Chuyên đề “Giáo dục phát triển ngôn ngữ”

Để phát huy tính tích cực của trẻ trong góc chơi, đặc biệt là góc thư viện. Đây là nơi trẻ được tiếp xúc nhiều với chữ cái, và rèn luyện kỹ năng tiền biết đọc, biết viết của trẻ như: cách lật giở sách, cách đưa mắt từ trái sang phải khi đọc, hoặc các từ mới như: tên truyện, tên các trang bìa, tên các album tự tạo.với các mẫu chữ khác nhau. VD1: Cô tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động với truyện thơ tranh chữ to có sẵn, tự tạo. trẻ được xem tranh, tập kể chuyện, tập "đọc" chữ to trong truyện.và như vậy một lần nữa trẻ mở rộng vốn từ, phát triển ngôn ngữ, trẻ như được hoà nhập với thế giới của người lớn. Khi trẻ tiếp xúc với các loại sách, báo, tạp chí.có nhiều kiểu chữ khác nhau ở bất kỳ nơi nào trẻ cũng rất tự tin và có thể tự mình khám phá nội dung. VD2: Cô tổ chức cho trẻ cùng làm album và truyện tranh chữ to theo chủ điểm. Nếu là chủ điểm "thế giới động vật" cô và trẻ sưu tầm album về các con: chó mèo, gà, vịt,.yêu cầu trẻ tìm các chữ trong hoạ báo cắt và ghép từ "con mèo", "con chó".dán dưới hình ảnh các con vật tương ứng. Một đều luôn lưu ý nhắc trẻ là phải ghép chữ lần lượt từ trái sang phải, hết chữ này đến chữ khác, hết từ này đến từ khác bên cạnh phía phải, và sau đó yêu cầu trẻ phát âm các chữ, "đọc" các từ . * Để trẻ hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động tạo hình cho trẻ làm tranh: VD 1: Cho trẻ sưu tầm các chữ có trong hoạ báo, lịch cũ,.trẻ cắt, tô màu và cùng ghép chữ với cô để tạo thành các tuýp chữ, các tiêu đề xung quanh lớp moõi khi thay đổi chủ điểm. Với chủ điểm " thế giới thực vật", cô yêu cầu trẻ ghép chữ mà trẻ sưu tầm được và xếp từng chữ từ trái qua phải: chữ t rồi đến chữ h rồi đến chữ ê.Trong suốt quá trình hoạt động tích cực như vậy, bản thân trẻ lại một lần nữa khắc sâu chữ cái và từ.

doc10 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 3571 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề “Giáo dục phát triển ngôn ngữ”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHUYÊN ĐỀ “GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ” LỜI MỞ ĐẦU Ngôn ngữ đối với con người nói chung, với sự phát triển của trẻ mầm non nói riêng (đặc biệt là trẻ 2 – 3 tuổi) có một vị thế hết sức quan trọng. Nó là một trong những cơ sở, tiền đề để cho trẻ phát triển toàn diện về cả thể chất lẫn tinh thần. Ngôn ngữ giúp cho sự phát triển tư duy của trẻ. Ngôn ngữ là phương tiện giúp cho chúng ta và nhất là trẻ em giao tiếp với mọi người và giúp trẻ dễ dàng hoà đồng vào cuộc sống một cách thân thiện nhất, nói sao cho mọi người hiểu, hiểu khi người khác nói đó là điều cần thiết khi giao tiếp. Đồng thời, thông qua giao tiếp giúp trẻ phát triển trí tuệ để nhận biết thế giới xung quanh và phát triển tình cảm của trẻ. Như chúng ta đã biết, nội dung của chương trình CSGD trẻ theo hướng đổi mới của ngành giáo dục mầm non hiện nay yêu cầu trẻ được phát triển qua 5 mặt: thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ, tình cảm - xã hội. Trong đó, nội dung phát triển ngôn ngữ là một trong những nhiệm vụ vô cùng quan trọng của giáo viên mầm non. Mà một trong các mục tiêu của phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi là: hình thành và phát triển ở trẻ khả năng nghe, đọc, phát âm... và một số kỹ năng cần thiết cho việc học đọc, học viết như: cách lật giở sách, cách cầm bút tô viết chữ, khả năng phối hợp tay, mắt và tri giác từ trọn vẹn từ trái sang phải, biết diễn tả sự việc hoặc ý muốn của mình bằng câu đầy đủ một cách mạch lạc rõ ràng. Việc tạo môi trường chữ phong phú quanh trẻ sẽ góp phần tích cực và có hiệu quả cao trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi.             