LỜI MỞ ĐẦU
Cho thuê tài chính là một hình thức tài trợ trung và dài hạn đã xuất hiện từ rất sớm trên thế giới. Những lợi ích to lớn mà nó đem lại cho việc tài trợ và đầu tư đã giúp cho ngành cho thuê phát triển hết sức nhanh và mạnh mẽ. Bởi lẽ cho thuê tài chính chủ yếu là cấp tín dụng cho những doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn có nhu cầu mở rộng đầu tư phát triển sản xuất nhưng không đủ điều kiện để vay vốn từ các Ngân hàng Thương Mại. Vì thế họ tìm đến tín dụng thuê mua bởi đây là một hình thức tài trợ đơn giản, nhưng lại có tính an toàn và hiệu quả cao. Những lợi thế đó đã mang lại một ý nghĩ vô cùng to lớn đối với Việt Nam một quốc gia mà các chủ thể kinh tế chủ yếu có quy mô còn hạn chế và việc tiếp xúc với các nguồn tài trợ còn khó khăn.
Tuy có một ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng ngành cho thuê tài chính lại thâm nhập vào Việt Nam khá muộn và chưa được biết đến rộng rãi bởi các doanh nghiệp kinh doanh do họ vẫn còn thói quen vay vốn từ Ngân hàng Thương mại. Với một số lượng công ty cho thuê tài chính còn hạn chế, đối tượng cho thuê, tài sản cho thuê và các loại hình nghiệp vụ cho thuê còn chưa đa dạng, việc quản lý cho thuê còn nhiều bất cập do đó chưa thể đáp ứng được nhu cầu thuê tài sản của các tổ chức và cá nhân.
Theo thời gian thì hoạt động cho thuê tài chính cũng dần khẳng định được vị trí của mình trong nền kinh tế, đồng thời với việc Việt Nam ra nhập WTO năm 2006 đã mở ra cho ngành cho thuê cả những thử thách cũng như những cơ hội mới. Thực tế cho thấy nhu cầu đầu tư mở rộng sản xuất của các tổ chức, cá nhân ngày càng tăng lên đó là một cơ hội vàng để mở rộng quy mô hoạt động cho thuê, đồng thời có thể học hỏi được những kinh nghiệm của các công ty cho thuê tài chính nước ngoài để tự hoàn thiện mình. Tuy nhiên, Một lực lượng công ty cho thuê tài chính nước ngoài có nguồn lực hùng hậu và kinh nghiệm lâu đời sẽ là một trở ngại to lớn đối với các công ty cho thuê tài chính trong nước. Đứng trước thách thức và cơ hội đó, Đề tài " Mở rộng tín dụng thuê mua tại công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam" được lựa chọn với hi vọng đóng góp ý kiến để mở rộng hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam. Chuyên đề tốt nghiệp có kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về tín dụng thuê mua.
Chương 2: Thực trạng tín dụng thuê mua tại Công ty Cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị mở rộng hoạt động thuê mua tại Công ty Cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Do những hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, Chuyên đề không tránh khỏi những sai sót. Tuy nhiên, trong quá trình thực tập, tôi đã được sự hướng dẫn chỉ bảo rất tận tình của giảng viên hướng dẫn Tiến sĩ Đặng Ngọc Đức cũng như tập thể cán bộ làm việc tại Công ty Cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để hoàn thiện những sai sót đó.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình "Tín dụng Ngân hàng" Nhà xuất bản thống kê Hà Nội – 2001 Chương X.
2. Giáo trình " Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua – VN" 1996.
3. Giáo trình " Nghiệp vụ Ngân hàng Thương Mại" chương 12 tác giả Lê Văn Tề, Nhà xuất bản Thống kê.
4. Hệ thống văn bản pháp luật:
Thông tư số 05/2006/ TT- NHNN hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cho thuê tài chính và dịch vụ uỷ thác theo quy định tại Nghị định số 16/2001/ NĐ – CP ngày 02/05/2001 và nghị định 65/2005/NĐ- CP ngày 19/5/2005.
Thông tư số 06/2005 /TT – NHNN hướng dẫn thực hiện một số nội dung tại nghị định số 16/2001/ NĐ – CP về tổchức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính", quy định về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 16/2001/ NĐ –CP.
5. Quy trình cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
6. Báo cáo kết quả kinh doanh, bảng tổng kết tài sản, bảng báo cáo năm của công ty cho thuê tài chính NHNTVN.
69 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2794 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng tín dụng thuê mua tại công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ành ảnh, Thiết bị xây dựng. Theo thống kê thì Công ty Cho thuê Tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện đang chủ yếu cho thuê tài sản là thiết bị sản xuất (42.77%), sau đó là các thiết bị như phương tiện vận chuyển (23.14%), và thiết bị xây dựng( 24.01% ), cuối cùng là thiết bị ngành in ngành ảnh chỉ chiếm có 10.08%. So hai năm 2005 và 2006 thì những tỷ lệ này không thay đổi nhiều, chỉ có sự thay đổi về tỉ lệ giữa phương tiện vận tải và thiết bị sản xuất.
BẢNG 2.4: PHÂN LOẠI CẤU TRÚC TÀI SẢN CHO THUÊ
QUA HAI NĂM 2005-2006.
Loại tài sản
Dư nợ CT
Tỷ trọng
Dư nợ CT
Tỷ trọng
Phương tiện vận chuyển
298 439.2
36.42%
254 796.9
23.14%
Thiết bị sản xuất
298 848.8
36.47%
470 944.8
42.77%
MM ngành in ngành ảnh.
85 057.6
10.38%
119 991.9
10.08%
Thiết bị xây dựng
137 173.8
16.74%
264 376.6
24.01%
Tổng cộng
819 437.4
1 101 110.2
Nguồn: Báo cáo năm 2005, 2006 – công ty cho thuê tài chính VCB.
Biểu đồ 2: Tỉ trọng dư nợ cho thuê theo loại hình tài sản qua 2 năm.
Nguồn: Báo cáo năm 2005, 2006 – công ty cho thuê tài chính VCB.
