Sự thích hợp cho các mô hình hồi quy trên là 94,78%, và mức độ phù hợp đã
điều chỉnh là 93,35%. Bằng chứng là một kết quả trên, mức độ phù hợp đủ để giải
thích sự cân bằng giữa ba mục tiêu chính sách ở Trung Quốc. Ngoài ra, Bảng 3
cũng chỉ ra mức ý nghĩa của các hệ số ƣớc lƣợng của ERS và EMO đủ cao để từ
chối giả thuyết. Mặc dù chúng tôi không thể từ chối giả thuyết cho hệ số MI thì kết
quả sẽ không có đƣợc ý nghĩa ở mức 0.1, chúng ta thấy rằng giá trị p-value của nó
là rất gần với 10%.
Tuy nhiên, các hệ số ƣớc lƣợng trong mô hình hồi quy trên chỉ có thể cung
cấp ƣớc tính trọng lƣợng cho ba chính sách mục tiêu, và không thể cung cấp đầy
đủ thông tin về mức độ chính sách mục tiêu của Trung Quốc đã thực sự đạt đƣợc.
Do đó, để nghiên cứu có bao nhiêu chính sách mục tiêu mà Trung Quốc muốn đạt
đƣợc, chúng tôi sử dụng các kết quả của các hệ số ƣớc tính và giá trị thực tế cho
các biến nhƣ:
Nhƣ là hiển nhiên từ lý thuyết bộ ba bất khả thi, bất cứ nƣớc nào cũng sẽ phải
đối mặt với ba sự kết hợp của ba mục tiêu chính sách. Là sự kết hợp độc lập tiền tệ
và ổn định tỷ giá hối đoái (aMI + bERS), sự kết hợp của sự ổn định tỷ giá hối đoái
và mở cửa thị trƣờng vốn (bERS + cCMO) và sự kết hợp của sự độc lập tiền tệ và
mở cửa thị trƣờng vốn (aMI + cCMO).
40 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2618 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Dòng vốn và bộ ba bất khả thi ở Trung Quốc – Liên hệ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu kém là không có khả năng vay nợ bằng đồng nội
tệ kết hợp với chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định và kiểm soát vốn hoàn toàn.
Khi cho khả năng vay nợ bằng đồng nội tệ của một quốc gia bằng 0 thì mặt C
của tứ diện sẽ không tồn tại. Lúc này, tứ diện sẽ trở thành tam giác đều. Nhƣ vậy,
rõ ràng là tam giác bất khả thi của Mundell-Fleming chỉ là một trƣờng hợp đặt biệt
của thuyết tứ diện khi một quốc gia không có khả năng vay nợ nƣớc ngoài bằng
đồng nội tệ.
Hình 4: Tam giác bất khả thi – Trƣờng hợp đặc biệt của thuyết tứ diện
1.4. Mẫu hình kim cƣơng của bộ ba bất khả thi
Theo quá trình kế thừa và phát triển của bộ ba bất khả thi, các nhà kinh tế học
lại tìm tòi và phát hiện ra các nhân tố có liên quan mật thiết đến việc lựa chọn mẫu
hình bộ ba bất khả thi. Không nằm ngoài xu hƣớng đó, Aizenman, Chinn, Ito
A
A4
A2 A3
C
M K E
O
A2
A1
A3
-7-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
(2008) đã xem xét việc lựa chọn mẫu hình bộ ba bất khả thi trong mối tƣơng quan
với dự trữ ngoại hối (tỷ lệ trên GDP). Sau những năm cuối thập niên 90 đầu thập
niên 2000, các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia mới đổi đã có xu
hƣớng gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại hối cùng với xu hƣớng hội tụ về mức trung
bình của ba chỉ số bộ ba bất khả thi. Nhóm tác giả nghiên cứu đƣa ra các lập luận
hợp lý cho việc lựa chọn mẫu hình trung gian – không nhóm quốc gia nào đạt
đƣợc. Tuy nhiên, chi phí của việc gia tăng nắm giữ dự trữ ngoại hối và các can
thiệp vô hiệu hóa vào thị trƣờng ngày càng gia tăng đã đặt một dấu chấm hỏi lớn
cho tính bền vững của mẫu hình này ở các nƣớc mới nổi, cũng chính là, tính bền
vững của mẫu hình kim cƣơng của bộ ba bất khả thi.
Hình 5: Mẫu hình kim cƣơng
Nguồn: Aizenman, Chinn, Ito (2008)
Lý thuyết bộ ba bất khả thi của Mundell và Fleming ngày càng đƣợc hoàn
thiện dần từ mô hình Mundell-Fleming đến tam giác bất khả thi Mundell-Fleming,
phát triển thành tam giác mở rộng Yigang và Tangxian (2001) và cuối cùng là
thuyết tứ diện của Hausmann (2000). Đây là những nền tảng lý thuyết vững chắc
của bộ ba bất khả thi, tạo điều kiện cho chúng tôi tiến hành phân tích sâu hơn về
tình hình bộ ba bất khả thi ở các nƣớc hiện nay, đặc biệt là Trung Quốc và Việt
Nam.
-8-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
2. Sơ lƣợc về bộ ba bất khả thi của Trung Quốc
Trong 30 năm qua, tốc độ tăng trƣởng nhanh chóng của các dòng vốn quốc tế
đã trở thành một đặc tính nổi bật trong một nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa.
Tuy nhiên những dòng vốn này không ổn định trong những năm gần đây. Dòng
chảy vốn quốc tế giảm mạnh đáng kể ở cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008,
nhƣng hồi phục nhanh chóng trong vòng chƣa đầy một năm. Những nền kinh tế thị
trƣờng mới nổi đã chứng kiến nhiều biến động của dòng vốn hơn ở các nƣớc phát
triển.
Là một trong những nền kinh tế thị trƣờng mới nổi lớn nhất, Trung Quốc
đang chứng kiến sự tăng trƣởng của dòng vốn, dẫn đến có những khó khăn trong
việc lựa chọn giữa sự độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá hối đoái. Một mặt, chính
quyền Trung Quốc duy trì ổn định tỷ giá hối đoái bằng việc tích lũy dự trữ ngoại
hối. Trong thời gian 2002-2010 ngoại hối của Trung Quốc dự trữ lên tới 280 tỷ
đôla đến 2.84 ngàn tỷ đôla, và kết quả là cung của đồng Nhân dân tăng lên 2.3
ngàn tỷ đến 22.58 ngàn tỷ, mà chủ yếu là từ dòng vốn ròng (Prasad, Eswar và Wei,
2007). Mặt khác, để giữ sự độc lập của chính sách tiền tệ và tránh những tác động
tiêu cực của dòng vốn quốc tế và kết quả là lƣợng tiền mặt trong nƣớc quá thừa,
nhà hoạch định chính sách phải cải thiện bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và
tham gia vào các hoạt động thị trƣờng mở. Hu (2011) trong nghiên cứu của ông
cho thấy rằng Trung Quốc vẫn còn quyền tự chủ nhất định của cung tiền, nhƣng
trong thực tế bằng cách nào để duy trì việc cung tiền tệ và ở mức nào vẫn dƣờng
nhƣ là một vấn đề khó khăn cho các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc. Kể từ
09/2003, NHTW đã yêu cầu nâng tỷ lệ dự trữ từ 6% lên 21,5% trong năm 2011, và
tổng số tiền của NHTW (tiền mặt, hối phiếu ngân hàng) đạt 4,2 nghìn tỷ nhân dân
tệ trong năm 2010. Theo China Business News, chi phí tài chính của việc thực
hiện các biện pháp kiểm soát trên là hơn 1 nghìn tỷ nhân dân tệ, và đó là một gánh
nặng cho Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc. Phải đối mặt với dòng chảy liên tục
của dòng vốn quốc tế, nhà hoạch định chính sách Trung Quốc đang ngày càng khó
khăn để duy trì giá trị của Đồng nhân dân tệ, mặt khác giữ độc lập tiền tệ.
O
-9-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Những tác động của dòng vốn đầu tƣ quốc tế vào kinh tế trong nƣớc và hoạch
định chính sách vĩ mô đang gây tranh cãi sôi nổi. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ
về lợi ích lâu dài của dòng vốn kể từ khi sự mất ổn định tăng thêm rủi ro cho cả
nền kinh tế trong nƣớc và toàn cầu. Những tác động tiêu cực khác bao gồm tác
động lấn át, rủi ro ngành tài chính và các mối đe dọa quốc gia quyền tự chủ của các
chính phủ trong lĩnh vực chính sách kinh tế vĩ mô (Ghose, 2004; Buigut và Rao,
2011). Một khi phải đối mặt với sự gia tăng các dòng vốn lớn, NHTW của một
quốc gia sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì sự độc lập về chính sách tiền tệ và ổn
định tỷ giá hối đoái. Reinhart và Reinhart (2008) cho rằng các dòng vốn toàn cầu
là không thể tránh khỏi, tích lũy dự trữ là một cách để giảm thiểu Bộ ba bất khả
thi. Altinkemer (1998) tin rằng "sự tích tuỹ dự trữ ngoại hối để can thiệp vào thị
trƣờng vốn sẽ dẫn đến việc mở rộng tiền tệ và lạm phát nếu không kiểm soát đƣợc.
