gia vào quá trình tự đánh giá và đánh giá chính là việc giúp HS điều chỉnh thái độ hành vi của mình và rèn luyện cho các em năng lực tự hoàn thiện nhân cách.
THỰC HIỆN MỘT SỐ NỘI DUNG CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP.
* Tìm hiểu và phân loại học sinh lớp chủ nhiệm:
Để GD HS có hiệu quả thì GVCN phải hiểu sâu sắc về các em, từ đó mới có thể đặt ra được những tác động sư phạm thích hợp. Đúng như K.Đ Usinki đã nói rằng: “Muốn giáo dục con người thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Do đó bất kỳ người GVCN nào cũng phải làm công việc đầu tiên là tìm hiểu học sinh lớp mình phụ trách.
+ Để tìm hiểu học sinh, tiến hành với 07 biện pháp như sau:
nghiên cứu lý lịch học sinh ( hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp của bố, mẹ, anh chị em, số con trong gia đình, thu nhập của gia đình, tình trạng sức khỏe…….)
nghiên cứu hồ sơ của học sinh như: Học bạ, các biên bản họp tổ lớp, các bản tự kiểm điểm, các sản phẩm do chính học sinh làm ra……
Trao đổi với học sinh để nắm bắt tâm tư nguyện vọng, xu hướng, sở thích, thái độ trong quan hệ với tập thể lớp( thờ ơ hay hăng hái, nhanh nhẹn tháo vát hay chậm chạp).
Trao đổi với GVCN và các GV bộ môn của năm học trước về tình hình chung của lớp cũng như tình hình học tập và rèn luyện của từng học sinh.
Trao đổi với các lượng GD khác nếu như cần: Ban giám hiệu, Tổng phụ trách đội, Ban đại diện cha mẹ học sinh…….
Tham gia hoạt động cùng học sinh để tìm hiểu rõ hơn về tinh thần tập thể, ý thức hợp tác trong công việc chung, về những cá nhân học sinh mà GVCN có ý định từ trước
Trao đổi với cha mẹ học sinh để có thêm những thông tin về đối tượng mình định nghiên cứu.
Như vậy, tìm hiểu học sinh là việc làm liên tục, thừơng xuyên, vừa có tính cấp bách trong những khoảng thời gian nhất định, lại vừa có tính giai đoạn. Do vậy, GVCN cần có kế hoạch thực hiện ở việc xác định mục tiêu, nội dung, biện pháp, thời gian tiến hành tìm hiểu học sinh. Có như vậy, việc tìm hiểu học sinh mới liên tục, GVCN cũng thu được những thông tin phong phú, cụ thể có độ tin cậy về thực trạng và diễn biến của tâm lý, hoàn cảnh của học sinh lớp mình. Cho nên, có thể nói tìm hiểu học sinh là một quá trình diễn ra liên tục suốt năm học. tuy nhiên, không phải thời điểm nào của năm học cũng tiến hành những biện pháp tìm hiểu học sinh nêu ở trên. Điều quan trọng là phải phân chia những thời kì ứng với những biện pháp nào để thu những thông tin về học sinh chính xác nhất, nhanh nhất, rõ ràng nhất, giúp GVCN nhanh chóng đề ra những tác động sư phạm có hiệu quả. Thông thường, việc tìm hiểu học sinh diễn ra theo các giai đoạn sau đây:
1. Giai đoạn thứ nhất:
Đó là những giai đoạn điều tra cơ bản về tình hình học sinh nói chung, về cá nhân học sinh nói riêng.
a.Yêu cầu của giai đoạn này là:
Nhanh chóng nắm bắt được sơ bộ tình hình lớp( tổ chức lớp, những thành tích và tồn tại của lớp, những cá nhân tiên tiến và những học sinh có vấn đề, xu hướng của lớp……)
Phân loại được đối tượng giáo dục để bước đầu có thể đề xuất ( dự kiến) những tác động sư phạm với tập thể lớp.
b, Cách tiến hành:
- Ở dây trình bày cách tiến hành nói chung cho GVCN các lóp. Song trong quá trình phân tíchsẽ đề cập rõ hơn các lớp đầu cấp.