Trẻ ở độ tuổi Nhà Trẻ (trẻ 24- 36 tháng) chủ yếu sử dụng ngôn ngữ nói để giao tiếp và tìm hiểu về thế giới xung quanh và là thời kỳ tích luỹ vốn từ của trẻ. Để trẻ không bị mắc các tật về ngôn ngữ sau này, thời kỳ này các giáo viên cần hết sức chú ý đến rèn luyện phát âm và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đặc điểm tâm lý của trẻ trong giai đoạn 24 – 36 tháng tuổi là trẻ hết sức hiếu động, hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo của trẻ. Để thực hiện việc giáo dục trẻ ở bậc học mầm non đạt kết quả tốt thì cần nắm chắc đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ và thực hiện phương châm giáo dục “học qua chơi, chơi mà học“. Trò chơi là một trong những phương tiện quan trọng nhất để phát triển trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ và thể lực. Riêng với trẻ 2 – 3 tuổi, ngoài hoạt động đối với đồ vật là hoạt động chủ đạo thì trò chơi không thể thiếu trong cuộc sống của trẻ. Chơi là nhu cầu tự nhiên của trẻ, trẻ cần chơi như cần cơm ăn, nước uống, không khí để thở. Qua trò chơi giúp trẻ lĩnh hội những trí thức tiên tiến, khoa học một cách nhẹ nhàng, thoải mái giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tích luỹ vốn từ. Trò chơi còn giúp trẻ phát triển các tố chất vận động nhanh, mạnh và khéo léo. Việc tổ chức, hướng dẫn trẻ chơi các trò chơi có mục đích, có nội dung phong phú theo yêu cầu và nhiệm vụ giáo dục sẽ có tác động mạnh mẽ đến trẻ về cả ý thức tình cảm, ý chí và hành vi của trẻ. NỘI DUNG Ngôn ngữ chỉ sinh ra và phát triển trong xã hội loài người. Ngôn ngữ và lao động là hai yếu tố cơ bản quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của con người trong xã hội. Ngôn ngữ đã trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học như: Xã hội học, ngôn ngữ học, tâm lý học, giáo dục họcVậy bản chất của ngôn ngữ học là gì? - Trước hết, ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Ngôn ngữ chỉ sinh ra trong xã hội do ý muốn và nhu cầu - người ta phải giao tiếp với nhau trong quá trình sống, tồn tại và phát triển. Bên ngoài xã hội loài người ngôn ngữ không thể phát sinh. Ngôn ngữ là cacớ chung của xã hội, đối với mỗi cá nhân ngôn ngữ như là một thiết chế xã hội chặt chẽ, được giữ ghỡn, phát triển trong kinh nghiệm, trong truyền thống chung của cộng đồng. Thiết chế đó là một tập hợp những thói quen như nghe, nói và hiểu được tiếp thu một cách dễ dàng và liên tục ngay từ thời thơ ấu của mỗi chúng ta. Nú như là một cỏớ gì đấy bắt buộc đối với mỗi mọi người trong mọi người. Mặt khác, sự phân biệt giữa ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ chung của mỗi cộng đồng dân tộc với các biến dạng của nó trong các cộng đồng người nhỏ hơn ( gọi là tiếng địa phương)cũng chính là những biểu hiện sinh động, đa dạng về tính xã hội của ngôn ngữ. Ngôn ngữ không mang tính di truyền, người ta có được ngôn ngữ là do quá trình học tập, tiếp thu từ những người sống xug quanh. Ở trẻ em để có vốn ngôn ngữ nhất định phải trải qua quá trình học tập lâu dài. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt bởi nú không phụ thuộc vào kiến trúc thượng tầng riêng của một xã hội nào cho nên khi cơ sở hạ tầng nào đó bị phá vỡ kéo theo sự sụp đổ của kiến trúc thượng tầng tương ứng thì ngôn ngữ vẫn là nú. Mặt khác ngôn ngữ không mang tính giai cấp, nú ứng xử bình đẳng với mọi người trong xã hội. -Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trong nhất của con người. Giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ người này đến người khác với một mục đích nhất định nào đó. Khi giao tiếp người ta trao đổi tư tưởng tình cảm với nhau, tác động đến nhau, những tư tưởng, trí tuệ của người này được truyền từ người này đến người khác , từ thế hệ này đến thế hệ khác – đó là nhờ ngôn ngữ - một trong những động lực đả bảo sự tồn tại của xa hội loài người. -         Ngôn ngữ là phương tiện của tư duy Tư duy của con người - sự phản ánh thế giới khách quan xung quanh - chủ yếu được tiến hành dưới hình thức ngôn ngữ. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. Về phương tiện này tư duy là cái được biểu hiện, còn ngôn ngữ là cái để biểu hiện tư duy. Các kết quả của hoạt động tư duy (thuộc lĩnh vực tinh thần) bao giờ cũng được khoác lên mình một cái vỏ vật chất làm cho người khác “thấy được”. Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ có thể hình dung như hai mặt tờ giấy đã có mặt này phải có mặt kia. Tóm lại ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, là phương tiện để giao tiếp, là công cụ để tư duy. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp cho tư duy của trẻ phát triển và còn là một phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện về nhân cách - đạo đức. Thực trạng của vấn đề taọ môi trường chữ trong lớp học ở trường mầm Non hiện nay: * Về phía giáo viên: - Khi thực hiện chương trình đổi mới hình thức tổ chức dạy trẻ 5 tuổi. Giáo viên thường quan tâm nhiều đến đồ dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động có chủ đích, chưa chú ý đến việc tạo môi trường chữ xung quanh trẻ. +Giáo viên chưa chú ý dạy theo khả năng của trẻ, còn dạy đại trà theo chương trình đã lên kế hoạch. + Ở các mảng tường, các góc chơi lớn, tên các góc chơi chủ yếu để trang trí lớp học, vì các chữ thường dùng là chữ bay bướm cách điệu không phù hợp với trẻ. + Tên các góc thường ghi trực tiếp, không gần gũi với trẻ ( như : góc học tập, góc phân vai...) không gây được hứng thú cho trẻ. +Có những tuýp chữ để từ đầu năm, đến cuối năm không thay đổi, vì vậy không tạo được cảm giác mới mẻ để kích thích tính tò mò khám phá của trẻ. +Nhiều tuýp chữ chỉ dùng cho người lớn đọc, không có tác dụng với trẻ vì không có hình ảnh minh hoạ. +Chữ cho trẻ làm quen chủ yếu là chữ in thường, còn chữ in hoa và chữ in thường chỉ được giới thiệu qua trong hoạt động có chủ đích, vì vậy chữ in hoa và chữ in thường trẻ rất hay nhầm lẫn. +Việc khai thác công nghệ thông tin và trò chơi lấy ý tưởng trong chương trình kidsmart, chương trình happykis, chương trình tự thiết kế tạo nguồn dữ liệu... là chưa có. *Về phía trẻ: -Việc nhận biết làm quen chữ in hoa và chữ in thường là rất yếu. -Trẻ hoạt động hoàn toàn thụ động, trẻ là người lĩnh hội kiến thức (nghe), còn cô là người truyền thụ kiến thức ( nói). - Hầu hết trẻ không nhận được thứ tự của các chữ cái trong từ. -Trẻ chưa hiểu mối quan hệ giữa từ và lời nói. *Về phía phụ huynh: - Chưa phối kết hợp với giáo viên để dạy theo một phương pháp nhất định. - Chưa hiểu được việc tạo môi trường chữ xung quanh trẻ có tác dụng quan trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 tuổi như thế nào. Từ thực trạng trên, suy nghĩ phải làm gì và làm như thế nào để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, đặc biệt có kiến thức cơ bản về làm quen với chữ viết, để trẻ tự tin khi bước vào trường phổ thông thật tốt. Đi tìm lời giải đó là cả quá trình không đơn giản. Từ thực tế giảng dạy, kết hợp với học tập nghiên cứu tài liệu và học tập bồi dưỡng chuyên đề do ngành chỉ đạo. đã rút ra được một số biện pháp thực hiện đạt kết quả tốt trong việc dạy trẻ ôn tập củng cố khả năng nhận biết từ và chữ cái Tiếng Việt thông qua việc tạo môi trường chữ xung quanh trẻ. BIỆN PHÁP 1.Biện pháp 1: Tạo môi trường chữ trong lớp học: *Vì sao phải tạo môi trường chữ trong lớp học? Như chúng ta đã biết đối với trẻ mầm non lớp học chính là mái nhà thứ hai của trẻ. Cảm giác đầu tiên khi bé bước vào cửa