Tuy nhiên, sự kiểm soát bằng can thiệp vô hiệu hóa có thể tốn kém, vì nó kéo theo
nguy cơ tăng lãi suất, làm cho dòng vốn càng tăng lên, do đó gây ra thiệt hại tài
chính cho Ngân hàng Trung Ƣơng”. Bên cạnh đó, việc kiểm soát nhƣ vậy có thể
làm gia tăng rủi ro đạo đức ở tầm vĩ mô và vi mô, các lĩnh vực tài chính sẽ hƣớng
theo không đúng quỹ đạo đƣợc đƣa ra. Vì vậy, việc kiểm soát bằng cách can thiệp
sẽ không bền vững trong dài hạn. (Aizenman và Glick, 2008; Taguchi, 2011).
Chúng tôi sẽ phân tích tác động của dòng vốn quốc tế về những sự lựa chọn
giữa hai mục tiêu chính sách quan trọng: tỷ giá hối đoái ổn định và tiền tệ độc lập,
có sự cân nhắc về sự phức tạp trong nguồn vốn nhằm đối mặt với thị trƣờng vốn
mở của Trung Quốc mặc dù các quy định vốn chính phủ áp dụng nghiêm ngặt.
Chúng tôi áp dụng phƣơng pháp "biểu đồ Diamond" (Aizenman và cộng sự, 2008)
để xem xét tác động của dòng vốn trên các cấu hình của Bộ Ba bất khả thi của
Trung Quốc qua thời gian. Tuy nhiên, thay vì sử dụng thêm chỉ số Aizenman của
IR / GDP để đo dự trữ quốc tế (IR) tích trữ nhƣ một cách để giảm thiểu Bộ ba bất
khả thi (khó khăn trong việc lựa chon 2 trong 3 chính sách), chúng tôi sử dụng
sáng tạo một chỉ số mới, mức độ vô hiệu hóa, hơn nữa tiết lộ của những nhà hoạch
định chính sách Trung Quốc đang nổ lực để hòa giải bộ 3 bất khả thi. Chúng tôi
thấy rằng để giữ lại một mức độ tự chủ tiền tệ, mức độ kiểm soát liên tục tăng. Tuy
nhiên, tính bền vững của việc kiểm soát bằng cách can thiệp vào thị trƣờng là một
-10-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
câu hỏi đƣợc khảo sát trong tƣơng lai, và nó ảnh hƣởng đến Bộ Ba bất khả thi nhƣ
thế nào cũng là một câu hỏi đặt ra. Vì vậy, chúng tôi đề nghị linh hoạt hơn về tỷ
giá và kiểm soát vốn thích hợp nên đƣợc áp dụng trong dài hạn.
Các phần tiếp theo: Phần II đánh giá mức độ dòng vốn đầu tƣ quốc tế của Trung
Quốc và các biện pháp mở cửa thị trƣờng vốn. Trong phần III, chúng tôi đo Bộ 3
bất khả thi của Trung Quốc bằng cách xây dựng chỉ số tính toán đƣợc của tiền tệ
Độc lập (MI), tỷ giá ổn định (ERS) và mức độ cởi mở của nguồn vốn đến thị
trƣờng mở (CMO). Sau đó, chúng tôi kiểm tra các mối quan hệ tuyến tính trong ba
mục tiêu chính sách trong Bộ Ba Bất Khả Thi và tìm hiểu xem ba chỉ số là "ràng
buộc". Phần IV là kết luận.
3. Mức độ dòng vốn quốc tế của Trung Quốc
3.1 Tổng quan về dòng vốn quốc tế tại Trung Quốc
Sau năm 2002, khi chu kỳ suy thoái diễn ra liên tiếp tại nƣớc Mỹ trong khi
đó, Trung Quốc lại duy trì cao tốc độ tăng trƣởng cao, dòng chảy của các dòng vốn
vào Trung Quốc tăng mạnh. Nhƣ báo cáo của IMF, tốc độ tăng trƣởng trung bình
hàng năm của dòng vốn đầu tƣ vào Trung Quốc trong thời gian 2002-2007 hơn
35%.
-11-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Tuy nhiên, với sự bùng nổ của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu trong
năm 2008, dòng vốn Trung Quốc giảm mạnh 40%. Dòng vốn tín dụng ngân hàng
thậm chí đảo chiều. Tuy nhiên, nền kinh tế Trung Quốc phục hồi mạnh mẽ trong
năm 2009, dòng vốn đầu tƣ quốc tế phục hồi một cách nhanh chóng, và thể hiện
một xu hƣớng tăng tốc của dòng chảy vào trong nƣớc. Chính sách tiền tệ QE (gói
kích cầu) đƣa ra bởi Cục Dự trữ Liên bang đã làm gia tăng các luồng vốn từ Hoa
Kỳ vào Trung Quốc, đẩy mạnh áp lực lạm phát và giá tài sản của thị trƣờng Trung
Quốc.
Theo cán cân thanh toán, đầu tƣ quốc tế có thể đƣợc chia thành ba loại: Đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, đầu tƣ gián tiếp (đầu tư thông qua thị trường chứng khoán
và không trực tiếp điều hành công ty) và đầu tƣ khác. Nhƣ đƣợc thể hiện rõ trong
hình 1, tất cả ba loại luồng vốn đầu tƣ rất thấp ở Trung Quốc trƣớc những năm
1990. Dòng vốn đầu tƣ khác đã lớn hơn một chút so với hai thể loại khác. Trong
năm 1992, dòng vốn đầu tƣ, đầu tƣ (FDI) trực tiếp đặc biệt là nƣớc ngoài, bắt đầu
gia tăng dần dần. Tổng dòng vốn FDI có mức tăng trƣởng ổn định mà không biến
động lớn. Xu hƣớng này là do các chính sách giảm thuế ƣu đãi của chính phủ
Trung Quốc và các ƣu đãi khác. Chi phí lao động của Trung Quốc tƣơng đối thấp,
thị trƣờng tiềm năng trong nƣớc và kinh tế tăng trƣởng ổn định cũng làm cho
Trung Quốc là một điểm hấp dẫn thu hút vốn FDI. Trong năm 2002, khi Trung
Quốc gia nhập Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO), dòng vốn FDI của Trung
Quốc tăng hơn nữa. Dòng vốn FDI tăng trƣởng nhanh nhất vào năm 2007 và đạt
mức cao nhất trong năm 2008 với 147.8 tỷ $. Sau đó đã đã giảm một nửa, xuống
còn khoảng 78.2 tỷ $. Trong năm 2009, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đang
ở giai đoạn đỉnh cao.
Tƣơng tự nhƣ vậy, vốn đầu tƣ gián tiếp và vốn đầu tƣ khác cũng chứng kiến
sự tăng trƣởng nhanh chóng. Hình 1 cho thấy dòng vốn đầu tƣ gián tiếp và đầu tƣ
khác đã đƣợc hạn chế và tăng giảm thất thƣờng trƣớc năm 2002. Theo sau việc
Trung Quốc gia nhập WTO, đầu tƣ gián tiếp và các khoản đầu tƣ khác bắt đầu gia
tăng để thực hiện cam kết mở cửa thị trƣờng vốn. Đặc biệt, sự phát triển của dòng
vốn đầu tƣ gián tiếp đã đƣợc thúc đẩy bởi các cải cách của thị trƣờng chứng khoán
-12-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Trung Quốc. Thực hiện chƣơng trình QFIIs đã giảm những rào cản của kiểm soát
vốn ở Trung Quốc, và nó đã cung cấp một kênh cho đầu tƣ nƣớc ngoài cho thị
trƣờng chứng khoán Trung Quốc. Tuy nhiên, sự phát triển của thị trƣờng đầu tƣ
gián tiếp của Trung Quốc đã dần cải thiện, một phần vì các bài học kinh nghiệm từ
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á vào năm 1997 khi các nƣớc mở cửa thị trƣờng
vốn của họ quá nhanh chóng để ngăn chặn những tác động tiêu cực của đầu cơ tiền
tệ quốc tế. Bên cạnh đó, sự gia tăng của các nguồn vốn "đầu tƣ khác” đến từ cả hai
việc giảm kiểm soát vốn và dự đoán sự tăng giá của đồng Nhân dân tệ.