- Để tiến hành điều tra cơ bản tình hình học sinh, thong thường người ta thực hiện các công việc sau:
+ Tổ chưc cho học sinh phiếu kê khai về sơ yếu lí lịch về bản thân và gia đình theo mẫu GVCN lập ra. Mỗi học sinh tự viết 1 câu theo đúng yêu cầu: Rõ ràng, chính xác, viết sạch đẹp không tẩy xóa, không viết tắt, viết trung thực, không giấu giếm. phần của học sinh thì học sinh tự ghi. Phần của gia đình thì học sinh hỏi ý kiến cha mẹ để ghi chính xác. Cuối phiếu kê khai đều có chử ký của học sinh và cha mẹ các em.
+ Đối với học sinh từ lớp 2-5, cha mẹ nên để học sinh có thể tự ghi một cách thoải mái và hợp lí.
+ Sau khi đã có phiếu của học sinh, GVCN phân loại đối tượng của mình theo các nội dung mà mình đã định tìm hiểu. chẳng hạn như: về hoàn cảnh gia đình, thành phần gia đình, sổ con trong gia đình, thu nhập của gia đình… về đặc điểm của học sinh (kết quả học tập và rèn luyện của nhưỡng năm học trước, về nguyện vọng và sở thích, về sức khỏe… về mong muốn của gia đình đối với nhà trường và nhưỡng kiến nghị khác. Kết quả phân loại học sinh được ghi vào sổ chủ nhiệm theo từng nội dung. Như vậy GVCN có được những bức tranh hoàn toàn về tình hình học sinh của lớp cũng như của tùng cá nhân học sinh, trên cơ sở đó GVCN dự kiến kế hoạch công tác GD đói với lớp và đói với từng cá nhân học sinh.
- Trong khi phân loại, nếu có trường hợp nào chưa rõ thì GVCN cần có những biện pháp ngiêng cứu tiếp, thu thập thông tin khách quan để có đánh giá, nhận định chính xác. Có thể trao đổi ngay với học sinh hoặc yêu cầu của cha mẹ học sinh giải trình, nhất là những học sinh có vấn đề.
- Bản kế hoạch dó phải chứa đựng những nội dung công tác GD vói những biện pháp khác nhau, được thực hiện theo những khoản thời gian nhất định. Bản kế hoạch đó cũng nên trao đổi với GV bộ môn ở lớp nhằm thống nhất cách thức GD học sinh đồng thời cũng nhận định được những ý kiến bổ sung quý giá từ phía học sinh.Việc thực hiện bản kế hoạch sẽ được triển khai sau khi có cuộc gặp gỡ với các GV bộ môn, với ban đại diện cha mẹ học sinh.
2. Giai đoạn thứ hai:
Là giai đoạn theo dõi và kiểm tra tính đúng đắn của sự phân loại đối tượng GD của giai đoạn thứ nhất.
a, Yêu cầu của giai đoạn thứ hai là:
- Kiểm nghiệm trên thực tế sự phân loại GD đã thật sự đúng đắn chưa.
- Tiếp tục điều chỉnh sự phân loại đó (nếu có).
b, Cách tiến hành
- Bước tiếp theo sự phân loại sơ bộ đói tượng GD, là GVCN tiến hành một vài loạt hoạt động tập thể, đẻ học sinh bộc lộ tính cách, GVCN có thể kiểm tra lại độ chính xác của sự phân loại ban đầu. Nếu qua thực tế cho thấy nhận định không nhất quán là nhận định ban đầu chỉ có sự điều chỉnh. Ở bước này, GVCN có thể thực hiện một vài hoặt động sau đây:
+ trò chuyện với học sinh, với GVCN cũ về một vài đối tượng GD cần phải nghiên cứu và xem xét lại. Qua trao đổi vói học sinh, GVCN có thể hiểu biết thêm về đối tượng GD của mình về: quan hệ bạn bè, những nét cá tính đặc biệt, những khả năng và sở trường , hoàn cảnh gia đình với GVCN cũ, người GVCN mới có thể nắm bắt được nhựng thông tin bao quát về đói tượng GD cần xem xét.
