Thể chế quản lý xuất nhập khẩu chưa đồng bộ và hoàn thiện.
Hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng
kịp yêu cầu quản lý xuất nhập khẩu trong bối cảnh có nhiều biến
động của thị trường thế giới khi thương mại nước ta hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng hơn. Chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ
đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu nhìn chung còn thấp hơn so với các
nước trong khu vực. Chưa có sự đồng bộ giữa Chiến lược phát triển
xuất nhập khẩu với các Chiến lược phát triển các ngành sản xuất,
Chiến lược bảo hộ sản xuất trong nước, Chiến lược phát triển các
ngành dịch vụ, Chiến lược hội nhập các FTA
40 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2402 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá tình hình thực hiện chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KNXK hàng hóa; xuất khẩu hàng hóa sang thị
trường Châu Á chiếm khoảng 45%, thị trường Châu Âu chiếm
khoảng 23%, thị trường Châu Mỹ chiếm khoảng 24%, thị trường
Châu Đại Dương chiếm khoảng 5% và thị trường khác chiếm
17
khoảng 3%. Tiến tới cân bằng xuất – nhập khẩu vào những năm đầu
sau năm 2010.
Trong quá trình thực hiện Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn
2006 – 2010, bên cạnh các yếu tố thuận lợi do đà tăng trưởng kinh tế
giai đoạn trước đã có, nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tác động
bất lợi đến tình hình xuất khẩu của ta. Trong đó, nổi cộm là sự biến
động mạnh về tăng giá của thị trường nguyên nhiên vật liệu thế giới
năm 2007 – 200810, tác động khủng hoảng tài chính và suy thoái
kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2008 làm nhu cầu nhập khẩu thị trường
thế giới sụt giảm, các điều kiện về tài chính trên thị trường toàn cầu
trở nên khó khăn hơn, kinh tế thế giới tăng trưởng đạt đỉnh vào năm
2008 sau đó tụt giảm mạnh trong các năm 2009 – 2010, cạnh tranh
quốc tế ngày càng gay gắt hơn (nhất là cạnh tranh với Trung Quốc),
sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ và các rào cản thương mại ngày
càng tinh vi hơn… Tình hình kinh tế trong nước cũng phải đối mặt
với những khó khăn, thách thức lớn, do các yếu tố nội tại và do tác
động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu. Nổi cộm là lạm phát tăng cao trong các năm 2006 – 2007, nền
kinh tế từ trạng thái tăng trưởng nóng trong các năm 2003 – 2007
chuyển sang suy giảm mạnh, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, cán
cân thanh toán vãng lai bị thâm hụt lớn, tình trạng “bong bóng” của
thị trường chứng khoán và khả năng thiếu thanh khoản của hệ thống
Ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng v.v… Mặt khác, việc
thực hiện các cam kết gia nhập WTO ( tháng 11/2006) và các cam
kết FTA (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP, VJEPA, AANZFTA,
AITIG), bên cạnh những tác động có lợi cũng có những hiệu ứng bất
lợi cho xuất khẩu của ta như là sự chuyển hướng thương mại, cơ cấu
xuất khẩu không chuyển dịch theo mong muốn của ta trong chiến
lược và Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010.
Trước bối cảnh và tình hình đó Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chủ trương, quyết sách và biện pháp điều hành tích cực để ổn định
kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Trong đó,
có các văn bản quan trọng như Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày
05/02/2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương
10 Giá xuất khẩu dầu thô năm 2007 tăng 11,5% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 33,6% so với 2007; giá
xuất khẩu than đá năm 2008 tăng gấp 2,3 lần so với năm 2007; giá xuất khẩu hạt tiêu năm 2007 tăng gấp 2 lần
năm 2006; giá xuất khẩu cà phê năm 2007 tăng gấp 25,4% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 28,1% so với
2007; giá hạt điều năm 2008 tăng 75,4% so với năm 2007; giá gạo năm 2008 cũng tăng 87,5% so với 2007.
18
Đảng khóa X về “một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên Tổ chức
thương mại thế giới”; Nghị quyết số 16/2007/ NQ-CP của Chính phủ
ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 08/NQ/TW của Đảng. Tiếp theo việc thực hiện Nghị quyết
30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy
giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội,
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về những giải pháp
chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2009, cùng một loạt các
chính sách cụ thể nhằm kích thích kinh tế như Quyết định 131/QĐ-
TTg, Quyết định 443/QĐ – TTg, Quyết định 497/QĐ-TTg, Quyết
định số 529/2009/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ lãi xuất tín dụng, miễn giảm
thuế, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm
an sinh xã hội. Đồng thời, Chính phủ đã tăng cường công tác chỉ đạo
thực hiện một cách tập trung, quyết liệt trong tất cả các ngành, các
cấp nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu phát triển kinh tế, phát triển
xuất khẩu. Nhờ vậy, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được sự ổn định,
tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tăng 5,32% (GDP toàn cầu năm
2009 giảm so với năm 2008, ở mức -5,4%). Tuy thế, KNXK hàng
hóa cả nước năm 2009 chỉ đạt 57,1 tỉ USD, giảm 9,1% so với năm
2008 nhưng đây là mức giảm rất thấp so với nhiều nước trên thế giới
cùng thời điểm (tăng trưởng xuất khẩu bình quân toàn cầu năm 2009
giảm 22,25% so với năm 2008). Do vậy, kim ngạch xuất khẩu năm
2009 giảm gần 5,7 tỉ USD so với năm 2008 nên đã kéo tốc độ tăng
trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam trong giai đoạn 2006 –
2009 xuống mức 15%/năm.
Trong năm 2010, suy giảm kinh tế thế giới đã chững lại và bắt
đầu phục hòi chậm, nền kinh tế nước ta cũng bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi rõ rệt. Trước tình hình đó, Chính phủ, Bộ Công Thương đã
có những biện pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt lĩnh vực xuất nhập
khẩu như công văn số 2600/TTg-KTTH ngày 30/12/2009 của Thủ
tướng Chính phủ, Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 của Chính
phủ và Chỉ thị số 05/CT-BCT ngày 15/4/2010 của Bộ Công Thương
về việc đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu… Các doanh nghiệp
cũng đã có nỗ lực vượt bậc đẩy mạnh xuất khẩu. Nhờ vậy, xuất khẩu
hàng hóa năm 2010 đã tăng trưởng khá, 9 tháng đầu năm kim ngạch
19
xuất khẩu đạt 51,5 tỉ USD, và dự ước cả năm 2010 KNXK đạt 71tỉ
USD, tăng 24% so với năm 2009 và tăng 13,2% so với năm 2008.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2006 –
2010 đạt bình quân 17%/năm, cao hơn mục tiêu trong Chiến lược
phát triển XNK 2001 – 2010 (14%/năm) nhưng thấp hơn mục tiêu
tăng trưởng xuất khẩu đã đề ra trong Đề án phát triển xuất khẩu giai
đoạn 2006 – 2010 (17,5%/năm). Tổng hợp kết quả thực hiện các
mục tiêu chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010
(Bảng 2) cho thấy, phần lớn các chỉ tiêu phản ánh qui mô và chất
lượng tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa cũng như các chỉ tiêu về
chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu đều chưa đạt mục tiêu đã
đề ra trong Đề án phát triển xuất khẩu 2006 – 2010.