lớp, phản xạ tự nhiên của bé là nhình xung quanh xem có những gì và có đẹp không, đặc biệt những gì mới lạ. Vì vậy, các mảng chính trong lớp học đó là mảng chủ điểm, các góc hoạt động là đối tượng đầu tiên khi trẻ bước vào lớp. Để trẻ hứng thú với các mảng hoạt động, đã tập chung trẻ cùng tham gia thảo luận dưới dạng kê chuyện sáng tạo. Cuối cùng cô và trẻ đi đến thống nhất chọn tên của từng góc chơi mỗi khi chuyển chủ điểm mới. Các tuýp chữ, có tên gọi ngây thơ, ngộ nghĩnh, gần gũi trẻ, và bắt buộc phải có hình ảnh minh hoạ cho các tiêu đề ấy. Như vậy sẽ thu hút được sự chú ý của trẻ, từ đó mục đích ôn luyện chữ đã học, cung cấp vốn từ cho trẻ đạt hiêụ quả tối đa. Ví dụ:  Chủ điểm ngành nghề: và trẻ cùng trò chuyện về chủ điểm ngành nghề, sau đó cô hướng trẻ vào câu truyện: Tại cửa hàng búp bê có tất nhiều thứ, nào là đồ dùng cô giáo như: phấn, bảng, bút, vở, ...nào là đồ dùng bác thợ mộc, thợ xây...Búp bê rất muốn chúng mình đặt tên cho cửa hàng của búp bê đấy, nào chúng mình cùng nghĩ ra một cái tên nhé.Trẻ nghe, suy nghĩ và đưa ra ý kiến của mình như: cửa hàng của búp bê, siêu thị mi li, siêu thị của búp bê, búp bê bán hàng...với nhiều cái tên ngộ nghĩnh như vậy, và cả quá trình cô đàm thoại với trẻ. Chính lúc đó trẻ đã tư duy xem mình đã bao giờ được đi siêu thị chưa, đã nghe thấy cái tên đó chưa, và ngẫu nhiên cô đã cung cấp vốn từ cho trẻ. Hay với các góc khác cũng vậy, cô và trẻ cùng đàm thoại, thoải mái trao đổi để đặt tên như: kiến trúc sư tí hon, bé tập làm thợ xây, ngôi nhà mơ ước, thành phố tương lai...( đối với góc xây dựng). Từ những tên gọi gần gũi với trẻ mà chính cô và trẻ đặt tên, đã kích thích trẻ ghi nhớ từ đó lâu hơn, và trẻ đã phần nào hiểu về từ đó. Khi trang trí tên gọi các góc, thường lựa chọn cỡ chữ cho phù hợp với góc, dán chữ ở độ cao vừa tầm nhìn của trẻ để trẻ dễ nhìn thấy. Đặc biệt kiểu chữ phải chuẩn, hầu hết các chữ này thường để ở dạng chữ in thường, với màu sắc đẹp phù hợp với mảng hoạt động và hình ảnh minh hoạ của góc. Còn mảng hoạt động của trẻ ở phía dưới thường gài nhựa trong, các chữ rời với mẫu chữ khác nhau như chữ in thường viết thường, chữ in hoa để trẻ cùng bắt chước cô ghép tên góc. Khi chơi thường hỏi chữ cái đầu tiên của từ là chữ gì? Chữ cái nào trong từ đã học rồi? Làm như vậy trẻ nhớ các từ đó rất lâu và lại một lần nữa trẻ được luyện phát âm, đặc biệt có trẻ đã thao tác ghép chữ nhiều lần thành quen và đã tự ghép mà không cần mẫu của cô. Ngoài ra thường thay đổi tên gọi hình ảnh và các góc cho phù hợp với từng chủ điểm và tạo sự mới mẻ khoảng không gian hấp dẫn mỗi khi trẻ đến lớp: VD: Góc gia đình: thống nhất với trẻ đặt tên góc: " Tổ ấm gia đình", mái ấm 5A1...Trẻ được làm quen với từ " tổ ấm", và biết được từ " tổ ấm" có chữ cái đầu tiên là chữ T, chữ đã học là chữ: ô,a... Nhưng với chủ điểm ngành nghề: và trẻ lại thoải thuận nhất trí đưa ra tên: " bé tập làm nội trợ, bé nấu ăn"...ở đây, trẻ được cung cấp thêm từ: "nội trợ" và từ; "nấu ăn". Trẻ được ghép hoặc chép từ, được biết chữ cái đầu tiên của từ mới đó, biết thứ tự trong từ và ghép hoàn chỉnh các từ mới đó. Như vậy, qua mỗi chủ điểm lại cung cấp thêm cho trẻ nhớ và tự viết được nhiều từ mới và ôn luyện nhiều chữ cái đã học. *Phát triển ngôn ngữ và làm giàu vốn từ cho trẻ qua việc gắn tên, gắn ký hiệu vào các đồ dùng đồ chơi trong lớp và các giá góc: Như chúng ta đã biết, đặc điểm tâm lý của trẻ mầm non là " dễ nhớ dễ quên". Vì vậy, các kiến thức mới cung cấp cho trẻ, nếu không thường xuyên ôn luyện trẻ sẽ nhanh chóng quên ngay khi lĩnh hội kiến thức khác. Mặt khác, khi trẻ hoạt động trẻ thường cất đồ dùng đồ chơi nhanh nhưng không ngăn nắp, giáo viên thường mất nhiều thời gian sắp xếp lại đồ chơi cho trẻ sau khi chơi. Như vậy rất vất vả cho cô mà trẻ lại không có thói quen lao động tự phục vụ. Đặc biệt không được làm quen với tên gọi các từ, hay các chữ cái Tiếng Việt ghép thành từ đó. Để khắc phục tình trạng này, xếp đồ dùng đồ chơi trên giá góc gọn, đẹp, khoa học, sao cho trẻ dễ lấy, đễ cất, các đồ dùng trên giá phải tuân theo một trật tự nhất định. Khi gắn tên cho đồ chơi thường đàm thoại với trẻ: VD: Với đồ chơi; con thỏ, các làn, ti vi,... hỏi trẻ đây là cái gì? chúng mình nhìn xrm cô viết ( hoặc ghép )từ "thỏ" cho chúng mình xem nhé. Chữ cái đầu tiên trong từ " con thỏ" là chữ gì?...Cứ như vậy cho trẻ tri giác trọn vẹn từ " con thỏ" và các chữ cái còn lại trên giá đồ chơi. Nhiều lần như vậy, trẻ ghi nhớ và thuộc các ký hiệu các chữ cái và sắp xếp thành từ có thể trẻ tự đọc được. Đối với các ngăn giá góc, vẽ ký hiệu đồ dùng đồ chơi kèm theo từ ( tên gọi của đồ dùng) và giới thiệu với trẻ: Khi chơi thường trò chuyện với trẻ: Đây là khối gì? dưới kkhối chữ nhật có từ: " khối chữ nhật" và trong từ " khối chữ nhật" có chữ cái nào đã học, chữ cái nào chưa học?chữ cái đầu tiên của từ là chữ K, sau đó đến chữ H, tiếp đó là...  Như vậy, hàng ngày trẻ được chơi được nhìn thấy từ, thứ tự cấc chữ cái trong từ, dần dần trẻ thuộc từ đó, có thể tự viết hoặc ghép chữ cái rời thành từ đó và phát âm, "đọc" rất thành thạo. Việc ghép tên các đồ vật đồ chơi trong lớp không những tác động lên giác quan của trẻ để nhớ các chữ các từ lâu và chính xác mà còn giúp cho hoạt động có chủ đích phát triển ngôn ngữ làm quen với chữ viết được ôn luyện củng cố một cách thoải mái nhẹ nhàng. VD: Trong chủ điểm gia đình: cô dạy trẻ làm quen chữ: a, ă ,â. Khi tổ chức hoạt động có chủ đích, cho trẻ ôn bằng cách: chuẩn bị các đồ vật có gắn từ tương ứng như: cái làn, cái bàn, ấm pha trà...yêu cầu trẻ tìm chữ vừa học( a, ă,â) trong các từ gắn với đồ vật ở xung quanh lớp. Và như vậy trẻ hoạt động rất tích cực, vận động thoải mái và tập chung chú ý cao độ để trẻ tìm thấy chữ đã học trong "thế giới của người lớn". Ra ngoài cuộc sống gặp những hình ảnh, băng zôn, các từ, các chữ...trên đường phố trẻ sẽ tự tin hơn, mở rộng hiểu biết hơn về từ, chữ Tiếng Việt cho trẻ. Qua các chủ điểm, mỗi klhi thay đổi đồ dùng đồ chơi, thay đổi các tiêu đề trên giá đồ chơi, lại giới thiệu cho trẻ đồ dùng đồ chơi mới, giới thiệu chữ mơi, từ mới. Kết hợp áp dụng thực tế bên ngoài xã hội, cùng với việc giới thiệu chữ cái của cô, trẻ có thể đọc được nhiều từ trong sách báo và thực tế. Và thấy rằng đó thự sự là môi trường cho trẻ thực sự phong phú và có hiệu quả. *Tạo cơ hội để trẻ được tiếp xúc với nhiều chữ thông qua các biểu bảng, danh sách lớp phân theo nhóm, tổ trong lớp học: - Ngay từ đầu năm học, khi đã ổn định danh sách lớp, tạo cơ hội để trẻ tiếp xúc với chữ, với từ, tên của mình bằng cách: Viết các danh sách của 4 tổ có kèm theo ký hiệu để trẻ biết tên mình ở tổ nào, có những bạn nào trong tổ của mình. Chữ của trẻ thường viết ở dạng chữ in thường và chữ viết hoa ( vì đây là tên riêng). Trẻ được khắc sâu hinhd ảnh tên của mình và được làm quen với chữ viết thương và chữ viết hoa, trẻ có thể quan sát tập chép theo mẫu vào giờ hoạt động góc và giờ đón trẻ. Và trẻ nhận ra tên mình trong các ký hiệu cuả sách, vở, tập tô, khăn, trực nhật... - Với các biểu bảng nghĩ đây cũng là khoảng không gian không nhỏ tác động đến trẻ. Vì vậy đã trang trí tên gọi bằng chữ cái Tiếng Việt cơ bản để hàng ngày trẻ nhìn thấy, trẻ nhận mặt chữ và ghi nhớ các từ trong bảng và biết bảng đó là bảng gì có chữ gì, từ gì. VD: Bảng trực nhật:, bảng ttheo dõi thời tiết, bảng điểm danh, biết hôm nay là thứ mấy ngày bao nhiêu, thời tiết như thế nào? 2. Biện pháp 2: Tạo môi trường