+ Thăm gia đình học sinh nắm bắt cụ thể hơn, sâu sắc hơn về hoàn cảnh gia đình trong việc GD con cái, những tính cách của học sinh, đòng thời là dịp để bàn bạc với gia đình cùng những biện pháp GD con em của họ.
+ Quan sát đối tượng GD cho hợp lí và đúng đắn hơn, đồng thời bở sung thêm kế hoạch công tác GD những nội dung và biện pháp GD cần thiết.
- Kết thúc giai đoạn thứ 2, GVCN phải có những nhận định về từng học sinh, phân loại học sinh của lớp tương đối chính xác. Đó là cách xác định nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động của lớp chủ nhiệm.
- Tùy theo đạc điểm, nội dung GD của lớp, GVCN phân loại.
Ví dụ: căn cứ vào trình độ nhận thức, vào năng lực học tập, vào phẩm chất đạo đức hoặc căn cứ vào năng lực hoạt động của tập thể, hoạt động xã hội của học sinh. Qua thực tế, GVCN có thể phân học sinh của lớp mình thành ba nhóm:
+ Nhóm 1: Gồm những học sinh tích cực, ủng hộ các giải pháp giáo dục
+ Nhóm 2: Gồm những học sinh không có những biểu hiện gì xấu, nhưng không thể biểu hiện rõ tính tích cực của mình trong tập thể lớp.
+ Nhóm 3: Đó là những học sinh có nhiều biểu hiện yếu kém về học tập, tư cách đạo đức cần phải được quan tâm nhiều nhất.
- Kế hoạch công tác GD thể hiện trong những nội dung và biện pháp GD cho từng nhóm đối tượng. Kết quả của việc tìm hiểu học sinh qua hai giai đoạn (trong khoảng thời gian từ tháng 9 đến tháng 10) là điều kiện cần thiết để GVCN làm tốt công tác GD học sinh.
3.Giai đoạn thứ ba:
Đây là giai đoạn diễn ra liên tục cho đế n kết thúc năm học. Ở giai đoạn này GVCN không nhất thiết phải tiến hành liên tục tìm hiểu học sinh, mà phân chia thành những thời kì khác nhau. Việc tìm hiểu học sinh ở giai đoạn này nhiều hay ít là tùy thuộc vào những tác động sư phạm có hiệu quả hay không, vào mức độ phấn đấu của học sinh. Vì vậy giai đoạn này là giai đoạn hoàn chỉnh việc tìm hiểu học sinh.
a,Yêu cầu của giai đoạn này là:
- Khẳng định việc tìm hiểu học sinh là việc làm liên tục, thường xuyên trong suốt năm học.
- Giúp nâng cao trình đọ sư phạm của GV trong công tác GD học sinh.
b, Cách tiến hành.
- Vì đây là giai đoạn với thời gian khá dài, nên việc tìm hiểu học sinh chia thành định kì và thường xuyên.
+ Nếu là thường xuyên thì tìm hiểu học sinh tiến hành dưới các hình thức sau: Quan sát học sinh qua các hoạt động, nghiên cứu kết quả học tập, qua sổ điểm, sổ ghi đầu bài, sổ liên lạc, bài kiểm tra, các sản phẩm về học tập do tự tay các em làm, tham dự các cuộc họp tổ, lớp để tìm hiểu thêm về đối tượng.
+ Tìm hiểu học sinh định kì tức là đối tượng GD được nghiên cứu tại một thời điểm xác định, chẳng hạn như giữa học kì hoặc cuối mỗi tháng học tập.