Bảng 2: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển xuất khẩu
giai đoạn 2006 – 2010
1. Tốc độ tăng
trưởng KNXK bình
quân năm (%)
Thực hiện 2006 – 2010: 17%/năm Chưa đạt
yêu cầu
Mục tiêu Đề án PTXK 2006 – 2010: 17,5%/năm
2. Kim ngạch XK
(Tr USD)
TH 2006
32.447
TH 2008
62.685
Ước TH 2010
71.000
Mục tiêu ĐA 2010
72.500
Chưa đạt
yêu cầu
3. Cơ cấu hàng XK
(%)
100 100 100 100
- Nhóm hàng thô
hoặc sơ chế
45,3% 42,0% 31,8% 23,3% Giảm chậm,
chưa đạt
+ Nông, lâm, thủy
sản
24,2% 21,2% 22,5% 13,7% Giảm chậm,
chưa đạt
+ Nguyên nhiên
liệu thô
21,1% 20,8% 9,3% 9,6% Giảm chậm,
chưa đạt
- Hàng chế biến, chế
tạo
51,7% 53% 68,2% 76,7% Tăng chậm,
chưa tốt
3. Cơ cấu thị
trường XK (%)
- Châu Á 45,4% 47,7% 48% 45% Giảm chậm,
chưa đạt
20
- Châu Âu 21,3% 20,7% 19% 23% Tăng chậm,
chưa đạt
- Châu Mỹ 22,5% 22,4% 23% 24% Đạt mục
tiêu
- Châu Đại Dương 9,7% 7,1% 7,5% 5% Giảm chậm,
chưa đạt
- Thị trường khác 1,0% 2,1% 2,5% 3%
2.2 Đối với nhập khẩu hàng hóa
Tư tưởng chủ đạo và mục tiêu tổng quát về phát triển nhập
khẩu trong “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 –
2010” là: “Chú trọng nhập khẩu thiết bị nguyên vật liệu phục vụ sản
xuất, nhất là công nghệ tiên tiến”. “tiết kiệm ngoại tệ trong nhập
khẩu, chỉ nhập khẩu những hàng hóa cần thiết, máy móc thiết bị
công nghệ mới… phải giữ được thế chủ động trong nhập khẩu, kiềm
chế được nhập siêu và giảm dần tỉ lệ nhập siêu tiến tới sớm cân bằng
xuất nhập và xuất siêu”. Về cơ bản, đây là tư tưởng và định hướng
đúng trong tầm dài hạn, phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội 2001 – 2010 và phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy thế, do chưa bám
sát các dự báo chu kỳ tăng trưởng kinh tế thế giới và kinh tế Việt
Nam11, sự biến động tăng giá nguyên nhiên vật liệu trên thị trường
thế giới, tác động của đầu tư tăng cao và xu hướng tiêu dùng trong
nước đến nhập khẩu hàng hóa, và hiệu ứng chuyển hướng thương
mại của các FTA được ký kết (tăng mức độ tập trung nhập khẩu tại
khu vực thị trường đã ký FTA) cùng các nguyên nhân khác… nên
việc dự báo và xác định các chỉ tiêu cụ thể về qui mô, tốc độ nhập
khẩu và cơ cấu nhập khẩu hàng hóa trong Chiến lược phát triển
XNK thời kỳ 2001 – 2010 chưa sát với thực tế.
Bảng 3 dưới đây cho thấy, hầu hết các chỉ tiêu về qui mô, tốc
độ tăng trưởng nhập khẩu, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu và thị trường
nhập khẩu không phù h ợp với mục tiêu Chiến lược đã đề ra cho cả
11 - Kinh tế thế giới sau kỳ suy giảm 1996 – 2001 (tăng trưởng bình quân 1,23%/năm) đã bước sang kỳ tăng
trưởng cao trong giai đoạn 2002 – 2008 (tăng trưởng bình quân 9,7%/năm tính theo giá thực tế). Từ năm
2009, kinh tế thế giới lại bước vào kỳ suy thoái (năm 2009 tăng trưởng -5,4% so với năm 2008), dự ước sẽ
phục hồi chậm và sau năm 2013 mới chuyển sang kỳ tăng trưởng mới.
- Kinh tế Việt Nam sau kỳ suy giảm 1996 – 2000 (tăng trưởng bình quân 6,9%/năm) đã bước vào kỳ tăng
trưởng cao trong giai đoạn 2001 – 2007 (tăng bình quân 7,75%/năm, theo giá cố định 1994).
21
thời kỳ Chiến lược 2001 – 2010 và cho từng giai đoạn (2001 – 2005
và 2006 – 2010). Về tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa , thời kỳ
2001 – 2010, kết quả thực hiện đạt bình quân 18,2%/năm (mục tiêu
là 14%/năm), riêng giai đoạn 2001 – 2005 đạt bình quân
18,65%/năm (mục tiêu là 15%/năm), và giai đoạn 2006 – 2010 đạt
bình quân 17,7%/năm (mục tiêu là 13%/năm). Về qui mô kim ngạch
nhập khẩu năm 2005 đạt 36,76 tỉ USD (mục tiêu là 29,20), năm
2010 ước đạt 83 tỉ USD (mục tiêu là 53,7 tỉ USD).
Bảng 3: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển
nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 – 2010
Chỉ tiêu So sánh mức thực hiện với mục tiêu chiến lược
1. Tốc độ tăng
trưởng KNNK
bình quân năm
(%)
TH: 2001 – 2010: 18,65% Mục tiêu CL: 14% Chưa
đạt mục
tiêu TH: 2001 – 2005: 18,65% Mục tiêu CL: 15%
TH: 2006 – 2010: 17,7% Mục tiêu CL: 13%
2. KNNK (tỉ
USD)
TH:
2000
TH: 2005 Mục tiêu
CL2005
TH:
2008
Ước TH:
2010
Mục tiêu
CL2010
Vượt
mức,
chưa đạt
mục
tiêu
15,63 36,76 29,20 80,71 83,0 53,70
3. Cơ cấu hàng
NK(%)
100 100 100 100 100 100
Chưa
đạt mục
tiêu - Nhóm máy móc thiết bị và
công nghệ
27 18,9 16,9 16-17
(8T)
36
- Nhóm nguyên
nhiên vật liệu
69 58,3 56,4 65 – 66
(8T)
60
- Nhóm hàng
tiêu dùng cần
kiểm soát và
hạn chế nhập
khẩu
4 22,8 26,7 17 – 18
(8T)
4 Chưa
đạt mục
tiêu
22
4. Cơ cấu thị
trường NK
(%)
100 100 100 100 100 100 Chưa
đạt mục
tiêu
- Châu Á 80% 81 - 82,2 78 (6T) 55%
- Các thị trường
cung ứng công
nghệ nguồn
(Nhật, EU, Bắc
Mỹ)
26% 20,5
(7.525)
- 20,2
(16320,
6)
22 (6T) 40%
5. Nhập siêu (tr
USD)
1.147 4.313 800 17.000 14.000 Xuất siêu
1 tỉ USD
Chưa
đạt mục
tiêu
II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN XNK THỜI KỲ
2001 – 2010
1. Những thành tựu chủ yếu
(1) Xuất khẩu hàng hóa đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn
2,4 lần tốc độ tăng trưởng GDP, góp phần quan trọng vào tăng
trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập
của hàng triệu lao động
Thời kỳ Chiến lược 2001 – 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa bình quân 17,3%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng
GDP trên 2,4 lần (GDP tăng bình quân 7,21%/năm), vượt mục tiêu
của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 (tăng trưởng
xuất khẩu nhanh gấp 2 lần nhịp độ tăng trưởng GDP), và vượt chỉ
tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa đã đề ra trong Chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 (tăng trưởng bình quân
15%/năm)
Nước ta có vị thế ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hóa toàn
cầu. Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của ta trong tổng kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa thế giới đã tăng từ 0,24% trong năm 2001
lên 0,46% trong trong năm 2010. Đến nay, nhóm hàng chế biến xuất
khẩu của ta đã chiếm trên 0,28% thị phần toàn cầu, nhóm hàng thô
và sơ chế chiếm trên 0,72% (riêng điều nhân chiếm khoảng 50%, hồ
tiêu chiếm khoảng 45%, cà phê chiếm 16 – 18%, cao su thiên nhiên
23
chiếm 8 – 10%, chè chiếm 5 – 6%, thủy sản chiếm 5 – 6%, đồ gỗ
chiếm 2 – 3%, gạo chiếm 12 – 18%).
