LỜI NÓI ĐẦU
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến tích cực, toàn diện, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, tỷ lệ lạm phát thấp, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt.Góp phần vào thành quả đó có sự nỗ lực của nghành Ngân hàng.Hệ thống Ngân hàng đã từng bước tạo lập được vị thế của mình trong đời sống dân cư cũng như từng bứơc hội nhập với các Ngân hàng trong khu vực cũng như trên thế giới. Để thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán & quản lý các phương tiện thanh toán, đòi hỏi hệ thống Ngân hàng không ngừng đổi mới, hoàn thiện và mở rộng các phương tiện TTKDTM nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
TTKDTM là một nghiệp vụ phức tạp nhưng rất quan trọng đối với NH.Một trong những phương tiện TTKDTM có nhiều tiện lợi, đem lại hiệu quả kinh tế cao đó là việc sử dụng séc.
Ở Việt nam, séc là hình thức thanh toán không còn mới mẻ, nhưng chưa được mọi người quan tâm đúng mức.Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ nhiều phía:thu nhập bình quân đầu người thấp, dân trí chưa cao dẫn đến hiểu biết về séc trong dân cư còn hạn chế,NH chưa thực hiện tốt vai trò chung gian thanh toán của mình, chưa làm cho dân chúng thấy được lợi ích của việc dùng séc hơn dùng tiền mặt.Từ đó làm cho séc chưa được sử dụng rộng rãi trong thanh toán.Như vậy nhiệm vụ đặt ra đối với hệ thống NH Việt nam là phải hoàn thiện công tác thanh toán nói chung và TTKDTM bằng séc nói riêng. Để tạo cho séc trở thành phương tiện lưu thông rộng rãi trong xã hội,phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Với những lý do trên, em chọn đề tài:”Giải pháp mở rộng & hoàn thiện hình thức thanh toán bằng séc tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quận Thanh xuân”
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI CHỨC NĂNG TRUNG GIAN THANH TOÁN & QUẢN LÝ CÁC PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN CHO NỀN KINH TẾ 6
1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN & VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 6
1.1. Sự cần thiết khách quan của tanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị trường: 6
1.2. Đặc điểm và vai trò thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. 8
2. CÁC QUY ĐỊNH MANG TÍNH NGUYÊN TẮC & NỘI DUNG CÁC HÌNH THỨC THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT. 12
2.1. Các nguyên tắc thanh toán không dùng tiền mặt 12
2.2. Nội dung các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đang áp dụng tại Việt Nam . 15
3. THANH TOÁN BẰNG SÉC VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG THANH TOÁN BẰNG SÉC TẠI VIỆT NAM 18
3.1. Séc và các quy định mang tính nguyên tắc trong sử dụng séc. 18
3.2. Nội dung và hình thức thanh toán bằng séc. 23
3.3. Quy trình thanh toán Séc. 30
4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT VÀ THANH TOÁN BẰNG SÉC NÓI RIÊNG. 31
4.1. Môi trường kinh tế. 31
4.2. Môi trường pháp lý. 32
4.3. Khoa học và công nghệ. 32
4.4. Về yếu tố con người. 33
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THANH TOÁN SÉC TẠI NHNO&PTNT QUẬN THANH XUÂN 35
1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ NHNO&PTNT QUẬN THANH XUÂN 35
1.1. Tình hình kinh tế-xã hội địa bàn ảnh hưởng tới hoạt động Ngân hàng: 35
1.2. Sự ra đời của NHNo&PTNT Thanh Xuân. 36
1.3. Khai quát tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân. 38
2. THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN 46
2.1. Tình hình chung về thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân. 46
2.2. Thực trạng thanh toán séc tại NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân. 53
3. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG TTKDTM NÓI CHUNG VÀ THANH TOÁN BẰNG SÉC NÓI RIÊNG TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN. 58
3.1. Đối với TTKDTM nói chung. 58
3.2. Đối với thanh toán bằng séc. 60
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN HÌNH THỨC THANH TOÁN BẰNG SÉC TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN 62
1. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN. 62
2. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN THANH TOÁN BẰNG SÉC TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN 63
2.1. Giải pháp mở rộng thanh toán bằng séc. 63
3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT. 68
3.1. Với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội 68
3.2. Đối với chính phủ,NHNN. 69
KẾT LUẬN 74
74 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3301 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Giải pháp mở rộng và hoàn thiện hình thức thanh toán bằng séc tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quận Thanh xuân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ian đầu còn gặp nhiều khó khăn, giải quyết công việc còn chậm.Tuy nhiên được sự quan tâm của NHNo Thành phố, nhân viên được đào tạo lại theo các lớp nghiệp vụ vừa học vừa làm, nên đến nay công tác ngân quỹ đã cơ bản đi vào nề nếp, đảm bảo hạch toán kịp thời các nhgiệp vụ phát sinh để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.Thời gian qua NH đã không ngừng hoàn thiệ công tác thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ và các hình thức thanh toán khác đảm bảo thanh toán cho khách hàng được nhanh chóng, an toàn , chính xác góp phần đẩy mạnh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế, đồng thời đảm bảo thanh toán theo đúng thể lệ, chế độ mà các cấp có thẩm quyền ban hành.Cụ thể đến 31/12/2003 số tài khoản cá nhân là 1496 tài khoản, số tài khoản của các đơn vị kinh tế là 325 tài khoản.Tổng doanh số thanh toán chung là:94.224 món với số tiền là 15.533.037 triệu đồng, trong đó thanh toán bằng tiền mặt là 1339 món, doanh ssố thanh toán là 774.741 triệu đồng, còn lại là thanh toán không dùng tiên mặt (92.885 món, doanh số thanh toán là 14.758.296 triệu đồng) gồm:
+Doanh số thanh toán bù trừ là 8.061.645 triệu đồng, chiếm 51,9% trong tổng doanh số thanh toán.
+Doanh số thanh toán nội bộ là 1.848.431 triệu đồng, chiếm 11,9% tổng doanh số thanh toán .
Ngoài ra còn thanh toán chuyển tiền khác hệ thống và thanh toán qua Ngân hàng Nhà Nước.
Qua đây ta thấy,NHNo&PTNT Quận Thanh xuân đã làm tốt công tác thanh toán so với kế hoạch đã đề ra, tỷ trọng thanh toán qua NH, tốc độ thanh toán qua NH ngày càng tăng, hạn chế những sai sót, tạo dựng lòng tin và uy tín với khách hàng.
THỰC TRẠNG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN
Tình hình chung về thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân.
Trong xu thế hội nhập giữa Việt nam với thế giới ngày càng nhanh chóng, đồng thời đến đầu năm 2010, hội nhập kinh tế quốc tế trong nghành ngân hàng sẽ diễn ra.Khi các cam kết trong hiệp định thương mại Việt-Mỹ được thực hiện, khi đó cạnh tranh giữa các NH để giành thị phần sẽ diễn ra vô cùng khốc liệt.Nhận thức được vấn đề đó các NH Việt nam đã có những biện pháp nhất định để phát huy được những lợi thế vốn có và khắc phục những hạn chế, khó khăn gặp phải trong quá trình kinh doanh.Cùng với việc cơ cấu lại hệ thống tài chính, tiến hành hiện đại hoá công nghệ NH,..thì việc quan tâm công tác huy động vốn và sử dụng vốn và công tác thanh toán qua NH là vô cùng quan trọng.TTKDTM phát triển cả về số lượng và chất lượng được nhận định là yếu tố tất yếu cần thiết trong nền kinh tế thị trường trước thềm hội nhập.
Tại NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân, TTKDTM đã được NHNo Thành phố và Ban Giám đốc chỉ đạo quan,tâm phát triển.Các nhân viên NH được quán triệt để đưa dịch vụ này đến với khách hàng, xoá dần tâm lý ngại đến NH, tâm lý ưa dùng tiền mặt trong dân cư.Vì vậy,NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân đã thu được kết quả khả quan, điều đó được thể hiện ra là :doanh số TTKDTM tăng nên hàng năm, số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán qua NH được nâng lên, làm tăng thui về dịch vụ NH.Tính đến ngày 31/12/2003 số lượng tài khoản giao dịch của khách hàng mở tại NH là 1496 tài khoản, tăng nhiều so với năm 2001,2002
Đồ thị 1: Sự tăng trưởng tài khoản giao dịch tại NHNo&PTNT Thanh xuân
TÀI KHOẢN GIAO DỊCH
(Nguồn:Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2001,2002,2003 tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân)
Qua đây ta thấy chất lượng thanh toán qua NHNo&PTNT Quận Thanh xuân ngày càng được nâng cao, TTKDTM của chi nhánh ngày càng được mở rộng.