IV. XÂY DỰNG TẬP THỂ HỌC SINH TỰ QUẢN.
Đây là một trong những nội dung công tác quan trọng của người GVCN lớp. Công tác chủ nhiệm giỏi được đánh giá bởi việc xây dựng một tập thể học sinh thực sự có khả năng tự quản mọi hoạt động của mình. Vì vậy GVCN khi xây dựng tập thể học sinh, cần tiến hành theo một quy trình chặt chẽ.
1.Yêu cầu của việc xây dựng tập thể học sinh tự quản.
- Xây dựng một tập thể học sinh tự quản mà nòng cốt của nó là đội ngũ cán bộ lớp có kĩ năng điều hành các hoạt động của tập thể mình.
- Tạo được không khí tự rèn luyện, mạnh dạn, ý thức làm chủ ở mọi học sinh.
- Hình thành ở học sinh những kĩ năng tổ chức cơ bản như:
+ Kĩ năng nhận nhiệm vụ và lập kế hoạch hoạt động.
+ Kĩ năng điều khiển tập thể lớp thực hiện kế hoạch đó.
+ Kĩ năng đánh giá kết quả hoạt động và rút kinh nghiệm để lần sau làm tốt hơn.
2.Cách thức tiến hành.
a, Lựa chọn một đội ngũ cán bộ lớp đủ uy tín và có năng lực điều khiển tập thể lớp. có 2 cách hình thành:
- GVCN tự lựa một đội ngũ cán bộ lớp trên cơ sở làm việc tìm hiểu học sinh.
- Tập thể lóp tự lựa chọn, bầu ra đội ngũ cán bộ lớp trên cơ sở thông qua các hinh thức bỏ phiếu kín.
- Nhưng tốt nhất GVCN cần định hướng cho tập thể tự lựa chọn, biến ý kiến của mình thành quyết định dân chủ của tập thể học sinh bầng việc xác định những tiêu chuẩn lựa chọn mục tiêu nội dung hoạt động của lớp để chọn được người gánh vác của tập thể.
- Khi lựa chọn những học sinh có đủ tiêu chuẩn vào đội ngũ cán bộ của lớp, GVCN có thể tự mình lựa chọn rồi thông báo cho lớp biết hoặc dù
ng phiếu thăm dò ý kiến học sinh rồi sau đó có quyết định chính thức.
- Nếu tập thể học sinh tự lựa chọn thì phải tổ chức cho các em bỏ phiếu tín nhiệm những bạn xứng đáng nhất vào cán sự lớp. Việc bỏ phiếu phải diễn ra công khai, đúng nguyên tắc, bảo đảm tính dân chủ không áp đặt học sinh.
b, Việc huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ lớp diễn ra ngay sau khi tập thể lớp đã lựa chọn những đội ngũ này. Trình tự các bước huấn luyện như sau:
- Tập hơp đội ngũ cán bộ lớp nêu rõ mục đích của huấn luyện nhằm bồi dưỡng hiểu biết cho các em về ý nghĩa của việc xác định tập thể lớp vững mạnh, về vai trò và nhiệm vụ của cán bộ lớp trong việc xây dụng tập thể lớp, về mối quan hệ công tác giữa cán bộ lớp với nhau.
- Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ lớp, cán bộ chức năng. Yêu cầu các em hãy ghi nhiệm vụ của mình vào sổ công tác để ghi nhớ và thực hiện.
- Cho các em thảo luận, bàn biện pháp thực hiện bản kế hoạch công tác của lớp, định hướng vào công việc cuat từng loại cán bộ lớp.
- Nếu cần có thể tổ chức huấn luyện riêng cho từng cán bộ theo một chương trình huấn luyện do GVCN biên soạn. Chương trình huấn luyện này giúp học sinh xác định mục đích nội dung, phương pháp tiến hành và những điều kiện cần thiết để thực hiện.
c, Tổ chức bồi dưỡng và huấn luyện cho toàn lớp về những nội dung xây dựng tập thể lớp tự quản.
- Việc làm này có thể được tiến hành trong suốt năm học. song nên tập trung vào một thời cần thiết như: Đầu năm học, cuối HKI, sang đầu HKII, giữa HKII. Những nội dung cần huán luyện.