BẢNG 5: NỢ QUÁ HẠN THEO TỪNG LOẠI TÀI SẢN CHO THUÊ
Chỉ tiêu
%Nợ quá hạn 2005
%Nợ quá hạn 2006
Phương tiện vận chuyển
2.31%
2.37%
Thiết bị sản xuất
2.24%
2.74%
MM ngành in ngành ảnh
0.36%
0.4%
Thiết bị xây dựng
7.42%
6.57%
Nguồn: Báo cáo năm 2005, 2006 – công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Hiện nay, tài sản cho thuê là thiết bị ngành in ngành ảnh đang có tỷ lệ nợ quá hạn là thấp nhất 0.4%. Rõ ràng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực in ấn và tráng rọi ảnh thường thu tiền hàng ngày và ít bị chiếm dụng vốn nên khả năng thanh toán tốt, tỷ suất sinh lời cao so với các lĩnh vực khác. Công ty cho thuê tài chính cần đẩy mạnh cho thuê các loại tài sản này.
Loại tài sản cho thuê là thiết bị xây dựng có tỷ lệ nợ quá hạn cao nhất trong các loại tài sản (6.57 %) tuy có giảm hơn so với năm 2005. Nguyên nhân của nó là do trong lĩnh vực xây dựng thì tình trạng nợ đọng, chiếm dụng vốn giữa các đơn vị đã trở thành vấn đề nhức nhối hiện nay. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thường có khả năng thanh toán kém. Do đó, các công ty cho thuê tài chính nên hạn chế tài trợ các thiết bị loại này.
Ngoài ra, Phương tiện vận chuyển và thiết bị sản xuất có tỷ lệ nợ quá hạn ở mức bình thường (hơn 2%) và không có biến động lớn. Đây là loại tài sản dễ mua bán, khả năng chuyển đổi thành tiền cao, khi cần thiết có thể phát mại dễ dàng để thu nợ. Công ty nên đẩy mạnh cho thuê loại tài sản này.
2.4.5Về lãi suất cho thuê tài chính.
Lãi suất cho thuê đối với công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một vấn đề hết sức quan tâm, vì phần lớn dư nợ cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thực hiện từ vốn của ngân hàng mẹ. Do đó, chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra sẽ đóng vai trò quyết định kết quả kinh doanh của công ty.
Lãi suất bình quân hiện nay khi cho thuê của công ty là 1.01%/tháng đối với Việt Nam Đồng (VNĐ), là 0.66%/ tháng đối với Đô la Mĩ (USD). Trong khi đó, lãi suất bình quân đi vay từ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là 0.772%/tháng đối với VNĐ, là 0.55% /tháng đối với USD. Công ty vẫn sử dụng mức lãi suất cố định trong các hợp đồng trung và dài hạn, nên chúng không được điều chỉnh kịp thời so với mức thay đổi của thị trường. Trong khi đó, lãi suất cho vay của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam lại được điều chỉnh 6 tháng một lần theo lãi suất thị trường. Vì thế, khi lãi suất đầu vào tăng, còn lãi suất đầu ra thì không tăng tương ứng nên chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra thấp.
2.5NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH VCB.
Dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Công ty cho thuê tài chính VCB chủ trương đẩy mạnh hoạt động quản trị, đổi mới phương pháp quản lý. Vì thế qua 8 năm thành lập và phát triển, Công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong hoạt động kinh doanh nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam có thể hoạt động lâu dài tại Việt Nam bởi đây là một công ty nhà nước, trực thuộc Vietcombank, nó được sự hậu thuẫn và hỗ trợ rất nhiều của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam như: thương hiệu của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã trở nên nổi tiếng không chỉ trong và ngoài nước, vì vậy uy tín của nó là rất cao đối với khách hàng khi có nhu cầu muốn sử dụng tín dụng thuê mua. Hơn nữa, Về mặt tài chính, thì Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn luôn được Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hỗ trợ về vốn và công nghệ cần thiết. Vì thế đây có thể nói là một ưu thế của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Công ty xây dựng một cơ cấu khách hàng khá hoàn chỉnh. Nhân viên công ty luôn tìm các biện pháp tiếp cận khách hàng, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, phân tích sơ bộ những thông tin để hiểu hơn về khách hàng nhằm thuyết phục họ quan hệ thuê mua với công ty. Quan trọng hơn, công ty đã xây dựng được một chính sách khách hàng hợp lý và thuận tiện. Cụ thể là công ty xác định cụ thể đối tượng cho thuê, nguyên tắc cho thuê, điều kiện cho thuê, hạn mức cho thuê, thời hạn cho thuê đối với từng loại đối tượng, lãi suất cho thuê đối với từng loại hợp đồng. Công ty còn tiến hành phân loại khách hàng, xếp loại khách hàng tiềm năng hay khách hàng vip, mỗi một đối tượng trên công ty đều đưa ra chính sách riêng cho phù hợp.
Công ty cho thuê tài chính VCB có những cán bộ công nhân viên có trình độ cao. Họ đa phần đều đã được đào tạo cơ bản tại các trường đại học trong cả nước, Công ty còn sở hữu những thạc sĩ trong nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế và hiện nay đang nắm giữ những vị trí chủ chốt trong công ty. Bên cạnh đó, công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có phẩm chất tốt, luôn nhiệt tình trong công việc, hòa nhã với khách hàng và đồng nghiệp.
Công ty đã quan tâm tới công tác phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính. Do đó đã đạt được những kết quả vô cùng đáng khích lệ như phòng ngừa và hạn chế được rủi ro về lãi suất, kiểm soát được các khoản nợ quá hạn không để xảy ra tổn thất, phần nào đa dạng hóa các loại tài sản cho thuê để phân tán rủi ro trong kinh doanh bằng cách cho thuê trong nhiều đối tượng nhiều lĩnh vực, và không tập trung một lượng vốn lớn vào một đối tác.
Công ty đã áp dụng lãi suất cho thuê tài chính thả nổi trong hợp đồng cho thuê tài chính. Lãi suất cho thuê tài chính bằng Việt Nam Đồng được áp dụng bằng lãi suất huy động tiền gửi tiết kiệm VND kì hạn 12 tháng do Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam công bố cộng với biên độ từ 0.3%/tháng đến 0.37% tháng, đối với lãi suất cho thuê bằng đồng $ thì áp dụng bằng lãi suất SIBOR 6 tháng cộng với biên độ 2.5%/ năm đến 3%/ năm. Đồng thời công ty cũng thực hiện tốt việc phân loại các hợp đồng cho thuê tài chính và phân tích lãi suất cho thuê tài chính đối với từng hợp đồng. Còn đối với khách hàng thì công ty có chiến lược phân loại và chọn lựa khách hàng tốt để tài trợ góp phần nâng cao chất lượng của các món cho thuê tài chính.