Xuất khẩu hàng hóa góp phần chính yếu vào tăng trưởng GDP,
trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 10
năm qua. Trong phần tổng cầu đóng góp cho tăng trưởng GDP,
trước năm 2005, mức đóng góp của xuất khẩu hàng hóa là một số
âm (năm 2005: -58,1%), trong giai đoạn 2006 – 2008 đóng góp của
xuất khẩu hàng hóa luôn là một số dương (năm 2006: 99,9%, năm
2007: 68,7%, năm 2008: 50,2%).
Xuất khẩu tiếp tục là một động lực tăng trưởng của khu vực
kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần tích cực chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của khu vực này theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hướng về xuất khẩu. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu nông,
lâm, thủy sản đạt 8,5 tỉ USD, gấp 2,1 lần năm 2001 (4,0 tỉ USD),
đến năm 2010, ước đạt trên 16 tỉ USD (mục tiêu Chiến lược: 9 – 10
tỉ USD).
Xuất khẩu cũng là động lực của khu vực công nghiệp, góp
phần chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp hướng về xuất
khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2001 –
2010 bình quân đạt 15%/năm, giá trị gia tăng công nghiệp luôn tăng
nhanh hơn tốc độ tăng GDP khoảng 1,4 lần, đạt nhịp độ tăng trưởng
11%/năm (mục tiêu Chiến lược là 10 – 10,5%/năm). Tỉ trọng hàng
công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 71% trong
năm 2000 lên 76,3% trong năm 2007 và ước chiếm gần 80% trong
năm 2010 (mục tiêu Chiến lược 70 - 75%).
Trong điều kiện mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào
tăng trưởng đầu tư, xuất khẩu hàng hóa trở thành kênh dẫn quan
trọng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy hội nhập
kinh tế quốc tế. Khoảng 55% tổng số dự án và trên 50% tổng số vốn
FDI đã được thu hút vào các ngành công nghiệp chế biến chế tạo
xuất khẩu. Số doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia xuất khẩu tăng
nhanh từ 1.854 doanh nghiệp trong năm 2003 lên 3.272 doanh
nghiệp trong năm 2007 và khoảng 3500 doanh nghiệp trong năm
2010, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp xuất khẩu cả nước. Các
doanh nghiệp FDI là chủ thể chính, có vai trò ngày càng lớn trong
xuất khẩu hàng hóa, tỉ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch
24
xuất khẩu đã tăng từ 45,2% trong năm 2001 lên 57,5% trong năm
2007 và khoảng 47% trong năm 2010.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân đầu người đã tăng từ
mức 175 USD trong năm 2000 lên 750 USD trong năm 2010, rút
ngắn dần khoảng cách chênh lệch so với một số nước trong khu vực.
Tăng trưởng xuất khẩu đã góp phần tạo việc làm và thu nhập cho
hàng triệu lao động, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong điều
kiện xuất khẩu dịch vụ chưa phát triển, xuất khẩu hàng hóa là thành
phần đóng góp chính tạo lập và hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán
vãng lai của nền kinh tế.
2) Cơ cấu xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, gắn
chuyển dịch cơ cấu mặt hàng với cơ cấu thị trường xuất khẩu, xây
dựng được nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và thực hiện thành công
một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu
Tỉ trọng của nhóm hàng chế biến, chế tạo đã tăng được 8,3
điểm phần trăm trong 10 năm qua, từ 46,7% trong năm 2001 lên
55% trong năm 2010, tỉ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế đã giảm
từ 53,3% xuống 45% trong thời gian tương ứng; riêng tỉ trọng của
nhóm hàng nông, lâm, thủy sản đã giảm từ 29,5% xuống 22,5%.
Năm 2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1 tỉ
USD (gồm dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản), với tổng giá trị 8,4
tỉ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17
mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thủy sản, gạo, cà
phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt thép và sản
phẩm thép, dệt may, giày dép, đá quí và kim loại quí, máy vi tính và
linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận
tải), với tổng giá trị khoảng 45 tỉ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất
khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực đã vượt mục
tiêu Chiến lược đề ra, hoạt động xuất khẩu đã cơ bản theo định
hướng Chiến lược thị trường xuất khẩu từng mặt hàng. Thủy sản đã
thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng xuất khẩu của nhóm
hàng nông, lâm, thủy sản, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt 4,2 tỉ
USD và năm 2010 ước đạt 4,8 tỉ USD (mục tiêu Chiến lược là 3,5 tỉ
USD), tỉ trọng của 4 thị trường xuất khẩu chính (Nhật Bản, Mỹ EU,
Trung Quốc) đã giảm từ 79% trong năm 2000 xuống 62% năm 2008
25
và dưới 60% trong năm 2010. Chúng ta đã bảo đảm vững chắc an
ninh lương thực và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu gạo từ 0,62 tỉ
USD trong năm 2001 lên 1,4 tỉ USD trong năm 2005 và vượt mức 3
tỉ USD trong năm 2010 (mục tiêu Chiến lược là khoảng 1 tỉ USD),
thị trường Châu Á vẫn chiếm khoảng 90%. Dệt may và giày dép đã
thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng xuất khẩu của nhóm
hàng chế biến, chế tạo. Tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may đạt
bình quân 18,2%/năm trong 10 năm qua (mục tiêu Chiến lược là
14%/năm), năm 2010 kim ngạch có thể đạt 10,5 tỉ USD, tăng 16%
so với năm 2009, vượt xa mục tiêu Chiến lược đề ra 7,5 tỉ USD, tạo
việc làm cho 2,5 triệu lao động. Tăng trưởng xuất khẩu giày dép tuy
chỉ đạt bình quân 13,0%/năm trong 10 năm qua (mục tiêu Chiến
lược là 15 – 16%/năm), nhưng qui mô kim ngạch xuất khẩu năm
2010 ước đạt 5 tỉ USD, gấp 3,4 lần năm 2000. Đến năm 2010, kim
ngạch xuất khẩu hai mặt hàng dệt may và giày dép ước đạt 15,5 tỉ
USD, chiếm 21,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (chỉ tiêu này của năm
2000 là 23,2%); EU và Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu chính
2 mặt hàng này (chiếm khoảng 75% kim ngạch xuất khẩu giày dép
và khoảng trên 60% kim ngạch xuất khẩu dệt may).
Về cơ bản, ta đã thực hiện thành công một số khâu đột phá
Chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu.
