Chuyên đề Đánh giá tình hình thực hiện chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020

Thể chế quản lý xuất nhập khẩu chưa đồng bộ và hoàn thiện. Hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý xuất nhập khẩu trong bối cảnh có nhiều biến động của thị trường thế giới khi thương mại nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu nhìn chung còn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Chưa có sự đồng bộ giữa Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu với các Chiến lược phát triển các ngành sản xuất, Chiến lược bảo hộ sản xuất trong nước, Chiến lược phát triển các ngành dịch vụ, Chiến lược hội nhập các FTA

pdf40 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2402 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đánh giá tình hình thực hiện chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KNXK hàng hóa; xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Châu Á chiếm khoảng 45%, thị trường Châu Âu chiếm khoảng 23%, thị trường Châu Mỹ chiếm khoảng 24%, thị trường Châu Đại Dương chiếm khoảng 5% và thị trường khác chiếm 17 khoảng 3%. Tiến tới cân bằng xuất – nhập khẩu vào những năm đầu sau năm 2010. Trong quá trình thực hiện Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010, bên cạnh các yếu tố thuận lợi do đà tăng trưởng kinh tế giai đoạn trước đã có, nhiều yếu tố khách quan và chủ quan tác động bất lợi đến tình hình xuất khẩu của ta. Trong đó, nổi cộm là sự biến động mạnh về tăng giá của thị trường nguyên nhiên vật liệu thế giới năm 2007 – 200810, tác động khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2008 làm nhu cầu nhập khẩu thị trường thế giới sụt giảm, các điều kiện về tài chính trên thị trường toàn cầu trở nên khó khăn hơn, kinh tế thế giới tăng trưởng đạt đỉnh vào năm 2008 sau đó tụt giảm mạnh trong các năm 2009 – 2010, cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt hơn (nhất là cạnh tranh với Trung Quốc), sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ và các rào cản thương mại ngày càng tinh vi hơn… Tình hình kinh tế trong nước cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức lớn, do các yếu tố nội tại và do tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Nổi cộm là lạm phát tăng cao trong các năm 2006 – 2007, nền kinh tế từ trạng thái tăng trưởng nóng trong các năm 2003 – 2007 chuyển sang suy giảm mạnh, đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm, cán cân thanh toán vãng lai bị thâm hụt lớn, tình trạng “bong bóng” của thị trường chứng khoán và khả năng thiếu thanh khoản của hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng v.v… Mặt khác, việc thực hiện các cam kết gia nhập WTO ( tháng 11/2006) và các cam kết FTA (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP, VJEPA, AANZFTA, AITIG), bên cạnh những tác động có lợi cũng có những hiệu ứng bất lợi cho xuất khẩu của ta như là sự chuyển hướng thương mại, cơ cấu xuất khẩu không chuyển dịch theo mong muốn của ta trong chiến lược và Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010. Trước bối cảnh và tình hình đó Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp điều hành tích cực để ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu. Trong đó, có các văn bản quan trọng như Nghị quyết số 08 – NQ/TW ngày 05/02/2007 của Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương 10 Giá xuất khẩu dầu thô năm 2007 tăng 11,5% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 33,6% so với 2007; giá xuất khẩu than đá năm 2008 tăng gấp 2,3 lần so với năm 2007; giá xuất khẩu hạt tiêu năm 2007 tăng gấp 2 lần năm 2006; giá xuất khẩu cà phê năm 2007 tăng gấp 25,4% so với năm 2006 và năm 2008 tăng 28,1% so với 2007; giá hạt điều năm 2008 tăng 75,4% so với năm 2007; giá gạo năm 2008 cũng tăng 87,5% so với 2007. 18 Đảng khóa X về “một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên Tổ chức thương mại thế giới”; Nghị quyết số 16/2007/ NQ-CP của Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 08/NQ/TW của Đảng. Tiếp theo việc thực hiện Nghị quyết 30/2008/NQ-CP về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2009, cùng một loạt các chính sách cụ thể nhằm kích thích kinh tế như Quyết định 131/QĐ- TTg, Quyết định 443/QĐ – TTg, Quyết định 497/QĐ-TTg, Quyết định số 529/2009/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ lãi xuất tín dụng, miễn giảm thuế, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng, bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời, Chính phủ đã tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện một cách tập trung, quyết liệt trong tất cả các ngành, các cấp nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu phát triển kinh tế, phát triển xuất khẩu. Nhờ vậy, nền kinh tế nước ta vẫn duy trì được sự ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2009 tăng 5,32% (GDP toàn cầu năm 2009 giảm so với năm 2008, ở mức -5,4%). Tuy thế, KNXK hàng hóa cả nước năm 2009 chỉ đạt 57,1 tỉ USD, giảm 9,1% so với năm 2008 nhưng đây là mức giảm rất thấp so với nhiều nước trên thế giới cùng thời điểm (tăng trưởng xuất khẩu bình quân toàn cầu năm 2009 giảm 22,25% so với năm 2008). Do vậy, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 giảm gần 5,7 tỉ USD so với năm 2008 nên đã kéo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2009 xuống mức 15%/năm. Trong năm 2010, suy giảm kinh tế thế giới đã chững lại và bắt đầu phục hòi chậm, nền kinh tế nước ta cũng bắt đầu có dấu hiệu phục hồi rõ rệt. Trước tình hình đó, Chính phủ, Bộ Công Thương đã có những biện pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt lĩnh vực xuất nhập khẩu như công văn số 2600/TTg-KTTH ngày 30/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ, Nghị quyết 18/NQ-CP ngày 06/4/2010 của Chính phủ và Chỉ thị số 05/CT-BCT ngày 15/4/2010 của Bộ Công Thương về việc đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu… Các doanh nghiệp cũng đã có nỗ lực vượt bậc đẩy mạnh xuất khẩu. Nhờ vậy, xuất khẩu hàng hóa năm 2010 đã tăng trưởng khá, 9 tháng đầu năm kim ngạch 19 xuất khẩu đạt 51,5 tỉ USD, và dự ước cả năm 2010 KNXK đạt 71tỉ USD, tăng 24% so với năm 2009 và tăng 13,2% so với năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa giai đoạn 2006 – 2010 đạt bình quân 17%/năm, cao hơn mục tiêu trong Chiến lược phát triển XNK 2001 – 2010 (14%/năm) nhưng thấp hơn mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu đã đề ra trong Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010 (17,5%/năm). Tổng hợp kết quả thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010 (Bảng 2) cho thấy, phần lớn các chỉ tiêu phản ánh qui mô và chất lượng tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa cũng như các chỉ tiêu về chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu đều chưa đạt mục tiêu đã đề ra trong Đề án phát triển xuất khẩu 2006 – 2010. Bảng 2: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010 1. Tốc độ tăng trưởng KNXK bình quân năm (%) Thực hiện 2006 – 2010: 17%/năm Chưa đạt yêu cầu Mục tiêu Đề án PTXK 2006 – 2010: 17,5%/năm 2. Kim ngạch XK (Tr USD) TH 2006 32.447 TH 2008 62.685 Ước TH 2010 71.000 Mục tiêu ĐA 2010 72.500 Chưa đạt yêu cầu 3. Cơ cấu hàng XK (%) 100 100 100 100 - Nhóm hàng thô hoặc sơ chế 45,3% 42,0% 31,8% 23,3% Giảm chậm, chưa đạt + Nông, lâm, thủy sản 24,2% 21,2% 22,5% 13,7% Giảm chậm, chưa đạt + Nguyên nhiên liệu thô 21,1% 20,8% 9,3% 9,6% Giảm chậm, chưa đạt - Hàng chế biến, chế tạo 51,7% 53% 68,2% 76,7% Tăng chậm, chưa tốt 3. Cơ cấu thị trường XK (%) - Châu Á 45,4% 47,7% 48% 45% Giảm chậm, chưa đạt 20 - Châu Âu 21,3% 20,7% 19% 23% Tăng chậm, chưa đạt - Châu Mỹ 22,5% 22,4% 23% 24% Đạt mục tiêu - Châu Đại Dương 9,7% 7,1% 7,5% 5% Giảm chậm, chưa đạt - Thị trường khác 1,0% 2,1% 2,5% 3% 2.2 Đối với nhập khẩu hàng hóa Tư tưởng chủ đạo và mục tiêu tổng quát về phát triển nhập khẩu trong “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010” là: “Chú trọng nhập khẩu thiết bị nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến”. “tiết kiệm ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ nhập khẩu những hàng hóa cần thiết, máy móc thiết bị công nghệ mới… phải giữ được thế chủ động trong nhập khẩu, kiềm chế được nhập siêu và giảm dần tỉ lệ nhập siêu tiến tới sớm cân bằng xuất nhập và xuất siêu”. Về cơ bản, đây là tư tưởng và định hướng đúng trong tầm dài hạn, phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 và phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy thế, do chưa bám sát các dự báo chu kỳ tăng trưởng kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam11, sự biến động tăng giá nguyên nhiên vật liệu trên thị trường thế giới, tác động của đầu tư tăng cao và xu hướng tiêu dùng trong nước đến nhập khẩu hàng hóa, và hiệu ứng chuyển hướng thương mại của các FTA được ký kết (tăng mức độ tập trung nhập khẩu tại khu vực thị trường đã ký FTA) cùng các nguyên nhân khác… nên việc dự báo và xác định các chỉ tiêu cụ thể về qui mô, tốc độ nhập khẩu và cơ cấu nhập khẩu hàng hóa trong Chiến lược phát triển XNK thời kỳ 2001 – 2010 chưa sát với thực tế. Bảng 3 dưới đây cho thấy, hầu hết các chỉ tiêu về qui mô, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu, cơ cấu hàng hóa nhập khẩu và thị trường nhập khẩu không phù h ợp với mục tiêu Chiến lược đã đề ra cho cả 11 - Kinh tế thế giới sau kỳ suy giảm 1996 – 2001 (tăng trưởng bình quân 1,23%/năm) đã bước sang kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2002 – 2008 (tăng trưởng bình quân 9,7%/năm tính theo giá thực tế). Từ năm 2009, kinh tế thế giới lại bước vào kỳ suy thoái (năm 2009 tăng trưởng -5,4% so với năm 2008), dự ước sẽ phục hồi chậm và sau năm 2013 mới chuyển sang kỳ tăng trưởng mới. - Kinh tế Việt Nam sau kỳ suy giảm 1996 – 2000 (tăng trưởng bình quân 6,9%/năm) đã bước vào kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001 – 2007 (tăng bình quân 7,75%/năm, theo giá cố định 1994). 21 thời kỳ Chiến lược 2001 – 2010 và cho từng giai đoạn (2001 – 2005 và 2006 – 2010). Về tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa , thời kỳ 2001 – 2010, kết quả thực hiện đạt bình quân 18,2%/năm (mục tiêu là 14%/năm), riêng giai đoạn 2001 – 2005 đạt bình quân 18,65%/năm (mục tiêu là 15%/năm), và giai đoạn 2006 – 2010 đạt bình quân 17,7%/năm (mục tiêu là 13%/năm). Về qui mô kim ngạch nhập khẩu năm 2005 đạt 36,76 tỉ USD (mục tiêu là 29,20), năm 2010 ước đạt 83 tỉ USD (mục tiêu là 53,7 tỉ USD). Bảng 3: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2001 – 2010 Chỉ tiêu So sánh mức thực hiện với mục tiêu chiến lược 1. Tốc độ tăng trưởng KNNK bình quân năm (%) TH: 2001 – 2010: 18,65% Mục tiêu CL: 14% Chưa đạt mục tiêu TH: 2001 – 2005: 18,65% Mục tiêu CL: 15% TH: 2006 – 2010: 17,7% Mục tiêu CL: 13% 2. KNNK (tỉ USD) TH: 2000 TH: 2005 Mục tiêu CL2005 TH: 2008 Ước TH: 2010 Mục tiêu CL2010 Vượt mức, chưa đạt mục tiêu 15,63 36,76 29,20 80,71 83,0 53,70 3. Cơ cấu hàng NK(%) 100 100 100 100 100 100 Chưa đạt mục tiêu - Nhóm máy móc thiết bị và công nghệ 27 18,9 16,9 16-17 (8T) 36 - Nhóm nguyên nhiên vật liệu 69 58,3 56,4 65 – 66 (8T) 60 - Nhóm hàng tiêu dùng cần kiểm soát và hạn chế nhập khẩu 4 22,8 26,7 17 – 18 (8T) 4 Chưa đạt mục tiêu 22 4. Cơ cấu thị trường NK (%) 100 100 100 100 100 100 Chưa đạt mục tiêu - Châu Á 80% 81 - 82,2 78 (6T) 55% - Các thị trường cung ứng công nghệ nguồn (Nhật, EU, Bắc Mỹ) 26% 20,5 (7.525) - 20,2 (16320, 6) 22 (6T) 40% 5. Nhập siêu (tr USD) 1.147 4.313 800 17.000 14.000 Xuất siêu 1 tỉ USD Chưa đạt mục tiêu II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN XNK THỜI KỲ 2001 – 2010 1. Những thành tựu chủ yếu (1) Xuất khẩu hàng hóa đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 2,4 lần tốc độ tăng trưởng GDP, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, tạo việc làm và nâng cao thu nhập của hàng triệu lao động Thời kỳ Chiến lược 2001 – 2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân 17,3%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP trên 2,4 lần (GDP tăng bình quân 7,21%/năm), vượt mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010 (tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp 2 lần nhịp độ tăng trưởng GDP), và vượt chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa đã đề ra trong Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 (tăng trưởng bình quân 15%/năm) Nước ta có vị thế ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hóa toàn cầu. Tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của ta trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa thế giới đã tăng từ 0,24% trong năm 2001 lên 0,46% trong trong năm 2010. Đến nay, nhóm hàng chế biến xuất khẩu của ta đã chiếm trên 0,28% thị phần toàn cầu, nhóm hàng thô và sơ chế chiếm trên 0,72% (riêng điều nhân chiếm khoảng 50%, hồ tiêu chiếm khoảng 45%, cà phê chiếm 16 – 18%, cao su thiên nhiên 23 chiếm 8 – 10%, chè chiếm 5 – 6%, thủy sản chiếm 5 – 6%, đồ gỗ chiếm 2 – 3%, gạo chiếm 12 – 18%). Xuất khẩu hàng hóa góp phần chính yếu vào tăng trưởng GDP, trở thành động lực chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong 10 năm qua. Trong phần tổng cầu đóng góp cho tăng trưởng GDP, trước năm 2005, mức đóng góp của xuất khẩu hàng hóa là một số âm (năm 2005: -58,1%), trong giai đoạn 2006 – 2008 đóng góp của xuất khẩu hàng hóa luôn là một số dương (năm 2006: 99,9%, năm 2007: 68,7%, năm 2008: 50,2%). Xuất khẩu tiếp tục là một động lực tăng trưởng của khu vực kinh tế nông nghiệp nông thôn, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế của khu vực này theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hướng về xuất khẩu. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt 8,5 tỉ USD, gấp 2,1 lần năm 2001 (4,0 tỉ USD), đến năm 2010, ước đạt trên 16 tỉ USD (mục tiêu Chiến lược: 9 – 10 tỉ USD). Xuất khẩu cũng là động lực của khu vực công nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp thời kỳ 2001 – 2010 bình quân đạt 15%/năm, giá trị gia tăng công nghiệp luôn tăng nhanh hơn tốc độ tăng GDP khoảng 1,4 lần, đạt nhịp độ tăng trưởng 11%/năm (mục tiêu Chiến lược là 10 – 10,5%/năm). Tỉ trọng hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ 71% trong năm 2000 lên 76,3% trong năm 2007 và ước chiếm gần 80% trong năm 2010 (mục tiêu Chiến lược 70 - 75%). Trong điều kiện mô hình tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào tăng trưởng đầu tư, xuất khẩu hàng hóa trở thành kênh dẫn quan trọng trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế. Khoảng 55% tổng số dự án và trên 50% tổng số vốn FDI đã được thu hút vào các ngành công nghiệp chế biến chế tạo xuất khẩu. Số doanh nghiệp FDI trực tiếp tham gia xuất khẩu tăng nhanh từ 1.854 doanh nghiệp trong năm 2003 lên 3.272 doanh nghiệp trong năm 2007 và khoảng 3500 doanh nghiệp trong năm 2010, chiếm gần 20% tổng số doanh nghiệp xuất khẩu cả nước. Các doanh nghiệp FDI là chủ thể chính, có vai trò ngày càng lớn trong xuất khẩu hàng hóa, tỉ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch 24 xuất khẩu đã tăng từ 45,2% trong năm 2001 lên 57,5% trong năm 2007 và khoảng 47% trong năm 2010. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân đầu người đã tăng từ mức 175 USD trong năm 2000 lên 750 USD trong năm 2010, rút ngắn dần khoảng cách chênh lệch so với một số nước trong khu vực. Tăng trưởng xuất khẩu đã góp phần tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động, nâng cao đời sống của nhân dân. Trong điều kiện xuất khẩu dịch vụ chưa phát triển, xuất khẩu hàng hóa là thành phần đóng góp chính tạo lập và hạn chế thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của nền kinh tế. 2) Cơ cấu xuất khẩu đã có xu hướng chuyển dịch tích cực, gắn chuyển dịch cơ cấu mặt hàng với cơ cấu thị trường xuất khẩu, xây dựng được nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu Tỉ trọng của nhóm hàng chế biến, chế tạo đã tăng được 8,3 điểm phần trăm trong 10 năm qua, từ 46,7% trong năm 2001 lên 55% trong năm 2010, tỉ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế đã giảm từ 53,3% xuống 45% trong thời gian tương ứng; riêng tỉ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản đã giảm từ 29,5% xuống 22,5%. Năm 2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD (gồm dầu thô, dệt may, giày dép, thủy sản), với tổng giá trị 8,4 tỉ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17 mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thủy sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt thép và sản phẩm thép, dệt may, giày dép, đá quí và kim loại quí, máy vi tính và linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải), với tổng giá trị khoảng 45 tỉ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực đã vượt mục tiêu Chiến lược đề ra, hoạt động xuất khẩu đã cơ bản theo định hướng Chiến lược thị trường xuất khẩu từng mặt hàng. Thủy sản đã thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt 4,2 tỉ USD và năm 2010 ước đạt 4,8 tỉ USD (mục tiêu Chiến lược là 3,5 tỉ USD), tỉ trọng của 4 thị trường xuất khẩu chính (Nhật Bản, Mỹ EU, Trung Quốc) đã giảm từ 79% trong năm 2000 xuống 62% năm 2008 25 và dưới 60% trong năm 2010. Chúng ta đã bảo đảm vững chắc an ninh lương thực và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu gạo từ 0,62 tỉ USD trong năm 2001 lên 1,4 tỉ USD trong năm 2005 và vượt mức 3 tỉ USD trong năm 2010 (mục tiêu Chiến lược là khoảng 1 tỉ USD), thị trường Châu Á vẫn chiếm khoảng 90%. Dệt may và giày dép đã thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng chế biến, chế tạo. Tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may đạt bình quân 18,2%/năm trong 10 năm qua (mục tiêu Chiến lược là 14%/năm), năm 2010 kim ngạch có thể đạt 10,5 tỉ USD, tăng 16% so với năm 2009, vượt xa mục tiêu Chiến lược đề ra 7,5 tỉ USD, tạo việc làm cho 2,5 triệu lao động. Tăng trưởng xuất khẩu giày dép tuy chỉ đạt bình quân 13,0%/năm trong 10 năm qua (mục tiêu Chiến lược là 15 – 16%/năm), nhưng qui mô kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt 5 tỉ USD, gấp 3,4 lần năm 2000. Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hai mặt hàng dệt may và giày dép ước đạt 15,5 tỉ USD, chiếm 21,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (chỉ tiêu này của năm 2000 là 23,2%); EU và Hoa Kỳ trở thành thị trường xuất khẩu chính 2 mặt hàng này (chiếm khoảng 75% kim ngạch xuất khẩu giày dép và khoảng trên 60% kim ngạch xuất khẩu dệt may). Về cơ bản, ta đã thực hiện thành công một số khâu đột phá Chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Trong 5 năm đầu thực hiện Chiến lược (2001 – 2005), các ngành sản phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn và công nghệ trung bình đã được chú trọng phát triển như: thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hóa phẩm tiêu đùng, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí, điện. Xuất khẩu các nhóm hàng này đã tăng trưởng bình quân 21%/năm, kim ngạch tăng từ 1,8 tỉ USD trong năm 2000 lên đạt trên 10 tỉ USD vào năm 2009, và năm 2010 dự ước đạt khoảng 12 tỉ USD, vượt trên 2 lần mục tiêu Chiến lược đã đề ra (4,5 – 5 tỉ USD vào năm 2010). Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng thủ công mỹ nghệ (mây, tre, cói, thảm, gốm sứ, đá và kim loại quí) đã tăng trưởng bình quân 23%/năm, kim ngạch tăng từ 377 triệu USD trong năm 2000 lên 3.177 triệu USD trong năm 2009 và khoảng gần 4,0 tỉ USD trong năm 2010. Xuất khẩu sản phẩm gỗ tăng trưởng bình quân 26%/năm, kim ngạch tăng từ 270 triệu USD trong năm 2000 lên 2,6 tỉ USD trong năm 2009 và ước đạt 3,2 tỉ USD trong năm 201. Xuất khẩu sản phẩm nhựa tăng bình quân 25%/năm, kim ngạch tăng từ 122 triệu 26 USD trong năm 2000 lên xấp xỉ 1 tỉ USD trong năm 2009 và dự ước vượt 1,1 tỉ USD vào năm 2010. Cơ cấu thị trường xuất khẩu đã có sự chuyển dịch đáng kể, về cơ bản phù hợp với định hướng điều chỉnh Chiến lược thị trường, hình thành cơ cấu hợp lý. Tỉ trọng của thị trường Châu Á trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 60,6% trong năm 2001 xuống 50% trong năm 2005 và duy trì ở mức 45,5% - 48% trong giai đoạn 2006 – 2010, cơ bản phù hợp với mục tiêu đề ra là 45%. Riêng tỉ trọng của Nhật Bản đã giảm dần từ 16,7% trong năm 2001 xuống 13,3% trong năm 2005 và khoảng 10% trong năm 2010 (Chiến lược là 17 – 18%); tỉ trọng của thị trường Trung Quốc cộng Đài Loan và Hồng Kông giảm từ 15,8% xuống 13,9% và còn khoảng 12% trong thời gian tương ứng (mục tiêu Chiến lược là 14 – 16%), tỉ trọng của thị trường ASEAN tương đối ổn định ở mức 17 – 18% (mục tiêu Chiến lược là 15 – 16%). Tỉ trọng của thị trường Châu Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh trong giai đoạn 2001 – 2005, từ 9,3% năm 2001 lên 22% trong năm 2005 và tương đối ổn định ở mức 22,5 – 23% trong giai đoạn 2006 – 2010, phù hợp với mục tiêu đề ra là 24%. Chúng ta đã thực hiện thành công khâu đột phá về thị trường xuất khẩu là tăng nhanh tỉ trọng của thị trường Hoa Kỳ từ 7,1% trong năm 2001 lên 18,2% trong năm 2005 và duy trì ở mức 19 – 20% trong giai đoạn 2006 – 2010 (mục tiêu Chiến lược là 15 – 20%). 3) Phát triển xuất khẩu hàng hóa đã từng bước gắn kết với phát triển xuất khẩu dịch vụ, tạo sự bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau, xuất khẩu tại chỗ bước đầu phát triển thu ngoại tệ đáng kể, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 tăng trưởng bình quân 10%/năm, nhanh hơn tốc độ tăng trưởng GDP 1,4 lần. Giá trị xuất khẩu dịch vụ đã tăng từ 2,7 tỉ USD trong năm 2000 lên 4,2 tỉ USD trong năm 2005 (mục tiêu Chiến lược là 4 tỉ USD), đạt mức 7,5 tỉ USD trong năm 2008. Trong điều kiện khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, năm 2009 xuất khẩu dịch vụ giảm 18,1% so với năm 2008, kim ngạch chỉ đạt 5,76 tỉ USD, nhưng năm 2010 đã phục hồi tốc độ tăng trưởng và đạt kim ngạch khoảng 7,0 tỉ USD tăng 21% so với năm 2009. Trong cơ cấu xuất khẩu dịch vụ năm 2008, dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động chiếm 56%, dịch vụ hàng 27 không chiếm 19%, dịch vụ hàng hải chiếm 15%. Trong 10 năm qua, xuất khẩu dịch vụ theo phương thức tiêu dùng ở nước ngoài là chủ yếu, chiếm khoảng 56% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, xuất khẩu theo phương thức cung cấp qua biên giới chiếm khoảng 39%, xuất khẩu theo phương thức hiện diện thương mại và di chuyển thể nhân chiếm khoảng 5%. Sự phát triển xuất nhập khẩu dịch vụ đã tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hóa, thúc đẩy xuất khẩu tại chỗ hàng hóa Việt Nam thông qua du lịch. Chi tiêu cho mua sắm hàng hóa và ăn uống chiếm khoảng 23 – 25% tổng chi tiêu bình quân cho một lượt khách du lịch quốc tế tại Việt Nam, riêng chi tiêu cho mua hàng hóa chiếm khoảng 16 – 17%. Giá trị xuất khẩu hàng hóa tại chỗ thông qua du lịch đã tăng liên tục từ khoảng 215 triệu USD trong năm 2001 lên khoảng 470 triệu USD trong năm 2007, đạt gần 500 triệu USD trong năm 2008 và 450 triệu USD trong năm 2009, ước đạt khoảng 500 triệu USD năm 2010. Trong thành phần tổng cầu đóng góp cho tăng trưởng GDP trước năm 2006, mức đóng góp của xuất khẩu dịch vụ luôn là một số âm (năm 2005: -7,6%) nhưng từ năm 2006 đến năm 2008, đóng góp của xuất khẩu dịch vụ luôn là số dương (năm 2006: 12,8%, năm 2007: 9,1% và năm 2008: 6,3%). 4) Nhập khẩu hàng hóa đã chú trọng nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Phần chủ yếu trong tổng giá trị nhập khẩu hàng năm là các nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2001 – 2005, tỉ trọng của nhóm hàng này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 40% GDP; trong giai đoạn 2006 – 2010 chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 60% GDP (riêng năm 2008, các chỉ số tương ứng là 74,7% và 65,1%). Tỉ trọng của nhóm hàng tiêu dùng cần kiểm soát và hạn chế nhập khẩu tuy tăng mạnh từ 22,8% trong năm 2005 lên 26,7% trong 28 năm 2008 nhưng sau đó đã giảm dần còn khoảng 18 – 19% trong hai năm 2009 – 2010. Năm 2008 – 2010, tỉ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế chiếm khoảng 25 – 26%, tỉ trọng nhóm hàng chế biến và tinh chế chiếm khoảng 74 – 75% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. Nhập siêu tuy tăng cao trong các năm 2006 – 2008, nhưng sau đó đã được kiềm chế, tỉ lệ giá trị nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 29,1% trong năm 2008 còn 22,5% trong năm 2009 và khoảng 15% trong năm 2010, phần chủ yếu trong cơ cấu nhập siêu mang tính tích cực, tạo nền tảng cho phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng xuất khẩu giúp giảm bớt giá trị nhập siêu trong thời gian tới. 5) Hội nhập quốc tế đã tác động tích cực, nhiều mặt đến xuất nhập khẩu. Đến nay, chúng ta đã tham gia ký kết gần 12 nghìn điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 178 nước, có quan hệ thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ, đã ký kết 88 Hiệp định thương mại song phương, 7 Hiệp định thiết lập khu vực thương mại tự do (FTA) với 15 nước, 54 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và 61 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương. Trong thời kỳ Chiến lược 2001 – 2010, cùng với việc ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA), gia nhập WTO, Việt Nam đã tiếp tục hội nhập thương mại khu vực sâu rộng hơn trong khung khổ 6 FTA khu vực (AFTA, ACFTA, AKFTA, AJFTA, AANZFTA và AIFTA). Tỉ trọng thương mại hai chiều giữa Việt Nam với 15 nước đối tác đã có FTA chiếm gần 60% tổng giá trị thương mại quốc tế của Việt Nam, trong đó, chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 70% kim ngạch nhập khẩu . Nhờ hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, các rào cản thương mại