Tăng vốn và đa dạng hoá nguồn vốn cho hoạt động khoa học, phát triển liên kết
khoa học với sản xuất thông qua việc phát triển hợp đồng nghiên cứu ký giữa doanh
nghiệp với các tổ chức khoa học. Đưa việc nghiên cứu ứng dụng chuyên ngành về công
ty hoặc doanh nghiệp lớn.
- Tổ chức đào tạo để tăng cường năng lực và trình độ kỹ thuật, công nghệ của lực
lượng lao động kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu và cán bộ quản lý, phải đào tạo trong viện
nghiên cứu, các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. kết hợp với thực
tiễn.
- Có chính sách lương thoả đáng đối với cán bộ nghiên cứu khoa học để đảm bảo
thu nhập cho họ khi tham gia nghiên cứu triển khai các dự án, có chế độ thưởng, phụ cấp
và phụ trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ có giá trị, ưu đãi và phụ
trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ có giá trị, ưu đãi nhân tài có
cống hiến quan trọng cả trong và ngoài nước, khuyến khích cán bộ khoa học làm việc ở
vùng sâu vùng xa, có chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tránh tình trạng chảy máu
chất xám.
59 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư quốc tế chuyển giao công nghệ quốc tế thông qua hoạt động FDI. thực trạng và giải pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việc tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách và các quy định pháp
lý về chuyển giao công nghệ cũng như cung cấp các thông tin về công nghệ cho các
doanh nghiệp còn rất hạn chế.
Trên thực tế, các doanh nghiệp rất khó có thể thu thập được các chiến lược phát
triển công nghệ quốc gia từ các cơ quan Nhà nước liên quan để từ đó đưa ra chiến lược
kinh doanh của mình. Việc quảng bá hình ảnh toàn diện về Việt Nam ra nước ngoài nhằm
thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ cũng còn nhiều hạn chế, các cuộc vận động đầu
tư ở nước ngoài để xúc tiến đầu tư chưa được thực hiện.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
37
4.2.2. Hạn chế về phía các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ
Phần lớn các hoạt động chuyển giao công nghệ qua FDI được thực hiện không
theo quy định của pháp luật
Trong số các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp phép thì hơn 73% số dự án có
nội dung chuyển giao công nghệ. Nhưng cho đến nay Bộ Khoa học và Công nghệ mới
chỉ phê duyệt hơn 300 hợp đồng chuyển giao công nghệ qua FDI – một tỉ lệ rất nhỏ trong
số các dự án chuyển giao công nghệ đã được thực thi tại Việt Nam. Có quá ít doanh
nghiệp quan tâm đến khía cạnh pháp lý trong chuyển giao công nghệ. Phần lớn trong các
hoạt động chuyển giao công nghệ, bên giao và bên nhận không lập và ký kết hợp đồng
chuyển giao công nghệ hoặc chỉ ký kết hợp đồng giữa bên giao và bên nhận mà chỉ có đại
diện của 2 bên, không thông qua cơ quan Nhà nước. Nhiều hợp đồng chuyển giao công
nghệ được ký kết giữa các bên là do bên nước ngoài soạn thảo sẵn với những điều khoản
có lợi cho bên giao, trách nhiệm của bên giao không rõ ràng và có những điều khoản trái
với quy định pháp luật của Việt Nam.
Nhiều doanh nghiệp nhận công nghệ thiếu các kỹ năng kinh nghiệm, thiếu các
kiến thức pháp luật cần thiết về công nghệ.
Thực tế đáng buồn là một dạng “văn hoá” trong chuyển giao công nghệ theo thông
lệ quốc tế vẫn chưa được hình thành ở Việt Nam. Trong khi rất ít các doanh nghiệp Việt
Nam được đào tạo về quản trị kinh doanh theo cơ chế mới, thiếu các kiến thức và kỹ năng
cần thiết về nghiệp vụ chuyển giao công nghệ thì hầu hết các doanh nghiệp lại ít để ý đến
vai trò của tư vấn trong chuyển giao công nghệ. Ở các nước phát triển, vị trí của nhà tư
vấn trong chuyển giao công nghệ đã được khẳng định. Họ đã và đang trở thành người bạn
đồng hành của doanh nghiệp ngay từ khi xuất hiện ý tưởng về chuyển giao công nghệ cho
tới khi kết thúc dự án, thậm chí ngay cả khi kết thúc dự án, vai trò của tư vấn vẫn rất quan
trọng khi có tranh chấp xảy ra. Do tham gia sâu vào hoạt động chuyển giao công nghệ
nên các nhà tư vấn có kiến thức và kinh nghiệm rất sâu rộng về hoạt động chuyển giao
công nghệ. Đáng tiếc là những việc trên chưa được các doanh nghiệp nước ta chú ý.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
38
Vấn đề sở hữu trí tuệ cũng là một tồn tại quan trọng nữa trong chuyển giao công
nghệ ở Việt Nam. Mặc dù nhà nước đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ 2005 nhưng hoạt
động sở hữu trí tuệ hiện chưa được phát triển mạnh, mạng lưới dịch vụ về sở hữu trí tuệ
còn rất mỏng, tình trạng vi phạm về quyền sở hữu trí tuệ ở nước ta vẫn còn tồn tại. Lấy ví
dụ trong công nghệ phần mềm, theo thống kê của công ty dữ liệu quốc tế (IDG) cho thấy,
trong năm 2004 tình trạng vi phạm bản quyền trên thế giới đã làm thế giới thiệt hại
khoảng 28,794 tỷ USD và Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ vi phạm bản quyền
cao. Thực tế là tổng số sáng chế được bảo hộ hiện nay tại Việt Nam chỉ hơn 5000 trong
tổng số khoảng 50 triệu sáng chế trên thế giới.
4.2.3. Hạn chế về công nghệ, chất lượng sản phẩm và thiết bị
Ngoài những mặt tích cực đã đạt được, vấn đề chuyển giao công nghệ, thiết bị và
chất lượng sản phẩm vẫn còn những tồn tại cần khắc phục. Thời gian đầu thực hiện đầu
tư nước ngoài, một số công nghệ lạc hậu mà nhiều nước trên thế giới đã loại bỏ đã được
nhập vào nước ta như công nghệ sản xuất các chất tẩy rửa có sử dụng chất tạo bọt bằng
DBSA, công nghệ sản xuất tấm lợp amiăng... Những dự án như vậy đã buộc phải chuyển
đổi sản xuất hoặc chuyển đổi việc sử dụng nguyên liệu. Nhiều dây chuyền sản xuất còn
sử dụng nhiều lao động thủ công, hoặc có trình độ cơ khí hoá thấp.
Trong lĩnh vực cơ khí, nhiều công nghệ được nhập vào nước ta thời gian qua chủ
yếu là công nghệ lắp ráp. Nhiều dây chuyền sản xuất trong lĩnh vực này có chỉ có khâu
gia công đơn giản, lắp ráp, hoàn thiện và bao gói sản phẩm, không có khâu tạo phôi và
gia công chính xác (sản xuất quạt điện, sản xuất ô tô, xe máy, chế tạo linh kiện, phụ tùng,
chế tạo các linh kiện điện tử...).