Trong 5 năm đầu thực hiện Chiến lược (2001 – 2005), các ngành sản
phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn và công nghệ trung bình đã
được chú trọng phát triển như: thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế
biến, sản phẩm nhựa, hóa phẩm tiêu đùng, sản phẩm gỗ và sản phẩm
cơ khí, điện. Xuất khẩu các nhóm hàng này đã tăng trưởng bình quân
21%/năm, kim ngạch tăng từ 1,8 tỉ USD trong năm 2000 lên đạt trên
10 tỉ USD vào năm 2009, và năm 2010 dự ước đạt khoảng 12 tỉ
USD, vượt trên 2 lần mục tiêu Chiến lược đã đề ra (4,5 – 5 tỉ USD
vào năm 2010). Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ
(mây, tre, cói, thảm, gốm sứ, đá và kim loại quí) đã tăng trưởng bình
quân 23%/năm, kim ngạch tăng từ 377 triệu USD trong năm 2000
lên 3.177 triệu USD trong năm 2009 và khoảng gần 4,0 tỉ USD trong
năm 2010. Xuất khẩu sản phẩm gỗ tăng trưởng bình quân 26%/năm,
kim ngạch tăng từ 270 triệu USD trong năm 2000 lên 2,6 tỉ USD
trong năm 2009 và ước đạt 3,2 tỉ USD trong năm 201. Xuất khẩu sản
phẩm nhựa tăng bình quân 25%/năm, kim ngạch tăng từ 122 triệu
26
USD trong năm 2000 lên xấp xỉ 1 tỉ USD trong năm 2009 và dự ước
vượt 1,1 tỉ USD vào năm 2010.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu đã có sự chuyển dịch đáng kể, về
cơ bản phù hợp với định hướng điều chỉnh Chiến lược thị trường,
hình thành cơ cấu hợp lý. Tỉ trọng của thị trường Châu Á trong tổng
kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 60,6% trong năm 2001 xuống 50%
trong năm 2005 và duy trì ở mức 45,5% - 48% trong giai đoạn 2006
– 2010, cơ bản phù hợp với mục tiêu đề ra là 45%. Riêng tỉ trọng
của Nhật Bản đã giảm dần từ 16,7% trong năm 2001 xuống 13,3%
trong năm 2005 và khoảng 10% trong năm 2010 (Chiến lược là 17 –
18%); tỉ trọng của thị trường Trung Quốc cộng Đài Loan và Hồng
Kông giảm từ 15,8% xuống 13,9% và còn khoảng 12% trong thời
gian tương ứng (mục tiêu Chiến lược là 14 – 16%), tỉ trọng của thị
trường ASEAN tương đối ổn định ở mức 17 – 18% (mục tiêu Chiến
lược là 15 – 16%). Tỉ trọng của thị trường Châu Mỹ trong tổng kim
ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh trong giai đoạn 2001 – 2005, từ 9,3%
năm 2001 lên 22% trong năm 2005 và tương đối ổn định ở mức 22,5
– 23% trong giai đoạn 2006 – 2010, phù hợp với mục tiêu đề ra là
24%. Chúng ta đã thực hiện thành công khâu đột phá về thị trường
xuất khẩu là tăng nhanh tỉ trọng của thị trường Hoa Kỳ từ 7,1%
trong năm 2001 lên 18,2% trong năm 2005 và duy trì ở mức 19 –
20% trong giai đoạn 2006 – 2010 (mục tiêu Chiến lược là 15 –
20%).
3) Phát triển xuất khẩu hàng hóa đã từng bước gắn kết với
phát triển xuất khẩu dịch vụ, tạo sự bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, xuất
khẩu tại chỗ bước đầu phát triển thu ngoại tệ đáng kể, góp phần
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại
Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 tăng trưởng bình quân
10%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP 1,4 lần. Giá trị xuất
khẩu dịch vụ đã tăng từ 2,7 tỉ USD trong năm 2000 lên 4,2 tỉ USD
trong năm 2005 (mục tiêu Chiến lược là 4 tỉ USD), đạt mức 7,5 tỉ
USD trong năm 2008. Trong điều kiện khủng hoảng và suy thoái
kinh tế toàn cầu, năm 2009 xuất khẩu dịch vụ giảm 18,1% so với
năm 2008, kim ngạch chỉ đạt 5,76 tỉ USD, nhưng năm 2010 đã phục
hồi tốc độ tăng trưởng và đạt kim ngạch khoảng 7,0 tỉ USD tăng
21% so với năm 2009. Trong cơ cấu xuất khẩu dịch vụ năm 2008,
dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động chiếm 56%, dịch vụ hàng
27
không chiếm 19%, dịch vụ hàng hải chiếm 15%. Trong 10 năm qua,
xuất khẩu dịch vụ theo phương thức tiêu dùng ở nước ngoài là chủ
yếu, chiếm khoảng 56% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, xuất khẩu
theo phương thức cung cấp qua biên giới chiếm khoảng 39%, xuất
khẩu theo phương thức hiện diện thương mại và di chuyển thể nhân
chiếm khoảng 5%.
Sự phát triển xuất nhập khẩu dịch vụ đã tạo điều kiện thuận lợi
cho xuất khẩu hàng hóa, thúc đẩy xuất khẩu tại chỗ hàng hóa Việt
Nam thông qua du lịch. Chi tiêu cho mua sắm hàng hóa và ăn uống
chiếm khoảng 23 – 25% tổng chi tiêu bình quân cho một lượt khách
du lịch quốc tế tại Việt Nam, riêng chi tiêu cho mua hàng hóa chiếm
khoảng 16 – 17%. Giá trị xuất khẩu hàng hóa tại chỗ thông qua du
lịch đã tăng liên tục từ khoảng 215 triệu USD trong năm 2001 lên
khoảng 470 triệu USD trong năm 2007, đạt gần 500 triệu USD trong
năm 2008 và 450 triệu USD trong năm 2009, ước đạt khoảng 500
triệu USD năm 2010.
Trong thành phần tổng cầu đóng góp cho tăng trưởng GDP
trước năm 2006, mức đóng góp của xuất khẩu dịch vụ luôn là một số
âm (năm 2005: -7,6%) nhưng từ năm 2006 đến năm 2008, đóng góp
của xuất khẩu dịch vụ luôn là số dương (năm 2006: 12,8%, năm
2007: 9,1% và năm 2008: 6,3%).
4) Nhập khẩu hàng hóa đã chú trọng nguyên nhiên vật liệu,
máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất trong nước, đáp
ứng nhu cầu tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa
Phần chủ yếu trong tổng giá trị nhập khẩu hàng năm là các
nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ
cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng cho xuất
khẩu, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2001 –
2005, tỉ trọng của nhóm hàng này chiếm khoảng 50% tổng kim
ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 40% GDP; trong giai đoạn 2006 –
2010 chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng
60% GDP (riêng năm 2008, các chỉ số tương ứng là 74,7% và
65,1%). Tỉ trọng của nhóm hàng tiêu dùng cần kiểm soát và hạn chế
nhập khẩu tuy tăng mạnh từ 22,8% trong năm 2005 lên 26,7% trong
28
năm 2008 nhưng sau đó đã giảm dần còn khoảng 18 – 19% trong hai
năm 2009 – 2010. Năm 2008 – 2010, tỉ trọng của nhóm hàng thô và
sơ chế chiếm khoảng 25 – 26%, tỉ trọng nhóm hàng chế biến và tinh
chế chiếm khoảng 74 – 75% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập
siêu tuy tăng cao trong các năm 2006 – 2008, nhưng sau đó đã được
kiềm chế, tỉ lệ giá trị nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu đã giảm
từ 29,1% trong năm 2008 còn 22,5% trong năm 2009 và khoảng
15% trong năm 2010, phần chủ yếu trong cơ cấu nhập siêu mang
tính tích cực, tạo nền tảng cho phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng
xuất khẩu giúp giảm bớt giá trị nhập siêu trong thời gian tới.
5) Hội nhập quốc tế đã tác động tích cực, nhiều mặt đến xuất
nhập khẩu.