Công ty tách biệt công tác maketing và công tác thẩm định tín dụng. Từ đó hạn chế rủi ro phát sinh do các nguyên nhân chủ quan từ phía cán bộ công ty. Thực hiện tốt công tác giám sát, kiểm tra các khâu nghiệp vụ, đảm bảo tuân thủ đúng quy trình tín dụng cho thuê tài chính. Cụ thể là phòng kinh doanh áp dụng mô hình ba bộ phận: bộ phận maketing, bộ phận thẩm định, bộ phận quản lý hồ sơ. Việc phân tách như vậy đảm bảo tính độc lập giữa công tác marketing và công tác thẩm định tín dụng hạn chế các rủi ro phát sinh do các nguyên nhân chủ quan từ phía cán bộ công ty.
2.6NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG.
2.6.1Những khó khăn vướng mắc mà công ty gặp phải trong quá trình hoạt động.
Hoạt động cho thuê tài chính của công ty còn phát triển khá manh mún. Hoạt động này chưa được định hướng chiến lược phát triển rõ ràng, các hợp đồng cho thuê tài sản chủ yếu là do khách hàng tìm đến, còn hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng thuyết phục khách hàng quan hệ tín dụng với mình theo chiến lược hoạt động chưa được tập trung nghiên cứu làm ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn.
Công ty chưa chủ động về nguồn vốn cho quá trình hoạt động cho thuê. Bởi vì lượng vốn điều lệ của công ty hiện nay mới chỉ có 100 tỷ VND, đây là một mức vốn điều lệ thấp so với các công ty cho thuê tài chính cùng hoạt động trong lĩnh vực. Thị phần huy động vốn của công ty cũng còn khá khiêm tốn, chủ yếu chỉ là vay vốn từ ngân hàng mẹ, chứ chưa thực hiện vay vốn từ các định chế tài chính khác, đồng thời cũng không nhận tiền gửi. Trong cơ cấu nguồn vốn của công ty chỉ có vốn chủ sở hữu và vốn vay từ Vietcombank TW qua đó cho thấy danh mục nguồn vốn của công ty chưa đa dạng.
Các hợp đồng tín dụng thuê mua còn khá đơn điệu. Hiện nay, công ty chủ yếu cung cấp các hợp đồng cho thuê tài chính đơn thuần, Công ty vẫn nỗ lực để thực hiện nghiệp vụ cho thuê vận hành, tăng các hợp đồng tái cho thuê và thực hiện liên kết với các công ty cho thuê tài chính khác thực hiện các hợp đồng cho thuê hợp vốn nhưng đến nay, công ty vẫn chưa tiến hành được một hợp đồng cho thuê vận hành nào, bởi nghiệp vụ này chứa đựng nhiều rủi ro hơn và công ty phải sử dụng một khối lượng tín dụng lớn: bởi hoạt động này có tính chất là cung cấp tín dụng ngắn hạn và chủ yếu là cho thuê các loại động sản.
Dư nợ của tín dụng thuê mua tài chính còn thấp, tăng trưởng chưa cao. thị trường cho thuê tài chính mà công ty cung cấp chưa được phân bố đều giữa các khu vực trong cả nước vì hiện giờ công ty mới có một trụ sở chính ở Hà Nội và một chi nhánh ở Hồ Chí Minh. Như vậy là chưa đáp ứng hết những nhu cầu của các doanh nghiệp cần vốn ở những nơi xa hai khu trung tâm.
Đối tượng tài sản cho thuê hiện nay của công ty chủ yếu là một số loại máy móc thiết bị động sản với giá trị thấp. Giá trị tài trợ mỗi hợp đồng chỉ khoảng vài tỷ, ít hợp đồng có giá trị cao và ít có quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp lớn và ít hợp đồng tài trợ cho các dự án lớn do bị khống chế bởi hạn mức tài trợ trên vốn tự có của công ty. Thị trường cho thuê bất động sản thì công ty vẫn còn bỏ ngỏ tuy rằng đang trong giai đoạn triển khai thực hiện nhưng đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội lớn từ những hợp đồng dạng này.
Khó khăn trong vấn đề thu hồi tài sản khi bên đi thuê vi phạm hợp đồng hoặc mất khả năng thanh toán đối với công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam do khách hàng không chịu trả lại tài sản đang sử dụng trong khi đó công ty không có lực lượng để cưỡng ép khách hàng trả lại tài sản cho dù luật pháp đứng về phía công ty cho thuê.
Công ty chưa thiết lập được mối quan hệ sâu rộng đối với các đối tác là cơ sở cung ứng máy móc thiết bị cho mình. Hình ảnh công ty cho thuê tài chính còn mờ nhạt với nhiều doanh nghiệp.
Tóm lại, thị phần cho thuê tài chính của công ty còn quá nhỏ, không đáng kể so với thị trường vốn, hoạt động cho thuê tài chính chưa được phát huy và mở rộng một cách nhanh chóng, mức độ hỗ trợ vốn đầu tư dài hạn qua việc trang bị máy móc thiết bị cho doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu, chưa đáp ứng hết kỳ vọng chung của giới doanh nghiệp và xã hội.
2.6.2Nguyên nhân của những khó khăn.
Mặc dù công ty cho thuê tài chính có tác dụng to lớn cho các doanh nghiệp như vậy nhưng hoạt động này vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả của nó trong khi nhu cầu về thuê máy móc và thiết bị của doanh nghiệp thì lớn. Điều đó xuất phát từ những nguyên nhân đến từ chính bản thân công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và nguyên nhân từ bên ngoài.
2.6.2.1Nguyên nhân chủ quan.
Quy mô của công ty còn nhỏ. Hơn nữa công ty chỉ có thể vay vốn và nhận sự hỗ trợ từ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mà chưa có bất cứ nguồn huy động vốn nào từ các tổ chức tín dụng khác, vì thế nguồn vốn huy động được không đa dạng và không thể tăng quy mô cho thuê một cách nhanh chóng.
Phương pháp đánh giá thẩm định còn yếu kém, quy trình nghiệp vụ chưa đầy đủ. Chủ yếu phụ thuộc vào ý kiến chủ quan của cán bộ thẩm định. Những nội dung đánh giá thì cơ bản tuy nhiên kết quả thẩm định lại có sự khác nhau giữa từng cán bộ thực hiện thẩm định. Công ty chủ yếu chỉ thẩm định thông qua tài liệu khách hàng cung cấp mà chưa thông qua khảo sát thực tế và thông qua các nguồn thông tin khác.