chữ ngoài lớp học: Thực tế cho thấy trẻ đến trường ngoài hoạt động có chủ đích, hoạt động ăn, hoạt động ngủ, còn các thời gian khác trẻ hoạt động với môi trường bên ngoài như: góc thiên nhiên, mảng tuyên truyền, khu vực để đồ dùng cá nhân của trẻ. Đây là nơi trẻ thường xuyên hoạt động nên có tác dụng ôn tập củng cố chữ cái và từ rất tốt. * Nơi để đồ dùng cá nhân của trẻ như: mũ, ba lô, giầy dép, khăn mặt,...luôn gắn ảnh kèm theo tên của trẻ. Như vậy, hàng ngày trẻ cất đồ dùng hoặc sử dụng đồ dùng vừa đúng qui định, vừa biết tên của mình (của bạn), biết tên của mình có chữ gì, biết thứ tự của từng chữ từ trái sang phải của các chữ như thế nào..Và trẻ còn viết tên của mình vào bài vẽ khi vẽ tạo hình. Mỗi một môi trường hoạt động của trẻ, đều chủ động tạo môi trường để trẻ có cơ hội được luyện phát âm, ôn luyện chữ đã biết, làm quen chữ mới và làm quen từ một cách rất tự nhiên thoải mái không gò bó áp đặt trẻ. *Khu vực tuyên truyền ngoài lớp học của trẻ là nơi không những tạo môi trường chữ cho trẻ mà còn mang tính tuyên truyền đến các bậc phụ huynh để phụ huynh hiểu biết về chữ mà con em mình đang học. Và từ đó phối kết hợp ôn luyện tại gia đình. Tránh trường hợp cô dạy chữ đúng phụ huynh lại dạy chữ chưa đúng +Chữ x đọc là "xờ", chữ s đọc là "sờ", nhưng có ông bà lại dạy là "ích xì" và "ét xì". +Hay chữ l, n, lại đọc là "e lờ" và " e nờ"... Và nếu không thống nhất trẻ sẽ giao động không biết như thế nào là đúng, hơn nữa nếu đã đọc sai thì rất khó sửa. Xác định được điều đó, mỗi tuyên truyền đều có hình ảmh kèm theo chữ in hoa, in thường, viết thường ( chủ yếu là chữ in thường), tuyệt đối không viết chữ cách điệu chữ bay. Hay tên chủ điểm viết dạng: " thế giới thực vật", các tranh ảnh cỏ cây hoa lá. ...có kèm theo từ để trẻ có thể phát âm, tự đọc. *Ngoài ra cho trẻ một mảng hoạt động để hàng ngày trẻ tập ghi số điện thoại, chép tên mình và địa chỉ cá nhân của mình...Từ đó trẻ ghi nhớ các từ, chữ, tên của mình của bạn, biết nhà bạn hoặc nhà mình ở đâu?.. * Góc thiên nhiên ngoài trời: Đây là nơi trẻ được tiếp xúc mọi lúc mọi nơi, mọi thời điểm trong ngày. Toạ môi trường chữ có kèm hình ảnh không những cho trẻ hiểu về thế giới các loài cây, loài hoa, biết các giai đoạn phát triển của cây, hiện tượng thửi nghiệm khoa học...mà còn có thể ghi chép hiện tượng mà trẻ theo dõi hàng ngày. VD: gắn tiêu đề cho góc : " vườn ươm cây cảnh" và làm các biển cắm có chữ ghi tên cây có kèm hình ảnh.Khi cho trẻ tri giác chữ từ dưới mỗi hình ảnh trong biển cắm đều yêu cầu trẻ tìm đúng từ " cây hoa cúc" gắn vào cây hoa cúc, và các loại cây khác cũng vậy, trẻ biết tên, chữ, từ, của cây đó, tập "đọc"tên các cây mà trẻ đã tìm đúng. VD2: chuẩn bị các mảnh rời như sau và yêu cầu trẻ ghi chép lại sự phát triển của cây đó theo đúng thứ tự: Và như vậy trẻ được tri giác chữ từ có hình ảnh tương ứng , trẻ lại được ôn luyện chữ cũ và được làm quen chữ mới ngay cả trong khi chơi, ngôn ngữ của trẻ phát triển, vốn từ của trẻ được mở rộng thêm. 3. Biện pháp 3: Thu hút trẻ tham gia tạo môi trường chữ trong góc tạo hình, góc sách, góc thư viện nhằm phát huy tích tích cực hoạt động của trẻ: * Để phát huy tính tích cực của trẻ trong góc chơi, đặc biệt là góc thư viện. Đây là nơi trẻ được tiếp xúc nhiều với chữ cái, và rèn luyện kỹ năng tiền biết đọc, biết viết của trẻ như: cách lật giở sách, cách đưa mắt từ trái sang phải khi đọc, hoặc các từ mới như: tên truyện, tên các trang bìa, tên các album tự tạo....với các mẫu chữ khác nhau. VD1: Cô tạo cơ hội cho trẻ được hoạt động với truyện thơ tranh chữ to có sẵn, tự tạo... trẻ được xem tranh, tập kể chuyện, tập "đọc" chữ to trong truyện...và như vậy một lần nữa trẻ mở rộng vốn từ, phát triển ngôn ngữ, trẻ như được hoà nhập với thế giới của người lớn. Khi trẻ tiếp xúc với các loại sách, báo, tạp chí...có nhiều kiểu chữ khác nhau ở bất kỳ nơi nào trẻ cũng rất tự tin và có thể tự mình khám phá nội dung. VD2: Cô tổ chức cho trẻ cùng làm album và truyện tranh chữ to theo chủ điểm. Nếu là chủ điểm "thế giới động vật" cô và trẻ sưu tầm album về các con: chó mèo, gà, vịt,...yêu cầu trẻ tìm các chữ trong hoạ báo cắt và ghép từ "con mèo", "con chó"...dán dưới hình ảnh các con vật tương ứng. Một đều luôn lưu ý nhắc trẻ là phải ghép chữ lần lượt từ trái sang phải, hết chữ này đến chữ khác, hết từ này đến từ khác bên cạnh phía phải, và sau đó yêu cầu trẻ phát âm các chữ, "đọc" các từ . * Để trẻ hứng thú tích cực tham gia vào hoạt động tạo hình cho trẻ làm tranh: VD 1: Cho trẻ sưu tầm các chữ có trong hoạ báo, lịch cũ,...trẻ cắt, tô màu và cùng ghép chữ với cô để tạo thành các tuýp chữ, các tiêu đề xung quanh lớp moõi khi thay đổi chủ điểm. Với chủ điểm " thế giới thực vật", cô yêu cầu trẻ ghép chữ mà trẻ sưu tầm được và xếp từng chữ từ trái qua phải: chữ t rồi đến chữ h rồi đến chữ ê...Trong suốt quá trình hoạt động tích cực như vậy, bản thân trẻ lại một lần nữa khắc sâu chữ cái và từ. Trẻ được tham gia hoạt động tích cực như vậy, trẻ rất hứng thú và biết trân trọng những sản phẩm mình là ra. Đặc biệt các chữ, các từ mà trẻ tự tay sưu tầm được, thực tế cho tháy trẻ nhớ chữ nhớ từ rất lâu. 4.Biện pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua việc làm quen công nghệ thông tin: Để đáp ứng nhu cầu nhận thức của trẻ, đồng thời thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của nhà trường giao. Đó là việc ứng dụng công nghệ thông tin, giáo án điện tử vào giảng dạy thông qua việc khai thác trò chơi kidsmart và happykids, các nguồn dữ liệu thiết kế trên máy tính: - lấy ý tưởng từ ngôi nhà sách của bailey's, trong chương trình kisdmart, tổ chức cho trẻ được ôn luyện chữ bằng cách tìm tranh chứa chữ cái cô vừa dạy, tự in và gạch chân chữ vừa tìm được. - Cũng ý tưởng từ ngôi nhà sách của bailey's, trong chương trình kisdmart,cho trẻ ôn chữ đã học thông qua trò chơi: " đuổi hình bắt chữ". thết kế các hình ảnh ngộ nghĩnh phù hợp với các chủ điểm, các chữ minh hoạ cho các hình ảnh, yêu cầu khi chơi trẻ phải tìm đúng chữ với hình ảnh. VD: Hình ảnh hoa hồng ( trong chủ điểm thế giới thực vật), trẻ phải quan sát và ghi nhớ hình ảnh hoa hồng, từ "hoa hồng" có 7 chữ cái bắt đầu là chữ h, sau đó là o,...trẻ tập phát âm chữ cái đó, từ đó, trẻ càng chơi nhiều lần càng nhớ lâu chữ đã học. - Hay với các giờ dạy trẻ tô chữ, tận dụng chương trình happykis, bằng cách cho trẻ thực hành điều khiển chuột trên máy tính để quan sát thao tác tô chữ trên máy tính với 3 kiểu chữ in hoa in thường và viết thường. Trẻ được khắc sâu thao tác tô theo qui luật nhất định là tô từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, trùng khít lên nét chấm mờ. - Ngoài ra, chủ động thiết kế tạo nguồn dữ liệu: + Dữ liệu chữ: in thường, in hoa, viết thường chuẩn của 29 chữ cái được scan và thiết kế trên powerpoint có màu sắc khác nhau: tất cả chữ in thường màu xanh, chữ in hoa màu đỏ, chữ viết thường màu vàng để trẻ dễ phân biệt. Hàng ngày giờ chơi hoạt động góc, giờ đón trả trẻ...Trẻ tự vào góc chơi theo ý thích của mình, tự dùng chuột điều khiển trò chơi: "tìm chữ", tìm được chữ nào đọc to chữ ấy, hoặc tìm chữ theo yêu cầu của cô, của bạn, trẻ trao đổi và sửa cho nhau(nếu có). Hay thiết kế trò chơi: "Bù chỗ còn thiếu", "sắp xếp lô zích"...các đối tượng là các chữ cái mà trẻ đã được học trong các chủ đề chủ điểm . Như vậy trẻ được cùng chơi, cùng ôn luyện nhẹ nhàng thoải mái. + Dữ liệu từ: sưu tầm tranh ảnh động trên mạng, scan các loại tranh