NHNo&PTNT Quận Thanh xuân luôn xác định tầm quan trọng của công tác thanh toán không dùng tiền mặt, bởi nó không chỉ làm tăng thêm thu nhập qua công tác dịch vụ và tăng thêm nguồn vốn trong thanh toán với lãi xuất cho ngân hàng mà còn giúp cho khách hàng ở mọi thành phần kinh tế quen dần với việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt thông qua ngân hàng và chính họ sẽ nhận thấy sự vượt trội của thanh toán không dùng tiền mặt.
Tích cực đổi mới công tác thanh toán, mở rộng quan hệ với khách hàng cũng như với các ngân hàng bạn, NHNo&PTNT Quận Thanh xuân đã góp phần đưa hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đến với mọi khách hàng và ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng.
Biểu 3: Tình hình sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong năm 2002, 2003
Các hình thức thanh toán
Năm 2002
Năm 2003
So sánh 2002/2003
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số tiền
%
1.Séc thanh toán
1.342
7.523
2.242
158.565
83.335
+110,7
2.Uỷ nhiệm chi
40
854
256
1.592,9
+298,9
+35
3.Uỷ nhiệm chi-chuyển tiền
15.3326
1.080.233
89.264
14.687.489
13.607.256
+126,5
4.Thư tín dụng
-
-
-
-
5.Thẻ
-
-
423
12.369
12.369
100
6.Tổng doanh số thanh toán
16.708
1.157.317
92.885
14.758.296
13.600.979
11,7
(Nguồn:Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2002, 2003 của NHNo&PTNT Quận Thanh xuân)
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: các thể thức thanh toán có những biến động khác nhau.Có thể thức thanh toán nhanh, có thể thức thanh toán chậm, có thể thức không sử dụng đến.
Các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt của NH đều tăng cả về số món và doanh số thanh toán. Điều đó là phù hợp với xu hướng hoạt động của NH,là phát triển các dịch vụ hiện đại và đa năng.Tuy nhiên tốc độ phát triển của mỗi thể thức thanh toán khác nhau là khác nhau và chưa có sự đồng đều lắm. Đó là do nhiều yếu tố trong đó có nhu cầu và sự lựa chọn của khách hàng.Xét về cơ cấu thanh toán không dùng tiền mặt, chủ yếu các khách hàng vẫn sử dụng các công cụ:UNT,UNC,séc, thẻ…đặc biệt là hình thức thanh toán UNC rất được khách hàng ưa chuộng, nên sau các năm nó đạt tốc độ tăng nhanh nhất.Ngược lại thư tín dụng trong nước lại là hình thức ít sử dụng nhất , có lẽ do thủ tục thanh toán thư tín dụng phức tạp, lại gây ứ đọng vốn cho khách hàng xin mở thư tín dụng.Và một điều dễ nhận thấy trong TTKDTM là khách hàng đã chuyển hướng sang dùng thẻ thanh toán. Đấy là hình thức rất mới đem lại nhiều tiện ích được nhiều NH quan tâm phát triển để thu hút khách hàng.
Dưới sự chỉ đạo và tạo điều kiện của NHNo Thành phố Hà nội, trong thời gian qua hoạt động TTKDTM tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân cũng đạt được những kết quả khả quan:từ 16.708 món trong năm 2002 nên 92.858 món trong năm 2003, doanh só thanh toán của năm 2002 là 1.157.317 triệu đồng, đã tăng nên 14.758.296 triệu đồng trong năm 2003, từ đó giúp NH tăng thu từ hoạt động thanh toán, tăng nguồn vốn và tăng khả năng cạnh tranh.
TTKDTM tại NHNo&PTNT Thanh xuân được thể hiện qua các thể thức thanh toán sau:
2.1.1. Thanh toán bằng séc
Séc được coi là một công cụ thanh toán phổ biến nhất, và không thể mất đi trong nền kinh tế hiện đại.Nguyên nhân chính là nó thuận tiện cho cả người mua, người bán trong thanh toán, thủ tục có phần đơn giản dễ sử dụng, thời gian thanh toán nhanh.Tuy nhiên, tốc độ phát triển của thanh toán bằng séc vẫn đứng sau UNC-chuyển tiền.
2.1.2. Thanh toán bằng UNC-chuyển tiền:
Ngày 26/03/2002, NHNN ban hành quyết định số 226/2002/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán quy định: UNC được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán trong cùng một tổ chức cung ứng dịch vụ hoặc giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Trong thời gian không quá một ngày kể từ khi nhận được UNC do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người trả tiền gửi đến, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng phải ghi Có ngay vào tài khoản của người thụ hưởng theo yêu cầu của UNC đó.
Là một trong những hình thức thanh toán chiếm tỷ trọng cao nhất cả về số món cũng như doanh số thanh toán.Tính đến cuối năm 2003, thanh toán bằng UNC đạt 89.264 món (tăng 73.938 món so với năm 2002), doanh số thanh toán cũng tăng từ 1.080.233 triệu đồng nên 14.687.489 triệu đồng (đạt tốc độ tăng 126,5%).Khách hàng ưa dùng hình thức này, bởi phạm vi áp dụng của UNC rộng rãi, thủ tục thanh toán đơn giản, quy trình luân chuyển chứng từ nhanh..phù hợp trong thanh toán tiền hàng hoá dichj vụ với những món giá trị lớn.
Tuy vậy, thể thức thanh toán này vẫn chỉ được áp dụng trong trường hợp khách hàng tín nhiệm lẫn nhau, vì nếu không mức độ rủi ro vẫn lớn cho cả hai bên do thưòi gian giao hàng không trùng khít với thời gian lập UNC.Vì thế, bên bán hàng sẽ bị thiệt hại nếu bên mua lập UNC muộn hơn thời gian giao hàng.Ngược lại bên mua sẽ bị thiệt nếu đã lập UNC rồi mà vẫn chưa nhận được hàng theo đúng thời hạn thoả thuận.
Còn về séc chuyển tiền cầm tay :Hiện nay hình thức này rất ít được sử dụng.Nguyên nhân là do séc bị giới hạn trong phạm vi hẹp, hầu hết người dân hiện nay sử dụng dịch vụ chuyển tiền tự động tại NH, thay cho sử dụng séc chuyển tiền vùă gặp rủi ro mất séc, mất thời gian nhiều hơn.
2.1.3. Thanh toán bằng uỷ nhiêm thu.
Theo quyết điịnh số 226/QĐ-NHNN ngày 26/03/2002 của thống đốc NHNN quy định thì hình thức này được áp dụng trong thanh toán giữa những người sử dụng dịch vụ thanh toán có mở tài khoản trong nội bộ tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoặc gữa các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, trên cơ sở thoả thuận hoặc hợp đồng về các điều kiện thu hộ giữa hai bên trả tiền và bên thụ hưởng.
Trong thời gian không quá một ngày làm việc kể từ thời điểm nhận được UNT do tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người thụ hưởng gửi đến, tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phục vụ người trả tiền phải hoàn tất việc trích tài khoản của người đó có đủ tiền để thực hiện giao dịch thanh toán; hoặc báo cho người trả tiền biết nếu tài khoản của người đó không đủ tiền để thực hiện giao dịch thanh toán.
Tại NHNo Thanh xuân, nhìn vào bảng số liệu ta thấy:Thanh toán bằng UNT có tăng nhưng tăng cả về số món thì nhiều (từ 40 món nên 256 món) trong khi doanh số thanh toán lại ít hơn (từ 854 triệu lên 1.152,9 triệu đồng nên giá trị mỗi món là không lớn lắm. Các món này thông thường như:thu tiền điện, điện thoại, tiền nước..Vì vậy, hình thức thanh toán UNT từ cá nhân rất ít vài tháng mới có một món với số tiền nhỏ.Ngoài ra, muốn sử dụng hình thức này bên bán và bên mua phải dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế, trên đó ghi những điều kiện cụ thể đã thoả thuận giữa hai bên và thông báo bằng văn bản cho NH phục vụ mình biết.Do đó , hình thức này có phần gò bó hơn một số hình thức khác.