Cơ sở thông tin khách hàng chưa cao. Hiện nay công ty mới chỉ dựa trên một số thông tin về khách hàng như báo cáo tài chính, đáng giá dự án kinh doanh của khách hàng, xem xét về năng lực pháp lý của công ty, và xem xét về khả năng của thị trường mà khách hàng đang hoạt động để đưa ra quyết định cho thuê tài chính. Đây hoàn toàn là thông tin do khách hàng cung cấp vì thế độ tin cậy chưa đảm bảo. Công ty chưa có điều kiện để kết hợp với các công ty khác trong việc xác định thông tin và thẩm định các thông tin về khách hàng để đảm bảo thông tin là tuyệt đối chính xác.
Chưa có một chính sách cho thuê tài chính phù hợp. Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chưa chủ động nghiên cứu cụ thể về ngành, nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, chưa nghiên cứu về các yếu tố tăng trưởng trong các lĩnh vực, chưa có những dự đoán về biến động trên thị trường… Khách hàng đến với công ty thuộc ngành nghề sản xuất kinh doanh nào thì công ty mới nghiên cứu tìm hiểu ngành nghề đó. Do đó chưa xác định đâu là lĩnh vực ít rủi ro nên đầu tư đồng thời đưa ra các chính sách ưu đãi về điều kiện cho thuê để thu hút khách hàng thuộc lĩnh vực ít rủi ro, đồng thời tìm ra lĩnh vực nhiều rủi ro cần hạn chế cho thuê.
Hoạt động Maketing còn yếu. Đó chính là khâu tiếp cận khách hàng, và tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, tuy phòng kinh doanh có một bộ phận chuyên nghiên cứu khâu này, tuy nhiên kết quả đạt được vẫn chỉ dừng lại ở việc thuyết phục khách hàng quen tiếp tục quan hệ cho thuê với công ty, và tìm được những công ty mới hoạt động trong lĩnh vực mà công ty hiện thời đang có quan hệ cho thuê an toàn. Hạn chế là công ty chưa thể nghiên cứu thị trường để mở rộng được cơ cấu khách hàng của mình. Hơn nữa, nguồn khách hàng tự tìm đến với công ty còn rất hạn chế.
Công tác giám sát việc sử dụng tài sản thuê, phân tích khả năng trả nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ còn nhiều bất cập. Sự bất cập này dẫn đến khách hàng có thể làm hỏng tài sản và gây rủi ro cho công ty cho thuê tài chính. Chủ yếu là do lượng cán bộ tín dụng còn mỏng trong khi số hợp đồng cho thuê tài chính thì lớn.
Trình độ nghiệp vụ và năng lực quản lý chưa cao. Do hầu như đội ngũ cán bộ nhân viên của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đều được thuyên chuyển từ ngân hàng mẹ chưa bắt kịp với cơ chế thị trường cho thuê, còn tư duy theo lối cũ, sức ỳ còn lớn, thêm vào đó các cán bộ của công ty còn thiếu những chuyên gia giỏi nắm vững những khoa học công nghệ mới tiên tiến, điều này sẽ làm công ty mất đi tính chủ động khi tham gia thị trường.
2.6.2.2Nguyên nhân khách quan.
Giá cả cho thuê tài chính còn cao
Điều này do lãi suất cho thuê tài chính còn cao hơn lãi suất vay vốn cùng loại của các Ngân hàng. Doanh nghiệp thuê tài chính ngoài việc phải chịu lãi suất cho thuê tài chính cao còn phải chịu thêm nhiều chi phí và thuế khác như:
Một trong những loại phí làm tăng thêm giá cho thuê là phí kiểm định, đăng ký tài sản, công chứng hợp đồng… do quy trình nghiệp vụ nhất thiết phải có công ty giám định chất lượng và giá tài sản đặc biệt là trong trường hợp cho thuê tài sản đã qua sử dụng.
Tài sản cho thuê tài chính thì thuế giá trị gia tăng được khấu trừ phải chia làm nhiều đợt theo tỉ lệ tương ứng với số tiền nợ gốc đã trả trong khi nếu tài sản do bên thuê tự mua thì được khấu trừ thuế trong vòng ba tháng đầu kể từ khi mua sắm. Việc kéo dài thời hạn khấu trừ thuế đã làm phát sinh số tiền lãi trên số thuế trả chậm được khấu trừ và làm tăng thuế tài chính.
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về cho thuê tài chính cũng chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ.
Những bất cập này đã làm cản trở và chưa tạo điều kiện thuận lợi để tạo ra sự phát triển rực rỡ của hoạt động tín dụng thuê mua. Cụ thể là:
Chưa có văn bản hướng dẫn một số tác nghiệp cho thuê. Công ty cho thuê tài chính vẫn phải dựa vào các quy chế cho vay của Ngân hàng để xử lý một số trường hợp. Chẳng hạn như quy chế trích lập dự phòng rủi ro cũng như cơ chế chuyển nợ quá hạn trong công ty vẫn hoàn toàn giống như các Ngân hàng Thương mại.
Chính sách thuế chưa có sự ưu đãi thỏa đáng đối với hoạt động cho thuê tài chính. Ví như chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với công ty cho thuê tài chính gây cản trở cho hoạt động cho thuê tài chính phát triển bởi chính phủ chưa có sự ưu đãi thuế cho loại hình công ty cho thuê tài chính.
Giữa các văn bản quy phạm pháp luật còn có sự mâu thuẫn dẫn đến việc khó khăn cho công ty trong việc thực hiện quy trình nghiệp vụ. Khi công ty thực hiện theo văn bản này thì lại mâu thuẫn với văn bản khác, đó chính là sự không đồng bộ giữa các văn bản.
Việc khan hiếm ngoại tệ trong thanh toán đã khiến cho công ty cho thuê tài chính gặp nhiều khó khăn
Vì phần lớn tài sản cho thuê phải nhập khẩu trong khi không thu nợ được bằng ngoại tệ từ hoạt động cho thuê, không có nguồn thu nên nhiều hợp đồng có tài sản nhập khẩu phải hủy bỏ. Hơn nữa, công nghiệp sản xuất máy móc thiết bị trong nước còn yếu kém không đủ đáp ứng nhu cầu trong nước dẫn đến công ty cho thuê phải tìm đến những máy móc từ nước ngoài, nên quy trình cho thuê phải kéo dài và phải làm nhiều thủ tục nhập khẩu phức tạp và rủi ro thanh toán quốc tế tăng lên, tăng chi phí cho thuê, làm giảm lợi nhuận cho các công ty cho thuê tài chính.
Cho thuê tài chính vẫn là một lĩnh vực mới mẻ chưa được quảng bá sâu rộng tới các doanh nghiệp.