Đến nay, chúng ta đã tham gia ký kết gần 12 nghìn điều ước
quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 178 nước, có quan hệ
thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ, đã ký kết 88 Hiệp
định thương mại song phương, 7 Hiệp định thiết lập khu vực thương
mại tự do (FTA) với 15 nước, 54 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
và 61 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương. Trong
thời kỳ Chiến lược 2001 – 2010, cùng với việc ký Hiệp định thương
mại song phương với Hoa Kỳ (BTA), gia nhập WTO, Việt Nam đã
tiếp tục hội nhập thương mại khu vực sâu rộng hơn trong khung khổ
6 FTA khu vực (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJFTA, AANZFTA và
AIFTA). Tỉ trọng thương mại hai chiều giữa Việt Nam với 15 nước
đối tác đã có FTA chiếm gần 60% tổng giá trị thương mại quốc tế
của Việt Nam, trong đó, chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu và gần
70% kim ngạch nhập khẩu . Nhờ hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, các
rào cản thương mại đã giảm đáng kể nên hàng Việt Nam đã đã mở
rộng được thị phần sang các thị trường lớn, tăng kim ngạch xuất
khẩu. Từ sau năm 2007, nhờ hiệu ứng tích cực của việc gia nhập
WTO, lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được
cải thiện, dòng chảy FDI và FII vào Việt Nam tăng mạnh, sản lượng
các ngành kinh tế theo định hướng xuất khẩu tăng, góp phần quan
trọng vào tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng GDP. Đến năm 2010,
khu vực FDI chiếm trên 40% vốn đầu tư xã hội, 20% GDP, 45% giá
rị SXCN, 47% kim ngạch xuất khẩu và 44% kim ngạch nhập khẩu
hàng hóa.
29
Ngay sau khi gia nhập WTO, một số mặt hàng xuất khẩu đã có
kim ngạch tăng đột biến trong năm 2007 như sản phẩm nhựa tăng
56,9%, dệt may tăng 32,1%, túi xách và ví tăng 25%; kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng như dầu thô tăng 27% trong năm 2007 và
30,6% trong năm 2008.
Hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo điều kiện quan trọng để hạn
chế những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu, kiềm chế sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng xuất
khẩu ở mức thấp hơn mức sụt giảm trung bình của thế giới trong
năm 2009 (giảm 8,9% so với năm 2008), phục hồi đà tăng trưởng
xuất khẩu ở mức khoảng 22,4% trong năm 2010. Thị trường xuất
khẩu trở nên đa dạng hơn, thúc đẩy đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu,
hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường trọng
điểm, xuất khẩu tăng trên hầu hết các thị trường và ít có biểu hiện
chuyển hướng thương mại dưới tác động của các FTA đã tham gia.
Một số mặt hàng được hưởng lợi từ các thỏa thuận FTA đã có bước
tăng trưởng xuất khẩu đột biến như xuất khẩu dệt may sang Hàn
Quốc tăng 84% trong năm 2009 và tăng khoảng 70% trong năm
2010.
Nguyên nhân của những thành tựu:
Đạt được những thành quả nêu trên là nhờ chủ trương phát
triển xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế đúng đắn, kịp thời của
Đảng, sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành năng
động của Chính phủ và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, của
các cấp, các ngành và của toàn dân. Đảng, Nhà nước và Chính phủ
đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp điều hành tích cực
để ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh xuất khẩu, kềm chế nhập siêu,
ngăn chặn sự suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm bảo an sinh
xã hội. Chính phủ đã tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành quyết
liệt trong tất cả các cấp, các ngành nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu
phát triển xuất nhập khẩu. Các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện
tốt các chính sách cụ thể nhàm kích thích kinh tế như hỗ trợ lãi suất
tín dụng, miễn giảm thuế, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư
và tiêu dùng… Bộ Công Thương đã có những biện pháp chỉ đạo,
điều hành quyết liệt lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu nhằm đẩy
mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Các doanh nghiệp, Hiệp hội
ngành hàng cũng đã có những nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh, tận
30
dụng các cơ hội thị trường nhờ hội nhập WTO và hội nhập các FTA
mở ra để đẩy mạnh xuất khẩu…
Đạt được những thành quả về phát triển xuất nhập khẩu trong
10 năm qua cũng nhờ những điều kiện thuận lợi của tình hình kinh tế
trong nước và thế giới. Kinh tế thế giới sau kỳ suy giảm 1996 – 2001
(tăng trưởng bình quân 1,23%/năm tính theo giá thực tế) đã bước
sang kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2002 – 2008 (tăng trưởng
bình quân 9,7%/năm tính theo giá thực tế). Kinh tế Việt Nam sau kỳ
suy giảm trong giai đoạn 1996 – 2000 (tăng trưởng bình quân
6,9%/năm, so với giai đoạn 1991 – 1995 là 8,2%/năm) đã bước vào
kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001 – 2007 (tăng trưởng bình
quân 7,75%/năm theo giá cố định 1994). Tốc độ tăng trưởng kinh tế
ở mức khá cao, kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, đầu tư tăng cao,
cùng các điều kiện thuận lợi của môi trường kinh doanh quốc tế,
nhất là khi Việt Nam hội nhập sâu rộng theo cam kết WTO và các
FTA… đã tạo cơ sở quan trọng cho phát triển xuất nhập khẩu hàng
hóa trong các năm 2001 – 2008. Trong thời kỳ tăng trưởng cao, sau
khi đạt tốc độ tăng trưởng 8,4% trong năm 2005 và 8,2% trong năm
2006, GDP đã tăng đạt đỉnh ở mức 8,5% trong năm 2007 (ngay sau
khi gia nhập WTO) đã tạo đà cho tăng trưởng xuất và nhập khẩu đạt
đỉnh vào năm 2008 (xuất khẩu tăng 29,1%, nhập khẩu tăng 28,6%).
Các năm 2008 – 2010 là giai đoạn rất khó khăn do biến động mạnh
của kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái (năm 2009 tăng
trưởng kinh tế toàn cầu ở mức -5,4%, năm 2010 bắt đầu phục hồi
chậm, tăng trưởng 2,4%). Do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng
tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng tốc độ tăng trưởng
GDP của Việt Nam vẫn đạt mức khá cao (năm 2008 đạt 6,23%, năm
2009 đạt 5,3% và năm 2010 dự ước đạt 6,7%), đã tạo điều kiện kiềm
chế giảm tốc xuất khẩu (năm 2009 xuất khẩu giảm 8,9% so với năm
2008. Trong khi xuất khẩu toàn cầu giảm 22% so với năm 2008).
Kết quả tăng trưởng xuất khẩu cao trong các năm 2007 – 2008
cũng có phần chủ yếu là nhờ giá nguyên nhiên vật liệu trên thị
trường thế giới tăng cao. Trong giai đoạn này, nhóm mặt hàng thô và
sơ chế chiếm 42 – 44% tổng kim ngạch xuất khẩu, riêng 8 mặt hàng
có mức giá tăng cao nhât (dầu thô, than đá, hạt tiêu, cà phê, cao su,
gạo, hạt điều, chè) chiếm 30 – 31% tổng kim ngạch xuất khẩu. Một
số mặt hàng như than đá, hạt tiêu, gạo… giá năm 2008 tăng gấp 2
31
lần so với năm 2006; giá mặt hàng dầu thô năm 2008 tăng gấp 1,5
lần so với năm 2006, giá mặt hàng cà phê năm 2008 tăng gấp 1,63
lần so với năm 2006, giá hạt điều năm 2008 tăng gấp 1,75 lần so với
năm 2007…
Nhờ hội nhập quốc tế sâu rộng, nhất là từ khi gia nhập WTO
hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng Việt Nam giảm mạnh
đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu. Xuất khẩu một số
mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhờ được tiếp cận thị trường
thuận lợi hơn.