Khi so sánh “đầu tƣ khác” với FDI và đầu tƣ gián tiếp, trong đó bao gồm cho
vay ngân hàng và tín dụng thƣơng mại, là một trong những bất ổn nhất. Đó là bởi
vì lƣợng lớn "tiền nóng" lọt vào Trung Quốc thông qua kênh này, tìm kiếm lợi
nhuận ngắn hạn từ chênh lệch lãi suất giữa Trung Quốc và Mỹ và mong đợi của
một đồng Nhân dân tệ (RMB) đánh giá cao. Những đầu cơ "tiền nóng" có thể di
chuyển rất nhanh vào và ra khỏi thị trƣờng Trung Quốc, có khả năng dẫn đến sự
bất ổn định của thị trƣờng. Các "đầu tƣ khác" dòng vốn tăng đáng kể trong thời
gian 2002 - 2007, nhƣng đột ngột giảm xuống thể hiện ở các con số không đẹp
trong năm 2008; Tuy nhiên, trong năm 2009 số lƣợng tăng trở lại đạt mức khoảng
3/4 năm 2007. Tuy nhiên, dòng vốn đầu tƣ gián tiếp khá nhạy cảm nhất đối với
những cú sốc bên ngoài. Nó bắt đầu giảm ngay sau khi các cuộc khủng hoảng thế
chấp dƣới chuẩn xảy ra trong năm 2007. Một trong những dòng vốn khó biến động
nhất là dòng vốn FDI, nó không giảm cho đến năm 2009, có lẽ vì FDI có tính chất
dài hạn, khó có thể đảo ngƣợc và di chuyển tức thì.
3.2. Đo lƣờng CMO
Làm thế nào để đo lƣờng mức độ mở tài khoản vốn từ lâu đã là một thách
thức đối với các nhà nghiên cứu. Cho đến bây giờ, các tài liệu hiện cung cấp hai
phƣơng pháp chính để đo mức độ mở cửa thị trƣờng vốn: Thướt đo De jure và
Thướt đo De Facto
3.2.1 Thướt đo De jure
Thƣớt đo De jure dựa trên thông tin trong báo cáo hàng năm về cơ chế tỷ giá
và những hạn chế ngoại hối do IMF phát hành (Annual Report on Exchange
-13-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Arrangements and Exchange Restrictions - AREAER). Những biện pháp này cố
gắng xây dựng "các yếu tố đóng góp" để phản ánh các khoản thời gian trong năm ở
với các quốc gia có tài khoản vốn mở cửa (xem Kose et al.2006). Chỉ số
KAOPEN, đó là một trong thƣớc đo De jure, đƣợc phát triển bởi Chinn và Ito
(2008), chỉ số này đƣợc sử dụng thƣờng xuyên hơn trong những năm gần đây do
lợi thế về toàn diện và khả thi.
Ưu điểm chung của thƣớc đo De jure là sự tiện lợi so sánh tài khoản vốn mở
cửa giữa các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, nó cũng có nhiều hạn chế. Đầu tiên,
nó không phản ánh chính xác mức độ mở của tài khoản vốn kể từ khi các phƣơng
pháp tiếp cận đƣợc một phần dựa trên những hạn chế khác nhau liên quan đến sự
giao dịch ngoại tệ của các nứơc rằng nó có thể không nhất thiết cản trở các dòng
vốn. Thứ hai, nó không phản ánh hiệu quả việc thực hiện kiểm soát nguồn vốn,
bởi vì ở một vài nƣớc, lƣợng dữ trữ có thể không thay đổi, trong khi việc thực thi
có thể thay đổi theo thời gian. Một số quốc gia khác, bất chấp những giới hạn
nghiêm ngặt trên thị trƣờng vốn, chính phủ vẫn không thể kiểm soát hiệu quả các
dòng vốn nhƣ Trung Quốc. Cuối cùng, nó không thể tránh khỏi AREAER, cơ sở
của thƣớc đo De jure, những điều thất bại bao gồm sự tồn tại của việc kiểm soát
vốn hiện tại, mà thực sự có ảnh hƣởng nhiều nhất ở một số nƣớc (Xem Kose et al.
2006). Để giải quyết vấn đề này, nhiều nhà nghiên cứu chuyển sang thƣớt đo De
Facto (đo lƣờng thực tế).
3.2.2 Thướt đo de facto
Tƣơng tự nhƣ đo lƣờng sự mở cửa thƣơng mại, Thƣớt đo de facto (Lane và
Milessi-Ferreti, 2007) đo lƣờng việc mở cửa thị trƣờng vốn của một quốc gia bằng
cách sử dụng các tỷ lệ của tổng luồng vào và luồng ra đến GDP quốc gia, dựa trên
dòng chảy thực tế. Tuy nhiên, phƣơng pháp này là dễ bị lỗi đo lƣờng, kể từ khi
dòng chảy vốn hàng năm có xu hƣớng thay đổi nhanh chóng (dễ bay hơi). Nhiều
nhà nghiên cứu phản đối đo lƣờng này cũng bởi vì họ tin rằng dòng vốn là nội sinh
(chỉ mang tính chất đầu tƣ lâu dài), và một số dòng vốn đầu tƣ gián tiếp đã không
đƣợc thúc đẩy sự mở cửa của thị trƣờng, nhƣng bằng các yếu tố khác, nhƣ lây lan
lãi suất hoặc dự đoán giá tiền tệ. (Chen, 2006) Để giảm thiểu những vấn đề này,
Kose et al. (2006) đã giới thiệu một cách tiếp cận thay đổi, trong đó sử dụng tổng
-14-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
số cổ phiếu (vốn) của tổng tài sản nứơc đó và nợ phải trả nhƣ một tỷ lệ so với
GDP.
Biểu đồ 2 mô tả mở cửa thị trƣờng vốn của Trung Quốc từ năm 1993 – 2009
bằng cách sử dụng thƣớc đo de jure (phía bên phải) và thƣớc đó de facto (bên trái).
Đối với thƣớc đo de jure, chỉ số dao động trong khoảng 0 và 1. Giá trị cao hơn của
chỉ số này cho thấy mức độ cao của sự mở cửa thị trƣờng vốn của Trung Quốc
(Xem đoạn của "Mở cửa thị trƣờng vốn" trong chƣơng tiếp theo đƣợc tính toán chi
tiết của các chỉ số). Ở bên phải, bên trái của hình 2, chúng tôi thấy các kết quả của
thang đó De jure bẳng cách sử dụng chỉ số KAOPEN. Chỉ số này có thể là trên
hoặc dƣới 0. Đối với các nƣớc có chỉ số KAOPEN dƣới số 0, sự mở cửa thị trƣờng
vốn của họ sẽ là tƣơng đối thấp. Giống với thang đo de facto, giá trị cao của chỉ số
KAOPEN chỉ ra độ mở cửa thị trƣờng vốn càng cao, và ngƣợc lại. Việc mở cửa thị
trƣờng vốn vẫn không thay đổi ở -1.2 từ năm 1993 đến năm 2009 theo thƣớc đó de
jure, điều này chỉ ra sự mở cửa thị trƣờng vốn của Trung Quốc là rất thấp. Tuy
nhiên, bằng cách sử dụng thang đo de facto, chúng tôi thấy sự mở cửa thị trƣờng
vốn của Trung Quốc ngày càng tăng lên, và xu hƣớng này tăng sau năm 2003.
Thƣớt đo de facto không phản ánh mức thay đổi của sự hội nhập trƣờng vốn
của Trung Quốc trong những năm gần đây. Vì đề tài này có ý định phân tích Trung
-15-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Quốc mở cửa thị trƣờng vốn theo thời gian mà không cần so sánh với các nƣớc
khác, chúng tôi áp dụng thƣớt đo de facto, đặc biệt tổng của cổ phiếu tổng tài sản
và nợ phải trả nhƣ một tỷ lệ so với GDP.
4. Phân tích thực nghiệm về Bộ Ba bất khả thi tại Trung Quốc
Nhƣ đã đề cập ở trên, dòng vốn đầu tƣ quốc tế vẫn thay đổi nhanh và nguy cơ
mang lại rủi ro đối với nhiều thị trƣờng mới nổi có hệ thống tài chính trong nƣớc
yếu. Do đó, tạo những thách thức lớn đối với nhiều thị trƣờng mới nổi cụ thể nhƣ
Trung Quốc, cần có nhiều cách khác nhau để cân bằng các chính sách kinh tế vĩ
mô khi đối mặt với nhiều hơn nữa sự rắc rối dòng vốn quốc tế. Một cách để khám
phá điều này là sử dụng khuôn khổ Bộ Ba bất khả thi. Bộ Ba bất khả thi, đƣợc giới
thiệu bởi Mundell (1963), đề cập đến thực tế là bất cứ nƣớc nào không thể có đồng
thời dòng vốn tự do, chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá hối đoái cố định. Thay vào
đó, nó có thể tối đa đạt đƣợc hai trong ba mục tiêu cùng một lúc.