Mặc dù rất nhiều doanh nghiệp có nhu cầu vốn để đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị, nhưng thay vì đến các công ty cho thuê tài chính để tìm sự giúp đỡ thì các doanh nghiệp lại tìm đến các ngân hàng để vay vốn mặc dù ở đây thủ tục rất chặt chẽ và điều kiện được vay vốn khó hơn nhiều. Thực trang trên là một mặt là do thói quen khó thay đổi của các doanh nghiệp ở Việt Nam nhưng một phần quan trọng là do hoạt động kinh doanh của công ty cho thuê tài chính chưa được tuyên truyền quảng bá rộng rãi ở Việt Nam.
Năng lực cạnh tranh, quản lý kinh doanh của bên đi thuê.
Do năng lực quản lý của các doanh nghiệp đi thuê chưa thích ứng với môi trường kinh tế nhiều biến động làm cho việc sử dụng tài sản thuê không có hiệu quả, vi phạm hợp đồng thuê tài chính. Mặt khác, quản lý Nhà nước về hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn nhiều bất cập, sơ hở dẫn đến lừa đảo gây thiệt hại về tài chính cho công ty CTTC.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG THUÊ MUA TẠI
CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH – VCB.
3.1ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VN.
Từ nay đến năm 2010, Công ty nhận thức được rằng hoạt động cho thuê tài chính là một lĩnh vực có rất nhiều tiềm năng. Bên cạnh đó xu hướng hội nhập kinh tế trong đó có hoạt động cho thuê cũng đang tạo ra những cơ hội và thách thức mới. Vì vậy bản thân Công ty phải thường xuyên đổi mới hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp với cơ chế thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động, hướng trọng tâm vào các mục tiêu lâu dài và cụ thể hóa các mục tiêu đó trong từng giai đoạn, từng thời kỳ.
3.1.1Mục tiêu dài hạn
Phương châm hoạt động: Phát triển - An toàn - Hiệu quả - Bền vững.
Khẩu hiệu hành động: “Sự thành đạt của khách hàng chính là sự thành công của Công ty cho thuê Tài chính NHNTVN.”
Tiếp tục thực hiện đúng theo các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà Nước, định hướng kinh doanh của ngành, chuyển hướng kinh doanh theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chỉ đạo và thực hiện luôn kết hợp chặt chẽ giữa biện pháp hành chính và biện pháp kinh tế, lấy hiệu quả kinh doanh làm thước đo chính. Việc hoạch định các mục tiêu, xác định chiến lược kinh doanh và mô hình kinh doanh phải luôn tuân thủ định hướng của ngành,
những giải pháp đề ra thì phải đồng bộ.
Coi trọng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, lấy tự kiểm tra làm cơ sở chính nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những thiếu xót xảy ra. Thực hiện công tác giao khoán kinh doanh tới từng cán bộ tín dụng, dựa trên cơ sở gắn quyền lợi và trách nhiệm với hiệu quả công tác của từng người.
Ổn định tài chính trên cơ sở việc làm, đời sống, tiền lương của cán bộ công nhân viên. Đảm bảo mức lương cho cán bộ công nhân viên đạt mức trung bình chung của toàn ngành.
3.1.2Mục tiêu ngắn hạn:
Trong thời gian tới, Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đề ra các mục tiêu hoạt động cụ thể của mình như sau:
Về công tác huy động vốn:
Chủ trương của công ty trong thời gian tới là tìm kiếm và khai thác các nguồn vốn trung và dài hạn bên ngoài Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam; sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đã có. Ban lãnh đạo Công ty đã hướng dẫn chỉ đạo cán bộ trong đơn vị phải nhận thức đầy đủ vai trò của công tác huy động vốn. Trong thời gian tới tăng VĐL lên tới 200 tỷ đồng nhằm tăng sự chủ động tham gia vào nhiều hợp đồng cho thuê hơn nữa.
Về công tác cho thuê tài chính:
Đa dạng hóa các loại hình dịch vụ cho thuê như cho thuê vận hành, tái cho thuê, dịch vụ ủy thác cho thuê. Tiếp tục mở rộng cho thuê tài chính đối với các thành phần kinh tế, mở rộng cơ cấu tài sản cho thuê. Tăng cường tìm kiếm khách hàng thuê, luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng các hợp đồng cho thuê nhằm mục tiêu vừa gia tăng doanh thu, vừa tăng khả năng thu hồi vốn tài trợ.
Thực hiện tốt thu hồi và xử lý nợ quá hạn, nợ xấu. Phấn đấu thu và xử lý nợ đạt 100% kế hoạch đề ra, hạn chế tối đa tình trạng nợ quá hạn, nợ xấu do nguyên nhân khách quan gây nên. Đồng thời chấm dứt nợ xấu xuất phát từ nguyên nhân chủ quan đặc biệt là nguyên nhân từ phía công ty cho thuê tài chính.
Về vấn đề tài chính:
Công ty phải đảm bảo mục tiêu kinh doanh có lãi, lợi nhuận tăng dần qua các năm, tình hình tài chính thì lành mạnh, thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế với nhà nước, tạo thu nhập ổn định cho cán bộ công nhân viên. Thực hiện tốt mục tiêu kinh doanh mà cấp trên giao cho.
3.2MỘT SỐ GIẢI PHÁP MỞ RỘNG TÍN DỤNG THUÊ MUA CỦA CÔNG TY CHO THUÊ TÀI CHÍNH – NHNTVN.
Hiện nay, hoạt động cho thuê tài chính của Công ty đã dần khẳng định được vai trò quan trong của mình trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Song trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Do nhiều hạn chế mà quy mô hoạt động cho thuê của công ty chưa đạt được như mục tiêu đề ra, đồng thời công ty không thể tránh khỏi những rủi ro làm giảm sút hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Những rủi ro đó bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau gây nên những tổn thất cho công ty và khách hàng thuê. Do đó việc quan tâm và tìm ra biện pháp để tăng cường mở rộng hoạt động cho thuê và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính là việc làm hết sức quan trong và cần thiết. Từ đó cần đưa ra các biện pháp để mở rộng nghiệp vụ tín dụng này.
3.2.1Chính sách đối với nguồn vốn huy động và vốn chủ sở hữu.
Mở rộng huy động vốn từ các nguồn khác ngoài Ngân hàng mẹ.