Xét về mức độ an toàn, trong thanh toán UNT, quyền chủ động trả tiền vẫn thuộc về bên mua và NH tiến hành thu hộ trên cơ sở giấy đòi tiền và hoá đơn giao hàng của người bán với người mua không đảm bảo khả năng tài chính để thanh toán thì người bán không biết khi nào mới nhận được tiền.Tuy nhiên,NH vẫn luôn tìm cách khắc phục những hạn chế vốn có của nó như: tìm mọi biện pháp thanh toán nhanh gọn, chính xác những phát sinh trong điều kiện có thể là bên mua đủ khả năng thanh toán.
2.1.4. Thanh toán bằng TTD nội địa.
TTD nội địa được sử dụng trong quan hệ thương mại giữa các tổ chức trong nền kinh tế.Thực hiện thanh toán bằng TTD, cả hai bên bán, mua đều phải làm rất nhiều thủ tục giấy tờ thủ tục,vì vậy mà tốn thời gian, việc thanh toán chậm hơn so với các hình thức khác.Thông thường, mỗi giao dịch bằng TTD có giá trị lớn nên khách hàng thường mở tại các NH lớn có quy mô, có uy tín.NHNo&PTNT Quận Thanh xuân tính cho đến nay vẫn chưa có một món thanh toán bằng TTD nào.Mặc dù hình thức này chưa phổ biến nhưng để tăng khả năng cạnh tranh, trong tương lai,NH cũng phải quan tâm nhiều hơn nữa hình thức này, đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nhằm đa chủng loại các hình thức thanh toán.
2.1.5. Thanh toán bằng thẻ thanh toán.
Trong vài năm trở lại đây, thẻ bắt đầu được người tiêu dùng biết đến và ưa chuộng.Có lẽ ban đầu đầ nó hấp dãn khách hàng bởi sự mới lạ , còn về sau khách hàng bị thuyết phục bởi những tiện ích mà nó mang lại.Cùng với nhịp sống và thu nhập, nhu cầu ngày một tăng, nhu cầu thanh toán thẻ cũng tăng.Tuy nhiên trong thời gian đầu, muốn ứng dụng công nghệ thẻ thì phải đầu tư rất lớn mà không phải NH nào cũng làm được,NH luôn phải cân đối giữa thu nhập và chi phí bỏ ra của mình.
Ở Việt Nam, một số NH, tổ chức có uy tín cũng phát hành nhiều loại thẻ như:Thẻ thông minh,ATM… với nhiều tiện ích.NHNo&PTNT Quận Thanh xuân cũng được NHNo Thành phố Hà nội chỉ đạo triển khai để cung ứng cho khách hàng nhiều loại thẻ nhưng chủ yếu hiện nay chỉ cung ứng thẻ rút tiền ATM.
Trong năm 2003, số thẻ đã phát hành là 423 thẻ, với tổng doanh số thanh toán là 12.369 triệu đồng, tăng 100% so với năm 2002.Ngoài ra, NH còn nhận làm đại lý cho các thẻ như:Master Card, Visa, ACB card..Với thẻ ATM, ngân hàng quy định phí phát hành thẻ là 50.000đ/thẻ nếu phát hành thường và phát hành nhanh là 100.000đ/thẻ.Phí cấp lại thẻ là 50.000đ/thẻ.Miễn phí rút tiền, xem sao kê, vấn tin số dư…(Theo biểu phí tháng 4 năm 2004 của NH) mức phí này phù hợp cho cả NH và cả khách hàng nhất là trong giai đoạn đầu tư ban đầu của công nghệ thẻ.
Thực trạng thanh toán séc tại NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân.
2.2.1. Thực trạng thanh toán séc.
Séc là một công cụ thanh toán rất hữu ích và phổ biến ngay cả trong nền kinh tế hiện đại.Nó có nhiều lợi thế hơn hẳn các hình thức TTKDTM khác. Để điều chỉnh hình thức thanh toán này , Chính phủ đã đưa ra nghị định NĐ30/CP ngày 09/05/1996-Ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc. Đến ngày 10/12/2003, Chính phủ ban hành nghị định 159/2003/NĐ-CP về cung ứng và sử dụng séc.Nghị định này thay thế cho nghị định 30 đã khắc phục được một số bất hợp lý trước đây, tạo nhiều điều kiện cho khách hàng khi thanh toán séc.Tuy nhiên, do nhiều lý do mà séc vẫn chưa được sử dụng nhiều ở nước ta.
Đến nay vẫn còn nhiều ý kiến trái ngược.Nhiều người cho rằng séc là một công cụ trong TTKDTM rất nhiều lợi ích cả về quản lý vĩ mô và vi mô, đồng thời đảm bảo an ninh,an toàn cao hơn tiền giấy.Bên cạnh đó không ít ý kiến cho rằng sự phát triển mạnh của CNTT, hệ thống thanh toán điện tử trực tuyến, ATM phát triển thì không cần phải phát triển séc, hơn nữa trên thế giới đã có sự khuyến cáo về sự “ra đi” của séc trong tương lai, nêu ta sử dụng sẽ nỗi thời và lãng phí..
Ý kiến nào hợp với hoàn cảnh Việt Nam ?Khuyến cáo là vậy, nhưng thực tế trên thế giớ lại không như vậy, bởi khi điều kiện từng gia đình chưa thể có đủ máy tính để giao dịch trực tuyến thì séc đã là công cụ không thể thiếu của mỗi người dân.Việc “loại bỏ” séc ra khỏi cuộc sống là không dễ.
Tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân, tình hình thanh toán séc thể hiện qua bảng sau:
Biểu 4:Tình hình thanh toán séc tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân
Loại séc
Năm 2002
Năm 2003
Món
%
Doanh số
(triệu đồng)
Món
Món
%
Doanh số
(triệu đồng)
%
Séc chuyển khoản
1.238
92,3
69.93
92,9
2.030
90,05
140.215
88,4
Séc bảo chi
104
7,7
5300
7,1
212
9,95
18.350
11,6
Tổng
1.342
100
75.23
100
2.242
100
158.565
100
(Nguồn :báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm 2002,2003 tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân)
2.2.1.1.Séc chuyển khoản
Qua biểu trên ta thấy , thanh toán bằng séc chuyển khoản chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng doanh số thanh toán séc tại NH(chiếm 92,9% trong năm 2002 và 88,4% trong năm 2003).Năm 2002, thanh toán bằng SCK đạt 1.238 món, tăng 792 món khi sang năm 2003, theo đó doanh số thanh toán tăng từ 69.930 triệu đồng trong năm 2002 lên 140.215 triệu đồng trong năm 2003.
Trong cơ cấu séc của NH có ba loại séc được sử dụng là Séc chuyển khoản , séc bảo chi, séc lĩnh tiền mặt.Trong đó Séc chuyển khoản luôn chiếm ưu thế đặc biệt bởi tính tiện lợi của nó.Séc chuyển khoản không cần đòi hỏi phải để riêng một khoản tiền để đảm bảo thanh toán như làm thủ tục séc bảo chi. Ngoài ra, thanh toán bằng séc chuyển khoản có những ưu điểm sau:
Thủ tục phat hành séc đơn giản, người mua có thể ký phat séc và giao cho người bán ngay tại nơi xảy ra giao dịch mà không phải đến NH làm bất kỳ một thủ tục nào.Như vậy sẽ giảm được phiền hà, tíêt kiệm được thời gian cho người mua (người phát hành).
Hạch toán séc chuyển khoản không phải qua bất kỳ một tài khoản trung gian nào nên công tác kế toán đơn giản hơn, đặc biệt đối với trường hợp hai khách hàng có tài khoản tại cùng một NH.Và do không phải ký gửi tiền vào tài khoản riêng để thanh toán trước khi giao séc cho người thụ hưởng nên người phát hành séc không bị mất một khoản lợi trên số tiền ký gửi như séc bảo chi.
Tuy nhiên, thanh toán bằng séc chuyển khoản cũng bộc lộ một số nhược điểm sau:
-Người mua có thể phát hành quá số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại NH, do đó người bán có thể bị chiếm dụng vốn, làm ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh.
-Hạch toán thanh toán séc chuyển khoản phải tuân theo nguyên tắc ghi Nợ tài khoản người phát hành trước, ghi Có tài khoản người thụ hưởng sau.Vì vậy, quy trình luân chuyển chứng từ vòng vèo mất nhiều thời gian, đặc biệt thanh toán khác NH.