đã giảm đáng kể nên hàng Việt Nam đã đã mở rộng được thị phần sang các thị trường lớn, tăng kim ngạch xuất khẩu. Từ sau năm 2007, nhờ hiệu ứng tích cực của việc gia nhập WTO, lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được cải thiện, dòng chảy FDI và FII vào Việt Nam tăng mạnh, sản lượng các ngành kinh tế theo định hướng xuất khẩu tăng, góp phần quan trọng vào tăng trưởng xuất khẩu, tăng trưởng GDP. Đến năm 2010, khu vực FDI chiếm trên 40% vốn đầu tư xã hội, 20% GDP, 45% giá rị SXCN, 47% kim ngạch xuất khẩu và 44% kim ngạch nhập khẩu hàng hóa. 29 Ngay sau khi gia nhập WTO, một số mặt hàng xuất khẩu đã có kim ngạch tăng đột biến trong năm 2007 như sản phẩm nhựa tăng 56,9%, dệt may tăng 32,1%, túi xách và ví tăng 25%; kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng như dầu thô tăng 27% trong năm 2007 và 30,6% trong năm 2008. Hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo điều kiện quan trọng để hạn chế những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kiềm chế sự sụt giảm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ở mức thấp hơn mức sụt giảm trung bình của thế giới trong năm 2009 (giảm 8,9% so với năm 2008), phục hồi đà tăng trưởng xuất khẩu ở mức khoảng 22,4% trong năm 2010. Thị trường xuất khẩu trở nên đa dạng hơn, thúc đẩy đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu, hàng hóa Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường trọng điểm, xuất khẩu tăng trên hầu hết các thị trường và ít có biểu hiện chuyển hướng thương mại dưới tác động của các FTA đã tham gia. Một số mặt hàng được hưởng lợi từ các thỏa thuận FTA đã có bước tăng trưởng xuất khẩu đột biến như xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc tăng 84% trong năm 2009 và tăng khoảng 70% trong năm 2010. Nguyên nhân của những thành tựu: Đạt được những thành quả nêu trên là nhờ chủ trương phát triển xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế đúng đắn, kịp thời của Đảng, sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành năng động của Chính phủ và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, của các cấp, các ngành và của toàn dân. Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã có nhiều chủ trương, quyết sách và biện pháp điều hành tích cực để ổn định kinh tế vĩ mô, đẩy mạnh xuất khẩu, kềm chế nhập siêu, ngăn chặn sự suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội. Chính phủ đã tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành quyết liệt trong tất cả các cấp, các ngành nhằm thực hiện tốt nhất mục tiêu phát triển xuất nhập khẩu. Các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện tốt các chính sách cụ thể nhàm kích thích kinh tế như hỗ trợ lãi suất tín dụng, miễn giảm thuế, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng… Bộ Công Thương đã có những biện pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt lĩnh vực hoạt động xuất nhập khẩu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Các doanh nghiệp, Hiệp hội ngành hàng cũng đã có những nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh, tận 30 dụng các cơ hội thị trường nhờ hội nhập WTO và hội nhập các FTA mở ra để đẩy mạnh xuất khẩu… Đạt được những thành quả về phát triển xuất nhập khẩu trong 10 năm qua cũng nhờ những điều kiện thuận lợi của tình hình kinh tế trong nước và thế giới. Kinh tế thế giới sau kỳ suy giảm 1996 – 2001 (tăng trưởng bình quân 1,23%/năm tính theo giá thực tế) đã bước sang kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2002 – 2008 (tăng trưởng bình quân 9,7%/năm tính theo giá thực tế). Kinh tế Việt Nam sau kỳ suy giảm trong giai đoạn 1996 – 2000 (tăng trưởng bình quân 6,9%/năm, so với giai đoạn 1991 – 1995 là 8,2%/năm) đã bước vào kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2001 – 2007 (tăng trưởng bình quân 7,75%/năm theo giá cố định 1994). Tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao, kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, đầu tư tăng cao, cùng các điều kiện thuận lợi của môi trường kinh doanh quốc tế, nhất là khi Việt Nam hội nhập sâu rộng theo cam kết WTO và các FTA… đã tạo cơ sở quan trọng cho phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa trong các năm 2001 – 2008. Trong thời kỳ tăng trưởng cao, sau khi đạt tốc độ tăng trưởng 8,4% trong năm 2005 và 8,2% trong năm 2006, GDP đã tăng đạt đỉnh ở mức 8,5% trong năm 2007 (ngay sau khi gia nhập WTO) đã tạo đà cho tăng trưởng xuất và nhập khẩu đạt đỉnh vào năm 2008 (xuất khẩu tăng 29,1%, nhập khẩu tăng 28,6%). Các năm 2008 – 2010 là giai đoạn rất khó khăn do biến động mạnh của kinh tế thế giới bước vào thời kỳ suy thoái (năm 2009 tăng trưởng kinh tế toàn cầu ở mức -5,4%, năm 2010 bắt đầu phục hồi chậm, tăng trưởng 2,4%). Do tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn đạt mức khá cao (năm 2008 đạt 6,23%, năm 2009 đạt 5,3% và năm 2010 dự ước đạt 6,7%), đã tạo điều kiện kiềm chế giảm tốc xuất khẩu (năm 2009 xuất khẩu giảm 8,9% so với năm 2008. Trong khi xuất khẩu toàn cầu giảm 22% so với năm 2008). Kết quả tăng trưởng xuất khẩu cao trong các năm 2007 – 2008 cũng có phần chủ yếu là nhờ giá nguyên nhiên vật liệu trên thị trường thế giới tăng cao. Trong giai đoạn này, nhóm mặt hàng thô và sơ chế chiếm 42 – 44% tổng kim ngạch xuất khẩu, riêng 8 mặt hàng có mức giá tăng cao nhât (dầu thô, than đá, hạt tiêu, cà phê, cao su, gạo, hạt điều, chè) chiếm 30 – 31% tổng kim ngạch xuất khẩu. Một số mặt hàng như than đá, hạt tiêu, gạo… giá năm 2008 tăng gấp 2 31 lần so với năm 2006; giá mặt hàng dầu thô năm 2008 tăng gấp 1,5 lần so với năm 2006, giá mặt hàng cà phê năm 2008 tăng gấp 1,63 lần so với năm 2006, giá hạt điều năm 2008 tăng gấp 1,75 lần so với năm 2007… Nhờ hội nhập quốc tế sâu rộng, nhất là từ khi gia nhập WTO hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng Việt Nam giảm mạnh đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu. Xuất khẩu một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhờ được tiếp cận thị trường thuận lợi hơn. 2. Những hạn chế, yếu kém Bên cạnh những thành tựu, xuất nhập khẩu trong 10 năm qua có những hạn chế, yếu kém. Nhiều mục tiêu của Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 và của Đề án phát triển xuất khẩu 2006 – 2010 không phù hợp với thực tiễn, chưa được thực hiện. Trong đó, phần lớn các chỉ tiêu về chất lượng tăng trưởng và phát triển xuất nhập khẩu chưa hoàn thành. Những hạn chế, yếu kém chủ yếu, gồm: (1) Qui mô xuất khẩu còn nhỏ, phát triển xuất khẩu vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp, chi phí xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu phản ứng chậm với các biến động của thị trường thế giới, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, hiện đại. Giai đoạn 2006 – 2010, tăng trưởng xuất khẩu bình quân 17,0%/năm, thấp hơn mục tiêu là 17,5%/năm. Qui mô xuất khẩu năm 2010 đạt khoảng 71 tỉ USD, chưa đạt mục tiêu đề ra là 72,5 tỉ USD. Đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bằng khoảng 66% GDP, nhưng kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người mới đạt khoảng 750 USD chỉ bằng 41% mức bình quân của thế giới là (khoảng 1.840 USD), chưa đạt mục tiêu Chiến lược đề ra cho năm 2010 là 770 – 780 USD. Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hóa còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Hàm lượng kỹ thuật công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu còn thấp, tăng chậm. Tỉ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao và trung - cao chỉ tăng từ 7,1% trong năm 2000 lên 11,3% 32 trong năm 2005 và ước khoảng 14 – 15% trong năm 2010, còn lại là hàng công nghệ thấp và trung - thấp. Đến năm 2010, riêng nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8 – 9% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực (năm 2008, chỉ số này của Indonexia là 14%, Trung Quốc: 34%, Thái Lan: 30%, Hàn Quốc: 37%, Singapore: 57%, Malayxia: 58%). Khoảng 27% kim ngạch xuất khẩu là hàng công nghiệp chế tạo công nghệ thấp. Chi phí xuất khẩu cao gấp 1,7 lần mức trung bình của khu vực (năm 2007, chi phí xuất khẩu của Việt Nam là 701 USD/container 20 ft, mức trung bình của khu vực là 500 USD). Cơ cấu xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỉ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo tăng rất chậm từ 46,7% trong năm 2001 lên 50,7% trong năm 2005, 53,4% trong năm 2009, ước đạt 55% trong năm 2010 (bình quân mỗi năm chỉ tăng được gần 1 điểm phần trăm), thấp xa so với mục tiêu Chiến lược là 69% và mục tiêu của Đề án là 76,7%. Tỉ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế giảm rất chậm, từ 45,3% trong năm 2001 xuống 46,6% trong năm 2009 và ước còn 45% trong năm 2010, chưa đạt mục tiêu Chiến lược đề ra là 31% và mục tiêu Đề án là 23,3%. Riêng tỉ trọng của nhóm nguyên nhiên liệu không giảm mà lại tăng từ 23,9% trong năm 2001 lên 24,5% trong năm 2009, chưa đạt mục tiêu đề ra là giảm còn 9,6% vào năm 2010. Khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản là sản phẩm chưa qua chế biến. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu rất thấp. Giá trị tăng của hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu chỉ đạt khoảng 25 – 30%, hàng nông sản và khoáng sản xuất khẩu khoảng 50% (nếu tính giá trị gia tăng quốc gia, tức là phần giá trị tăng thêm người Việt Nam thực tế được hưởng thì tỉ lệ này còn thấp hơn, do các doanh nghiệp FDI chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu, và một phần không nhỏ giá trị gia tăng này được nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước). Ta chưa thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu. Hàng điện tử và tin học chưa thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng của nhóm sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, năm 2009 chỉ đạt kim ngạch 2,76 tỉ USD, năm 2010 ước đạt khoảng 3,2 tỉ USD, bằng khoảng 50% mục tiêu Chiến lược đề ra (6 – 7 tỉ USD). Hàng thực phẩm chế biến cũng chỉ đạt khoảng 300 triệu USD 33 trong năm 2010, bằng khoảng 42% mục tiêu Chiến lược (700 triệu USD). Trong nhóm hàng chế biến, chế tạo xuất khẩu, tỉ trọng của hàng gia công còn chiếm phần lớn, tỉ lệ nội địa hóa rất thấp. Một số ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phụ thuộc phần lớn vào nguyên vật liệu, phụ liệu của nước ngoài: sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng 75%, sản phẩm dệt may và da giày khoảng 70%, sản phẩm nhựa khoảng 55%, sản phẩm hóa chất khoảng 80%, sản phẩm thép khoảng 50%. Giá trị ngoại tệ thực thu của phần lớn các ngành sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu chỉ khoảng 20 - 30% doanh thu xuất khẩu; một số ngành rất thấp như điện tử, tin học chỉ khoảng 5%. Qui mô xuất khẩu dịch vụ còn nhỏ, tăng trưởng chậm. Thời kỳ 2001 – 2010, tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ chỉ bình quân 10%/năm, đạt 66% mục tiêu Chiến lược (15%/năm). Trong năm 2009 và 2010 xuất khẩu dịch vụ đã giảm mạnh so với năm 2008 (năm 2009 đạt 5,76 tỉ USD và năm 2010 ước đạt 7 tỉ USD). Trong đó, các sản phẩm dịch vụ có giá trị gia tăng cao chỉ chiếm 5 – 6%. (2) nhập khẩu hàng hóa và nhập siêu tăng cao tác động bất lợi đến các cân đối kinh tế vĩ mô, chưa hướng mạnh vào phần cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chưa cải thiện được nhiều tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành, ít tiếp cận được với công nghệ nguồn. Trong 10 năm qua, tăng trưởng nhập khẩu bình quân 18,2%/năm, không đạt mục tiêu Chiến lược về giảm nhập khẩu xuống 14%/năm. Riêng giai đoạn 2001 – 2005, tăng trưởng nhập khẩu bình quân 18,65%/năm (mục tiêu là 15%/năm) và giai đoạn 2006 – 2010 tăng 17,7%/năm (mục tiêu là 13%/năm). Kim ngạch nhập khẩu đã tăng nhanh từ 15,6 tỉ USD trong năm 2000 lên 36,7 tỉ USD trong năm 2005 (cao gấp 1,25 lần mục tiêu là 29,2 tỉ USD) và ước đạt 83 tỉ USD trong năm 2010, cao gấp 1,54 lần mục tiêu Chiến lược (53,7 tỉ USD). Nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa cao gấp 1,05 lần nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa, nhập siêu tăng cao trong thời kỳ 2006 – 2010, không đạt được mục tiêu cân bằng cán cân thương mại vào năm 2008 để xuất siêu khoảng 1 tỉ USD vào năm 2010. Nhập 34 siêu tăng đột biến ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, năm 2008 giá trị nhập siêu tới 18 tỉ USD, tỉ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu lên tới 29,1%. Năm 2010 giá trị nhập siêu 12 tỉ USD, tỉ lệ nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu còn khoảng 16,9%. Nhập khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 tăng trưởng bình quân 20,1%/năm, cao gấp 1,9 lần mục tiêu Chiến lược (11%/năm) và gấp 2,1 lần tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ. Giá trị nhập khẩu dịch vụ tăng từ 1,2 tỉ USD trong năm 2000 lên 6,83 tỉ USD trong năm 2009 