2. Những hạn chế, yếu kém
Bên cạnh những thành tựu, xuất nhập khẩu trong 10 năm qua
có những hạn chế, yếu kém. Nhiều mục tiêu của Chiến lược phát
triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 và của Đề án phát triển
xuất khẩu 2006 – 2010 không phù hợp với thực tiễn, chưa được thực
hiện. Trong đó, phần lớn các chỉ tiêu về chất lượng tăng trưởng và
phát triển xuất nhập khẩu chưa hoàn thành. Những hạn chế, yếu kém
chủ yếu, gồm:
(1) Qui mô xuất khẩu còn nhỏ, phát triển xuất khẩu vẫn chủ
yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp, chi phí xuất khẩu
cao, hoạt động xuất khẩu phản ứng chậm với các biến động của thị
trường thế giới, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch theo
hướng hiệu quả, hiện đại.
Giai đoạn 2006 – 2010, tăng trưởng xuất khẩu bình quân
17,0%/năm, thấp hơn mục tiêu là 17,5%/năm. Qui mô xuất khẩu
năm 2010 đạt khoảng 71 tỉ USD, chưa đạt mục tiêu đề ra là 72,5 tỉ
USD. Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bằng khoảng
66% GDP, nhưng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người mới đạt
khoảng 750 USD chỉ bằng 41% mức bình quân của thế giới là
(khoảng 1.840 USD), chưa đạt mục tiêu Chiến lược đề ra cho năm
2010 là 770 – 780 USD.
Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hóa còn thấp do giá thành
cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị
trường. Hàm lượng kỹ thuật công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu
còn thấp, tăng chậm. Tỉ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công
nghệ cao và trung - cao chỉ tăng từ 7,1% trong năm 2000 lên 11,3%
32
trong năm 2005 và ước khoảng 14 – 15% trong năm 2010, còn lại là
hàng công nghệ thấp và trung - thấp. Đến năm 2010, riêng nhóm
hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8 – 9% tổng
kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực (năm
2008, chỉ số này của Indonexia là 14%, Trung Quốc: 34%, Thái Lan:
30%, Hàn Quốc: 37%, Singapore: 57%, Malayxia: 58%). Khoảng
27% kim ngạch xuất khẩu là hàng công nghiệp chế tạo công nghệ
thấp. Chi phí xuất khẩu cao gấp 1,7 lần mức trung bình của khu vực
(năm 2007, chi phí xuất khẩu của Việt Nam là 701 USD/container
20 ft, mức trung bình của khu vực là 500 USD).
Cơ cấu xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỉ
trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo tăng rất chậm từ 46,7% trong
năm 2001 lên 50,7% trong năm 2005, 53,4% trong năm 2009, ước
đạt 55% trong năm 2010 (bình quân mỗi năm chỉ tăng được gần 1
điểm phần trăm), thấp xa so với mục tiêu Chiến lược là 69% và mục
tiêu của Đề án là 76,7%. Tỉ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế giảm
rất chậm, từ 45,3% trong năm 2001 xuống 46,6% trong năm 2009 và
ước còn 45% trong năm 2010, chưa đạt mục tiêu Chiến lược đề ra là
31% và mục tiêu Đề án là 23,3%. Riêng tỉ trọng của nhóm nguyên
nhiên liệu không giảm mà lại tăng từ 23,9% trong năm 2001 lên
24,5% trong năm 2009, chưa đạt mục tiêu đề ra là giảm còn 9,6%
vào năm 2010. Khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng
nông sản là sản phẩm chưa qua chế biến.
Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu rất thấp. Giá trị tăng của
hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu chỉ đạt khoảng 25 – 30%, hàng
nông sản và khoáng sản xuất khẩu khoảng 50% (nếu tính giá trị gia
tăng quốc gia, tức là phần giá trị tăng thêm người Việt Nam thực tế
được hưởng thì tỉ lệ này còn thấp hơn, do các doanh nghiệp FDI
chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu, và một phần không nhỏ giá
trị gia tăng này được nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước).
Ta chưa thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng
xuất khẩu. Hàng điện tử và tin học chưa thực hiện được vai trò hạt
nhân tăng trưởng của nhóm sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao,
năm 2009 chỉ đạt kim ngạch 2,76 tỉ USD, năm 2010 ước đạt khoảng
3,2 tỉ USD, bằng khoảng 50% mục tiêu Chiến lược đề ra (6 – 7 tỉ
USD). Hàng thực phẩm chế biến cũng chỉ đạt khoảng 300 triệu USD
33
trong năm 2010, bằng khoảng 42% mục tiêu Chiến lược (700 triệu
USD).
Trong nhóm hàng chế biến, chế tạo xuất khẩu, tỉ trọng của
hàng gia công còn chiếm phần lớn, tỉ lệ nội địa hóa rất thấp. Một số
ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phụ thuộc phần lớn vào
nguyên vật liệu, phụ liệu của nước ngoài: sản phẩm điện tử khoảng
90%, sản phẩm gỗ khoảng 75%, sản phẩm dệt may và da giày
khoảng 70%, sản phẩm nhựa khoảng 55%, sản phẩm hóa chất
khoảng 80%, sản phẩm thép khoảng 50%. Giá trị ngoại tệ thực thu
của phần lớn các ngành sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu
chỉ khoảng 20 - 30% doanh thu xuất khẩu; một số ngành rất thấp
như điện tử, tin học chỉ khoảng 5%.
Qui mô xuất khẩu dịch vụ còn nhỏ, tăng trưởng chậm. Thời kỳ
2001 – 2010, tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ chỉ bình quân 10%/năm,
đạt 66% mục tiêu Chiến lược (15%/năm). Trong năm 2009 và 2010
xuất khẩu dịch vụ đã giảm mạnh so với năm 2008 (năm 2009 đạt
5,76 tỉ USD và năm 2010 ước đạt 7 tỉ USD). Trong đó, các sản phẩm
dịch vụ có giá trị gia tăng cao chỉ chiếm 5 – 6%.
(2) nhập khẩu hàng hóa và nhập siêu tăng cao tác động bất lợi
đến các cân đối kinh tế vĩ mô, chưa hướng mạnh vào phần cốt lõi
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chưa cải thiện được nhiều tình
trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành, ít tiếp cận được với
công nghệ nguồn.
Trong 10 năm qua, tăng trưởng nhập khẩu bình quân
18,2%/năm, không đạt mục tiêu Chiến lược về giảm nhập khẩu
xuống 14%/năm. Riêng giai đoạn 2001 – 2005, tăng trưởng nhập
khẩu bình quân 18,65%/năm (mục tiêu là 15%/năm) và giai đoạn
2006 – 2010 tăng 17,7%/năm (mục tiêu là 13%/năm). Kim ngạch
nhập khẩu đã tăng nhanh từ 15,6 tỉ USD trong năm 2000 lên 36,7 tỉ
USD trong năm 2005 (cao gấp 1,25 lần mục tiêu là 29,2 tỉ USD) và
ước đạt 83 tỉ USD trong năm 2010, cao gấp 1,54 lần mục tiêu Chiến
lược (53,7 tỉ USD).
Nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa cao gấp 1,05 lần nhịp
độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa, nhập siêu tăng cao trong thời kỳ
2006 – 2010, không đạt được mục tiêu cân bằng cán cân thương mại
vào năm 2008 để xuất siêu khoảng 1 tỉ USD vào năm 2010. Nhập
34
siêu tăng đột biến ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, năm 2008
giá trị nhập siêu tới 18 tỉ USD, tỉ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất
khẩu lên tới 29,1%. Năm 2010 giá trị nhập siêu 12 tỉ USD, tỉ lệ nhập
siêu so với kim ngạch xuất khẩu còn khoảng 16,9%.