-Để thanh toán bằng séc chuyển khoản, hai bên mua bán phải có sự tín nhiệm lẫn nhau giống UNC.Song thực tế tại NHNo&PTNT Quận Thanh Xuân thì thanh toán bằng séc chuyển khoản trong tổng thanh toán lại thấp hơn rất nhiều so với UNC. Điều này có thể xuất phát từ thời gian thanh toán séc chuyển khoản kéo dài và phạm vi hẹp.Nhưng kết quả ban đầu cho thấy thanh toán bằng séc nói chung và thanh toán bằng séc chuyển khoản có nhiều triển vọng.
Như vậy,NHNo&PTNT Quận Thanh xuân nói riêng và NH Việt Nam nói chung cần có những giải pháp hữu hiệu để khắc phục những hạn chế trong thanh toán séc chuyển khoản, giúp séc chuyển khoản phát huy được hết những ưu điểm vốn có của nó.Từ đó mở rộng TTKDTM góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước.
2.2.1.2. Séc bảo chi
Là một hình thức TTKDTM rất tiện nợi nhưng séc bảo chi lại được sử dụng với khối lượng rất nhỏ so với tổng TTKDTM.Trong năm 2002, thanh toán bằng séc bảo chi đạt 104 món, doanh số thanh toán là 5.300 triệu đồng, sang năm 2003 tăng lên 212 món, doanh số tăng lên 18.350 triệu đồng.Nói chung tỷ trọng thanh toán bằng séc bảo chi tăng do séc bảo chi đã phát huy được ưu điểm trong thanh toán của của nó là:
Đứng ở góc độ người thụ hưởng:người thụ hưởng không phải lo lắng có được thanh toán hay không vì trước khi giao tờ séc cho người thụ hưởng, người phát hành đã làm thủ tục đảm bảo thanh toán tờ séc tại NH .
Ngoài ra ưu điểm của séc bảo chi còn thể hiện:quy trình luân chuyển chứng từ chỉ diễn ra một chiều làm cho thời gian thanh toán séc bảo chi được rút ngắn lại, người bán nhận được tiền ngay khi họ nộp séc vào NH. Ưu điểm này giống UNC.Tuy nhiên khối lượng và doanh số thanh toán bằng UNC lớn hơn rất nhiều so với thanh toán bằng séc bảo chi.Cụ thể trong năm 2003, thanh toán bằng UNC lớn hơn séc bảo chi là 14.528.924 triệu đồng.
Thực trạng trên do thanh toán bằng séc bảo chi có những hạn chế sau:
Trước khi giao séc cho người thụ hưởng, người phát hành phải làm thủ tục bảo chi tờ séc bằng cách trích từ tài khoản tiền gửi của mình một số tiền tương ứng ghi trên séc lưu ký vào một tài khoản riêng và không được hưởng lãi trên số tiền gửi đó, đây là một thiệt thòi đối với người phát hành séc bảo chi.Do đó người mua không ưu chuộng sử dụng séc bảo chi mà thay vi sử dụng tiền mặt, thì UNC rất nhiều trong thanh toán.
Phạm vi thanh toán của séc bảo chi còn hẹp(thanh toán cùng NH, khác NH cùng hệ thống, khác NH có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn Tỉnh, Thành phố).Như vậy hai bên mua-bán có tài khoản tại hai NH khác hệ thống, khác tỉnh, thành phố thì không áp dụng thanh toán bằng séc bảo chi được.
Những nhược điểm của thanh toán séc chính là rào cản lớn trong việc mở rộng, phát triển hình thức này .Tại những nước phát triển trên thế giới séc được sử dụng rất phổ biến và rộng khắp với khối lượng và doanh số rất lớn.Thanh toán bằng séc phát triển đã góp phần rất lớn vào việc mở rộng và phát triển TTKDTM.Vì vậy NH Việt nam nói chung,NHNo&PTNT Quận Thanh xuân nói riêng cần có những biện pháp mở rộng và phát triển thanh toán bằng séc góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.
Trên đây là hai loại séc thanh toán chủ yếu tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân trong thời gian qua.Tại một số NH hai loại séc này có khác nhau không chỉ bởi dấu bảo chi trên séc, không chỉ bởi hai đường gạch song song ở góc trái séc, mà còn khác nhau về mầu sắc trên bề mặt tờ séc.Còn tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân, cả hai loại séc này đều giống nhau cả về kích cỡ và mầu sắc.Trong quá trình thanh toán hai loại séc này, do số dư tối thiểu trên tài khoản tiền gửi của khách hàng là 100.000đ (nếu khách hàng là cá nhân) và là 1.000.000đ (nếu khách hàng là doanh nghiệp) nên hạn mức phát hành séc đối với người ký phát tối thiểu là 100.000đ(nếu người ký phát là cá nhân) và là 1.000.000đ(nếu người ký phát là doanh nghiệp), tối đa bằng số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng.Nếu phát hành quá số dư trên tài khoản, người phát hành séc sẽ bị sử lý theo quy định.Ngoài ra.NHNo&PTNT Qụân Thanh xuân còn cung ứng cho khách hàng các loại séc khác như:séc ngoại tệ(séc du lịch, séc nhờ thu quốc tế..)tuy nhiên các séc này chưa phát sinh tại NH.
ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG TTKDTM NÓI CHUNG VÀ THANH TOÁN BẰNG SÉC NÓI RIÊNG TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN.
Đối với TTKDTM nói chung.
Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh xuân hoạt động trên địa bàn Quận Thanh xuân, nơi có nhiều chi nhánh NH, tổ chức tín dụng hoạt động, cạnh tranh mạnh mẽ trong kinh doanh.Mặc dù thời gian hoạt đông chưa lâu(7 năm)nhưng NHNo&PTNT Quân Thanh xuân đã kế thừa và phát huy tốt truyền thống, vươn lên khẳng định vị trí và uy tín của mình trên địa bàn, đóng góp vào sự phát triển kinh tế của quận cũng như của Thành phố.Cùng với các lĩnh vực huy động vốn, cho vay, NH cũng khẳng định được thế mạnh của mình trong lĩnh vực thanh toán.
Trong những năm qua, do nhận thức được vai trò đúng đắn cũng như sự cần thiết của công tác TTKDTM qua NH, được sự quan tâm của NHNo&PTNT Thành phố, NHNo&PTNT Quận Thanh xuân đã đầu tư, đổi mới công nghệ thu hút khách hàng đến với NH.Năm 2003, NH đã sử lý 16.708 món với doanh số 1.157.317 triệu đồng.Sang năm 2003, số món đã tăng lên là 92.885 món với doanh số thanh toán là 14.758.296 triệu đồng.Từ đó giúp NH tăng thu dịch vụ cho NH lên 14%(Theo nguồn cân đối kế toán năm 2003).Có thể nói, NH đã đạt tốc độ tăng trưởng qua các năm, hoàn thành tốt kế hoạch năm đề ra.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại trong công tác TTKDTM ở NHNo&PTNT Quận Thanh xuân. Đánh giá những tồn tại trong công tác này thể hiện trên những mặt sau:
+Cơ sở pháp lý về TTKDTM có nhưng hạn chế và chưa đồng bộ.
+Trong nền kinh tế thị trường sôi động và có độ nhậy cảm cao,TTKDTM có tăng nhưng chưa phù hợp với nhịp độ.Các phương thức TTKDTM chủ yếu chỉ áp dụng đối với các đơn vị quốc doanh và các doanh nghiệp tư nhân, chưa phổ biến rộng rãi trong dân cư.
+TTKDTM chưa được áp dụng đồng đều chỉ tập trung vào một số hình thức như:UNC-chuyển tiền, séc, thẻ còn một số hình thức khác thì ít dùng hơn:TTD,UNT,.. chúng không được khách hàng lựa chọn.Nguyên nhân của tồn tại này là do chính nhược điểm của cả hai hình thức đó:Thanh toán bằng UNT sẽ gây bất lợi cho người bán, vì việc thanh toán tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua.Chính vì vậy, thanh toán UNT chỉ được áp dụng cho những công ty kinh doanh dịch vụ công cộng thiết yếu mang tính thường xuyên như: điện, nước, điiện thoại,..Còn thanh toán TTD , người ta chỉ áp dụng thanh toán với người nước ngoài, có khoảng cách về không gian và thời gian, khi đó thanh toán bằng TTD là an toàn nhất.Nhưng phạm vi trong nước thì TTD không được sử dụng vì tâm lý người bán đều muốn thanh nhanh bằng tiền mặt ở mọi khoản.Do vậy,TTD nội địa không được khách hàng lựa chọn trong thanh toán.