và ước khoảng 7,5 tỉ USD trong năm 2010. Nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đều thấp hơn nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu, dẫn đến “thâm hụt kép” cả cán cân thương mại hàng hóa và cán cân thu – chi dịch vụ, là thành tố chính làm thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai, tác động tiêu cực đến các cân đối kinh tế vĩ mô. Thời kỳ 2001 – 2010, tổng giá trị nhập siêu là 79,63 tỉ USD, bằng 21,0% tổng kim ngạch xuất khẩu cả thời kỳ, tổng giá trị thâm hụt cán cân dịch vụ là 7,06 tỉ USD, bằng 14,0% tổng giá trị xuất khẩu dịch vụ cả thời kỳ, tổng giá trị thâm hụt cán cân vãng lai khoảng 36 tỉ USD, bằng khoảng 6% GDP, riêng năm 2008, cán cân vãng lai thâm hụt 12,1 tỉ USD, bằng 11,8% GDP. Cơ cấu nhập khẩu còn một số hạn chế, bất hợp lý, chưa chú trọng đáp ứng yêu cầu tăng cường phần cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỉ trọng của nhóm máy móc, thiết bị, phương tiện và công nghệ - yếu tố hàng đầu để tăng năng lực sản xuất và hình thành sức cạnh tranh của sản phẩm – lại có xu hướng giảm liên tục từ 25,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của năm 2003 xuống 14,7% trong năm 2006 và dao động ở mức 17 – 18% trong giai đoạn 2007 – 2010. Trong khi Bắc Mỹ và EU là những thị trường “nguồn” của công nghệ cao, thiết bị hiện đại, có tác động lớn đến sự đổi mới kỹ thuật trong nước thì ta lại xuất siêu, ngược lại chúng ta lại nhập siêu rất lớn từ khu vực thị trường Châu Á, đặc biệt từ Trung Quốc là thị trường gần, mở cửa, giao lưu sớm, ít rào cản thương mại nhưng phần lớn là công nghệ thấp. (3) Sự phát triển thị trường ngoài nước chủ yếu theo chiều rộng, chưa hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu, chất lượng thông tin dự báo Chiến lược thị trường quốc tế còn yếu kém, chưa 35 thực hiện thành công một số bước điều chỉnh Chiến lược thị trường xuất, nhập khẩu. Hàng Việt Nam đã được xuất khẩu sang trên 220 thị trường khắp các châu lục trên toàn cầu, nhưng trên 80% lượng hàng hóa vẫn xuất FOB và nhập CIF. Kết cấu hạ tầng và dịch vụ logicstics chưa phát triển nên phần lớn hàng xuất khẩu chưa thể xuất trực tiếp sang thị trường Bắc Mỹ, Châu Âu mà vẫn phải quá cảng qua Hồng Kông, Singapore. Đối với một số thị trường, hàng xuất khẩu vẫn còn phải qua trung gian. Chỉ mới có một tỉ lệ nhỏ hàng xuất khẩu được tiêu thụ qua mạng lưới phân phối trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nhập khẩu. Mức độ tham gia hệ thống phân phối toàn cầu của hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế . Một số ngành hàng nông, lâm, thủy sản và công nghiệp chế biến xuất khẩu tuy đã có sự tham gia vào các mạng sản xuất, các chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng mô hình tổng quát vẫn là qui mô lớn, nấc thang giá trị thấp và hiệu quả thấp. Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam mới tham gia được vào các phân khúc sản xuất gia công lắp ráp là các khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Có rất ít doanh nghiệp tham gia được vào khâu thiết kế, nghiên cứu và phát triển, phân phối ở thị trường ngoài là những khâu mang lại giá trị gia tăng cao. Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để phát triển kinh doanh ngoài biên giới quốc gia mới ở giai đoạn khởi đầu, khả năng tận dung những cơ hội phát triển mới và phát triển thị trường xuất khẩu theo chiều sâu do toàn cầu hóa, hội nhập và tham gia các FTA mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Công tác dự báo Chiến lược thị trường quốc tế chưa được chú trọng đầu tư đúng mức, chất lượng thông tin và kết quả dự báo Chiến lược thị trường phục vụ chỉ đạo điều hành xuất nhập khẩu của Chính phủ còn thấp. Sự hiểu biết về thị trường ngoài nước còn hạn chế. Tư duy Chiến lược kinh tế, kinh doanh toàn cầu và trình độ ngoại ngữ của các doanh nhân Việt Nam , của các nhà quản lý và đội ngũ cán bộ tham gia đoàn đàm phán mở cửa thị trường ngoài nước còn hạn chế. Nhà nước chưa cung cấp được thông tin đầy đủ, kịp thời cho các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp còn ỷ nại vào Nhà 36 nước, thụ động chờ đợi khách hàng, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Việc điều chỉnh cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu chưa đạt được mục tiêu mong đợi. Chưa sử dụng các Hiệp định thương mại tự do (FTA) làm công cụ hữu hiệu để thực hiện mục tiêu điều chỉnh Chiến lược thị trường quốc tế. Việc ký kết tham gia 6 FTA với 15 nước trong khu vực đã tạo xu hướng tăng mức độ tập trung thương mại của Việt Nam với các đối tác ở Châu Á và Châu Đại Dương, trái ngược với định hướng Chiến lược điều chỉnh cơ cấu thị trường quốc tế nhằm tăng tỉ trọng của khu vực thị trường Châu Âu, giảm tỉ trọng của thị trường Châu Á và Châu Đại Dương. Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu. Tỉ trọng của khu vực thị trường Châu Âu đã giảm liên tục từ 25,3% trong năm 2001 xuống 18% trong năm 2005 và ở mức 20 – 22% trong giai đoạn 2008 – 2010 (chưa đạt mục tiêu Chiến lược là 23%); tỉ trọng của thị trường Châu Á có xu hướng tăng từ 45,4% trong năm 2006 lên 48% trong năm 2010 (mục tiêu là giả còn 45% vào năm 2010); tỉ trọng của thị trường Châu Đại Dương tăng từ 7,1% trong năm 2008 lên 7,5% trong năm 2010 (mục tiêu là giảm còn 5%). Trong cơ cấu thị trường nhập khẩu, tỉ trọng của khu vực thị trường Châu Á không giảm như mong muốn mà ngược lại tăng nhanh từ 60% trong năm 2000 lên 80 – 82% trong giai đoạn 2008 – 2010. Tỉ trọng của thị trường EU đã giảm mạnh từ 26 – 27% trong năm 2000 xuống 7,2 – 7,5% trong giai đoạn 2007 – 2010. Tỉ trọng nhập khẩu từ thị trường ASEAN đã có xu hướng giảm từ 27,9% trong năm 2006 xuống 20,1% vào năm 2009; nhưng tỉ trọng nhập khẩu từ 3 quốc gia Đông Bắc Á đã tăng mạnh từ 25,4% lên 39,4% trong thời gian tương ứng, riêng nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc đã tăng từ 16,4% lên 23,5%. (4) Hội nhập các FTA chưa có một Chiến lược tổng thể và lộ trình thống nhất, đồng bộ với Chiến lược phát triển XNK, chưa tận dụng hiệu quả cơ hội và điều kiện thuận lợi của hội nhập quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu Hội nhập các FTA còn mang tính bị động, bị lôi cuốn theo tình thế và yêu cầu chính trị, trong khi mức độ sẵn sàng và sự chuẩn bị của nền kinh tế nước ta chưa cao. Quan điểm và nhận thức về tham gia các FTA ở nước ta còn có sự khác nhau, chưa thống nhất; chưa có Chiến lược, bài