+ Thế nào là một tập thể lớp tự quản
+ Vai trò đội ngũ cán bộ lớp trong quá trình lớp tự quản.
+ Tự quản giờ học vắng giáo viên
+ Tự quản giờ truy bài
+ Tự quản các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
- Những nội dung trên có thể được xen kẽ vào nội dung của giờ sinh hoạt tập thể HS có dịp trao đổi, bàn bạc, coi đó như một dịp huấn luyện các em.
d, Tổ chức các hoạt động thực tế để học sinh được rèn luyện các kĩ năng tự quản
- Đây là bước quan trọng mà trong đó mọi thành viên của lớp đều được tham gia vào vịc xây dựng tập thể lớp tự quản.
- Các hoạt động được tổ chức theo phương châm “thầy lui dần về hội trường để trò tự quản và điều khiển”.
+ Ban đầu GVCN có thể tham gia trực tiếp vào việc xây dụng kế hoạch hoạt động, hướng dẫn học sinh chuẩn bị hoạt động điều khiển học sinh tham gia hoạt động và đánh giá kết quả cuối cùng.
+ Sau đó giao dần cho cán bộ lớp tự tổ chưc và điều khiển các hoạt động của lớp. Giúp đỡ học sinh với tư cách là người cố vấn, điều chỉnh đúng hướng cho các em.
+ tổ chức để học sinh đánh giá kết quả hoạt động của tập thể lớp. Qua đánh giá các em rút ra được bài học kinh nghiệm đẻ cho những hoạt động tiếp theo dạt hiệu quả cao hơn. Mỗi lần như vậy là dịp để tập thể học sinh trưởng thành.
V. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
1. Yêu cầu giáo dục.
- Thông qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp, giúp học sinh củng cố, bổ sung và mở rộng thêm tri thức đã học, phát triển óc thẩm mỹ, tăng cườn thể chất, nhận thức và xã hội, ý thức công dân , tình yêu quê hương đất nước.
- Giáo dục thái độ tích cực, tinh thần đoàn kết, ý thức chủ động và mạnh dạn trong các hoạt động tập thể.
- Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng tự quản hoạt động ngoài giờ lên lớp, góp phần GD tích cực của người công đân tương lai.
2. Cách tiến hành:
a, Hoạt đông giáo dục ngoài giờ lên lớp bao gồm nhiều nội dung và hình thức hoạt động phong phú, đa dạng. Đó là các loại hình:
- Hoạt động xã hội
- Hoạt động văn hóa, nghệ thuật
- Hoạt động vui chơi, giải trí, TDTT
- Hoạt động theo hứng thú khoa học
- Hoạt động lao động
Với những loại hoạt động như trên, nhà trương có thể tiến hành dưới nhiều hoạt động như: Hoạt động theo chủ điểm, tiết sinh hoạt tập thể hàng tuần, chào cờ đầu tuần. Các dạng hoạt động có quan hệ mật thiết với nhau, thống nhất với nhau trong quá trình giáo dục.
b, Quy trình tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp diễn ra theo quy trình các bước sau đây:
* Bước 1: Giáo viên chuẩn bị
- Xác định rõ tên của chủ đề hoạt động hoặc tên của buổi sinh hoạt. việc định được tên gọi sẽ thể hiện được nội dung của hoạt động, do đó sẽ lựa chọn được các hình thức hoạt động phù hợp.
- Xây dựng yều cầu giáo dục cần đạt được các hoạt động đó theo 3 yêu cầu: nhận thức, thái độ, kĩ năng hành vi.
- Dự kiến nội dung và các hình thức hoạt động của tổ chức
- Dự kiến người thực hiện: học sinh làm gì, GVCN làm gì, các lực lượng giáo dục khác tham gia vào phần việc nào.
- Dự kiến thời gian tiến hành cho các chủ điểm giáo dục, cho từng thời điểm cụ thể.
- Dự kiến địa điểm tiến hành
- Điều kiện phương tiện vật chất cần thiết.