Nhiều thiết bị trong các dây chuyền sản xuất là các máy đã qua sử dụng, một số là
các máy đã được sử dụng trên hai thập kỷ mặc dù đã được tân trang cải tiến ít nhiều như
dây chuyền sơn, mạ tôn lợp, dây chuyền sợi dệt, sản xuất thuốc lá... Một số thiết bị đã
qua sử dụng sau vài năm vận hành đã phải loại bỏ hoàn toàn hoặc chi phí bảo dưỡng, sửa
chữa quá lớn.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
39
Mong muốn nâng cao năng lực công nghệ nội sinh của các ngành kinh tế thông
qua chuyển giao công nghệ gặp nhiều khăn vì: các công ty của các quốc gia phát triển
ngày càng trở nên thận trọng hơn khi phải bộc lộ bí quyết công nghệ cao cấp của mình.
Hơn nữa, khoảng cách về công nghệ ngày nay đã trở nên quá rộng so với những năm 60-
70, khi mà những “con rồng” châu Á “chuyển mình” nhờ chuyển giao công nghệ. Chiến
lược đi lên từng bước mà các nước này đã làm là “nhập khẩu, cải tiến, bắt kịp” trong
nhiều trường hợp không còn thích hợp nữa. Chính vì vậy mà hiện nay, mặc dù chúng ta
cũng đã làm chủ được nhiều công nghệ nhập khẩu, nhưng việc chinh phục những công
nghệ sản xuất ra “trái tim” của sản phẩm, những sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao
thì còn rất khó khăn, không biết đến bao giờ mới có thể thực hiện được.
4.2.4. Ảnh hưởng tới môi trường
Việc chuyển giao công nghệ, nhập khẩu những máy móc thiết bị cũ, lạc hậu đã
gây ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động và môi trường Việt Nam. Các thành phố lớn,
các khu công nghiệp tập trung hiện nay đang phải đối mặt với một loạt vấn đề từ chất thải
sinh hoạt, công nghiệp, giao thông, và xây dựng, tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc
sống, cân bằng sinh thái và sự phát triển bền vững của đất nước.
Không khí ngày càng ô nhiễm
Tại một số khu vực công nghiệp, mức độ ô nhiễm khá trầm trọng. Theo kết quả
điều tra phân tích mẫu khí thải của Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia
cho thấy: nồng độ nồng độ bụi và CO2 tại 23 vị trí đo mẫu khí đều thấp cao mức tiêu
chuẩn cho phép (TCVN 5937-1995).
Ô nhiễm nguồn nước
Trung tâm kỹ thuật môi trường đô thị và khu công nghiệp đã tiến hành đo đạc
thành phần, tính chất nước thải và đi tới kết luận: nước thải sản xuất chứa nhiều dầu mỡ,
kim loại nặng cùng hàm lượng chất hữu cơ cao. Trong khu công nghiệp Biên Hoà có 65
nhà máy phân bổ trên diện tích 382 ha, phần lớn các thiết bị công nghệ thuộc thế hệ năm
70 tiêu hao nhiều năng lượng và dẫn đến chất thải công nghiệp có tỉ lệ cao. Trung bình
mỗi ngày đêm khu công nghiệp Biên Hoà thải hơn 26.000 m3 nước thải, xả trực tiếp vào
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
40
sông Đồng Nai mà không qua khâu xử lý làm cho nước tại đây có nhiều chất hữu cơ dầu
mỡ và kim loại nặng vượt quá mức cho phép.
Ô nhiễm môi trường lao động
Đợt kiểm tra toàn diện từ trước đến nay về môi trường lao động do Viện nghiên
cứu kỹ thuật Bộ Lao động cho thấy công nhân phải làm v iệc với các yếu tố độc hại mà
không ý thức được. Ô nhiễm, hơi độc, phóng xạ.. đã tăng lên hàng năm tới 19,6%. Ở các
công ty liên doanh, mức độ độc hại còn cao hơn nhiều, số người mắc bệnh nghệ nghiệp
tăng vọt từ năm này qua năm khác, ốm tăng 22,5%, bệnh nghệ nghiệp tăng 6%/năm.
Như vậy, vấn đề đổi mới công nghệ, chuyển giao các công nghệ hiện đại là rất
quan trọng trong việc cải thiện môi trường Việt Nam. Nếu tiếp tục nhận công nghệ cũ, lạc
hậu thì chúng ta sẽ tự biến mình thành bãi thải của các nước công nghiệp phát triển, tự
huỷ hoại môi trường sinh thái của đất nước. Nhà nước cần có những chính sách phát triển
gắn kết với vấn đề bảo vệ môi trường. Tránh tình trạng đầu tư vội vàng vào những công
nghệ thấp để sử dụng và khai thác nhiều tài nguyên thiên nhiên, gây cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Tóm lại, hoạt động chuyển giao công nghệ qua FDI ở Việt Nam thời gian qua đã
đạt được nhiều thành tựu khả quan. Nhiều công nghệ mới nhiều sản phẩm mới đã được
đưa vào nước ta, tạo động lực rất lớn cho sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt tích cực đó, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề quan trọng cả về cơ chế chính sách,
về nhận thức, cũng như về môi trường khách quan cần phải sớm được giải quyết để hoạt
động chuyển giao công nghệ thực sự được đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới, góp
phần quan trọng nâng cao năng lực khoa học công nghệ của nước ta như định hướng mà
Đảng và Nhà nước đã đề ra.
4.3. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
4.3.1. Các chính sách và hoạt động liên quan đến thương mại
Hạ mức thuế và dỡ bỏ các rào cản thương mại đối với các hàng hóa và dịch vụ
môi trường sẽ dẫn đến giảm được giá thành của các công nghệ sach, nhằm làm cho chúng
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
41
dễ tiếp cận được hơn tới các chính phủ và doanh nghiệp tư nhân ở các nước đang phát
triển.
Trợ cấp hiệu quả nhất là những loại, theo các thông lệ thương mại quốc tế, cho
phép cạnh tranh giữa cỏc hóng và hỗ trợ phỏt triển sản phẩm (hỗ trợ trị trường, thông tin,
đào tạo), chứ không hỗ trợ cho sản xuất.
4.3.2. Năng lực
Trong nhiều trường hợp, các công nghệ sạch được các chính quyền đô thị thành
địa phương mua, thường theo hỡnh thức đấu thầu. Do vậy, điều mấu chốt ở đây là năng
lực của các công chức để hiểu được các giá trị gia tăng của các công nghệ sạch nhất định.
Thông thường, các chính quyền đô thị và địa phương chỉ có khản năng tài chính hạn chế
để mua các công nghệ mới. Trong một số trường hợp, việc định giá đầy đủ các dịch vụ
(xử lý chất thải) hay nguồn tài nguyên (cấp nước), phù hợp với hoàn cảnh địa phương có
thể làm tăng nguồn lực để mua các công nghệ mới liên quan đến các dịch vụ đó.
Các chiến lược mua sắm của chính phủ tỡm kiếm thỳc đẩy cạnh canh và thực hiện
một cỏch minh bạnh cũng phần nào hỗ trợ chuyển giao thành cụng cỏc cụng nghệ sạch.
Các xí nghiệp và dân cư địa phương là những bên liên quan quan trọng trong
chuyển giao công nghệ sạch. Sự đào tạo đầy đủ cũng như hợp tác địa phương cú thể gúp
phần cho tiếp nhận và duy trỡ cỏc cụng nghệ mới.