Phần này đầu tiên sẽ xây dựng thƣớc đo bộ ba bất khả thi, và sau đó kiểm tra
xem ba chỉ số của Bộ Ba bất khả thi "Ràng buộc" bằng cách sử dụng công thức hồi
quy tuyến tính.
4.1 Thƣớc đo bộ ba bất khả thi
4.1.1 Độc lập tiền tệ (MI)
Theo truyền thống, lãi suất và tỷ lệ lạm phát thƣờng đƣợc chọn là đại diện
cho các biến độc lập tiền tệ. Tuy nhiên, việc sử dụng tỷ lệ lạm phát có thể gây
nhầm lẫn vì tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) hoặc chỉ số giá sản xuất (PPI) khác
nhau rất nhiều và không thể so sánh giữa các quốc gia khác nhau. Sự khác biệt
trong lãi suất ngắn hạn ở các quốc gia khác nhau là một biến chủ proxy tốt hơn để
phản ánh tiền tệ độc lập. Ở đây sử dụng một phƣơng pháp của Aizenman et al.
(2009) để đo chỉ số độc lập tiền tệ. Nó đƣợc định nghĩa là:
( ) ( )
( )
(1)
Trong đó i: đề cập đến lãi suất thị trƣờng tiền tệ của Trung Quốc, và i* đề
cập đến lãi suất thị trƣờng tiền tệ Mỹ.
-16-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Chỉ số MI dao động giữa 0 và 1. Một giá trị chỉ số cao hơn cho thấy một
mức độ cao hơn của chính sách tiền tệ độc lập. Ở đây, chúng tôi chọn lãi suất bình
quân liên ngân hàng qua đêm (hàng tháng) và các quỹ liên bang qua đêm (hàng
tháng) nhƣ Trung Quốc và thị trƣờng tiền của Mỹ tƣơng ứng.
4.1.2 Ổn định tỷ giá (ERS)
Đƣợc sử dụng bởi Aizenman và cộng sự (2009), để đo lƣờng sự ổn định tỷ
giá, công thức (2) là bình thƣờng hóa "độ lệch chuẩn của tỷ giá hối đoái, đƣợc tính
theo năm dựa trên dữ liệu hàng tháng giữa quốc gia sở tại và các quốc gia cơ sở
"Chỉ số này sẽ đƣợc giữa 0 và 1:
( )
| |
(2)
|dlogE/dt| là giá trị tuyệt đối của tỷ lệ khấu hao so với cùng kỳ năm sử dụng tỷ giá
tháng mƣời hai của năm đó. Giá trị cao hơn của chỉ số ERS cho thấy mức độ tỷ giá
ổn định hơn. Tác giả sử dụng trung bình trung điểm hàng tháng của đồng Nhân dân
tệ so với dollar.
4.1.3 Hội nhập tài chính (KAOPEN)
Hội nhập tài chính ở Trung Quốc đƣợc tính bằng công thức:
Trong đó FA đề cập tài sản nƣớc ngoài hàng năm, và FL đề cập khoản nợ
nƣớc ngoài hàng năm. Công thức cho phép chúng ta phân tích sự thay đổi của độ
mở cửa của thị trƣờng vốn Trung Quốc theo thời gian. Để thực hiện phép đo này
có thể so sánh với những phép đo khác, chỉ số này nằm trong khoàn từ 0 đến 1. Giá
trị cao hơn của chỉ số này cho thấy một mức độ hội nhập tài chính cao hơn ở Trung
Quốc.
-17-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Biểu đồ 3 Mức độ của các chỉ số bộ ba bất thời gian 14 năm 1996-20khả
thi ở Trung Quốc từ 1996 -2009.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả cho thấy giá của ERS vào khoảng 0,673, vẫn ở mức cao hơn so với
hai chỉ số kia. Tất cả các giá trị tối đa của ba chỉ số đều gần bằng 1, và các giá trị
tối thiểu là gần 0. Độ lệch chuẩn của ba chỉ số, phản ánh các chỉ số chệch khỏi giá
trị trung bình bao nhiêu, dao động trong khoảng 0,2-0,4, và độ lệch chuẩn của MI
nhỏ nhất, chỉ là 0.208.
Biểu đồ 3 mô tả sự vận động của các thành phần Bộ Ba bất khả thi ở Trung
Quốc từ năm 1996 đến 2008. Có một số đặc điểm nổi bật của ba chỉ số trên nhƣ
sau. Đầu tiên, chỉ số mở cửa thị trƣờng vốn của Trung Quốc tăng dần 1996-2009.
Thứ hai, mặc dù tỷ giá hối đoái tăng ổn định từ 0,5 đến xấp xỉ 0.9 trong thời gian
1996-1998, nó vẫn duy trì ở mức cao khoảng 0,9 cho đến năm 2004. Sau đó nó đột
ngột giảm xuống mức rất thấp khoảng 0,2 trong năm 2005, và duy trì ổn định cho
đến năm 2009. Để bảo vệ đồng NDT trƣớc tác động của cuộc khủng hoảng tài
chính khu vực châu Á năm 1997,trong năm 1998 Trung Quốc đã quay trở lại kiểm
soát chặt chẽ thị trƣờng ngoại hối, giảm nguy cơ đầu cơ và găm ngoại tệ, tăng dự
trữ ngoại tệ. Thu nhập ngoại tệ của các doanh nghiệp bắt buộc phải bán cho những
ngân hàng đã đƣợc chỉ định trƣớc, thậm chí các nhà đầu tƣ định sử nƣớc ngoài
cũng phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng Trung Quốc để đổi lấy một lƣợng NDT
-18-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
nhất định sử dụng trong lãnh thổ nƣớc này. Song song với việc quản lý chắc chẽ
thị trƣờng ngoại hoái, để giảm bớt sức ép đối với xuất khẩu và sự tăng trƣởng của
nền kinh tế, Trung Quốc còn phối hợp với các chính sách kinh tế nhƣ: Nới lỏng
tiền tệ và kích cầu. Trong năm này, Trung Quốc đã liên tiếp 3 lần hạ lãi suất cho
vay và tiền gởi bằng NDT, sai suất chiết khấu cũng giảm 1.91%, đồng thời với việc
giảm lãi suất tiền với các loại tiền gửi bằng ngoại tệ, hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp, kích thích tiêu dùng ở các tầng lớp dân cƣ. Với cơ chế quản lý rất chặt chẽ
nhƣ vậy tỷ giác giữa NDT và USD vẫn đƣợc giữ gần nhƣ cố định trong khoản
8,3NDT/USD cho tới 2004. Sự sụt giảm trong năm 2005 là do chế độ tỷ giá hối
đoái của Trung Quốc đƣợc sửa đổi, trong đó đã phá vỡ sự cố định của Trung Quốc
với đồng đô la, và chuyển sang một hệ thống tỷ giá linh hoạt hơn . Đồng nhân dân
tệ đã đƣợc ổn định so với một “rổ” tiền tệ, thay vì chỉ dùng đồng đô la Mỹ. Kể từ
đó, đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc tƣơng đối ổn định cho đến tháng 8 năm
2008, khi khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra. Chính phủ Trung Quốc đã can
thiệp vào thị trƣờng ngoại hối để bảo toàn giá trị của đồng Nhân dân tệ mục đích
ngăn chặn sự tác động tiêu cực đối với thị trƣờng trong nƣớc thông qua các kênh
ngoại hối. Cuối cùng, chỉ số tiền tệ độc lập đã không có một xu hƣớng rõ ràng, chỉ
số này dao động trong suốt thời gian quan sát. Hình 3 chỉ ra rằng ngoại trừ các năm
1997, 2003 và 2005, các chỉ tiêu khác về cơ bản dƣới dƣới 0.6. Đặc biệt là trong
năm 2006, có vẻ nhƣ là độc lập tiền tệ của Trung Quốc giảm đi nhanh chóng. Điều
này chủ yếu là do nền kinh tế trong nƣớc quá nóng. Để ngăn chặn lãi suất đảo
ngƣợc, NHTW đã can thiệp bằng cách tăng lãi suất. Đồng thời, các nƣớc khác
cũng phải đối mặt với lạm phát toàn cầu, và phải tăng lãi suất của họ, trong đó có
Hoa Kỳ. Điều này dẫn đến sự liên kết lãi suất giữa Mỹ và Trung Quốc, do đó làm
suy yếu các chỉ số độc lập tiền tệ của Trung Quốc.