Nhập khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 tăng trưởng bình quân
20,1%/năm, cao gấp 1,9 lần mục tiêu Chiến lược (11%/năm) và gấp
2,1 lần tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ. Giá trị nhập khẩu dịch
vụ tăng từ 1,2 tỉ USD trong năm 2000 lên 6,83 tỉ USD trong năm
2009 và ước khoảng 7,5 tỉ USD trong năm 2010.
Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đều thấp
hơn nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu, dẫn đến “thâm hụt kép” cả cán
cân thương mại hàng hóa và cán cân thu – chi dịch vụ, là thành tố
chính làm thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai, tác động tiêu cực
đến các cân đối kinh tế vĩ mô. Thời kỳ 2001 – 2010, tổng giá trị
nhập siêu là 79,63 tỉ USD, bằng 21,0% tổng kim ngạch xuất khẩu cả
thời kỳ, tổng giá trị thâm hụt cán cân dịch vụ là 7,06 tỉ USD, bằng
14,0% tổng giá trị xuất khẩu dịch vụ cả thời kỳ, tổng giá trị thâm hụt
cán cân vãng lai khoảng 36 tỉ USD, bằng khoảng 6% GDP, riêng
năm 2008, cán cân vãng lai thâm hụt 12,1 tỉ USD, bằng 11,8% GDP.
Cơ cấu nhập khẩu còn một số hạn chế, bất hợp lý, chưa chú
trọng đáp ứng yêu cầu tăng cường phần cốt lõi của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tỉ trọng của nhóm máy móc, thiết bị, phương tiện và
công nghệ - yếu tố hàng đầu để tăng năng lực sản xuất và hình
thành sức cạnh tranh của sản phẩm – lại có xu hướng giảm liên tục
từ 25,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của năm 2003 xuống
14,7% trong năm 2006 và dao động ở mức 17 – 18% trong giai đoạn
2007 – 2010. Trong khi Bắc Mỹ và EU là những thị trường “nguồn”
của công nghệ cao, thiết bị hiện đại, có tác động lớn đến sự đổi mới
kỹ thuật trong nước thì ta lại xuất siêu, ngược lại chúng ta lại nhập
siêu rất lớn từ khu vực thị trường Châu Á, đặc biệt từ Trung Quốc là
thị trường gần, mở cửa, giao lưu sớm, ít rào cản thương mại nhưng
phần lớn là công nghệ thấp.
(3) Sự phát triển thị trường ngoài nước chủ yếu theo chiều
rộng, chưa hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu, chất lượng
thông tin dự báo Chiến lược thị trường quốc tế còn yếu kém, chưa
35
thực hiện thành công một số bước điều chỉnh Chiến lược thị trường
xuất, nhập khẩu.
Hàng Việt Nam đã được xuất khẩu sang trên 220 thị trường
khắp các châu lục trên toàn cầu, nhưng trên 80% lượng hàng hóa vẫn
xuất FOB và nhập CIF. Kết cấu hạ tầng và dịch vụ logicstics chưa
phát triển nên phần lớn hàng xuất khẩu chưa thể xuất trực tiếp sang
thị trường Bắc Mỹ, Châu Âu mà vẫn phải quá cảng qua Hồng Kông,
Singapore. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu vẫn còn phải
qua trung gian. Chỉ mới có một tỉ lệ nhỏ hàng xuất khẩu được tiêu
thụ qua mạng lưới phân phối trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam ở
thị trường nhập khẩu. Mức độ tham gia hệ thống phân phối toàn cầu
của hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế . Một số
ngành hàng nông, lâm, thủy sản và công nghiệp chế biến xuất khẩu
tuy đã có sự tham gia vào các mạng sản xuất, các chuỗi giá trị toàn
cầu, nhưng mô hình tổng quát vẫn là qui mô lớn, nấc thang giá trị
thấp và hiệu quả thấp.
Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam mới tham
gia được vào các phân khúc sản xuất gia công lắp ráp là các khâu
mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Có rất ít doanh
nghiệp tham gia được vào khâu thiết kế, nghiên cứu và phát triển,
phân phối ở thị trường ngoài là những khâu mang lại giá trị gia tăng
cao.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để phát triển kinh
doanh ngoài biên giới quốc gia mới ở giai đoạn khởi đầu, khả năng
tận dung những cơ hội phát triển mới và phát triển thị trường xuất
khẩu theo chiều sâu do toàn cầu hóa, hội nhập và tham gia các FTA
mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế.
Công tác dự báo Chiến lược thị trường quốc tế chưa được chú
trọng đầu tư đúng mức, chất lượng thông tin và kết quả dự báo
Chiến lược thị trường phục vụ chỉ đạo điều hành xuất nhập khẩu của
Chính phủ còn thấp. Sự hiểu biết về thị trường ngoài nước còn hạn
chế. Tư duy Chiến lược kinh tế, kinh doanh toàn cầu và trình độ
ngoại ngữ của các doanh nhân Việt Nam , của các nhà quản lý và đội
ngũ cán bộ tham gia đoàn đàm phán mở cửa thị trường ngoài nước
còn hạn chế. Nhà nước chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, kịp
thời cho các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp còn ỷ nại vào Nhà
36
nước, thụ động chờ đợi khách hàng, trông chờ vào sự bảo hộ của
Nhà nước.
Việc điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu chưa đạt
được mục tiêu mong đợi. Chưa sử dụng các Hiệp định thương mại tự
do (FTA) làm công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu điều chỉnh
Chiến lược thị trường quốc tế. Việc ký kết tham gia 6 FTA với 15
nước trong khu vực đã tạo xu hướng tăng mức độ tập trung thương
mại của Việt Nam với các đối tác ở Châu Á và Châu Đại Dương, trái
ngược với định hướng Chiến lược điều chỉnh cơ cấu thị trường quốc
tế nhằm tăng tỉ trọng của khu vực thị trường Châu Âu, giảm tỉ trọng
của thị trường Châu Á và Châu Đại Dương. Trong cơ cấu thị trường
xuất khẩu. Tỉ trọng của khu vực thị trường Châu Âu đã giảm liên tục
từ 25,3% trong năm 2001 xuống 18% trong năm 2005 và ở mức 20 –
22% trong giai đoạn 2008 – 2010 (chưa đạt mục tiêu Chiến lược là
23%); tỉ trọng của thị trường Châu Á có xu hướng tăng từ 45,4%
trong năm 2006 lên 48% trong năm 2010 (mục tiêu là giả còn 45%
vào năm 2010); tỉ trọng của thị trường Châu Đại Dương tăng từ
7,1% trong năm 2008 lên 7,5% trong năm 2010 (mục tiêu là giảm
còn 5%). Trong cơ cấu thị trường nhập khẩu, tỉ trọng của khu vực thị
trường Châu Á không giảm như mong muốn mà ngược lại tăng
nhanh từ 60% trong năm 2000 lên 80 – 82% trong giai đoạn 2008 –
2010. Tỉ trọng của thị trường EU đã giảm mạnh từ 26 – 27% trong
năm 2000 xuống 7,2 – 7,5% trong giai đoạn 2007 – 2010. Tỉ trọng
nhập khẩu từ thị trường ASEAN đã có xu hướng giảm từ 27,9%
trong năm 2006 xuống 20,1% vào năm 2009; nhưng tỉ trọng nhập
khẩu từ 3 quốc gia Đông Bắc Á đã tăng mạnh từ 25,4% lên 39,4%
trong thời gian tương ứng, riêng nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc
đã tăng từ 16,4% lên 23,5%.