4.3.3. Tài chính
Việc không có đủ nguồn tài chính để mua các công nghệ mới luôn là rào cản chính
trong chuyển giao công nghệ. Các thủ tục rườm rà để tiếp cận đến nguồn tài chính có thể
làm cản trở sự hữu ích của các cơ chế tài chính cá nhân. Các cơ chế tài chính sáng tạo sẽ
đóng góp cho chuyển giao công nghệ tới các nước đang phát triển. Việc phổ biến thông
tin về các cơ chế đó, và các trường hợp thành công liên quan, có thể là phương tiện hữu
hiệu để mở rộng phạm vi cấp tài chính cho số lượng khách hàng lớn hơn.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
42
CHƯƠNG 5: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
THÔNG QUA FDI Ở VIỆT NAM
Chuyển giao công nghệ trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là do
các chủ đầu tư quyết định, thực hiện và hưởng các kết quả do hoạt động chuyển giao
công nghệ đem lại. Tuy nhiên, đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ qua FDI
không chỉ đòi hỏi nỗ lực của các doanh nghiệp mà còn đòi hỏi cả nỗ lực từ phía các cơ
quan Nhà nước trong việc định hướng, tạo môi trường, điều kiện và hỗ trợ cho hoạt động
chuyển giao công nghệ. Trong nhiều trường hợp, Nhà nước cũng chính người tham gia
đầu tư vào các hướng công nghệ trọng điểm mang tính liên ngành có ý nghĩa quan trọng
đối với nền kinh tế quốc dân.
Bởi vậy, giải pháp đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ qua FDI cũng phải
được chia thành những nhóm giải pháp ở tầng vĩ mô về phía Nhà nước, các cơ quan chức
năng và những nhóm giải pháp cụ thể về phía các doanh nghiệp.
5.1. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC VÀ CÁC CƠ QUAN CHỨC NĂNG
5.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến chuyển giao công nghệ
qua FDI cho phù hợp với yêu cầu và tình hình mới
Hiện tại, chúng ta vẫn chưa có đầy đủ cơ sở pháp lý cho hoạt động khoa học và
công nghệ. Luật Sở hữu trí tuệ đã vừa được thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 nhưng
luật chuyển giao công nghệ vẫn còn đang trong giai đoạn soạn thảo, mới trình quốc hội
gần đây. Điều này không những ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý của các nhà đầu tư, mà
còn dẫn đến tình trạng thiếu nhận thức đầy đủ của các ngành, các cấp và toàn xã hội về vị
trí, vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, của các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy, yêu cầu hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý
liên quan đến khoa học và công nghệ nói chung và chuyển giao công nghệ nói riêng là
hết sức cấp thiết.
Sớm soạn thảo và thông qua Luật chuyển giao công nghệ
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
43
Đây sẽ là một đạo luật chuyên ngành thống nhất điều chỉnh hoạt động chuyển giao
công nghệ, tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, phát triển, đổi mới
và thương mại hoá công nghệ, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, thu hút đầu tư nước
ngoài và phát triển thị trường công nghệ trong nước. Đạo luật mới cần phải sửa đổi bổ
sung và chi tiết hoá các quy định còn thiếu hay chưa rõ ràng của các văn bản pháp luật
trước đây. Cụ thể như:
Về các nội dung chuyển giao công nghệ: Việc hoạt động cung cấp máy móc thiết
bị đi kèm với các dịch vụ hướng dẫn lắp đặt vận hành thử dây chuyền thiết bị và đào tạo,
huấn luyện cũng là một hoạt động chuyển giao công nghệ theo đó cần phải được thành
lập Hợp đồng và đăng ký tại Bộ Khoa học và công nghệ là không cần thiết. Do những thủ
tục phiền hà trong công tác lập và đăng ký ở Việt Nam nên quy định trên đã không
khuyến khích các đối tác nước ngoài cung cấp các dịch vụ huấn luyện, đào tạo (do ngại
phải lập hợp đồng và trình duyệt đăng ký) hoặc trong trường hợp cần thiết các đối tác
nước ngoài vẫn tiến hành việc cung cấp các dịch vụ này nhưng không thực hiện việc
đăng ký hay phê duyệt. Như vậy, dù có quy định nhưng Nhà nước vẫn không kiểm soát
và điều chỉnh được hoạt động này. Do đó, để khuyến khích hoạt động này phát triển,
chúng ta không nên đưa hoạt động này vào nội dung của hợp đồng chuyển giao công
nghệ.
Về điều kiện chuyển giao công nghệ: việc không quy định rõ một số điều kiện
không được đưa vào Hợp đồng chuyển giao công nghệ có thể gián tiếp làm ảnh hưởng
đến khả năng tiếp thu, làm chủ và phát triển công nghệ được chuyển giao của phía Việt
Nam. Vì vậy, trong quá trình soạn thảo Luật chuyển giao công nghệ, Bộ Khoa học và
Công nghệ cần cụ thể hoá những điều kiện này như: Bên giao không được đưa ra các
điều kiện dưới đây trong quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ vào Việt Nam:
- Buộc bên nhận phải chấp nhận một số hạn mức nhất định về giá bán sản phẩm.
- Bên giao không được quy định bên nhận không được phép tiếp tục nghiên cứu,
phát triển công nghệ được chuyển giao.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
44
- Buộc bên nhận chuyển giao vô điều kiện cho bên giao quyền sử dụng các kết quả
cải tiến, đổi mới công nghệ do bên nhận tạo ra từ công nghệ được chuyển giao, quyền
nộp đơn yêu cầu bảo hộ sở hữu công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp và các quyền
khác liên quan đến các cải tiến đổi mới công nghệ đó.
- Miễn trừ trách nhiệm của bên giao đối với sai sót của bên giao trong chuyển giao
công nghệ hoặc khi máy móc thiết bị do bên giao cung cấp không đảm bảo chất lượng
quy định trong hợp đồng.
Về ngôn ngữ của hợp đồng chuyển giao công nghệ: cần tiến tới công nhận bản hợp
đồng được lập bằng một thứ tiếng nước ngoài thông dụng thay cho việc quy định ngôn
ngữ của hợp đồng phải bằng tiếng Việt và các bên có thể lập thêm một bản bằng tiếng
nước ngoài thông dụng như hiện nay. Vì hợp đồng chuyển giao công nghệ là một trường
hợp riêng của hợp đồng mua bán ngoại thương, trong quá trình đàm phán thương thảo
hợp đồng, tiếng Anh hoặc tiếng nước ngoài thông dụng thường được các bên sử dụng. Do
đó việc công nhận ngôn ngữ của hợp đồng là tiếng nước ngoài là hợp lý. Trong dự thảo
Luật chuyển giao công nghệ ngày 28/7 vừa qua đã sửa đổi được điều này. Khoản 3 điều
14 dự thảo luật chuyển giao công nghệ quy định: “Ngôn ngữ trong hợp đồng chuyển giao
công nghệ bằng văn bản do các bên thoả thuận. Trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng
bằng tiếng nước ngoài thì hợp đồng phải có văn bản bằng tiếng Việt. Văn bản tiếng Việt
và tiếng nước ngoài có giá trị pháp lý như nhau”.