+Một tồn tại nữa là trình độ, đội ngũ cán bộ kế toán chưa đồng đều, còn nhiều bất cập so với yêu cầu của công tác TTKDTM. Điều này tác động không nhỏ đến sự phát triển chung của chi nhánh trong giai đoạn này.
Đối với thanh toán bằng séc.
Tình hình thanh toán bằng séc tại NHNO&PTNT Quận Thanh xuân trong những năm qua đều tăng so với dự kiến.Trong năm 2003, theo kế hoạch của NH, thanh toán bằng séc phải đạt 2.212 món, doanh số phải đạt 15.638 triệu đồng. Đó là kết quả đáng khả quan của NH.
Toàn bộ séc do người thụ hưởng nộp vào NH đều được đảm bảo thanh toán nhanh chóng, kịp thời và thực hiện đúng quy trình về luân chuyển chứng từ và các quy định thanh toán séc theo NĐ30/CP ngày 09/05/1996 và thông tư 07 của Thống đốc NHNN về hướng dẫn quy chế phát hành và sử dụng séc.
NH thực hiện thanh toán và đảm bảo chính xác, không để xẩy ra tình trạng sai sót, nhầm lẫn làm thất thoát vốn của NH và khách hàng.Việc bán séc cho khách hàng luôn phải đảm bảo đúng quy định;phải có giấy đề nghị mua séc của khách hàng và mỗi lần bán không được bán quá hai quyển séc(với khách hàng là doanh nghiệp) và 1 quyển séc (với khách hàng là cá nhân).NH bán cho khách hàng(chỉ là doanh nghiệp, NH chưa bán séc cho cá nhân) căn cứ chi phí in ấn phát hành thực tế cộng với chi phí vận chuyển bảo quản.
Mặc dù thanh toán bằng séc có dấu hiệu khả quan, nhưng thực tế thanh toán bằng séc chưa phổ biến với mọi đối tượng, hầu như chỉ phục vụ các đơn vị kinh tế, đơn vị hành chính sự nghiệp còn bộ phận dân cư thì ít sử dụng.
Những tồn tại trong thanh toán séc do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất:Xuất phát từ hạn chế quy định trong thanh toán séc:
+Theo NĐ30/CP thì quy định phạm vi thanh toán của séc rất hẹp.Còn theo NĐ159 thì không đề cập đến vấn đề này, vì vậy gây cản trở trong sử dụng séc trong các quan hệ mua bán đa dạng trong nền kinh tế thi trường.
+Đối với séc bảo chi, do người phát hành séc phải ký gửi tiền đảm bảo thanh toán séc và không được hưởng lãi trên số tiền đó nên gây bất lợi cho khách hành nên gây cản trở khách hàng sử dụng séc bảo chi
Thứ hai:Xuất phát từ đặc điểm thanh toán của séc bảo chi
Đặc điểm thanh toán SCK là hai bên mua bán tín nhiệm nhau trong thanh toán.Do đó,SCK rất dễ bị phát hành quá số dư, cũng có thể do người phát hành séc cố ý , nhưng cũng có thể do vô tình.Cho dù với bất cứ lý do nào vẫn làm cho người bán(người thụ hưởng không an tâm.Vì vậy séc chuyển khoản chỉ được thanh toán với giá trị nhỏ, vì vậy số món thanh toán nhiều nhưng doanh số thanh toán không cao.)
Thứ ba:Xuất phát từ khách hàng.
Thực tế cho thấy, các NH nói chung và NHNo&PTNT Quận Thanh xuân nói riêng cũng đã làm công tác tuyên truyền quảng cáo,Marketing, hiện đại hoá công nghệ,…nhưng đại đa số người dân vẫn chưa hiểu về séc và cách sử dụng séc, ngoài ra tình hình mở tài khoản giao dịch tại NH chưa được nhiều lắm nên cũng hạn chế thanh toán séc.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN HÌNH THỨC THANH TOÁN BẰNG SÉC TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN
ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN.
Cùng với sự phát triển chung của đất nước, các quan hệ kinh tế không ngừng được mở rộng và đa dạng dưới nhiều hình thức.Ngân hàng là cầu nối giữa các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp bằng cách thông qua các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán của mình.Vì công tác tín dụng, thanh toán của NH là nhân tố trực tiếp tác động đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong nền kinh tế.
Bước sang năm 2004, thời điểm thực hiện CEPT/AFTA đã tới gần, Việt nam phải xoá bỏ toàn diện các biện pháp bảo hộ phi thuế quan và liên tục cắt giảm thuế hầu hết các mặt hàng.Việc này sẽ gây sức ép rất lớn đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước do đó ảnh hưởng gián tiếp tới hoạt động của NH.Mặt khác trên thị trường tài chính cũng sẽ diễn ra cạnh tranh gay gắt hơn giữa các Ngân hàng thương mại với Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài khi các ngân hàng này đã thực hiện đầy đủ nghiệp vụ huy động vốn.Vì vậy chi nhánh cần phải tập trung cao độ để thích nghi với tình hình mới.
Mục tiêu hoạt động của NHNo&PTNT Quận Thanh xuân năm 2004 là:tăng nguồn vốn huy động so với năm 2003 là 133%.Mở rộng tín dụng bằng 142% so với năm 2003.Phấn đấu đảm bảo kế hoạch do TW giao.Tăng kinh doanh ngoại tệ gấp 2 lần đảm bảo có đủ ngoại tệ cung ứng cho khách hàng.Mở rộng quan hệ giao dịch khách hàng, nâng tỷ trọng thu phí dịch vụ trong tổng thu nhập từ 8% nên 10%.Phấn đấu hoàn thành kế hoạch tài chính của NHNo&PTNT Thành phố Hà nội và NHNo Việt nam giao cho năm 2004.
Một trong những định hướng quan trọng của NHNo&PTNT Quận Thanh xuân là mở rộng mạng lưới thanh toán trong nền kinh tế mà nổi bật là công tác TTKDTM.
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG VÀ PHÁT TRIỂN THANH TOÁN BẰNG SÉC TẠI NHNo&PTNT QUẬN THANH XUÂN
Giải pháp mở rộng thanh toán bằng séc.
Séc là một công cụ thanh toán truyền thống, có nhiều tiện ích và được sử dụng rộng rãi trên thế giới và góp phần đắc lực vào việc mở rộng phát triển TTKDTM ở các nước đang phát triển.Song ở Việt nam, séc vẫn còn mới mẻ và chưa phát huy được hết tiềm năng cũng như tiện ích của nó trong thanh toán.Thực trạng thanh toán bằng séc tại NHNo&PTNT Quân Thanh xuân cho thấy thanh toán bằng séc còn rất hạn chế và nhiều bất cập, do đó tỷ trọng sử dụng séc trong tổng thanh toán còn rất thấp. Để góp phần mở rộng thanh toán băng séc, để séc thực sự phát huy hết những lợi thế của nó, góp phần vào việc phát triển TTKDTM tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân,em xin đưa ra một số giải pháp sau:
2.1.1. Đẩy mạnh việc áp dụng séc cá nhân trong thanh toán.
Hiên nay , thanh toán séc tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân đang chủ yếu áp dụng đối với klhách hàng là các đơn vị kinh tế, đơn vị hành chính sự nghiệp , áp dụng với cá nhân tuy đã triển khai nhưng số món thanh toán hầu như không đáng kể.Trong khi đó, qua kinh nghiệm của các nước cho thấy, loại hình thanh toán thích hợp nhất trong dân cư là phat hành séc cá nhân.
Thông thường, khi có nhu cầu thanh toán, các cá nhân rút tiền mặt từ tài khoản tiền gửi của mình để chi trả.Mặt khác, với sự phát triển của nền kinh tế như hiện nay, xuất hiện nhiều trung tâm thương mại, cửa hàng lớn… thực hiện thanh toán qua NH, thu nhập của nguời dân ngày một tăng, mức sống cao, thực hiện chi trả lương qua tài khoản nên có thể nói đây là thời điểm hợp lý để NHNo&PTNT Quận Thanh xuân đẩy mạnh việc áp dụng séc cá nhân nhằm khai thác triệt để mọi nguồn vốn trong dân cư lại tiết kiệm được chi phí cho NH, cho xã hội, góp phần chống lạm phát, tham ô và tiêu cưc khác.