(4) Hội nhập các FTA chưa có một Chiến lược tổng thể và lộ
trình thống nhất, đồng bộ với Chiến lược phát triển XNK, chưa tận
dụng hiệu quả cơ hội và điều kiện thuận lợi của hội nhập quốc tế để
đẩy mạnh xuất khẩu
Hội nhập các FTA còn mang tính bị động, bị lôi cuốn theo tình
thế và yêu cầu chính trị, trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị
của nền kinh tế nước ta chưa cao. Quan điểm và nhận thức về tham
gia các FTA ở nước ta còn có sự khác nhau, chưa thống nhất; chưa
có Chiến lược, bài bản rõ ràng khi tham gia các FTA. Chưa tạo được
37
các nỗ lực cao trong toàn xã hội để tận dụng tối đa các ưu đãi, các cơ
hội từ tham gia các FTA để duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu cao
sang các thị trường đã ký FTA, hạn chế các tác động bất lợi của tự
do hóa theo các cam kết FTA đối với thương mại, nhất là khi xảy ra
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Ta chưa chuẩn
bị tốt các điều kiện cơ bản trong nước khi tham gia các FTA và chưa
sử dụng được hiệu quả các FTA đã ký kết làm công cụ điều chính
Chiến lược thị trường quốc tế, cải thiện cán cân thương mại, cán cân
thanh toán vãng lai và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững. Các lợi ích quốc
gia thu được từ tham gia các FTA chưa tương xứng với tiềm năng,
nhất là các tiềm năng về liên kết và hợp tác song phương. Đặc biệt là
trong quan hệ FTA với Trung Quốc, ta đã bị thua thiệt ở cả chiều
xuất và nhập khẩu, thị phần của hàng Việt Nam tại Trung Quốc đã
giảm từ 0,54% trong năm 2004 xuống 0,38% trong năm 2008 và chỉ
nhích lên 0,49% trong năm 2009; trong khi đó, thị phần của hàng
Trung Quốc tại Việt Nam đã tăng nhanh từ 14,37% trong năm 2004
lên 23,5% trong năm 2009, gấp 1,63 lần sau 6 năm thực hiện
EFH/ACFTA.
Ta cũng chưa tận dụng tốt các cơ hội và điều kiện thương mại
thuận lợi của việc gia nhập WTO, các ưu đãi từ các thỏa thuận khu
vực (PTA) và các GSP mà các nước phát triển dành cho Việt Nam
để đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sang thị trường Châu Âu,
Bắc Mỹ. Năng lực và kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp thương
mại, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng Việt Nam từ
các nước nhập khẩu, còn nhiều hạn chế. Việc xây dựng và sử dụng
các TBT, SPS và các biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời đối
với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào thị trường trong nước chậm
được triển khai, hiệu quả chưa cao.
(5) Công tác quản lý Nhà nước đối với xuất nhập khẩu hàng
hóa tuy đã có nhiều cải tiến nhưng còn một số hạn chế, thụ động,
tính đồng bộ chưa cao
Thể chế quản lý xuất nhập khẩu chưa đồng bộ và hoàn thiện.
Hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng
kịp yêu cầu quản lý xuất nhập khẩu trong bối cảnh có nhiều biến
động của thị trường thế giới khi thương mại nước ta hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng hơn. Chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ
38
đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu nhìn chung còn thấp hơn so với các
nước trong khu vực. Chưa có sự đồng bộ giữa Chiến lược phát triển
xuất nhập khẩu với các Chiến lược phát triển các ngành sản xuất,
Chiến lược bảo hộ sản xuất trong nước, Chiến lược phát triển các
ngành dịch vụ, Chiến lược hội nhập các FTA… Sự phối hợp giữa
các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý xuất nhập khẩu tuy đã có
sự chuyển biến tích cực nhưng tính đồng bộ chưa cao, chưa tạo được
sức mạnh tổng hợp. Sự thu hút các Hiệp hội ngành hàng, cộng đồng
các doanh nghiệp trong tham gia xây dựng các Chiến lược, chính
sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu cũng như trong quá trình
đàm phán ký kết các điều ước quốc tế về thương mại chưa được chú
trọng, chưa được luật pháp hóa bằng các qui chế cụ thể.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:
Những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do những nguyên
nhân khách quan, nhưng cũng có phần do nguyên nhân chủ quan.
Một là, về mặt chủ quan, do công tác dự báo Chiến lược tình hình
quốc tế và trong nước còn những hạn chế nên phần lớn là các chỉ
tiêu Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010
chưa phù hợp với thực tiễn, chưa bám sát tính chu kỳ của kinh tế
thế giới và trong nước, chưa phù hợp với bối cảnh kinh tế thế giới
có nhiều biến động và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của
Việt Nam. “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ
2001 – 2010” được Bộ Thương mại xây dựng và công bố ngày
16/9/2000, thời điểm mà nền kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam
vừa qua cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á và đang ở
cuối của kỳ suy thoái để chuyển sang tăng trưởng mới, đã ảnh
hưởng đến việc dự báo và xác định các chỉ tiêu cụ thể về qui mô
và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu. Hai là, về mặt khách quan,
có 3 nhóm nguyên nhân chính: 1) trong thời kỳ Chiến lược 2001
– 2010, đã xảy ra tăng đột biến giá nguyên nhiên vật liệu các năm
2006 - 2008; tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng và suy thoái
kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay; sự lớn mạnh và sức ép
cạnh tranh ngày càng lớn từ phía Trung Quốc. 2) Mô hình tăng
trưởng nền kinh tế nói chung, tăng trưởng XNK của nước ta nói
riêng có nhiều bất cập. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào đầu
tư nhưng hiệu quả đầu tư thấp, hệ số ICOR có xu hướng ngày
càng tăng, Đầu tư của nước ngoài có xu hướng chuyển dịch từ các
39
ngành công nghiệp chế biến chế tạo hàng xuất khẩu sang lĩnh vực
kinh doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng dẫn đến sụt giảm nguồn
hàng xuất khẩu ở cuối thời kỳ Chiến lược và gia tăng nhập khẩu
vật liệu xây dựng cao cấp. Mô hình tăng trưởng kinh tế cũng dựa
nhiều vào xuất khẩu nhưng xuất khẩu lại dựa nhiều vào nhập
khẩu nguyên nhiên vật liệu nên nhập khẩu tăng cao, nhập siêu
tăng và chậm được cải thiện. Cơ cấu hàng xuất khẩu chậm chuyển
dịch, hàng công nghiệp chủ yếu là gia công cho nước ngoài, giá
trị gia tăng thấp; hàng nông lâm, thủy sản chủ yếu là xuất sản
phẩm thô, giá tị gia tăng chiếm tỉ trọng không cao. Tỉ trọng nhập
khẩu máy móc, thiết bị và công nghệ có xu hướng giảm trong cơ
cấu hàng nhập khẩu. Trong cấu trúc xuất nhập khẩu, tỉ trọng của
nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao rất thấp và chậm được
nâng lên. Dịch vụ logistics và dịch vụ bảo hiểm hàng hóa XNK
chậm phát triển, chưa đắp ứng kịp nhu cầu phát triển XNK. 3)
Hội nhập WTO, hội nhập các FTA trong điều kiện, mức độ sẵn
sàng của nền kinh tế còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm,
doanh nghiệp và toàn nền kinh tế còn yếu kém nên ta chưa tận
dụng tốt các ưu đãi để tăng xuất khẩu, trong khi phải mở cửa thị
trường trong nước, hàng nước ngoài có sức cạnh tranh cao đã tăng
thị phần tại Việt Nam, nhất là hàng của Trung Quốc và các đối tác
đã ký FTA với Việt Nam./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_tinh_hinh_thuc_hien_chien_luoc_1153.pdf