Về thời hạn chuyển giao công nghệ: Như đã nói ở chương 2, việc giới hạn về thời
hạn của hợp đồng chuyển giao công nghệ theo nghị định 11/2005/NĐ-CP cũng là một
hạn chế. Vì vậy, cần cho phép thời hạn hợp động chuyển giao công nghệ của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với thời hạn đầu tư của dự án với điều kiện:
bên giao phải cam kết tiếp tục chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối tượng
sở hữu công nghiệp của bên giao được bảo hộ tại Việt Nam có liên quan đến công nghệ
chuyển giao trong suốt thời hạn Hợp đồng; bên giao cam kết tiếp tục chuyển giao các cải
tiến trong suốt thời hạn của hợp đồng.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
45
Về thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ: cùng với cuộc cải cách thủ
tục hành chính, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài mà Nhà nước ta
đang thực hiện, việc cải tiến thủ tục đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ là hết sức
cần thiết nhằm mục đích vừa khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư
nước ngoài chuyển giao công nghệ thích hợp vào Việt Nam vừa đáp ứng các yêu cầu đổi
mới của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn hiện nay. Trước mắt, công tác thẩm
định các hợp đồng chuyển giao công nghệ cần được cải tiến theo hướng:
- Đảm bảo thời gian thẩm định các hợp đồng chuyển giao công nghệ theo đúng quy
định hiện hành.
- Đối với các hợp đồng chuyển giao công nghệ mà các nội dung chuyển giao công
nghệ không thay đổi so với các nội dung được trình bày trong nghiên cứu khả thi đã được
các cơ quan có liên quan thẩm định và phê duyệt trong giai đoạn xin cấp giấy phép đầu tư
thì không phải lập bản giải trình về nội dung chuyển giao công nghệ. Như vậy sẽ rút ngắn
được thời gian thẩm định.
- Cần xây dựng và thực hiện một cơ chế phối hợp giữa cơ quan phê duyệt và cục Sở
hữu trí tuệ trong quá trình xác nhận đăng ký các hợp đồng chuyển giao công nghệ có nội
dung chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp nhằm
xoá bỏ tình trạng thẩm định trùng lặp, gây mất thời gian cho các nhà đầu tư.
Về giá cả thanh toán trong hợp đồng chuyển giao công nghệ: cần có biện pháp
tính toán, kiểm soát chặt chẽ về giá cả máy móc thiết bị công nghệ phía nước ngoài góp
để tránh trường hợp bên nước ngoài nâng giá một cách vô lối gây thiệt thòi không chỉ cho
bên Việt Nam mà cho cả lợi ích Nhà nước Việt Nam.
Việc nâng giá thiết bị nhập khẩu thuộc phần góp vốn của bên nước ngoài gây thiệt
hại trước hết cho nhà nước Việt Nam, vì khi chi phí sản xuất được nâng lên thì lợi nhuận
của bên liên doanh giảm xuống và kéo theo sự giảm sút khoản thuế lợi tức phải nộp cho
Nhà nước.
Về lợi ích của đối tác tham gia liên doanh, việc nâng giá gây thiệt hại trước hết
cho bên Việt Nam vì thông thường bên nước ngoài góp vốn bằng thiết bị hoặc được liên
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
46
doanh uỷ quyền nhập khẩu máy móc thiết bị. Giá máy móc thiết bị bên nước ngoài khai
vống lên kéo theo sự gia tăng giả tạo tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài và đương nhiên
lợi nhuận được chia cũng giảm đi.
Quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ
Một trong những đặc thù của đất nước ta hiện nay là việc sử dụng các dây chuyền
thiết bị hiện đại tự động hoá ở mức độ cao, sẽ đẩy người lao động vào tình trạng thất
nghiệp. Vì vậy, ở đây đòi hỏi một sự lựa chọn, tức là phải biết hy sinh mục tiêu khác, có
nghĩa là “muốn tạo ra nhiều việc làm thì phải hy sinh mục tiêu công nghệ, ngược lại
muốn có công nghệ cao phải hy sinh mục tiêu tạo ra nhiều việc làm”. Vì vậy, Nhà nước
cần có những quy định rất cụ thể những lĩnh vực nào nhất thiết phải nhập thiết bị và công
nghệ mới và những lĩnh vực nào có thể cho phép những công nghệ đã qua sử dụng,
nhưng phải quy định rõ ràng về năm sản xuất chế tạo, chất lượng còn lại... tránh nhập
khẩu tràn lan các thiết bị, công nghệ quá cũ.
Ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ
theo chiều dọc
Hiện nay các quy định về chuyển giao công nghệ mới chỉ điều chỉnh hoạt động
chuyển giao công nghệ theo chiều ngang là đưa công nghệ đang được ứng dụng ở một
chủ thể này sang ứng dụng ở một chủ thể khác. Đây là những công nghệ đã qua giai đoạn
thử nghiệm, sự thành công hay điều kiện đảm bảo thành công là điều thấy được. Rủi ro
trong chuyển giao công nghệ theo chiều ngang là tương đổi thấp. Còn chuyển giao công
nghệ theo chiều dọc không chỉ chuyển từ chủ thể này sang chủ thế khác mà quan trọng
hơn là chuyển từ giai đoạn thấp sang giai đoạn cao hơn của vòng đời công nghệ. Điều
này sẽ đảm bảo tạo ra được công nghệ độc quyền, công nghệ tiên tiến hiện đại. Tuy nhiên
chuyển giao công nghệ theo chiều dọc chứa đựng nhiều điều chưa xác định được, xác
suất rủi ro cao. Vì vậy cần có hành lang pháp lý cho hoạt động này, trong đó cần có tiêu
chí đánh giá và phương pháp đánh giá kết quả hoạt động chuyển giao.
Hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
47
Như đã nói, tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam đang ở mức cao. Điều này làm
cho các nhà đầu tư lo ngại. Vì vậy, để góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách có liên
quan đến bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, Nhà nước ta đã ban hành Luật Sở hữu trí tuệ 2005.
Nhưng để Luật này thực sự phát huy được tác dụng của nó, các cơ quan quản lý Nhà
nước và giới doanh nghiệp phải phối hợp thực sự chặt chẽ với nhau. Về phía doanh
nghiệp cần có những biện pháp tự bảo vệ như: đăng ký bản quyền cho các phát minh,
sách chế, các nhãn hiệu hàng hoá... Về cơ quan quản lý Nhà nước cần có cơ chế quản lý
bảo hộ sở hữu trí tuệ chặt chẽ hơn, đồng bộ hơn, đồng thời xây dựng và áp dụng cơ chế
thẩm định một cách đồng bộ giữa các nội dung chuyển giao công nghệ và bảo hộ quyền
sở hữu công nghiệp nhằm đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian xác nhận đăng ký
các hợp đồng chuyển giao công nghệ có nội dung chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử
dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp.
5.1.2. Các giải pháp về tài chính – tín dụng
Thực hiện các chính sách ưu đãi về thuế
Đổi mới các quy định liên quan đến thuế trong chuyển giao công nghệ nhằm
khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao các công nghệ hiện đại là một trong
những chính sách được rất nhiều quốc gia áp dụng thành công. Với Việt Nam, chúng ta
cũng cần có những chính sách tương tự để tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn.
Đối với công nghệ mới mang tính rủi ro cao và thông thường khó có lãi trong giai
đoạn đầu kinh doanh, nhà nước cần có một số biện pháp hỗ trợ như đưa ra chính sách
thuế thích hợp với doanh nghiệp nhập thiết bị mới, cho phép các doanh nghiệp này được
ưu đãi miễn giảm thuế trong một thời gian nhất định. Đối với các mặt hàng sản xuất bằng
công nghệ mới hoặc công nghệ được ưu tiên, đặc biệt là công nghệ vật liệu cơ khí chính
xác, điện tử, tin học, công nghệ sinh học của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
nhà nước có thể giảm thuế hoặc hỗ trợ đầu tư. Miễn mọi loại thuế đối với sản phẩm đang
trong thời kỳ sản xuất thử bằng công nghệ mới. Giảm thuế lợi tức một số năm đối với các
sản phẩm làm ra bằng công nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng trong nước.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
48
Nhờ có sự miễn giảm thuế này trong môi trường cạnh tranh như nhau, sản phẩm
được sản xuất ra từ công nghệ mới sẽ có sức cạnh tranh hơn. Do vậy, việc giảm thuế nên
thực hiện khi các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài gặp những rủi ro bất khả
kháng trong giai đoạn đầu chuyển giao công nghệ.