2.1.2. Khuyên khích việc mở rộng và sử dụng tài khoản cá nhân tại NH
Đối với mỗi NH, muốn tăng tỷ lệ TTKDTM nói chung và thanh toán bằng séc nói riêng thì trước tiên phải tăng số tài khoản giao dịch của khách hàng tại NH.Nó là điểm xuất phát của việc khách hàng đến với NH và sử dụng các dịch vụ của NH. Điều đó có thể lý giải tại sao trong năm 2002-2003 nghành NH cả nước đều tiến hành một cách nhanh chóng hiệu quả lộ trình của hiệp định thương mại Việt-Mỹ trong giai đoạn này là:”Khuyến khích việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán và thực hiện các dịch vụ qua NH.” Vì vậy NH phải làm sao để họ tin tưởng vào hệ thống NH, thấy được lợi ích trong việc mở tài khoản thanh toán.Như vậy, cán bộ NH ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ thì cần làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn…để người dân sử dụng dịch vụ của mình. Đi sâu tiếp cận từng đối tượng khách,chú ý các đối tượng có thu nhập ổn định, thường xuyên có các khoản thanh toán đều theo kỳ cho doanh nghiệp, tổ chức cung ứng dịch vụ như:tiền nước, tiền điện, phí bưu chính..trên địa bàn; chú ý các đối tượng tập chung như các công nhân trong các nhà máy, công ty trên địa bàn quận, phối hợp với họ để tiến hành thanh toán qua NH cho các cá nhân có mức lương tối thiểu phải đạt đến một mức nào đó; phối hợp với công ty Bảo hiểm, các quỹ hỗ trợ,… để tăng lượng tài khoản mở tại NH, kích thích người dân đến với NH đồng thời giúp NH tìm ra khách hàng tiềm năng của mình. Điều tối cần thiết là NH phải tuyên truyền cho người dân biết NH cung ứng những loại dịch vụ gì, chi phí ra sao, tiện ích như thế nào…để họ có điều kiện lựa chọn và sử dụng.
Ngoài ra NH cũng nên mở rộng phạm vi sử dụng tài khoản cá nhân, có hình thức khuyến khích để biến tài khoản tiền gửi thanh toán thanh tài khoản tiền gửi dài hạn.Cụ thể là thực hiện tài khoản tiền gửi hỗn hợp, nếu sử dụng tài khoản thì hưởng lãi xuất thấp, nếu ít thì hưởng lãi xuất cao hoặc có hình thức liên thông giữa tài khoản thanh toán gốc và các tài khoản khác.Ví dụ: Như ở nước ngoài ,NH mở cho khách hàng hai loại tài khoản là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn.Với tài khoản không kỳ hạn thì yêu cầu khách hàng phải duy trì một hạn mức nào đó, nếu không đủ số dư trên tài khoản đó thì chuyển từ tài khoản có kỳ hạn sang, còn nếu thừa tiền trên tài khoản đó thì chuyển sang tài khoản tiền gửi có kỳ hạn để được hưởng lãi.
NH nên đẩy mạnh hiện đại hoá hơn nữa:Dịch vụ gửi một nơi, rút nhiều nơi, dịch vụ tài khoản điện tử, dịch vụ NH tại nhà…tạo điều kiện thuận lợi để triển khai ở diện rộng dịch vụ tài khoản cá nhân.
2.1.3. Áp dụng cho vay đối với séc chuyển khoản.
Để mở rộng và phát triển thanh toán séc hơn nữa, một trong những cách để hấp dẫn khách hàng là giảm bớt những hạn chế trong thanh toán séc mà gây cho khách hàng tâm lý ngại sử dụng phương tiện này. Đối với séc chuyển khoản, ta thấy có nhược điểm là chủ tài khoản rễ phát hành quá số dư, mặc dù người phát hành không cố ý dẫn đến người thụ hưởng không được thanh toán ngay, còn người phát hành thì bị phạt chậm trả.Lúc này, trong thanh toán bất lợi cho cả hai bên mua, bán.Khi đó, NH nên cho vay thanh toán đối với chủ tài khoản phát hành séc chuyển khoản quá số dư.Như vậy, cả đôi bên đều có lợi.Ban đầu, NH có thể áp dụng hình thức này với những khách hàng tín nhiệm.Về sau có thể nghiên cứu từng đối tượng khách hàng cụ thể mà quy định có được áp dụng cho vay kiểu này hay không và hạn chế mức bao nhiêu.
Với giải pháp này, một mặt giúp được khách hàng giữ được uy tín với đối tác, mặt khác khách hàng không bị gián đoạn trong kinh doanh.Như vậy khách hàng sẽ gắn bó với NH hơn và khó có thể rời bỏ NH đến với NH khác.Hơn nữa, NH còn thu được một khoản lợi từ số tiền cho vay đó, làm tăng thu nhập cho NH.
2.1.4. Tạo ra nhiều lợi ích hơn cho khách hàng trong thanh toán séc.
Thông thường,người phát hành chỉ được phát hành tờ séc với giá trị tối đa bằng số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, người thụ hưởng chỉ được ghi Có sau khi NH đã lấy được tiền từ người phát hành.Nhưng tuỳ vào từng đối tượng, NH nên đặt hạn mức và điều kiện thanh toán séc để có thể ghi Có ngay cho người thụ hưởng khi họ nộp séc vào NH nhăm tăng tốc độ thanh toán.NH cũng nên có chính sách khách hàng để ấn định tỷ lệ ký quỹ thích hợp khi thực hiện xác nhận séc trong thanh toán Séc bảo chi.
2.1.5. Tuyên truyền, quảng cáo.
Theo số chuyên đề của báo cáo Tài chính Ngân hàng, theo điều tra tại TPHCM thì mới chỉ có 20% dân cư biết đến NH. Đó là kết quả không lấy gì làm tốt khi đó lại là con số thống kê của một thành phố sôi động nhất cả nước.Người dân chưa biết nhiều đến NH nói gì đến việc hiểu về các dịch vụ của NH.Vì vậy NH cần xác định công tác tuyên truyền quảng cáo là vô cùng cần thiết.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động quảng cáo có ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.Trong hoạt động kinh doanh NH cũng vậy, để thanh toán bằng séc thực sự được dân chúng hưởng ứng rộng rãi, NH cần có cách thức” để đưa séc đến với dân chúng”.Cụ thể qua nhiều hình thức khác nhau, qua nhiều kênh thông tin đại chúng. Đây cần phải được coi là việc làm thường xuyên, liên tục, tích cực chứ không được làm qua loa đại khái, mang tính hình thức từng đợt.
2.1.6. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán qua NH và đội ngũ cán bộ.
Hiện nay, để có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh trong nghành NH ,việc hiện đại hoá công nghệ nói chung và hiện đại hoá công nghệ hiện đại hoá công nghệ thanh toán qua NH nói riêng là công tác vô cùng quan trọng trong việc thu hút khách hàng.Nó còn là một trong các định hướng cơ bản có tính chất quyết định trong tiến trình đổi mới toàn diện, sâu sắc của NH nói chung.NHNo&PTNT Quận Thanh xuân cũng đang tìm mọi biện pháp để phát triển mô hình NH hiện đại, đa năng, tăng tỷ trọng dịch vụ. Để thực hiện mục tiêu này,NH cũng đã trang bị cơ sở vật chất ban đầu, nhất là hệ thống máy tính để đáp ứng yêu cầu đổi mới CNTT.Hiện tại, chi nhánh đang thực hiện chương trình giao dịch, đến nay vẫn còn một số trục trặc kỹ thuật, việc khai thác số liệu lập báo cáo cân đối còn gặp khó khăn, cần được sử lý kịp thời.Vì vậy để có thể đáp ứng kịp thời và hầu hết các nhu cầu thực tế của thị trường, NH cần đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá công nghệ trên các mặt sau:
+Xử lý kịp thời một số trục trặc kỹ thuật của chương trình giao dịch một cửa trên hệ thống máy tính được coi là hiện đại nhất hiện nay.Một mặt giúp NH thực hiện đúng vai trò thanh toán của mình với khẩu hiệu:Nhanh chóng, kịp thời, chính xác, đem lại sự tin tưởng và gắn bó với khách hàng đồng thời tiết kiệm được sức lao động cho cán bộ NH.