Để đánh giá tốt hơn sự vận động của các chỉ số theo thời gian, Aizenman et
al. (2008) xây dựng một "biểu đồ kim cƣơng", trong đó họ thêm vào biểu đồ Bộ ba
bất khả thi một phép đo dự trữ ngoại hối (IR / GDP), một chỉ số để mô tả xu hƣớng
giảm nhẹ Bộ Ba bất khả thi bằng việc tích lũy dự trữ quốc tế. Gupta và Abhijit
(2010) áp dụng phƣơng pháp tƣơng tự nhƣ Ấn Độ và khẳng định rằng các nhà
-19-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
hoạch định chính sách của Ấn Độ cố gắng sử dụng tích dự trữ ngoại hối để giảm
thiểu Bộ ba bất khả thi.
Figure 4: Configurations of the Impossible Trinity and Sterilization
.
Nguồn: IMF IFS (2010), PBOC ( tính toán của tác giả
Lý do đằng sau, là một quốc gia muốn duy trì giá trị đồng tiền của mình có để
tích lũy dự trữ quốc tế khi số lƣợng lớn các dòng vốn quốc tế đổ vào đất nƣớc này.
Tuy nhiên, đây không phải là cách duy nhất của 1 đất nƣớc để hòa giải Bộ ba bất
khả thi. Thay vào đó, trong trƣờng hợp của Trung Quốc, phải sử dụng thêm các
hoạt động thị trƣờng mở, dự trữ bắt buộc và các hƣớng dẫn để kiểm soát các vấn
đề thanh khoản trong nƣớc kết quả đến từ của sự tích luỹ dự trữ quốc tế.
Mặc dù các chỉ số IR / GDP có thể có ý nghĩa, nó đƣợc giới hạn để giải thích
hơn nữa mức độ kiểm soát của chính phủ. Vì vậy, chúng tôi đo lƣờng mức độ kiểm
-20-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
soát này (nhƣ là một phần của GDP) là đỉnh thứ tƣ của "biểu đồ kim cƣơng". Để
thực sự so sánh các chỉ số, chúng ta bình thƣờng hóa mức độ kiểm soát của chính
phủ giữa 0 và 1. Giá trị của mức độ kiểm soát này cao phản ánh những nỗ lực lớn
hơn đƣợc thực hiện bởi NHTW để kiểm soát (tác động tiêu cực của các dòng vốn
đầu tƣ).
Nhƣ đƣợc mô tả trong hình 4 (b), mặc dù sự mở cửa thị trƣờng vốn của
Trung Quốc tăng dần từ năm 1998 đến năm 2004, sự mở cửa thị trƣờng vốn tổng
thể đã đƣợc hạn chế. Tại cùng một khoảng thời gian, tuy nhiên, sự ổn định tỷ giá
hối đoái vẫn ở mức cao gần 1. Chỉ số độc lập tiền tệ biến động, nhƣng mức độ tổng
thể của nó vẫn tƣơng đối cao. Mức độ kiểm soát của chính phủ tăng khiêm tốn, cho
thấy vấn đề thanh khoản đã đƣợc kiểm soát hơn. Vì vậy, các nhà hoạch định chính
sách vẫn giữ đƣợc độc lập tiền tệ và tỷ giá ổn định trong thời gian này.
Từ năm 2005 đến năm 2008, cấu hình của Bộ Ba bất khả thi và mức độ kiểm
soát cảu chính phủ bắt đầu thay đổi rõ ràng. Hình 4 (c) cho thấy một sự gia tăng
đáng kể của sự mở cửa thị trƣờng vốn trong thời gian này, cùng với tốc độ tăng
trƣởng gần nhƣ giống hệt nhau trong mức độ kiểm soát vốn của chính phủ. Mức độ
mở của thị trƣờng vốn của Trung Quốc buộc các nhà hoạch định chính sách phải
điều chỉnh lại mục tiêu chính sách trong Bộ Ba bất khả thi. Vì vậy, ở một mức độ,
các nhà hoạch định chính sách đã từ bỏ sự ổn định tỷ giá hối đoái để trả lời sự gia
tăng trong sự mở cửa thị trƣờng vốn. Năm 2005, Trung Quốc đã kết thúc chế độ tỷ
giá cố định và dần dần chuyển sang một hệ thống quản lý tỷ giá hối đoái thả nổi
linh hoạt hơn. Theo hệ thống mới, tuy nhiên, đồng Nhân dân tệ dƣờng nhƣ có chỉ
có một hƣớng. Sự mong đợi xung quanh đồng Nhân dân tệ đƣợc đánh giá cao thúc
đẩy một số lƣợng ngày càng tăng của dòng vốn vào Trung Quốc thông qua nhiều
cách khác nhau. Để tránh các vấn đề liên quan đến biến động tỷ giá ngoài kiểm
soát, Chính phủ tiếp tục can thiệp vào thị trƣờng ngoại hối. Các NHTW buộc phải
tăng dự trữ ngoại hối lên do sự can thiệp vào tỷ giá hối đoái. Sự tích lũy dự trữ
ngoại hối lại tăng làm tăng lạm phát. Để giảm thiểu lạm phát, NHTW phải tăng lãi
suất, làm tác động đến sự độc lập tiền tệ. Bằng chứng là một hình 4 (c), độc lập
tiền tệ xấu đi chủ yếu trong năm 2006. Ngoài ra, việc tăng lãi suất sẽ gây ra các
-21-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
dòng vốn đổ vào lớn hơn và sự cần thiết tăng giá đồng Nhân dân tệ. Để giảm bớt
những tác dụng phụ, các NHTW tăng cƣờng kiểm soát dòng vồn đầu tƣ.
Hình 4 (d) chỉ ra rằng mức độ mở cửa thị trƣờng vốn đạt đỉnh điểm vào năm
2009. Đồng thời, chính phủ Trung Quốc tiếp tục ổn định tỷ giá hối đoái. Kể từ khi
nền kinh tế có nhiều tiến bộ đã đƣa ra chính sách mở rộng tiền tệ, đặc biệt là Mỹ,
làm suy yếu đồng đô la và tăng giá đồng Nhân dân tệ, Trung Quốc bắt đầu lại một
lần nữa bị dòng vốn lớn hơn chảy vào do lãi suất cao khác biệt và kỳ vọng của
nhân dân tệ tăng giá. Để tránh biến động quá mức của các giá trị của đồng Nhân
dân tệ, chính phủ Trung Quốc tiếp tục can thiệp vào thị trƣờng ngoại hối bằng cách
tích lũy dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, áp lực lạm phát đã trở nên ngày càng nghiêm
trọng, kêu gọi 1 chính sách tiền tệ hiệu quả để kiểm soát tình hình. Trong các
trƣờng hợp, lãi suất huy động dƣờng nhƣ là thuận tiện nhất và hiệu quả, nhƣng nó
sẽ dẫn đến nhiều hơn nữa dòng vốn bởi lây lan mở rộng. Do đó, các nhà hoạch
định chính sách thích tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc chứ không phải là tăng lãi suất.
Bên cạnh đó, các cơ quan cũng đã phát hành tín phiếu (PBOC) nhƣ một cách để
kiểm soát thanh khoản dƣ thừa. Tất cả bốn chỉ số gần nhƣ đạt đến đỉnh của họ
trong hình 4 (d), mà chỉ ra rằng các quan chức Trung Quốc đã tìm cách giữ lại tất
cả ba mục tiêu cùng một lúc bằng cách sử dụng sự kiểm soát của chính phủ đối với
các dòng vốn.
Tuy nhiên, việc kiểm soát của chính phủ là một phƣơng pháp hoàn hảo để
hòa giải sự mâu thuẫn giữa sự độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá hối đoái vẫn còn là
1 câu hỏi. Để làm sáng tỏ về vấn đề này, chúng tôi muốn xem xét hai khía cạnh
của việc kiểm soát vốn: hiệu quả và chi phí. Việc xem xét đầu tiên về hiệu quả có
nghĩa là cho dù tất cả các hành động kiểm soát vốn hiệu quả có thể bù đắp nguồn
cung tiền quá mức kết quả là từ sự can thiệp tỷ giá và kết quả là tích lũy dự trữ
ngoại hối. Tuy nhiên, đây không phải là toàn bộ câu chuyện, bởi vì mặc dù các
hành vi kiểm soát có hiệu quả, nhƣng chi phí có thể quá cao đối với NHTW của
Trung Quốc để thực hiện việc kiểm soát này. Nếu vậy, việc kiểm soát vốn sẽ là
không bền vững, và không có thể là một phƣơng pháp lý tƣởng để giải quyết xung
đột.
-22-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Chi phí của việc kiểm soát vốn của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBOC)
chủ yếu đến từ các khoản thanh toán lãi suất. Bảng 2 minh họa việc kiểm soát chi
phí lãi vay của PBOC bằng cách chia thành ba loại: Yêu cầu dự trữ bắt buộc
(FRR), tín phiếu PBOC, và các hợp đồng mua bán. Loại thứ hai là những công cụ
cho nghiệp vụ thị trƣờng mở. Chi phí lãi vay tổng số tăng mạnh từ 2000 đến 2008.
Mặc dù giảm mạnh trong năm 2009 do chi phí lãi vay giảm xuống trên thị trƣờng
mở, nó vẫn còn khá lớn và tiếp tục tăng trong năm 2010. Việc kiểm soát vốn bền
vững trở thành một câu hỏi khó. Chi phí tăng cao việc kiểm soát sẽ làm cho nó
ngày càng không bền vững, có nghĩa là sự độc lập tiền tệ cũng sẽ gặp những thách
thức hơn nữa. Nhƣ vậy, từ quan điểm của Bộ Ba bất khả thi, sự linh hoạt hơn của
tỷ giá hối đoái sẽ là một giải pháp có thể.
4.2 Mối quan hệ tuyến tính giữa các chỉ số Bộ ba bất khả thi
Mặc dù phân tích trƣớc đây là có ích cho chúng ta hiểu đƣợc sự phát triển của
định hƣớng quốc tế về chính sách kinh tế vĩ mô theo thời gian, nhƣng họ không
cho thấy liệu các chính sách ba mục tiêu là "ràng buộc". Nói cách khác, nếu Bộ Ba
bất khả thi tồn tại ở Trung Quốc, thì ba chỉ số sẽ phải đánh đổi. Lựa chọn một
trong những mục tiêu chính sách trong Bộ ba bất khả thi có nghĩa là tăng một biến,
có thể nói cao hơn ở mở cửa thị trƣờng vốn, nên dẫn đến sự độc lập tiền tệ thấp,
hay sự ổn định tỷ giá hối đoái thấp hơn, hoặc kết hợp cả hai. Do đó, chúng tôi kiểm
tra tính hợp lệ của các hình thức đơn giản nhất của Bộ ba bất khả thi thông qua cân
bằng tuyến tính. Cụ thể, chúng tôi kiểm tra xem tổng trọng số của các biến ba
chính sách bằng một hằng số 1. Điều này sẽ cho phép chúng tôi để kiểm tra sự tồn
tại của Bộ ba bất khả thi, bằng cách kiểm tra mức độ của hồi quy tuyến tính. Công
thức hồi quy tuyến tính đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
1= aMIt + bERSt + cCMOt + t (4)
Nếu sự phù hợp của mô hình hồi quy cao, các đặc điểm kỹ thuật tuyến tính
tốt, thì đủ để giải thích sự cân bằng giữa ba mục tiêu chính sách. Tuy nhiên, sự phù
hợp thấp hơn sẽ đề xuất hoặc không tồn tại của Bộ ba bất khả thi, hoặc mối quan
hệ tuyến tính là nhạy cảm. Chúng tôi sử dụng dữ liệu từ năm 1996 đến năm 2009,
số liệu chính thức đầu tiên trọng số bình quân gia quyền của lãi suất quân qua đêm
-23-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
liên ngân hàng ở Trung Quốc, đƣợc sử dụng để xác định chỉ số MI, chỉ có thể đƣợc
thu thập từ năm 1996. Kết quả kiểm tra bằng Stata, có thể đƣợc tìm thấy trong
bảng 3.
Sự thích hợp cho các mô hình hồi quy trên là 94,78%, và mức độ phù hợp đã
điều chỉnh là 93,35%. Bằng chứng là một kết quả trên, mức độ phù hợp đủ để giải
thích sự cân bằng giữa ba mục tiêu chính sách ở Trung Quốc. Ngoài ra, Bảng 3
cũng chỉ ra mức ý nghĩa của các hệ số ƣớc lƣợng của ERS và EMO đủ cao để từ
chối giả thuyết. Mặc dù chúng tôi không thể từ chối giả thuyết cho hệ số MI thì kết
quả sẽ không có đƣợc ý nghĩa ở mức 0.1, chúng ta thấy rằng giá trị p-value của nó
là rất gần với 10%.
Tuy nhiên, các hệ số ƣớc lƣợng trong mô hình hồi quy trên chỉ có thể cung
cấp ƣớc tính trọng lƣợng cho ba chính sách mục tiêu, và không thể cung cấp đầy
đủ thông tin về mức độ chính sách mục tiêu của Trung Quốc đã thực sự đạt đƣợc.
Do đó, để nghiên cứu có bao nhiêu chính sách mục tiêu mà Trung Quốc muốn đạt
đƣợc, chúng tôi sử dụng các kết quả của các hệ số ƣớc tính và giá trị thực tế cho
các biến nhƣ:
Nhƣ là hiển nhiên từ lý thuyết bộ ba bất khả thi, bất cứ nƣớc nào cũng sẽ phải
đối mặt với ba sự kết hợp của ba mục tiêu chính sách. Là sự kết hợp độc lập tiền tệ
và ổn định tỷ giá hối đoái (aMI + bERS), sự kết hợp của sự ổn định tỷ giá hối đoái
và mở cửa thị trƣờng vốn (bERS + cCMO) và sự kết hợp của sự độc lập tiền tệ và
mở cửa thị trƣờng vốn (aMI + cCMO).
Hình 5 (a) mô tả "hiệu ứng tích lũy", đó là sự đóng góp hoặc ý nghĩa của một
sự kết hợp các chính sách lựa chọn. Tƣơng tự nhƣ vậy, hình 5 (b) mô tả "hiệu ứng
cá nhân", đó là ý nghĩa của một sự lựa chọn chính sách. Trong hình trên, chúng ta
thấy rằng trƣớc năm 2003, sự kết hợp độc lập tiền tệ và ổn định tỷ giá hối đoái
(aMI + bERS) là quan trọng hơn sự đóng góp của hai chính sách khác kết hợp.
Trong thời gian 2004-2009, tình hình trở nên phức tạp, nhƣ ba dòng chéo. Đặc biệt
là trong năm 2009, ba kết hợp chính sách lại với nhau là có ý nghĩa, vƣợt 1.
-24-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Nguồn: Authors’ calculation
Bên cạnh đó, những tác động cá nhân đƣợc mô tả bởi hình 5 (b) cho thấy tầm
quan trọng của ổn định tỷ giá hối đoái cao hơn so với mục tiêu hai chính sách khác
trƣớc năm 2004. Từ năm 2005 đến tầm quan trọng của sự ổn định tỷ giá hối đoái
giảm mạnh và bắt đầu giảm của việc mở cửa thị trƣờng vốn. Mặc dù nó phục hồi
đƣợc trong năm 2009, tầm quan trọng của tỷ giá hối đoái vẫn còn tụt lại phía sau
so với việc mở cửa thị trƣờng vốn, cho thấy sự phát triển của mở cửa thị trƣờng
vốn đang phát triển ở Trung Quốc đã trở thành một quá trình không thể tránh khỏi.
-25-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Vì vậy, theo mô hình này, Trung Quốc phải đối mặt với sự cân bằng giữa ba
lựa chọn chính sách Bộ ba bất khả thi. Nói cách khác, Trung Quốc có thể lựa chọn
nhiều nhất là hai mục tiêu chính sách trong độc lập tiền tệ, ổn định tỷ giá và mở
cửa thị trƣờng vốn, và bỏ lựa chọn kia. Trong phân tích này, chúng ta có thể đi đến
kết luận rằng Trung Quốc giữ lại một sự kết hợp độc lập tiền tệ và tỷ giá ổn định
trƣớc năm 2004. Sau năm 2005, tính toán của chúng tôi không thể hiện đƣợc một
sự kết hợp rõ ràng về lựa chọn chính sách, tuy nhiên, tầm quan trọng của thị trƣờng
vốn không thể phủ nhận đã tăng lên, trong khi tầm quan trọng của sự ổn định tỷ giá
hối đoái đã giảm.
5. Kết luận về bài nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi phân tích kích thƣớc của dòng vốn và
mức độ mở cửa thị trƣờng vốn ở Trung Quốc bằng cách sử dụng cả hai phƣơng
pháp đo lƣờng: de jure và fe facto. Mở cửa thị trƣờng vốn của Trung Quốc cải
thiện đáng kể do chính quyền Trung Quốc xúc tiến đẩy mạnh và áp lực từ dòng
vốn lớn từ nƣớc ngoài. Các dòng vốn lần lƣợt đã ảnh hƣởng phần lớn hoạch định
chính sách kinh tế vĩ mô ở Trung Quốc, dẫn đến khó khăn ngày càng tăng để giải
quyết Bộ ba bất khả thi. Suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến chính sách xa hơn về
tiền tệ tại Mỹ, trong đó sẽ tạo ra dòng vốn đầu cơ hơn vào các thị trƣờng các nƣớc
mới nổi, bao gồm cả Trung Quốc. Trong khi đó, chỉ số CPI tăng, buộc các quan
chức Trung Quốc thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ hiệu quả hơn để đối mặt với
áp lực lạm phát nghiêm trọng. Hiện nay, chính quyền Trung Quốc giảm bớt áp lực
lạm phát nhập khẩu bằng cách sử dụng việc kiểm soát dòng vốn đầu tƣ, nhƣng việc
kiểm soát này đƣợc chứng minh là tốn kém và không bền vững. Trong trƣờng hợp
này, chúng ta thấy rằng để duy trì sự độc lập tiền tệ, tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn
nên đƣợc thực hiện trong tƣơng lai. Tuy nhiên, nó không có nghĩa là một cách
đánh giá đồng nhân dân tệ, nhƣng để làm suy yếu các động cơ đầu cơ của các dòng
vốn ngắn hạn bằng cách mở rộng phạm vi giao động của tỷ giá hối đoái.