Bản thân là công ty con của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên thường xuyên nhận được sự hỗ trợ về nguồn vốn từ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Do đó công ty không có được lợi thế về nguồn vốn do bị phụ thuộc quá lớn vào Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Vì vậy, Công ty cần có chiến lược mở rộng huy động vốn từ các nguồn khác ngoài Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, chẳng hạn như phát hành trái phiếu trung và dài hạn, nắm giữ tiền gửi có kì hạn của khách hàng, mua bán nợ thông qua các hợp đồng mua bán các khoản phải thu, tận dụng nguồn vốn trả chậm tiền mua thiết bị của các nhà cung cấp… Tất nhiên, điều này khó có thể thực hiện được ngay vì hiện tại công ty chưa có uy tín lớn trên thị trường tài chính. Do đó đòi hỏi sự quan tâm và hỗ trợ lớn từ ngân hàng trung ương.
Thực hiện đề án nâng vốn điều lệ công ty lên tới 200 tỷ đồng VN.
Đồng thời do lượng vốn điều lệ của công ty hiện nay vẫn còn chiếm tỉ trọng thấp so với dư nợ cho thuê, đã làm hạn chế khả năng tiếp cận với khách hàng, đặc biệt là các dự án lớn, những doanh nghiệp lớn. Bởi vì theo quy định của pháp luật thì công ty cho thuê tài chính không được cho phép cấp tín dụng vượt mức 30% vốn điều lệ của công ty. Nên để mở rộng quy mô hoạt động của công ty, thì trong thời gian tới, công ty đang thực hiện đề án nâng vốn điều lệ lên tới 200 tỷ đồng VN.
3.2.2Triển khai xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn
3.2.2.1Mở rộng mạng lưới hoạt động.
Tiếp cận với mọi loại hình doanh nghiệp ở mọi lĩnh vực kinh tế và ở tất cả các địa bàn trong cả nước.
Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đều đang thiếu vốn để đầu tư. Từ đó thấy được tầm quan trọng của việc vay vốn từ Ngân hàng đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên các doanh nghiệp lại gặp phải thủ tục vay còn rườm rà, thiếu tài sản thế chấp, thời hạn vay không phù hợp, làm mất cơ hội đầu tư. Trong khi đó tài sản cho thuê đang là sự lựa chọn mới của các doanh nghiệp do những lợi thế của nó mang lại. Do đó, số lượng các doanh nghiệp tìm đến hình thức tín dụng thuê mua này tăng lên mạnh mẽ và đặc biệt đó lại là những doanh nghiệp ở ngoài những khu trung tâm kinh tế.
Phát triển kênh phân phối gián tiếp thông qua Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Với số lượng các công ty cho thuê tài chính hiện nay (hơn 10 công ty) là còn quá nhỏ bé. Hơn nữa, dự nợ cho thuê còn quá nhỏ so với tín dụng cho vay, khả năng tài chính của các công ty cho thuê tài chính thì còn yếu. Do đó dịch vụ này chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng tín dụng cho thuê của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong khi đó Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mới chỉ có trụ sở chính tại Hà Nội và một chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Điều đó chứng tỏ công ty còn đang bỏ ngỏ thị trường tại những vùng mà việc tiếp cận dịch vụ cho thuê còn đang gặp khó khăn. Yêu cầu đặt ra là công ty cần triển khai mở thêm một số chi nhánh tại các thành phố lớn khác, hoặc có thể thiết lập các đại lý ủy thác thông qua các chi nhánh ngân hàng mẹ đặt tại các địa phương, hoặc thông qua môi giới hoặc đại lý của các hãng sản xuất.
3.2.2.2Đa dạng hóa dịch vụ cho thuê.
Hiện nay, công ty đang chủ yếu cung cấp các hợp đồng cho thuê tài chính đơn thuần, tức là nghiệp vụ tín dụng trung và dài hạn. Trong khi đó, công ty cũng đang gặp hạn chế khi không có đủ vốn huy động trung và dài. Biện pháp là công ty cần xem xét để triển khai nghiệp vụ mới như Cho thuê vận hành, xem xét thực hiện các hợp đồng mua bán các khoản phải thu (mua bán nợ) để làm đa dạng hóa nội dung hoạt động và giảm thiểu tỷ trọng vốn kinh doanh tập trung vào một nghiệp vụ đơn thuần.
Thực hiện các hợp đồng Mua bán các khoản phải thu.
Việc triển khai mua bán nợ sẽ còn gặp nhiều khó khăn do uy tín của công ty trên thị trường tài chính là chưa lớn. Đòi hỏi cần phải có sự hỗ trợ về uy tín của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trong việc mua bán các khoản nợ này nhờ sự bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Triển khai thực hiện hợp đồng cho thuê ngắn hạn tài sản.
Hiện nay chưa thực hiện được do môi trường kinh doanh còn chưa phát triển. Nhưng trong tương lai gần công ty đang triển khai hoạt động này với cả những tài sản giá trị lớn và giá trị nhỏ, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến cho thuê bất động sản vì hình thức này còn hết sức hạn chế ở Việt Nam trong khi nhu cầu thuê sử dụng bất động sản thì ngày càng tăng. Nhưng để thực hiện được dịch vụ cho thuê vận hành thì yêu cầu đặt ra là công ty cần có nguồn lực tài chính hùng mạnh, sở hữu nhiều tài sản với số lượng và chủng loại đa dạng.
Gia tăng các hợp đồng cho thuê hợp vốn.
Đồng thời công ty cần phối hợp với các công ty cho thuê tài chính khác thực hiện các hợp đồng cho thuê tài chính hợp vốn, hoặc thực hiện đồng tài trợ nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động cho thuê tài chính, giúp công ty cho thuê tài chính phân tán rủi ro mà vẫn không bị mất nguồn thu từ những phương án kinh doanh lớn và khả thi.
3.2.2.3Mở rộng danh mục tài sản cho thuê và tiêu chuẩn hoá các tài sản cho thuê.
Đa dạng hóa các loại hình tài sản cho thuê nhằm tác dụng phân tán rủi ro theo danh mục tài sản.
Cần tìm những khách hàng có nhu cầu thuê những loại tài sản mới như nhà ở, văn phòng làm việc, phương tiện giao thông vận tải …để mở rộng danh mục tài sản cho thuê, nhằm giảm thiệt hại xảy ra khi có rủi ro đối với một vài loại tài sản nhất định. Hơn nữa, đối với một số tài sản rủi ro lớn thì cần giảm tỉ trọng cho thuê xuống, còn những tài sản cho thuê an toàn về khả năng thu hồi và phát mại thì cần phải nâng tỉ trọng lên.
Lựa chọn các loại tài sản đủ tiêu chuẩn để cho thuê.