+NH nên nối mạng với tất cả các chi nhánh NH trên toàn quốc để thanh toán trực tiếp với nhau.Từ đó rút ngắn thời gian thanh toán, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
Bên cạnh việc hiện đại công nghệ hiện đại hoá trong NH thì việc nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ, kỹ năng của cán bộ NH cũng đóng vai trò quan trọng, quyết định đến hiệu quả kinh doanh.Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh xuân có 35 nhân viên(trong đó có 29 biên chế, 6 hợp đồng), như vậy là còn thiếu so với yêu cầu công việc.Trước tình hình đó, NH nên tuyển dụng vào những vị trí cần thiết, thường xuyên có kế hoạch đào tạo cán bộ NH, cho đi học để nâng cao nghiệp vụ trên các mặt, để có được một đội ngũ cán bộ với diện mạo mới:thành thạo nghiệp vụ, tác phong nhanh nhẹn, hiện đại, văn minh, lịch sự trong giao tiếp với khách hàng.Nên có thêm nhiều buổi họp để cán bộ công nhân viên và lãnh đạo rút kinh nghiệm cải tiến phong cách giao dịch để khách hàng không phải chờ đợi lâu.Tiến hành đánh giá, xếp loại, bình bầu theo những tiêu chí nhất định để kích thích nâng cao ý thức tự giác trong cán bộ công nhân viên.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà nội
+Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh xuân thành lập đã được 7 năm, hoạt động hiệu quả trong những năm qua có đóng góp nhiều cho NHNo Thành phố và cho Quân Thanh xuân.Tuy nhiên trụ sở của NH đang sử dụng vẫn phải đi thuê.Trong khi ngay gần NH, chi nhánh NH Công thương với trụ sở rất khang trang, đó là một trở ngại cho NH.Vì vậy, xin NH Thành phố cấp vốn để có thể tạo dừng một trụ sở thuận lợi hơn cho công việc kinh doanh.
+Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Thanh xuân được triển khai công nghệ giao dịch một cửa, thanh toán chuyển tiền điện tử từ tháng 10/2003 Ngân hàng được cấp một máy ATM, lượng máy tính đang dùng tại NH nói chung là không phải máy mới nên tốc độ xử lý cũng không được nhanh.Vì vậy, đề nghị NHNo Thành phố cung cấp thêm hoặc thay thế một số máy tính, máy rút tiền,.. để đảm bảo NH hoạt động hiệu quả hơn.
+Theo Nghị định 159/NĐ-CP có là mẫu séc và các yếu tố trên séc là do tổ chức cung ứng dịch vụ thiết kế và phát hành nên với mẫu séc hiện nay là hơi nhỏ, có quá nhiều các yếu tố trên séc chưa sắp xếp khoa học, chỗ trống để ghi tên người phát hành và người thu hưởng rất nhỏ, khách hàng thường không ghi đủ, NH nên thiết kế mẫu séc khác, ít các yếu tố hơn nhưng vẫn đảm bảo việc thanh toán của séc, kích cỡ nên to hơn và đặc biệt trên bìa mỗi quyển séc bán cho khách hàng nên ghi các quy định về séc như:không được viết bằng bút phai, không được tẩy xoá, chữ ký của khách hàng phải giống chữ ký mẫu đăng ký tại NH…để việc thanh toán được nhanh và an toàn hơn.
Đối với chính phủ,NHNN.
1. Để phát triển thanh toán bằnh séc, việc mở rộng tài khoản giao dịch cả về số lượng và quy mô giao dịch cho khách hàng là rất cần thiết.Tuy nhiên có một số văn bản quy định trong việc mở và sử dụng tài khoản giao dịch còn gặp nhiều hạn chế.Vì vậy , Chính phủ,NHNN nên có những văn bản quy định, hướng dẫn để tăng hiệu quả của việc sử dụng tài khoản giao dịch như quy định cụ thể với khách hàng như thế nào thì được cấp một hạn mức thấu chi như thế nào.Chẳng hạn với khách hàng có uy tín, với khách hàng có số dư lớn trên tài khoản ổn định thì cấp một hạn mức thấu chi cao.
2.Nên có chế tài quy định những doanh nghiệp, đơn vị, cơ quan có tài khoản thanh toán với nhau không được sử dụng tiền mặt, các khoản lĩnh tiền trong phạm vi bao nhiêu, từ một mức độ giao dịch nào đó trở lên, dứt khoát phải sử dụng séc.
Đối với cá nhân, các giao dịch có mua bán lớn có đăng ký quyền sở hữu như:nhà đất, phương tiện đi lại.. đều phải thanh toán qua NH một cách bắt buộc.
3.Về các quy định của séc.
Nghị định 159 ra đời thay thế cho nghị định 30 của Chính phủ về cung ứng và sử dụng séc đã tạo thêm nhiều thuận lợi cho khách hàng trong thanh toán séc, nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại không rõ ràng trong quy định làm hạn chế sự phát triển của séc, cụ thể như sau:
Thứ nhất:Về thời hạn sử dụng của séc.
Theo nghị định 30, quy định thời hạn sử dụng séc là 15 ngày, còn theo nghị định 159 thì quy định là 30 ngày.Việc kéo dài thời hạn thanh toán séc như vậy là chưa thật phù hợp, thời hạn thanh toán cũng không quy định rõ thời hạn xuất trình séc để thanh toán và thời hạn hiệu lựu thanh toán.Trong khi đó theo công ước quốc tế về séc ký kết tại Giơnevơ ngày 19/3/1931 lại quy định:Nếu tờ séc phát hành để thanh toán trong cùng một lãnh thổ thì thời hạn xuất trình là 8 ngày; nếu tờ séc phát hành để thanh toán với một quốc gia khác trong khu vực thì thời hạn xuất trình là 20 ngày; nếu tờ séc phát hành để thanh toán với một quốc gia khác ngoài khu vực thì thời hạn xuất trình là 70 ngày.Còn đối với thời hạn hiệu lực thông thường thì luật séc các nước trên thế giới quy định từ 6 tháng đến 1 năm.Việc quy định các thời hạn này có mục đích riêng của nó, chẳng hạn quy định thời hạn xuất trình là nhằm tạo điều kiện để người thụ hưởng có thời gian thực hiện việc chuyển nhượng và có đủ thời gian nộp séc vào NH để được thanh toán sau khi người phát hành ký phát tờ séc cho người thụ hưởng.Còn việc quy định thời hạn hiệu lực thanh toán nhằm gắn trách nhiệm, nghĩa vụ thanh toán của người phát hành séc đối với tờ séc đã được phát hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng.Nếu tờ séc được nộp vào NH mà hết thời hạn xuất trình nhưng còn trong thời hạn hiệu lực thì người phát hành vẫn phải có trách nhiệm thanh toán .Tuy nhiên người phát hành không nhất thiết phải đảm bảo đầy đủ tiền để thanh toán cho tờ séc đó.
Như vậy ở Việt nam quy định thời hạn xuất trình là 30 ngày, còn phạm vi thanh toán séc thì lại không mở rộng ra nên được đánh giá là quá dài, không khuyến khích người thụ hưởng nộp séc vào NH.
Mặt khác, theo NĐ 159 có quy định:người thụ hưởng có thể chứng minh cho những trường hợp xuất trình chậm thông qua việc xác nhận của các cơ quan chức năng như UBND xã, phường, địa phương để bảo vệ quyền lợi của mình.Việc xác nhận này cũng phát sinh một số vấn đề do thủ tục hành chính của các cơ qua chức năng, thêm nữa các cơ quan này chưa am hiểu tường tận về séc.Vì vậy để phù hợp hơn xin kiến nghị với chính phủ như sau:
+Cần quy định thời hạn xuất trình là 20 ngày là phù hợp, nó vừa tạo cho người thụ hưởng có đủ thời gian chuyển nhượng tờ séc, vừa khuyến khích người thụ hưởng nhanh chóng nộp séc vào NH để thanh toán.
+Quy định rõ 2 thời hạn là:Thời hạn xuất trình và thời hạn hiệu lực của tờ séc.
+Phối hợp cùng các cơ quan chức năng khác ban hành thông tư, thông báo hướng dẫn cụ thể với việc xác nhận trường hợp xuất trình chậm của người thụ hưởng, của UBND xã, phường, địa phương…Tránh những trường hợp tiêu cực ,giảm phiền toái cho người sử dụng séc.
+Quy định rõ ràng về việc tờ séc sau khi hết thời hạn hiệu lực có giá trị như một hợp đồng dân sự và người ký phát vẫn phải chụi trách nhiệm thanh toán cho người thụ hưởng séc.
Thứ hai:Về phạm vi thanh toán séc.