Đối với công nghệ sản xuất gây ô nhiễm môi trường hoặc tiêu hao nhiều nguyên
liệu dẫn đến nguy cơ cạn kiệt tài nguyên mà các nhà đầu tư chuyển giao vào Việt Nam,
nhà nước cần có chính sách đánh thuế bổ sung vào các sản phẩm là kết quả của quá trình
chuyển giao công nghệ đó.
Giảm chi phí đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài
Cần thực hiện việc điều chỉnh giá, phí các loại hàng hoá, dịch vụ để sau một thời
gian ngắn, về cơ bản áp dụng một mặt bằng giá cho các doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tăng tốc độ thực hiện giảm giá cước phí viễn
thông, vận tải, máy bay, giá cho thuê đất, chi phí lưu thông, lưu kho bãi.. tạo điều kiện
doanh nghiệp giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh từ đó hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
Đồng thời, nước ngoài cần tiếp tục cải tiến chính sách tín dụng để các doanh nghiệp tiếp
cận thuận lợi, bình đẳng với các nguồn vốn trong nước và thị trường vốn nước ngoài.
5.1.3. Tăng cường hoạt động kiểm soát giám định công nghệ và chất lượng sản
phẩm
Đây là một trong những vấn đề vô cùng quan trọng vì thời gian qua do có những
“lỗ hổng” trong công tác kiểm soát giám định, thẩm định công nghệ nên nhiều công nghệ
có chất lượng thấp vẫn được chuyển giao vào Việt Nam. Vai trò quản lý nhà nước đối với
hoạt động giám định cần chú trọng đến những khía cạnh sau:
- Xác định rõ tiêu chuẩn, những giới hạn nhất định đối với công nghệ được chuyển
giao cả về mặt bảo vệ môi trường, tiêu chuẩn, giới hạn về trình độ kỹ thuật, mức độ tiên
tiến của công nghệ được chuyển giao, những tác động của nó về môi trường xã hội.
- Bên cạnh đó, thực hành giám định và kiểm tra đối với các công nghệ chuyển giao
đòi hỏi có cơ chế kiểm soát nhất định, hệ thống tổ chức và lực lượng cán bộ chuyên môn
thích hợp và chế độ xử lý nghiêm khắc những vi phạm dù vô tình hay cố ý.
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
49
- Tiến hành nghiêm ngặt công tác kiểm tra, thanh tra môi trường sinh thái; khuyến
khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ sạch. Ngăn ngừa và xử lý nghiêm các trường
hợp nhập và sử dụng các công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Tất cả các dự án đầu tư, các
quy hoạch phát triển sản xuất, quy hoạch đô thị, khu công nghiệp đều phải thực hiện
nghiêm chỉnh báo cáo đánh giá tác động môi trường và phải có một phần vốn đầu tư cho
các giải pháp bảo vệ môi trường.
- Tăng cường hiệu quả hoạt động của công tác quản lý tiêu chuẩn, đo lường và kiểm
tra chất lượng sản phẩm. Có biện pháp ngăn chặn và đình chỉ sản xuất lưu thông hành
giả.
- Việc giám định nước ngoài cần được quản lý, chỉ nên tin vào các công ty giám
định có uy tín. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc thì không nên cho giám định của nước
ngoài vào. Một số nước khác như Nga, Malaixia, Philipin... hạn chế hoạt động của các tổ
chức giám định nước ngoài.
- Đầu tư thích hợp để nâng cao khả năng của các tổ chức giám định Việt Nam như
đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo cán bộ để tạo điều kiện cho các tổ chức
giám định có đủ năng lực trình độ, tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức quản
lý tiêu chuẩn, đo lường và kiểm tra chất lượng sản phẩm.
5.1.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư, tiếp tục thu hút và mở rộng cho các
dự án FDI có hoạt động chuyển giao công nghệ
Giải pháp này đòi hỏi phải có sự quan tâm của tất cả các cấp, các ngành, các cơ
quan nhà nước đồng thời phải được triển khai đồng bộ với sự phối hợp chặt chẽ của các
Bộ, ngành, địa phương. Ở Trung ương, cần quan tâm củng cố các điều kiện cần thiết và
lực lượng cán bộ cho Cục đầu tư nước ngoài trực thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư; ở các bộ
ngành địa phương cần có các bộ phận chuyên trách hoạt động trên lĩnh vực này. Các tổng
công ty lớn, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cần phối hợp chặt chẽ với cơ
quan xúc tiến đầu tư ở trong nước để hoạt động vận động và xúc tiến đầu tư đạt kết quả.
Phải thường xuyên đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Các
chương trình vận động xúc tiến đầu tư phải được thực hiện theo ngành, lĩnh vực, địa bàn
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
50
với các dự án và đối tác đầu tư cụ thể, hướng vào các đối tác nước ngoài có tiềm lực về
tài chính và công nghệ cao.
Khuyến khích mạnh mẽ v iệc thu hút và sử dụng FDI vào tất cả các lĩnh vực mà
pháp luật không cấm và các ngành nghề mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh gắn với công
nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cầu kinh tế.
Tiếp tục thu hút và mở rộng cho các dự án FDI có hoạt động chuyển giao công
nghệ vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng động lực, các
khu chế xuất, khu công nghệ tập trung, khu du lịch mà chúng ta chưa có điều kiện khai
thác.
Về đối tác, cần mở rộng đa phương hoá quan hệ hợp tác với các nhà đầu tư thông
qua các hoạt động đối ngoài của Đảng và Nhà nước, các diễn đàn quốc tế, các hoạtđộng
xúc tiến đầu tư trong khuôn khổ hợp tác ASEAN, APEC, ASEM và các cuộc hội thảo về
đầu tư trong và ngoài nước.
Cần xác định đối tác chiến lược của hoạt động xúc tiến đầu tư, trong đó rất chú
trọng thu hút các công ty xuyên quốc gia, các nước sở có công nghệ nguồn, có năng lực
tài chính, tiến tới xoá bỏ tình trạng thu hút các nhà đầu tư thiếu năng lực hay trung gian
môi giới.
Mặt khác để nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư cần chú ý đến đặc điểm
của từng nước từng đối tác. Ví dụ: với Hoa Kỳ chủ yếu là hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia, đối với EU chủ yếu là những quy định pháp lý trong nội bộ khối, đối với
Nhật Bản là việc quan hệ chỉnh phủ có tác dụng quan trọng trong việc khai thông mở
đường cho hoạt động của các nhà đầu tư.