Trong hoạt động cho thuê tài chính, tài sản cho thuê tài chính đồng thời là đảm bảo cho hợp đồng thuê. Tài sản cho thuê mà Công ty sở hữu cần có đủ các tiêu chuẩn sau: có tính lỏng cao, giá cả ít biến động, đầy đủ về mặt hồ sơ pháp lý và đặc biệt tài sản cho thuê phải có ý nghĩa quan trọng với bên đi thuê. Vì thế khi tiến hành kí kết hợp đồng mua tài sản, công ty cần phải tìm hiểu giá cả thật sự của nó, nếu công ty không làm được thì cần phối hợp với những cơ quan độc lập để đánh giá giá trị của tài sản nhằm tránh rủi ro về giá cả và tính hữu dụng của tài sản.
3.2.2.4Tìm kiến khách hàng cho thuê.
Tập trung cho thuê cả hai đối tượng khách hàng quy mô lớn và nhỏ.
Không dồn vốn đầu tư vào một hoặc một số khách hàng cho dù khách hàng đó kinh doanh hiệu quả hay có mối quan hệ lâu dài với công ty bởi khả năng công ty sẽ gặp rủi ro đột xuất về khả năng thanh toán thì công ty cho thuê tài chính sẽ chịu tổn thất lớn. Không tập trung vốn quá nhiều vào một loại hình kinh doanh, một lĩnh vực kinh tế hay một khu vực địa lý. Đó chính là biện pháp để đa dạng hóa đối tượng khách hàng.
Áp dụng hình thức thanh toán tiền thuê mua thiết bị linh hoạt, phù hợp với đặc điểm kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp, nhất là với khách hàng cá nhân.
Công ty cần đưa ra một hệ thống chấm điểm tín dụng.
Đây là một công cụ để tăng cường tính khách quan, nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động tín dụng thuê mua. Từ đó cán bộ tín dụng có thể phân loại khách hàng, xếp loại khách hàng vào các nhóm đối tượng khác nhau và có những chính sách riêng đối với từng nhóm khách hàng đó như ưu đãi về lãi suất, phí, thời hạn, mở rộng tín dụng hoặc có thể là hạn chế tín dụng hoặc yêu cầu bảo lãnh của một tổ chức bảo lãnh có uy tín. Các nhóm đối tượng khách hàng có thể gồm nhóm khách hàng VIP, Khách hàng tiềm năng, Khách hàng thông thường.
3.2.2.5Duy trì quan hệ tốt đẹp với bên cung cấp.
Công ty cần kết hợp chặt chẽ với các nhà sản xuất và cung cấp thiết bị nhằm thiết kế ra các gói sản phẩm lớn đáp ứng nhu cầu cho từng đối tượng khách hàng. Công ty tạo dựng mối quan hệ tốt với khách hàng thông qua việc cung cấp dịch vụ tư vấn và quản trị trước và sau khi cho thuê.
Công ty cũng cần tiếp xúc với các định chế tài chính lớn để huy động vốn và cũng như hợp tác với các tổ chức này nhằm đưa ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu phát triển của doanh nghiệp.
3.2.3Đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu.
Đây chính là hoạt động nhằm xây dựng vị thế của công ty trên thị trường cho thuê tài chính nói riêng và trên thị trường tài chính nói chung. Sự phát triển của hoạt động cho thuê tài chính là đang là một hướng đi phù hợp với nhu cầu thị trường tài chính ở Việt Nam. Tuy nhiên nhiều khách hàng tiềm năng chưa tiếp cận và tận dụng được những lợi ích của phương thức hoạt động này. Do đó, Công ty cho thuê tài chính cần phải phối hợp với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Nhà nước có chiến lược tuyên truyền, quảng bá rộng rãi về hoạt động cho thuê tài chính nhằm nâng cao sự hiểu biết của công chúng, đồng thời cần có chương trình đào tạo và xây dựng trung tâm hỗ trợ hoặc tư vấn cho khách hàng, đặc biệt đối với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc là đối với cá nhân. Công ty cũng cần công bố tình hình tài chính minh bạch của mình ra thị trường nhằm tạo ra một uy tín và sự tin tưởng từ phía khách hàng cũng như các nhà đầu tư. Nhờ đó hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty mới có thể phát triển.
3.2.4Xây dựng kế hoạch phân tích khách hàng và thiết lập cơ sở thông tin về khách hàng.
Thu thập thông tin hoàn chỉnh về khách hàng.
Thông tin về khách hàng là vấn đề luôn được quan tâm của người cho thuê. Đó là cơ sở quan trọng để người cho vay ra quyết định cấp tín dụng hay không và coi đó là biện pháp cần thiết để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Khi xây dựng cơ sở thông tin về khách hàng, công ty cần tập trung thu thập những thông tin hoàn chỉnh phục vụ cho quá trình thẩm định và giám sát khách hàng như: thẩm định tư cách pháp lý của bên đi thuê, thẩm định về kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của bên đi thuê, tính toán xác định mức thu nhập của đơn vị đi thuê, thẩm định vốn tự có của đơn vị tham gia thực hiện phương án kinh doanh, thẩm định lĩnh vực ngành nghề sản xuất kinh doanh của đơn vị. Công ty càng hiểu biết rõ về khách hàng bao nhiêu thì càng đảm bảo an toàn đối với khoản đầu
tư của mình bấy nhiêu.
Thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau.
Những thông tin có thể do khách hàng cung cấp, do cán bộ cho thuê tiếp xúc với khách hàng, từ bạn hàng và đối thủ cạnh tranh, từ cơ quan đang có quan hệ với khách hàng. Thông tin được chia làm hai nhóm chính: Nhóm thông tin tài chính (báo cáo tài chính, phương án kinh doanh) và thông tin phi tài chính (khả năng quản lý của chủ đầu tư, uy tín và kinh nghiệm).
Thẩm định thông tin và đưa ra đánh giá về khách hàng.
Phân tích năng lực tài chính của chủ đầu tư thông qua tính toán các tỉ lệ tài chính. Qua đó, công ty có thể so sánh với các năm trước hoặc các đối tượng khách hàng khác cùng lĩnh vực kinh doanh. Từ đó đưa ra những đánh giá và nhận xét về những khoản tín dụng.
3.2.5Hoàn thiện quy trình quản lý tạo ra sự chuẩn mực cho mô hình hoạt động cho thuê.