Tất nhiên, kiểm soát vốn hiện có và các quy định, trong đó có quy định "vĩ
mô thận trọng" là hợp lý. Kiểm soát vốn có thể ít nhất là có hiệu quả nhƣ là
ngƣỡng đầu tiên cho dòng vốn vào trong, và ở một mức độ cách ly Trung Quốc với
-26-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
các cuộc tấn công bên ngoài không ổn định. Quy định vĩ mô, bảo đảm an toàn có
thể là một cách để giảm bớt các vấn đề trong việc giải quyết tình trạng khó xử Bộ
ba bất khả thi trong một thời gian dài. Nhiều nghiên cứu về vấn đề này là cần thiết
trong tƣơng lai.
-27-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
PHẦN 2: BỘ BA BẤT KHẢ THI Ở VIỆT NAM
Các chỉ số độ ổn định tỷ giá (ERS), độc lập tiền tệ (MI) và độ mở tài chính
(KAOPEN) ở Việt Nam có nhiều điểm đặc trƣng riêng biệt nhƣng dƣờng nhƣ vẫn
không có thoát ra khỏi nguyên lý đánh đổi của bộ ba bất khả thi.
Để quan sát những thay đổi trong lựa chọn chính sách vủa Việt Nam, nhóm
đã sử dụng cơ sở dữ liệu của Chinn-Ito để phân tích và đồng thời so sánh Việt Nam
với một số quốc gia khác trong khu vực châu Á. Các quốc gia đƣợc lựa chọn bao
gồm 11 nƣớc (gọi tắc là Châu Á-11)1: Giai đoạn quan sát từ 1995 đến 2010 vì đây
là giai đoạn dữ liệu đầy đủ nhất cho Việt Nam, đồng thời cho thấy cả 2 quan sát
trong 2 cuộc khủng hoảng (khủng hoảng tài chính châu Á 1997 và khủng hoảng tài
chính 2008)
Ở Việt Nam, vai trò của các dòng vốn ngoại tệ rất quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu tăng trƣởng và phát triển kinh tế. Trong điều kiện các nguồn vốn
trong nƣớc còn nhiều hạn chế và chƣa đƣợc khơi thông hiệu quả, NHTW đã có
những động thái mở cửa dần tài khoản, nới lỏng các quy định kiểm soát chu
chuyển các dòng vốn. Việt Nam dần đối mặt với "Bộ ba bất khả thi". Để ổn định tỷ
giá, NHTW phải can thiệp thông qua thay đổi dự trữ ngoại hối, đồng nghĩa với
bơm và hút dòng nội tệ, tác động đến lãi suất và lạm phát một cách không mong
muốn, ảnh hƣởng đến tính độc lập của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, nếu các biện
pháp này đƣợc sử dụng có hiệu quả, có thể giảm nhẹ đƣợc sự đánh đổi giữa các
mục tiêu chính sách.
1 Mức độ ổn định tỷ giá (ERS)
Dữ liệu cho thấy trƣớc khủng hoảng tài chính châu Á , các nƣớc châu Á này
chủ yếu áp dụng chính sách tỷ giá kém linh hoạt. Trong thời kỳ khủng hoảng tài
chính, châu Á -11 gần nhƣ phải thả nổi tỷ giá. Sau khủng hoảng, đồng nội tệ của
các nƣớc này tiếp tục đƣợc neo theo USD, tuy nhiên xu hƣớng chung là các nƣớc
đang dần dần để cho tỷ giá trở nên linh hoạt hơn.
1 Việt Nam, Indonesia, Campuchia, Malaysia, Philipines, Singapore, Thái Lan, Hồng Kong, Hàn
Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ.
-28-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Trong số các quốc gia này, Trung Quốc và Hồng Kông là hai nơi kiên trì
nhất với mục tiêu ổn định tỷ giá – thể hiện qua chỉ số ERS của Hồng Kông liên tục
bằng 1 (ngoại trừ năm 2007), trong khi Trung Quốc chỉ mới bắt đầu nới lỏng kiểm
soát tỷ giá từ năm 2006).
Biểu đồ 6: Mức độ ổn định tỷ giá
Ở VN, chỉ số ERS cho thấy mức độ ổn định tỷ giá của VN đã có những thay
đổi rõ rệt. Đến trƣớc năm 2008, VN đã ƣu tiên lựa chọn mục tiêu ổn định tỷ giá và
kết quả là chỉ số ERS đã tăng vọt từ dƣới mức trung bình của khu vực lên trên mức
trung bình này với một khoảng cách đáng kể. Tuy nhiên, kể từ 2008, chỉ số ERS đã
đột ngột giảm mạnh (trung bình ở mức 0,44) - trở về thấp hơn mức trung bình của
khu vực. Điều này phù hợp với thực tế là tỷ giá USD/VND những năm gần đây đã
trở nên linh hoạt hơn nhiều với những lần điều chỉnh tỷ giá gần nhau hơn và sát với
thực tế thị trƣờng hơn.
2 Mức độ độc lập tiền tệ (MI)
Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, nếu hai trong ba chỉ số đã gia tăng thì chỉ số
còn lại chắc chắn sẽ đi theo xu hƣớng ngƣợc lại nhƣ một sự đánh đổi bắt buộc. Các
quốc gia châu Á gia tăng mức độ hội nhập tài chính trong khi vẫn muốn duy trì tỷ
giá hối đoái tƣơng đối ổn định đồng nghĩa với việc phải giảm mức độ tự chủ trong
chính sách tiền tệ.
-29-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
Thực tế VN đã chứng minh điều đó qua chỉ số độc lập tiền tệ MI. Chỉ số MI đạt
cao nhất 0,77 vào năm 1999 và thấp nhất 0,26 năm 2002 trƣớc khi trở về mức
trung bình khoảng 0,45. Nếu so với khu vực, MI của VN thƣờng xuyên cao hơn
mức trung bình của khu vực và khoảng cách này dƣờng nhƣ luôn đƣợc duy trì.
Mức độ độc lập trung bình của các nƣớc châu Á -11 dao động trong khoảng từ 0,4
– 0,5.
Biều đồ 7: Mức độ độc lập tiền tệ (MI)
3 Mức độ hội nhập tài chính (KAOPEN)
Chỉ số KAOPEN của khu vực gia tăng với tốc độ chậm so với giai đoạn trƣớc
khủng hoảng 1997 và giảm nhẹ sau năm 2008. Điều này cho thấy một sự cẩn trọng
của các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia đối với vấn đề hội nhập tài
chính. Sau khủng hoảng có vẻ nhƣ các nƣớc đang phát triển trong khu vực có tốc
độ hội nhập cao trƣớc đó đã xem xét lại những chính sách kiểm soát vốn và có
những bƣớc đi thận trọng hơn.
Chỉ số KAOPEN có xu hƣớng gia tăng rõ rệt ở VN sau mỗi cuộc khủng hoảng,
đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính 2008, cho thấy xu hƣớng mở cửa và hội nhập
ngày càng gia tăng của nền kinh tế. Mức độ hội nhập của VN luôn thấp hơn khu
vực, tuy nhiên khoảng cách đang dần đƣợc thu hẹp theo thời gian. Hình 3 thể hiện
rất rõ điều này.
Biểu đồ 8: Mức độ hội nhập tài chính (KAOPEN)
-30-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
4 Chính sách vô hiệu hóa của NHNN Việt Nam
Lạm phát biến động mạnh chủ yếu do mức độ độc lập của chính sách tiền tệ
suy giảm, dự trữ ngoại hối thấp và tỷ giá linh hoạt cùng các biện pháp vô hiệu hóa
kém hiệu quả.
Giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2008 và năm 2012, NHNN đã mua ngoại tệ
và gia tăng dự trữ ngoại hối ở quy mô lớn, khiến dƣ thừa thanh khoản tái diễn. Để
giảm nhẹ sự đánh đổi trong ràng buộc "Bộ ba bất khả thi", NHNN đã thực thi các
biện pháp can thiệp mang tính thị trƣờng thông qua thị trƣờng mở (nghiệp vụ hợp
đồng mua lại và phát hành tín phiếu NHNN).