Theo NĐ 30 quy định:séc được thanh toán khi người phát hành và người thụ hưởng có tài khoản tại cùng một một chi nhánh NH hoặc ở hai NH cùng hệ thống hoặc ở hai NH khác hệ thống nhưng cùng địa bàn có tham gia hệ thống thanh toán bù trừ.Còn NĐ 159 lại không đề cập đến vấn đề này .Vì vậy cần quy định phạm vi thanh toán séc rộng hơn nữa, đó là thêm trường hợp:séc được thanh toán khi người phát hành và người thụ hưởng có tài khoản ở 2 NH khác hệ thống, khác địa bàn, thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN.
Thứ ba:Về vấn đề địa điểm xuất trình tờ séc để yêu cầu thanh toán.
NĐ159 nói rõ:” Địa điểm xuất trình tờ séc đêr yêu cầu thanh toán là địa điểm thanh toán ghi trên tờ séc;Nếu trên tờ séc không ghi địa điểm thanh toán thì tờ séc đó được xuất trình để thanh toán tại địa chỉ của người thực hiện thanh toán ghi trên tờ séc;Hoặc nếu trên tờ séc không ghi địa điểm thanh toán và địa chỉ người thực hiện thanh toán, thì tờ séc đó được xuất trình để thanh toán tại tru sở chính của người thực hiện thanh toán”
Việc quy định trên sẽ là thiếu thực tế và không phù hợp, có thể gây khó khăn cho các NH khi mà hiện nay, phần lớn các NHTM ở Việt nam đều đã và đang triển khai hệ thống vi tính online cho toàn hệ thống.Khi hệ thống vi tính của các NH được online từ hội sở cho đến các chi nhánh thì việc xuất trình tờ séc tại hội sở hoàn toàn giống với việc xuât trình tờ séc tại các chi nhánh.Thêm vào đó, mặc dù trên tờ séc không ghi địa chỉ thanh toán và địa chỉ người thanh toán nhưng đã có tên của người thực hiện thanh toán.Do vậy việc quy đinh xuất trình tờ séc tại trụ sở chính là không phù hợp.
Mặt khác khi hệ thống vi tính của NH chưa được online mà người thụ hưởng séc ở tại các địa điểm khác với trị sở chính của người thực hiện thanh toán, việc bắt buộc phải xuất trình tại trụ sở chính cũng là điều không thực tế và kho thực hiện.Người thụ hưởng tờ séc có thêt xuất trình tờ séc tại bất kỳ chi nhánh nào của người thực hiện thanh toán sao cho tiện lợi nhất.Không những vậy việc luân chuyển chứng từ trong hệ thống của người tổ chức thanh toán sẽ nhanh chóng, an toàn và thuân tiên hơn.Vì vậy trong trường hợp này xin kiến nghị:”Nếu trên tờ séc không ghi địa điểm thanh toán và địa chỉ người thực hiện thanh toán thì tờ séc đó được xuất trình tại bất kỳ chi nhánh nào của người thực hiện thanh toán có hệ thống vi tính nối mạng.”
Thứ tư:Về vấn đề quyền lợi của người thụ hưởng séc.
Theo NĐ về séc, người thụ hưởng có thể kiểm tra tất cả các yếu tố trên tờ séc nhưng lại không thể kiểm tra chữ ký trên tớ séc có giống với chữ ký mẫu mà người phát hành đăng ký tại NH hay không.Vì vậy,rõ ràng người thụ hưởng đưong nhiên gặp khó khăn trong thanh toán nếu người phát hành ký sai so với chữ ký mẫu dù vô tình hay cố ý.Mặt khác trong NĐ159, chương quy định hành vi bị nghiêm cấm lại không quy định hành vi cố tình ký sai chữ ký mẫu.Như vậy cần phải sửa đổi lại các điều khoản này.
Thứ năm:Vấn đề các cơ quan chụi trách nhiệm xử kiện các vi phạm về thanh toán séc.
Theo thông lệ quốc tế, séc có tính thương mại thì việc sử kiện được thực hiện tại toà án thương mại, các trường hợp khác sẽ được thực hiện tại toà án dân sự.Nhưng tại Việt nam chưa có văn bản nào quy định cụ thể cơ quan nào chụi trách nhiệm sử kiện các vi phạm về thanh toán séc.Vì vậy cần quy định cụ thể hơn nữa.
Thứ sáu:Một số kiến nghị khác nhằm đưa séc trở nên thông dụng hơn.
Theo NĐ159, thanh toán bù trừ séc được đặt tại NHNN hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được NHNN cấp phép tổ chức, chủ trì việc trao đổi thanh toán bù trừ séc cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán là thành viên.Hiện nay trên thế giới đã hình thành hai mô hình để xây dựng một trung tâm hệ thống sử lý séc:Mô hình cũ( xử lý séc truyền thống) và mô hình mới(mô hình có sự can thiệt của CNTT). Nhiều giải pháp đã có ý kiến rằng Việt nam,NHNN nên đi theo con đường thứ hai.Theo đó có thể xây dựng trong 3 giai đoạn:
+NHNN có thể thành lập các trung tâm xử lý séc ở 3 miền Hà nội, Đà nẵng,TPHCM.Bên cạnh đó cho phép sử dụng séc ở ngoài phạm vi các thành phố, tỉnh nói trên cùng tham gia vào các trung tâm này.
+Các chi nhánh NHTM sẽ gửi séc, thông tin về séc đến NHNN để kiểm soát và thanh toán bù trừ, sau đó phân loại và gửi séc cho NH phat hành.
+Các NHTM sẽ lắp đặt các thiết bị sử lý séc sau đó truyền thông tin và hình ảnh của séc về thanh toán, xử lý thanh toán.
Trên đây là một số kiến nghị mà người viết đưa ra dựa trên sự nghiên cứu các văn bản pháp luật đã ban hành và theo quan điểm nhận định.Trong phạm vi nghiên cứu,nếu có gì chưa tường tận em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô.
KẾT LUẬN
Trong sự đa dạng phong phú của hoạt động kinh doanh Ngân hàng, hoạt động kinh doanh thanh toán ngày càng chiếm tỷ trọng cao và giữ vai trò vô cùng quan trọng. Đây có thể được coi là khâu xung yếu nhất, là tiền đề để từng bứơc hiện đại hoá công nghệ NH, đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế và hoà nhập với xu thế phát triển của khu vực và thế giới.
Để có thể đứng vững trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, các NHTM luôn mở rộng và hoàn thiên các hình thức thanh toán nói chung và công tác TTKDTM nói riêng nhằm thu hút khách hàng.Trong các hình thức TTKDTM thì séc thanh toán là hình thức thanh toán tiện ích và ưu việt, song chưa được khai thác triệt để và chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế nên việc sử dụng còn hạn chế.
Qua thời gian thực tập tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân, cùng với những kiến thức tích luỹ ở trường, em đã được tìm hiểu kỹ hơn về tình hình TTKDTM nói chung và thanh toán bằng séc nói riêng.Em đã kết hợp giữa lý thuyết ở trường thực tế thanh toán tại NHNo&PTNT Quận Thanh xuân, trên cơ sở đó em đã trình bầy bản chuyên đề của mình và xét được một số vấn đề sau:Lý luận chung về TTKDTM nói chung, thanh toán bằng séc nói riêng.Căn cứ vào các số liêu tại NH em tiến hành phân tích đánh gia về tình hình thanh toán chung và thanh toán bằng séc tại NH này.Từ đó đưa ra một số giải pháp để mở rộng và phát triển hơn nữa hình thức thanh toán bằng séc.
Tuy nhiên, do thời gian và kiến thức còn hạn chế, chưa thể nắm bắt được hết tình hình thanh toán bằng séc của toàn bộ các NH cũng như nhu cầu của dân cư trong thực tế.Việc nghiên cứu chỉ trong phạm vi một NH, nguồn tài liệu còn ít,chưa đa dạng, chỉ dựa trên những lý luận chung, những văn bản pháp quy.Vì vậy bài viết của em không thể tránh được những thiếu sót, nên em hy vọng được nghiên cứu kỹ hơn và nhận được sự đóng góp của các thầy, cô.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình, chu đáo của thầy giáo-TS LÊ VĂN LUYỆN, các cô chú trong phòng Kế toán- Ngân quỹ của NHNo&PTNT Quận Thanh xuân , cùng bạn bè và người thân đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 6 năm 2004
Sinh viên
Nguyễn Tuấn Anh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp mở rộng & hoàn thiện hình thức thanh toán bằng séc tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Quận Thanh xuân.doc