ảnh tự vẽ hoặc mua đưa vào máy, phân loại theo từng chủ đề chủ điểm khác nhau. VD: Chủ điểm: " Quê hương- Đất nước- Bác Hồ", thiết kế trên máy tính các loại tranh ảnh về địa danh của Hải Phòng như: Đồ Sơn, lễ hội chọi trâu, tượng nữ tướng Lê Chân, bến cảng, đường phố hoa phượng... Tranh ảnh về Đất nước như: phong cảnh Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí Minh, Đà Lạt...Tranh ảnh về Bác Hồ như: chân dung, Bác Hồ với các cháu, Bác Hồ đang trồng cây... có các từ tương ứng kèm theo. Trẻ được chơi dưới hình thức chọn tranh theo yêu cầu của cô hoặc của bạn, trẻ quan sát phát âm chữ, "đọc" các từ dưới tranh, và ngẫu nhiên trẻ được ôn luyện, phát triển ngôn ngữ rất nhẹ nhàng thông qua trò chơi này. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: Qua quá trình áp dụng các biện pháp trên vào thực tế giảng dạy, đến nay lớp đã đạt được kết quả như sau: 1 Trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái Tiếng Việt. 65% 35% 100% 0 2 Số trẻ nhận chữ cái trong từ và ghép đúng các chữ thành từ có hình ảnh. 55% 45% 98% 2% 3 Số trẻ nhận biết chuẩn chữ in hoa, in thường, viết thường. 50% 50% 97% 3% 4 Số trẻ ghi nhớ và "đọc" các từ có hình ảnh kèm theo 5% 95% 50% 50% - Giáo viên đã tự học tập nâng cao trình độ tin học, đã chủ động thiết kế tạo các nguồn dữ liệu ôn luyện củng cố, phát triển ngôn ngữ phù hợp các chủ đề chủ điểm cho trẻ. - Giáo viên đã chủ động biết cách tổ chức hướng dẫn theo hướng đổi mới. Môi trường chữ trong lớp và khu vực trẻ thường xuyên tiếp xúc được tạo ra phong phú, các kiểu chữ phù hợp với qui định của nội dung giáo dục trẻ là quen chữ viết. - Giáo viên đã biết tận dụng ngyên liệu phế thải để cho trẻ có cơ hội tham gia vào hoạt động tạo môi trường chữ xung quanh lớp học cùng với cô. - Đã yên tâm tin tưởng gửi con em vào trường, đã hiểu biết về việc môi trường chữ cho trẻ học chữ cái Tiếng Việt là rất tốt, có hiệu quả cao. Hiểu biết về chữ cơ bản trẻ đang học kết hợp cùng với cô rèn trẻ một cách lozich tại gia đình. Đồng thời, đóng góp nguyên liệu: tranh ảnh, lịch cũ, ...để cô và cháu cùng tạo môi trường chữ. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Qua việc tạo môi trường chữ cho trể, nhận thấy việc tạo môi trường chữ cho trẻ vô cùng quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ, làm giàu vốn từ cho trẻ. Việc tạo môi trường chữ vừa hợp với chương trình đổi mới hiện nay, vừa phát huy được tính tích cực tò mò khám phá của trẻ mà lại mang lại hiệu quả cao. Bản thân rút ra được kinh nghiệm như sau: 1.Chọn các tiêu đề trong các góc cho phù hợp với chủ điểm, mỗi tuýp chữ phải có hình ảnh minh hoạ. Các tuýp chữ thường xuyên được thay đổi theo chủ điểm, tạo sự mới mẻ và thu hút sự chú ý của trẻ. 2.Tạo tình huống để kích thích trẻ hoạt động, tạo cơ hội để trẻ được tiếp xúc với nhiều chữ, nhiều kiểu chữ, trên giá góc, trên đồ dùng đồ chơi, trên biểu bảng, trên đồ dùng cá nhân. 3.Góc thư viên và góc tạo hình: giáo viên chủ động lôi kéo trẻ tham gia tạo các loại sách truyện chữ to theo các chủ đề chủ điểm. 4.Các tuýp chữ phải để ở dạng " mở", nhằm kích thích trẻ hoạt động và thay đổi dễ dàng. 5. Thường xuyên cho trẻ làm trực nhật để trẻ ghi nhớ thứ, ngày, tháng,theo dõi thời tiết, tên và địa chỉ của mình...Qua đó trẻ nhận biết, phát âm mặt chữ và làm quen chữ mới. 6. Tận dụng các giờ học khác để kích thích trẻ cùng trang trí và gắn chữ, từ xung quanh lớp theo kiểu " tích hợp" để trẻ được tiếp xúc với chữ mọi lúc mọi nơi. 7.Biết nghiên cứu khai thác và tận dụng sự hứng thú tham gia trò chơi trên máy tính của trẻ để sáng tạo trò chơi mới, nhằm ôn luyện củng cố chữ cho trẻ.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuyen_de_ptnn_3628.doc
Luận văn liên quan