Tuy nhiên, các biện pháp hấp thụ dòng vốn thừa mang lại hiệu quả chƣa cao
và NHNN buộc phải từ bỏ một phần tính độc lập của chính sách tiền tệ. Một
nguyên nhân quan trọng là do NHNN chỉ sử dụng biện pháp mang tính thị trƣờng
(thông qua thị trƣờng mở) mà ít sử dụng biện pháp phi thị trƣờng (thông qua dự trữ
bắt buộc), trong khi dự trữ bắt buộc đƣợc coi là biện pháp mang lại kết quả tƣơng
tự nhƣ gia tăng biện pháp dòng chu chuyển vốn ra vào nền kinh tế, tính độc lập của
chính sách tiền tệ sẽ cao hơn.
Công cụ dự trữ bắt buộc ít đƣợc áp dụng do hệ thống ngân hàng thƣơng mại
(NHTM) dễ bị tổn thƣơng và đang đối diện với các rủi ro thanh khoản, rủi ro nợ
xấu và rủi ro chéo. Vì thế, khó có khả năng chống đỡ thêm cú sốc từ gia tăng tỷ lệ
-31-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
dự trữ bắt buộc. Điều này đồng nghĩa nếu NHNN muốn gia tăng tính độc lập của
chính sách tiền tệ thì cần có những động thái quyết liệt hơn để tái cơ cấu hệ thống
NHTM, kiên quyết xử lý những ngân hàng nhỏ, thanh khoản và quản trị rủi ro kém
để có thể linh hoạt hơn trong việc sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
Thực tế, biện pháp "vô hiệu hóa" bằng dự trữ bắt buộc không hoàn toàn có ƣu
điểm, nếu lạm dụng, nó có thể bóp méo tài chính, cản trở sự phát triển của thị
trƣờng trái phiếu và thay đổi hành vi của các ngân hàng. Vì vậy, cùng với biện
pháp này, NHNN cần chấp nhận một mô hình "trung dung" hơn trong ràng buộc
"Bộ ba bất khả thi". Cụ thể là chấp nhận nới lỏng các quy định kiểm soát tỷ giá và
lựa chọn cách thức kiểm soát vốn hiệu quả, liên quan đến mở cửa khu vực nào và
mở đến đâu. Trong bối cảnh các giao dịch về vốn cần đƣợc tự do hóa theo thông lệ
và cam kết hội nhập, có những khu vực có thể kiểm soát chặt chẽ hơn, ví dụ nhƣ
kiểm soát nợ nƣớc ngoài.
Trong dài hạn, cần lựa chọn một mô hình chính sách hợp lý hơn để tránh
những hạn chế của các biện pháp vô hiệu hóa. Với định hƣớng chính sách lạm phát
mục tiêu đã đƣợc Nhà nƣớc công bố, việc duy trì ổn định tỷ giá thƣờng xung đột
với nguyên tắc lạm phát mục tiêu, đặc biệt là trong bối cảnh các luồng vốn nƣớc
ngoài luân chuyển liên tục, phức tạp và khó tiên định.
Do đó, năng lực điều hành cơ chế tỷ giá linh hoạt cần đƣợc tăng cƣờng,
những can thiệp hành chính của NHNN cần đƣợc gỡ bỏ, biên độ tỷ giá cần đƣợc
nới lỏng, tiến tới thả nổi tỷ giá có quản lý khi các điều kiện đã chín muồi.
5. Kết luận
Đối với Việt Nam, mẫu hình bộ ba bất khả thi ở Việt Nam mang những đặc
trƣng riêng, tuy nhiên vẫn không nằm ngoài khả năng giải thích của thuyết
Mundell – Fleming. Những phân tích về tình hình dự trữ ngoại hối cho thấy, Việt
Nam cũng có nhiều điểm tƣơng đồng với Trung Quốc, tuy nhiên, việc sử dụng yếu
tố này để can thiệp vào việc lựa chọn bộ ba bất khả thi ở Việt Nam trong tƣơng lai
gần là không khả thi vì qui mô dự trữ quá nhỏ. Kết quả kiểm định mô hình VAR
cho thấy những tác động của việc lựa chọn mẫu hình bộ ba bất khả thi và tỷ lệ lạm
-32-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
phát ở Việt Nam. Những phân tích định lƣợng chỉ ra rằng Việt Nam hiện đang lựa
chọn ổn định tỷ giá hơn là độc lập tiền tệ. Tuy nhiên, điều này lại không phù hợp
với mục tiêu hàng đầu của chính phủ hiện nay là kiềm chế lạm phát. Do đó, chúng
tôi đề xuất đất nƣớc chúng ta nên thực sự lựa chọn một chính sách tỷ giá thả nổi có
quản lí “chính hiệu” nhằm đạt đƣợc một mức độc lập tiền tệ cao hơn hƣớng tới
phục vụ cho mục tiêu kiềm chế lạm phát.
-33-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. ThS. Đinh Thị Thu Hồng (2012), “Tạp chí Phát Triển & Hội Nhập: Nghiên
cứu và trao đổi, Page 37-40”.
2. GS.TS Trần Ngọc Thơ và PGS. TS Nguyễn Ngọc Định, “Tài Chính Quốc Tế,
Chương 11: Bộ ba bất khả thi và những thay đổi trong cấu trúc vốn quốc tế”
Tiếng Anh
1. Aizenman, J., M. Chinn, and H. Ito. (2008), Assessing the Emerging Global
Financial rchitecture: Measuring the Trilemma’s Configurations over Time,
NBER Technical Report 14533. Cambridge: NBER.
2. Calvo, G., and Reinhart, C. (2000) Fear of Floating, NBER Working PaperNo.
7993
3. Ghose, Ajit K.. 2004. “Capital inflows and investment in developing
countries,” Employment Strategy Paper No. 11, Employment Sector,
International Labour Office, Morillons, Geneve.
4. Buigut, Steven and Vadhindran K. Rao. 2011. “International Financial
Integration of the Indian Money Market,” International Journal of Economics
and Finance, 3(4), 170-180.
5. Reinhart, Carmen M. and Vincent R. Reinhart. 2008. “Capital Inflows and
Reserve Accumulation: The Recent Evidence,” National Bureau of Economic
Research Working Paper No. 13842, National Bureau of Economic Research,
Cambridge, MA.
6. Aizenman, Joshua, Menzie D. Chinn, and Hiro Ito. 2010. “The Emerging
Global Financial Architecture: Tracing and Evaluating New Patterns of the
Trilemma Configuration,” Journal of International Money and Finance, Vol.
29, No. 4, 615–641.
7. Aizenman, Joshua, Menzie D.Chinn, and Hiro Ito. 2008. “Assessing the
Emerging Global Financial Architecture: Measuring the Trilemma's
Configurations over Time,” National Bureau of Economic Research Working
Paper No. 14533, National Bureau of Economic Research, Cambridge, MA.
8. Chen, Yulu. 2008. International Finance, Beijing, China Renming University
Press, 31
9. Hu, Zaiyong. 2011. “Trilemma Puzzled Capital Flows and Monetary Policy in
China,” Contemporary Finance & Economics, Vol. 7, 50-60.
10. Kose, M. Ayhan, Eswar Prasad, Kenneth Rogoff, and Shang-Jin Wei.
2006. “Financial Globalization: A Reappraisal,” International Monetary Fund
Working Paper No. 189, International Monetary Fund, Washington, DC.
-34-
Nhóm 8 – CHNH Đêm 1 – K22 GVHD: GS.TS Trần Ngọc Thơ
11. Altinkemer, Melike. 1998. “Capital Inflows and Central Bank’s Policy
Response”, Research Department Discussion Paper No.0103, Research and
Monetary Policy Department, Central Bank of the Republic of Turkey, Istiklal,
Ankara.
12. Chinn, Menzie D. and Hiro Ito. 2008. “A New Measure of Financial
Openness,” Journal of Comparative Policy Analysis, Vol. 10, No. 3, 307-320.
13. Prasad, Eswar and Jinwei Shang. 2005, “The Chinese Approach to Capital
Inflows: Patterns and Possible Explanations,” International Monetary Fund
Working Paper No. 79, International Monetary Fund, Washington, DC.
14. Sengupta, Abhijit. 2010. “Management of International Capital Flows: The
Indian Experience” MPRA Paper No. 23747, University Library of Munich,
Schackstr. Munich.
15. Taguchi, Hiroyuki. 2011. “Currency Regime and Monetary Autonomy:
Empirical Evidence Using Recent and Global Data from 1990 to 2007,”
International Economic Journal, 25(3), 341-358.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom8_lop_nhd1_k22_6999.pdf