Nếu giáo viên chuẩn bị càng chi tiết thì sự chỉ càng có kết quả cụ thể.
* Bước 2: Tập thể học sinh lập kế hoạch và chuẩn bị kế hoạch do tập thể học sinh thiết kế thể hiện mà cố gắng, nỗ lực và sáng tạo của các em trên cơ sở có sự cố vấn của GVCN.
- Dụa vào yêu cầu GD và gợi ý cho GVCN đề ra, học sinh bàn bạc cùng nhau, lập biên bản kế hoạch hoạt động. Nội dung của bản kế hoạch do học sinh xây dựng gồm các vấn đề sau:
+ Phân công những công việc cần tổ chức cho tổ, nhóm và mọi thành viên tham gia vào quá trình chuẩn bị cũng như lúc tiến hành hoạt động.
+ Xác định thời gian tiến hành chuẩn bị và hoàn thành các công việc được phan công.
+ Lựa chọn địa điểm thực hiện các công việc của từng tổ, nhóm, cá nhân.
+ Sau cùng xây dựng chương trình hoạt động đó (trình độ các mục sẽ thực hiện trong buổi hoạt động)
* Bước 3: thực hiện kế hoạch hoạt động.
Đây là bước thực hiện toàn bộ kết quả chuẩn bị của học sinh và giáo viên, là bước thể hiển năng lực tổ chức tự quản hoặt động tập thể. Vì vậy cần chú ý những điểm sau:
+ Thực hiện theo đúng chương trình đã vạch.
+ Cần chú ý có thể nảy sinh những tình huống ngoài dự kiến. GVCN cần rèn luyện cho đội ngũ tự quản đề phòng và có phương án giải quyết để khỏi bị động.
+ GVCN cần theo dõi hoạt động và kịp thời chỉnh đốn và cố vấn cho đội ngũ tự quản huy động tiềm năng của mọi người cùng tham gia để mọi hoạt động sôi nội, bổ ích, sinh động.
* Bước 4: Rút kinh nghiệm và đánh giá kết quả.
- GVCN cùng với đội ngũ cán bộ lớp rút kinh nghiệm và đánh giá kết quả hoạt động để lần sau làm tốt hơn. Đồng thời dây cũng là dịp bồi dưỡng các em về kĩ năng đánh giá hoạt động của tập thể.
- Khi đánh giá cần hướng dẫn các em nhận định cả ưu điểm và tồn tại để khắc phục. Việc đánh giá có thể tiến hành ngay sau khi tổ chức hoạt động một cách công khai và mọi người cũng đóng góp ý kiến. Cũng có thể thăm dò ý kiến học sinh bằng phiếu hoặc trao đổi với đội ngũ cán bộ lớp hoặc với các đại biểu khác nhau cùng sinh hoạt.
VI. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA HỌC SINH
1. Yêu cầu giáo dục
- Xem xét một cách khách quan, công bằng về những kết quả học tập rèn luyện của học sinh một cách toàn diện so với mục tiêu, kế hoạch đã đặt ra.
- Giúp GVCN điều chỉnh được công việc cho phù hợp, kịp với thực.
- Đảm bảo việc đánh giá phải được tiến hành thường xuyên, theo định kì thuộc vào nội dung công việc.
2.Cách thức tiến hành
a. Nội dung đánh giá
- Như trong chương trình 2 đã trình bày, GVCN thực hiện các nội dung đánh giá theo một trình tự nhất định. Các nội dung đánh giá phải thực hiện đầy đủ theo tiến trình sau đây.
b. Tiến trình đánh giá
- Ở đây, GVCN cần đánh giá theo từng mặt giáo dục, rồi tổng hợp kết quả quả đánh giá để xem xét toàn diện học sinh ( bức tranh tổng thể và kết quả đánh giá giáo dục một học sinh cũng như trong một tập thể lớp).
- Tiến trình đánh giá kết quả giáo dục đạo đức học sinh gồm:
- Xác định chuẩn đánh giá và được thảo luận để mỗi học sinh hiểu và có trách nhiệm tham gia đánh giá và tự đánh giá.