bản rõ ràng khi tham gia các FTA. Chưa tạo được 37 các nỗ lực cao trong toàn xã hội để tận dụng tối đa các ưu đãi, các cơ hội từ tham gia các FTA để duy trì mức tăng trưởng xuất khẩu cao sang các thị trường đã ký FTA, hạn chế các tác động bất lợi của tự do hóa theo các cam kết FTA đối với thương mại, nhất là khi xảy ra khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Ta chưa chuẩn bị tốt các điều kiện cơ bản trong nước khi tham gia các FTA và chưa sử dụng được hiệu quả các FTA đã ký kết làm công cụ điều chính Chiến lược thị trường quốc tế, cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán vãng lai và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng chất lượng, hiệu quả, phát triển bền vững. Các lợi ích quốc gia thu được từ tham gia các FTA chưa tương xứng với tiềm năng, nhất là các tiềm năng về liên kết và hợp tác song phương. Đặc biệt là trong quan hệ FTA với Trung Quốc, ta đã bị thua thiệt ở cả chiều xuất và nhập khẩu, thị phần của hàng Việt Nam tại Trung Quốc đã giảm từ 0,54% trong năm 2004 xuống 0,38% trong năm 2008 và chỉ nhích lên 0,49% trong năm 2009; trong khi đó, thị phần của hàng Trung Quốc tại Việt Nam đã tăng nhanh từ 14,37% trong năm 2004 lên 23,5% trong năm 2009, gấp 1,63 lần sau 6 năm thực hiện EFH/ACFTA. Ta cũng chưa tận dụng tốt các cơ hội và điều kiện thương mại thuận lợi của việc gia nhập WTO, các ưu đãi từ các thỏa thuận khu vực (PTA) và các GSP mà các nước phát triển dành cho Việt Nam để đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sang thị trường Châu Âu, Bắc Mỹ. Năng lực và kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp thương mại, nhất là các vụ kiện chống bán phá giá đối với hàng Việt Nam từ các nước nhập khẩu, còn nhiều hạn chế. Việc xây dựng và sử dụng các TBT, SPS và các biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu vào thị trường trong nước chậm được triển khai, hiệu quả chưa cao. (5) Công tác quản lý Nhà nước đối với xuất nhập khẩu hàng hóa tuy đã có nhiều cải tiến nhưng còn một số hạn chế, thụ động, tính đồng bộ chưa cao Thể chế quản lý xuất nhập khẩu chưa đồng bộ và hoàn thiện. Hiệu năng của Nhà nước tuy đã được nâng lên nhưng chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý xuất nhập khẩu trong bối cảnh có nhiều biến động của thị trường thế giới khi thương mại nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn. Chất lượng quản trị quốc gia của Chính phủ 38 đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu nhìn chung còn thấp hơn so với các nước trong khu vực. Chưa có sự đồng bộ giữa Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu với các Chiến lược phát triển các ngành sản xuất, Chiến lược bảo hộ sản xuất trong nước, Chiến lược phát triển các ngành dịch vụ, Chiến lược hội nhập các FTA… Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa phương trong quản lý xuất nhập khẩu tuy đã có sự chuyển biến tích cực nhưng tính đồng bộ chưa cao, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp. Sự thu hút các Hiệp hội ngành hàng, cộng đồng các doanh nghiệp trong tham gia xây dựng các Chiến lược, chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu cũng như trong quá trình đàm phán ký kết các điều ước quốc tế về thương mại chưa được chú trọng, chưa được luật pháp hóa bằng các qui chế cụ thể. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém: Những hạn chế, yếu kém trên đây chủ yếu là do những nguyên nhân khách quan, nhưng cũng có phần do nguyên nhân chủ quan. Một là, về mặt chủ quan, do công tác dự báo Chiến lược tình hình quốc tế và trong nước còn những hạn chế nên phần lớn là các chỉ tiêu Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010 chưa phù hợp với thực tiễn, chưa bám sát tính chu kỳ của kinh tế thế giới và trong nước, chưa phù hợp với bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam. “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001 – 2010” được Bộ Thương mại xây dựng và công bố ngày 16/9/2000, thời điểm mà nền kinh tế thế giới và kinh tế Việt Nam vừa qua cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á và đang ở cuối của kỳ suy thoái để chuyển sang tăng trưởng mới, đã ảnh hưởng đến việc dự báo và xác định các chỉ tiêu cụ thể về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu. Hai là, về mặt khách quan, có 3 nhóm nguyên nhân chính: 1) trong thời kỳ Chiến lược 2001 – 2010, đã xảy ra tăng đột biến giá nguyên nhiên vật liệu các năm 2006 - 2008; tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay; sự lớn mạnh và sức ép cạnh tranh ngày càng lớn từ phía Trung Quốc. 2) Mô hình tăng trưởng nền kinh tế nói chung, tăng trưởng XNK của nước ta nói riêng có nhiều bất cập. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào đầu tư nhưng hiệu quả đầu tư thấp, hệ số ICOR có xu hướng ngày càng tăng, Đầu tư của nước ngoài có xu hướng chuyển dịch từ các 39 ngành công nghiệp chế biến chế tạo hàng xuất khẩu sang lĩnh vực kinh doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng dẫn đến sụt giảm nguồn hàng xuất khẩu ở cuối thời kỳ Chiến lược và gia tăng nhập khẩu vật liệu xây dựng cao cấp. Mô hình tăng trưởng kinh tế cũng dựa nhiều vào xuất khẩu nhưng xuất khẩu lại dựa nhiều vào nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu nên nhập khẩu tăng cao, nhập siêu tăng và chậm được cải thiện. Cơ cấu hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch, hàng công nghiệp chủ yếu là gia công cho nước ngoài, giá trị gia tăng thấp; hàng nông lâm, thủy sản chủ yếu là xuất sản phẩm thô, giá tị gia tăng chiếm tỉ trọng không cao. Tỉ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị và công nghệ có xu hướng giảm trong cơ cấu hàng nhập khẩu. Trong cấu trúc xuất nhập khẩu, tỉ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao rất thấp và chậm được nâng lên. Dịch vụ logistics và dịch vụ bảo hiểm hàng hóa XNK chậm phát triển, chưa đắp ứng kịp nhu cầu phát triển XNK. 3) Hội nhập WTO, hội nhập các FTA trong điều kiện, mức độ sẵn sàng của nền kinh tế còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế còn yếu kém nên ta chưa tận dụng tốt các ưu đãi để tăng xuất khẩu, trong khi phải mở cửa thị trường trong nước, hàng nước ngoài có sức cạnh tranh cao đã tăng thị phần tại Việt Nam, nhất là hàng của Trung Quốc và các đối tác đã ký FTA với Việt Nam./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdanh_gia_tinh_hinh_thuc_hien_chien_luoc_1153.pdf
Luận văn liên quan