5.1.5. Đẩy mạnh các chính sách nâng cao năng lực công nghệ nội sinh quốc gia
Thực ra quá trình lựa chọn đổi mới phát triển công nghệ là một quá trình “tiếp thu
-> đồng hoá -> thích nghi -> cải tiến và phát triển” công nghệ nhập thành công nghệ có
nét đặc thù riêng của mình. Đây là điều cốt tử bảo đảm cho sự thành công và phát triển
công nghệ nhập ngoại. Hay nói cách khác, chuyển giao công nghệ chỉ thành công khi có
chú ý đúng mức đến hoạt động R & D và xây dựng được năng lực nội sinh về công nghệ
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
51
cho riêng mình. Để làm được điều đó, Nhà nước cần chú trọng hơn nữa đến việc giải
quyết những vấn đề như:
- Tăng vốn và đa dạng hoá nguồn vốn cho hoạt động khoa học, phát triển liên kết
khoa học với sản xuất thông qua việc phát triển hợp đồng nghiên cứu ký giữa doanh
nghiệp với các tổ chức khoa học. Đưa việc nghiên cứu ứng dụng chuyên ngành về công
ty hoặc doanh nghiệp lớn.
- Tổ chức đào tạo để tăng cường năng lực và trình độ kỹ thuật, công nghệ của lực
lượng lao động kỹ thuật, cán bộ nghiên cứu và cán bộ quản lý, phải đào tạo trong viện
nghiên cứu, các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề... kết hợp với thực
tiễn.
- Có chính sách lương thoả đáng đối với cán bộ nghiên cứu khoa học để đảm bảo
thu nhập cho họ khi tham gia nghiên cứu triển khai các dự án, có chế độ thưởng, phụ cấp
và phụ trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ có giá trị, ưu đãi và phụ
trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ có giá trị, ưu đãi nhân tài có
cống hiến quan trọng cả trong và ngoài nước, khuyến khích cán bộ khoa học làm việc ở
vùng sâu vùng xa, có chính sách bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, tránh tình trạng chảy máu
chất xám.
- Trang bị kỹ thuật, thông tin, thiết bị đồng bộ cho một số phòng thí nghiệm, một số
viện nghiên cứu trọng điểm, một số bộ môn của trường đại học đạt mức tiến tiến trong
khu vực. Tăng dần trang thiết bị và nâng cấp các thư viện của các trường đại học và các
viện nghiên cứu.
- Đề cao trách nhiệm của đội ngũ làm công tác khoa học và trẻ hoá đội ngũ cán bộ
làm công tác khoa học và công nghệ bên cạnh việc phát huy năng lực của đội ngũ tri thức
cao tuổi.
- Xây dựng và thực hiện quy chế đảm bảo dân chủ, phát huy tinh thần sáng tạo, tăng
ý thức đoàn kết, ý thức trách nhiệm xã hội đối với các ngành nghiên cứu khoa học.
Khuyến khích và trân trọng những tìm tòi khám phá khoa học, những kiến nghị và giải
pháp về các vấn đề trong tự nhiên, khoa học, kinh tế và xã hội. Phát triển những hình
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
52
thức tổ chức, phương pháp và cơ chế hoạt động hợp lý để phát huy tối đa trí tuệ tập thể
cũng như tài năng cá nhân của các nhà khoa học.
- Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ khoa học và công nghệ người
Việt Nam ở nước ngoài chuyển giao về trong nước những tri thức khoa học tiên tiến và
có những chính sách thoả đáng đối với các nhà khoa học nước ngoài đang làm việc ở
trong nước vì họ là cầu nối, là những nhà tư vấn cho việc chuyển giao tri thức, chuyển
giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam.
5.2. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào liên doanh còn có nhiều
hạn chế về vốn, công nghệ, thị trường... nên việc đánh giá, lựa chọn công nghệ cũng như
hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án liên doanh vẫn phần lớn phụ thuộc vào
bên nước ngoài. Vì vậy, để có thể nắm bắt, làm chủ và phát triển công nghệ được chuyển
giao, đòi hỏi bên Việt Nam trong liên doanh phải không ngừng nâng cao vai trò của mình
trong cả quá trình hình thành và triển khai thực hiện dự án cũng như trong hoạt động
chuyển giao công nghệ.
5.2.1. Nâng cao năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam trong hoạt động hợp
tác đầu tư và chuyển giao công nghệ nước ngoài
Trước hết các chủ doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú trọng quan tâm hơn nữa
đến việc tìm hiểu và nắm vững các quy định pháp luật liên quan đến lĩnh vực và hoạt
động sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp mình. Về lâu dài, mỗi doanh nghiệp
đặc biệt là doanh nghiệp lớn cần phải có biện pháp quản lý riêng của doanh nghiệp mình.
Còn trong thời gian trước mắt, các doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức thuê các công
ty luật hoặc các chuyên gia pháp lý để trợ giúp cho doanh nghiệp trong các hoạt động
kinh doanh của mình, đặc biệt là trong các hoạt động kinh doanh với các đối tác nước
ngoài.
Các doanh nghiệp cần phải chú trọng đến công tác xây dựng và thực hiện chiến
lược kinh doanh và các kế hoạch kinh doanh ngắn hạn cũng như dài hạn để từ đó xác
định chiến lược và chính sách công nghệ và chuyển giao công nghệ, chiến lược và các
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
53
chính sách về nhân sự (đặc biệt là nguồn nhân lực về khoa học và công nghệ) của doanh
nghiệp mình. Bên cạnh đó, trong xu thế hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, các
doanh nghiệp cần phải xác định việc tham gia liên doanh với nước ngoài phải để phục vụ
các mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp, nhất là để nắm bắt và làm chủ công nghệ, đổi
mới và nâng cao chất lượng sản phẩm từ đó tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
để vươn ra chiếm lĩnh thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Vì vậy, hoạt động
chuyển giao công nghệ trong hoạt động đầu tư nước ngoài không phải là hoạt động tự
thân mà nó phải phục vụ có hiệu quả cho tăng trưởng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải không ngừng đào tạo, nghiên
cứu, nâng cao năng lực công nghệ nội sinh của doanh nghiệp. Năng lực công nghệ nội
sinh được đo bằng khả năng nghiên cứu, ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ
vào sản xuất, phát triển có hiệu quả công nghệ được chuyển giao từ nước ngoài. Năng lực
công nghệ nội sinh được quyết định bởi nguồn lực và việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực
như: vốn (tiền tệ và vật chất, chế tạo và sử dụng máy móc thiết bị), lao động (chất xám và
kỹ thuật) và cơ chế quản lý. Nước ta nhập công nghệ là chủ yếu nếu năng lực nội sinh
yếu thì không thể nắm vững, sử dụng công nghệ nhập và khó có thể làm cho thích nghi
với điều kiện của Việt Nam và cải tiến, phát triển công nghệ nhập đó.
5.2.2. Nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam trong những
lĩnh vực chúng ta có thế mạnh sẵn có hay có tiềm năng phát triển cao
Ngày nay sự phát triển của công nghệ mà đặc biệt là công nghệ thông tin – viễn
thông đã mở ra cho loài người một bối cảnh phát triển, những phương thức sản xuất –
kinh doanh mới. Thế giới trở nên “phẳng” hơn và nhiều rào cản đã không còn, bài toán
tối ưu hoá đang được làm lại trên bình diện thế giới. Điều này đã mở ra cho các nước
đang phát triển những cơ hội mới. Họ có thể gia công sản xuất kinh doanh không chỉ các
sản phẩm của mình (hoặc với nguyên liệu của mình) mà còn có thể mở rộng sự lựa chọn
đến vô số các sản phẩm của nước khác, thông qua việc thực hiện những công đoạn (với
giá rẻ hơn) trong quy trình sản xuất sản phẩm hoặc nối thêm công đoạn là gia tăng giá trị
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
54
sản phẩm đó. Việc hoạch định chiến lược dựa trên tài nguyên, cây, con đặc điểm thổ
nhưỡng... cần được thay thế bằng việc tìm ra các công đoạn, kỹ năng nước khác cần mà
ta có thể thực hiện hoặc có thể phát triển công nghệ để thực hiện nó với giá rẻ hơn, tốt
hơn. Làm được điều này cần tính thực tế, dựa vào công nghệ thông tin – viễn thông và
việc biết được phương thức sản xuất kinh doanh hơn là những phát kiến xuất chúng về
khoa học – công nghệ và những nỗ lực nâng cao năng lực khoa học công nghệ của toàn
quốc gia.