- Mỗi học sinh được phát 1 phiếu đánh giá có in sẵn các chỉ tiêu đánh giá. Các em tự đánh giá bản thân theo các chỉ tiêu đó, rồi tự xếp loại hạnh kiểm theo 2 mức độ: Thực hiện đầy đủ, thực hiện chưa đầy đủ.
- Sau đó, họp tổ học sinh để thông qua bản tự đánh giá đó, Ý kiến của tổ sẽ là nguồn thông tin có giá trị để GVCN quyết định xếp loại hạnh kiểm của học sinh.
- Cuối cùng GVCN quyết định và công bố kết quả xếp loại Hạnh kiểm của từng học sinh, GVCN cần căn cứ vào quy định về xếp loại Hạnh kiểm của Bộ điều chỉnh cho phù hợp với thực trạng của lớp, yêu cầu của nhà trường.
3. Bài học kinh nghiệm:
- Qua thực tế nghiên cứu một số nội dung công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên tiểu học. Tôi rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
+ Nắm vững mục tiêu của cấp học, lớp học và chương trình dạy học, giáo dục của nhà trường
+ Tìm hiểu nắm vững cơ cấu tổ chức của nhà trường.
+ Tiếp nhận học sinh lớp chủ nhiệm, nghiên cứu và phân tích mọi đặc điểm của đối tượng trong lớp và các yếu tố tác động đến các em, bao gồm đặc điểm tâm sinh lí, nhân cách, năng lực của các em, hoàn cảnh gia đình và sự quan tâm gia đình đối với con cái.
+ Để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp, người GVCN phải tự hoàn thiện nhân cách của người thầy giáo.
+ Một trong những nhiệm vụ quan trọng của GVCN lớp là không ngừng học tập chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, nhằm đổi mới công tác tổ chức giáo dục, dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện ở nhà trường phổ thông.
+ GVCN phải là người tổ chức liên kết toàn xã hội để xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh, thống nhất tác động, thực hiện các mục tiêu, nội dung giáo dục.
+ Chính vì vậy mà kết quả giáo dục của đơn vị lớp 4A cuối năm học 2010 – 2011 đạt được kết quả ngoài sự mong đợi ; cụ thể 2 mặt chất lượng như sau:
+ Về học lực:
Xếp loại giỏi có 5 em/30 em = 16, 6%; loại khá 12em/30 em = 40%; loại trung bình 12em/ 30 em = 40%; loại yếu 1em/30 em = 3%.
+ Về hạnh kiểm:
Xếp loại tốt có 10em/30em =33,3%, loại khá 17em/30 em =56,6% loại trung bình 3em/30 em= 10%. loại yếu không có
D. PHẦN KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứutìm hiểu một số nội dung công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên tiểu học là một công việc thường xuyên hàng ngày của giáo viên, nhưng đòi hỏi mỗi giáo viên phải có niềm say mê nghiên cứu tìm hiểutừng nội dung công tác chủ nhiệm của mình, từng đối tượng học sinh là một vấn đề hết sức khó khăn. Trên thực tế, nhiều năm công tác chủ nhiệm lớp, tỉ lệ học sinh học tập từng bước được nâng cao rõ rệt. Đặc biệt trong việc giáo dục và hình thành nhân cách cho học sinh.
Qua nghiên cứu tìm hiểu, áp dụng các biện pháp trên đã đem lại cho bản thân tôi một kĩ năng nghiệp vụ về công tác chủ nhiệm lớp. Còn đối với học sinh, các em đã nâng cao được chất lượng học tập, đặc biệt là kinh nghiệm và phương pháp học tập của các em có tiến bộ nhiều so với trước đây, các em tự tin, hăng say trong học tập và ngoan ngoãn.
Ea Sin, ngày 15 tháng 12 năm 2011
Người thực hiện
Trần Hưng Thịnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyên đề- Công tác chủ nhiệm lớp của giáo viên tiểu học.doc