Những giấc mơ có được một số sản phẩm đặc trưng dựa trên những công nghệ tiên
tiến của chính Việt Nam và một vài tập đoàn kinh tế mạnh liệu có phải là những giải
pháp khả thi khi mà chúng ta không chỉ đem các sản phẩm mình sản xuất ra nước ngoài
bán mà cần xem trong các sản phẩm nước ngoài sản xuất ta có thể làm được gì rẻ, tốt hơn
hoặc gia tăng thêm giá trị gì để sản phẩm được bán với giá cao hơn. Một cơ sở sản xuất
cơ khí nổi tiếng của Việt Nam cố gắng nâng cao công nghệ để sản xuất ra sản phẩm xuất
khẩu liệu có phải là khả thi không khi mà họ biết chắc chắn rằng sản phẩm đó sẽ khó có
thể cạnh tranh được với những sản phẩm cùng loại trên thị trường vì trình độ công nghệ
của ta về cơ khí còn thua quá xa so với thế giới. Nhưng, các khách hàng nước ngoài có
khi lại không để ý đến sản phẩm cơ khí kia của chúng ta mà chỉ muốn tìm nơi có thể gia
công kim loại với độ chính xác tơi 1 micron. Nếu cơ sở đó biết được điều này thì chắc
chắn họ sẽ tìm cách nâng cao năng lực công nghệ gia công chính xác rồi tiếp thị các kỹ
năng gia công của mình cho thế giới bằng một cách khá đơn giản là thông qua mạng
Internet. Điều này sẽ đơn giản hơn nhiều việc nâng cao công nghệ để sản xuất hẳn ra sản
phẩm nguyên vẹn. Khi không đủ lực, có lẽ là không nên tìm cách cạnh tranh với hàng
hoá nước ngoài mà nên cùng họ sản xuất kinh doanh chính mặt hàng đó một cách tốt hơn.
Trong bối cảnh như vậy, về hiệu quả, chưa chắc việc đầu tư nghiên cứu để có
được một vài công nghệ, sản phẩm của Việt Nam đã hơn việc đẩy mạnh nâng cao trình
độ công nghệ ở những lĩnh vực chúng ta có thế mạnh và có khả năng phát triển đồng thời
phổ cập kiến thức về công nghệ thông tin – viễn thông cho các doanh nghiệp Việt Nam
để tiếp thị năng lực của mình với thế giới. Chúng ta nên đầu tư nghiên cứu các chuỗi giá
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
55
trị, chuỗi cung cấp, mạng lưới công nghiệp hỗ trợ, cụm công nghiệp ở khu vực, thế giới
để chỉ ra các việc, công đoạn, kỹ năng mà năng lực công nghệ của ta có thế mạnh để phát
triển.
5.2.3. Lựa chọn đối tác chuyển giao công nghệ theo nguyên tắc đấu thầu
Một thực tế là không phải đối với tất cả các dự án đầu tư, vấn đề công nghệ và
chuyển giao công nghệ cũng được đặt ra và có vai trò quan trọng như nhau. Đồng thời,
khả năng tiếp cận các nguồn công nghệ, kiến thức, trình độ đánh giá và lựa chọn công
nghệ, trình độ tổ chức, quản lý và nhiều yếu tố liên quan khác của mỗi doanh nghiệp là
khác nhau. Do đó, mức độ quan tâm đầu tư cho nghiên cứu và chuẩn bị về công nghệ của
mỗi doanh nghiệp cũng khác nhau.
Tuy nhiên, đối với một dự án đầu tư mà công nghệ giữ vai trò quyết định đến tính
khả thi của dự án, nhất là các dự án có chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực sản xuất, thì
việc tổ chức đấu thầu lựa chọn đối tác chuyển giao công nghệ là cần thiết nhằm xác định
được một phương án công nghệ trong tập hợp các phương án công nghệ khác nhau của
dự án, sao cho việc chuyển giao, tiếp nhận, thích nghi và phát triển công nghệ sẽ thoả
mãn tối ưu các mục tiêu của dự án, từ đó lựa chọn được đối tác thích hợp.
5.2.4. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đối tác nước ngoài
Thực tế là nhiều dự án đã được cấp giấy phép đầu tư nhưng chậm được triển khai
thực hiện hoặc không triển khai được, thậm chí bị rút giấy phép vì đối tác nước ngoài
không có khả năng thực hiện dự án. Vì vậy, việc kiểm tra đối tác nước ngoài trước khi đi
đến quyết định tham gia liên doanh đầu tư và ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ của
các doanh nghiệp là rất cần thiết. Để hạn chế những đổ vỡ không đáng có sau này, các
doanh nghiệp Việt Nam cần phải tiến hành kiểm tra, xác minh tư cách pháp nhân và khả
năng của đối tác nước ngoài. Việc kiểm tra đối tác phải trả lời được các câu hỏi: Đối tác
là ai? Khả năng và sở trường của đối tác là gì? Ý định đầu tư tại Việt Nam là gì? Để trả
lời được những câu hỏi đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần kiểm tra đối tác nước ngoài
theo các nội dung sau:
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
56
- Tư cách pháp nhân của đối tác nước ngoài được thực hiện ở giấy phép thành lập,
đăng ký kinh doanh do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ở nước ngoài cấp.
- Lịch sử hoạt động của đối tác: năm thành lập, quy mô hoạt động, uy tín và ảnh
hưởng trên thị trường khu vực và thế giới, vị trí của đối tác trong tập đoàn – công ty, các
thành tích đạt được qua từng thời kỳ...
- Đánh giá thực trạng tài chính và khả năng phát triển.
- Đánh giá khả năng công nghệ và chuyển giao công nghệ: đối tác nước ngoài có
thực sự có khả năng đáp ứng nhu cầu công nghệ và chuyển giao công nghệ của dự án
không? Đã chuyển giao công nghệ trong các trường hợp tương tự chưa? Cơ chế chuyển
giao công nghệ của đối tác nước ngoài như thế nào?
5.2.5. Hợp tác với đối thủ cạnh tranh
Một trong những giải pháp đã và đang được các công ty lớn trên thế giới áp dụng
đó là “hợp tác với đối thủ cạnh tranh”. Điều này dường như là một phương pháp kỳ cục
nhằm thu hút được công nghệ mới, nhưng nó đã xảy ra. Lý do trước tiên để có thể “bắt
tay với đối thủ” là sự liên minh như thế có thể giảm bớt được chi phí cho sự phát triển
công nghệ mới, các đối thủ giảm được nguy cơ thất bại của chính họ. Bởi các đổi thủ
cạnh tranh là những doanh nghiệp cùng hoạt động trên một ngành, họ để có những hiểu
biết rất sâu về lĩnh vực mà họ tham gia cũng như những sản phẩm mà họ cung cấp. Hơn
nữa các doanh nghiệp đều có sẵn cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật cho sự phát triển công
nghệ. Một doanh nghiệp có thể không đủ tiềm lực để tự mình phát triển được công nghệ
mới, nhưng nếu biết liên kết với các đối thủ cạnh tranh của chính mình thì doanh nghiệp
hoàn toàn có đủ khả năng để phát triển công nghệ mới, nâng cao năng lực công nghệ và
khả năng cạnh tranh. Đây chính là nghệ thuật đồng phát triển.
5.3. CÁC BIỆN PHÁP KHÁC
5.3.1. Tổ chức và nâng cao chất lượng các trung gian tư vấn
Trong bối cảnh thế giới “phẳng” như hiện nay, khi mà công nghệ đặc biệt là công
nghệ thông tin – viễn thông đang làm biến mất dần nhiều rào cản giữa các quốc gia, bài
toán tối ưu hoá và chuyên môn hoá đang được đặt lên vị trí hàng đầu nhằm nâng cao
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
57
năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia và doanh nghiệp. Việc sử dụng các nhà tư vấn pháp
luật chuyên nghiệp trong chuyển giao công nghệ cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
Ở Việt Nam trong thời gian qua, việc sử dụng các chuyên gia tư vấn còn ít, nhưng
những đóng góp mà các tổ chức tư vấn mang lại trong quá trình xúc tiến thu hút đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam là rất đáng kể. Các tổ chức tư vấn đóng vai trò là chiếc cầu nối
trung gian giữa nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức ở Việt Nam. Tuy nhiên hoạt động
của các tổ chức tư vấn mới chỉ dừng lại ở mặt hành chính là chủ yếu mà chưa đi đúng
chức năng với tên gọi của họ. Do vậy, để các tổ chức tư vấn của Việt Nam trở thành môi
trường trung gian hoạt động có hiệu quả, Nhà nước cần có những biện pháp nhằm tăng
cường, hỗ trợ cho các hoạt động tư vấn. Cụ thể là:
- Tổ chức lại các hoạt động tư vấn cho đúng chức năng nhiệm vụ.
- Hoạt động trong lĩnh vực tư vấn phải là những người thực sự có trình độ, được
đào tạo chính quy. Để có được đội ngũ chuyên gia tư vấn này, Nhà nước cần tổ chức, đào
tạo lại đội ngũ cán bộ một cách có hệ thống và chuyên môn hoá họ theo ngành được đào
tạo. Có chính sách ưu đãi với những người thực sự có chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh
vực tư vấn. Có thể miễn hoặc giảm thuế doanh thu cho các hoạt động tư vấn khoa học và
công nghệ.
Khuyến khích cạnh tranh giữa các tổ chức tư vấn của tư nhân và Nhà nước bằng
cách loại bỏ những hạn chế về việc thâm nhập của các công ty dịch vụ tư vấn tư nhân
nước ngoài. Nhà nước cần giành một phần kinh phí để mời các tổ chức tư vấn nước
ngoài, đặc biệt là các tổ chức tư vấn của Mỹ, Nhật.
Bên cạnh đó, mặc dù hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều cơ quan tư vấn về đầu tư
song tiêu chuẩn để đánh giá cơ quan nào có đủ điều kiện về chuyên môn và tư cách pháp
lý để tư vấn đầu tư công nghệ chưa được quy định rõ ràng. Do đó, Nhà nước cần quy
định cụ thể hơn, đầy đủ hơn về vấn đề này đồng thời cũng phải quy định trách nhiệm
pháp lý về các kết luận của họ.
Trên tinh thần đó, dự thảo Luật chuyển giao công nghệ đang được soạn thảo đã
giành hẳn một chương (chương III – dự thảo luật chuyển giao công nghệ ngày 28/7/2006)
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
58
để đưa ra những cơ sở pháp lý cần thiết thúc đẩy việc hình thành và hoạt động của các tổ
chức dịch vụ hỗ trợ chuyển giao công nghệ trong đó có dịch vụ tư vấn.
5.3.2. Cải thiện và nâng cao cơ sở hạ tầng vật chất, thông tin tạo sức hút đối với
nhà đầu tư nước ngoài
Xây dựng và cải thiện kết cấu hạ tầng
Cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI, các
nhà đầu tư khi lựa chọn quốc gia cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thường rất
quan tâm đến cơ sở hạ tầng của nước chủ nhà. Bởi vì, nếu cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ hạn
chế rất nhiều việc đi lại, giao thông, bến bãi kho tàng không đảm bảo cho việc bảo quản
chuyên chở hàng hoá được nhanh chóng thuận tiện dẫn đến chi phí sản xuất cao, công
việc sản xuất kinh doanh sẽ kém hiệu quả.
Như vậy đối với hạ tầng phục vụ cho nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế
như: hệ thống giao thông bao gồm cả đường sắt, đường sông, đường biển và đường hàng
không, bến cảng... cần có kế hoạch tập trung đầu tư để hoàn thành mạng giao thông liên
hoàn, đồng bộ và thuận tiện cho vận chuyển hàng hoá giữa các địa phương, các vùng
trong cả nước và liên thông với quốc tế.
Cần quan tâm chú ý đến việc xây dựng các khu công nghiệp, công nghệ cao. Bởi
một mặt, khu công nghệ cao có ưu thế về chính sách, có sức hấp dẫn khá lớn đối với các
dự án chuyển giao công nghệ từ bên ngoài. Mặt khác, khu công nghiệp, công nghệ cao
hoặc là lấy hình thức góp vốn kinh doanh, hợp tác kinh doanh giữa Việt Nam với nước
ngoài, hoặc là thương gia nước ngoài kinh doanh độc lập. Nhà đầu tư nước ngoài muốn
thu được càng nhiều lợi ích kinh tế, tất yếu cần áp dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến và thúc
đẩy quản lý hiện đại, khai thác sản phẩm mới trong khu công nghiệp, công nghệ cao.
Đồng thời cần có những dự án sửa chữa, bảo dưỡng hoặc xây mới các phương
tiện, cơ sở qua đó nâng cao được chất lượng của cơ sở hạ tầng ở những nơi cần thu hút
mạnh đầu tư nước ngoài, đồng thời cũng phải chú ý đến hạ tầng xã hội như khu vui chơi
giải trí, nhà ở cho chuyên gia, cho cán bộ công nhân viên, điều kiện khám chữa bệnh... để
Chuy n giao công ngh qu c t thông qua FDI t i Vi t Nam
59
tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và cũng góp phần thu hút mạnh mẽ các
dự án đầu tư nước ngoài cũng như những hợp đồng chuyển giao công nghệ.
Xây dựng và khai thác hiệu quả hệ thống thông tin công nghệ từ trung ương
đến địa phương
Việc thiếu thông tin công nghệ là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho
doanh nghiệp không có cơ sở để lựa chọn công nghệ. Hệ thống thông tin công nghệ chưa
đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm công nghệ của doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề cần đặt ra là
cần thành lập kho thư viện thông tin có thể truy cập qua mạng cho phép những người
quan tâm truy cập được. Cải cách hệ thống thư viện và phải ưu tiên về các thông tin công
nghệ, giúp cho doanh nghiệp có thể dễ dàng hơn khi tiếp cận với các thông tin công nghệ
cần quan tâm.
Bên cạnh đó, một giải pháp nữa là tăng cường các hình thức xúc tiến thương mại
như triển lãm, hội chợ công nghệ... tạo thêm các điều kiện thuận lợi để các công ty nước
ngoài tuyên truyền phổ biến giới thiệu công nghệ tại Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ng_929.pdf