Mặc dù Công ty Cho thuê tài chính -VCB đã xây dựng cho mình một quy trình tổ chức quản lý và hoạt động theo kịp với yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước cũng như phù hợp với đặc trưng của ngành cho thuê tài chính. Nhưng trong đó vẫn tồn tại những bất cập như tổ chức quản lý còn lỏng lẻo, các hoạt động của các phòng ban nhiều khi còn chồng chéo nhau gây ra sự mâu thuẫn trong đưa ra các quyết định, làm chậm tiến độ ký kết hợp đồng. Giải pháp hiệu quả là cần xây dựng mô hình hoạt động gồm ba cụm nghiệp vụ chủ yếu là Bộ phận nghiệp vụ tín dụng, bộ phận tiếp thị và quản lý tài sản cho thuê, bộ phận xuất nhập khẩu. Đồng thời tạo ra sự liên kết và ràng buộc chặt chẽ giữa ba bộ phận này với nhau nhằm hỗ trợ nhau đưa ra quyết định cuối cùng là cho thuê hay không.
3.2.6Giải pháp tăng cường và nâng cao chất lượng cán bộ cho thuê tài chính.
3.2.6.1Chính sách khen thưởng và kỉ luật.
Đưa ra chính sách hỗ trợ, động viên kịp thời về cả vật chất và tinh thần cho các cán bộ cho thuê tài chính. Biện pháp này kích thích tinh thần làm việc, qua đó hạn chế những rủi ro xuất phát từ sai sót của cán bộ cho thuê do sự quá tải và mệt mỏi trong công việc. Các chính sách khuyến khích, hỗ trợ về vật chất mà Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần áp dụng là: khuyến khích tăng lương, thưởng cho những cán bộ cho thuê tài chính có dư nợ cho thuê tài chính và chất lượng cho thuê tốt, hỗ trợ kinh phí đào tạo, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ tự nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Khen thưởng những cán bộ có thành tích tốt như tăng doanh số cho thuê, thu nợ kịp thời. Đưa ra những hình thức kỷ luật nghiêm khắc đối với những sai sót, sơ hở do thiếu trách nhiệm của cán bộ tài chính dẫn đến tổn thất cho công ty.
3.2.6.2Chính sách tuyển dụng.
Công ty cho thuê tài chính cần có chính sách tuyển dụng khoa học để có thể tuyển dụng được những nhân viên và cán bộ có tài năng, đưa ra biện pháp hỗ trợ giúp đỡ cán bộ trẻ có trình độ vào làm việc tại công ty: đơn giản hóa thủ tục và thời gian xin việc, linh hoạt trong việc đưa ra hợp đồng lao động. Công việc này phải thực hiện nhanh để tạo sự giao hòa trong việc chuyển giao cán bộ, tránh những xáo trộn lớn làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh, đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh.
3.2.6.3Chính sách đào tạo.
Đặc thù của ngành cho thuê tài chính đòi hỏi có sự hiểu biết rất đa dạng về thị trường, về khoa học công nghệ và những kiến thức khác vì tài sản cho thuê rất phong phú, thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất với những thị trường riêng biệt. Các cán bộ công ty đã được đào tạo cơ bản nhưng còn thiếu chuyên sâu về nghiệp vụ. Vì vậy, công ty cần phải có ngay chính sách đào tạo để nâng cao chất lượng cán bộ kịp thời như khuyến khích những cán bộ cho thuê tài chính đang công tác tại công ty tiếp tục đi học để nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kiến thức thị trường, cử cán bộ tham gia các lớp huấn luyện về phòng chống rủi ro, các lớp công nghệ thông tin để ứng dụng khoa học kĩ thuật vào công tác cho thuê.
3.2.7Tăng cường khả năng quản lý rủi ro trong hoạt động cho thuê tài sản.
Thực hiện phân tán rủi ro.
Không tập trung cho thuê tài chính một ngành một lĩnh vực hay một khu vực, không dồn vốn đầu tư vào một khách hàng lớn, đa dạng hóa các loại tài sản cho thuê.
Đảm bảo thực hiện tốt quy trình quản lý rủi ro tín dụng.
Bước 1: Tìm hiểu phân tích và nhận định thông tin về khách hàng.
Bước 2: Làm tốt công tác thẩm định trong khi xem xét cho thuê tài chính.
Bước 3: Thực hiện tốt công tác giám sát, xếp hạng rủi ro và những biện pháp xử lý thu hồi nợ.
Chú trọng vào một số loại rủi ro khác.
Rủi ro trong mua sắm tài sản: Công ty cần phải xác định giá trị thật sự của tài sản tại thời điểm chuẩn bị kí kết hợp đồng cho thuê tài sản nhằm tránh rủi ro về giá cả. Ngoài ra cần phải lựa chọn những tài sản có tính lỏng cao, giá cả ít biến động, đầy đủ về hồ sơ pháp lý….
Rủi ro về tỷ giá hối đoái: xảy ra khi công ty mua tài sản nhập khẩu từ nước ngoài thanh toán bằng hình thức mở L/C. Loại rủi ro này là khách quan nhưng công ty vẫn nên có các biện pháp phòng chống và hạn chế tổn thất thông qua công tác phân tích dự báo, hoặc tiến hành mua bán các hợp đồng kì hạn về giá cả của tài sản.
Rủi ro về lãi suất: Để đảm bảo mức ổn định về lãi suất chênh lệnh Công ty cần đưa ra hợp đồng tín dụng cho thuê có lãi suất thả nổi không những đối với Việt Nam Đồng mà còn với cả những hợp đồng tín dụng mà Đô la là tiền sử dụng trong cho thuê. Ngoài ra cần tự chủ về tài chính của mình bằng cách huy động nguồn vốn rẻ và dài hạn từ những tổ chức khác.
3.3MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CƠ QUAN CHỨC NĂNG NHẰM TẠO RA MÔI TRƯỜNG THÔNG THOÁNG CHO HOẠT ĐỘNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH.
Như chúng ta đã biết những hạn chế của thị trường cho thuê tài chính không chỉ đến từ chính các nguyên nhân chủ quan mà nó còn có những nguyên nhân khách quan do môi trường pháp lý chưa mang lại hiệu quả cho hoạt động cho thuê. Vì thế để khắc phục những tồn tại trên ngoài việc Công ty cho thuê tài chính Ngân VCB tự nỗ lực hoàn thiện hoạt động của mình, thì bản thân công ty cho thuê tài chính cũng cần có sự quan tâm hỗ trợ tích cực của chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, và các ngành hữu quan đặc biệt là của Ngân hàng mẹ Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
3.3.1Kiến nghị với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Bổ xung thêm cán bộ có trình độ chuyên môn và hỗ trợ về lãi suất cho vay đối với công ty.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phối hợp với công ty cho thuê tài chính của mình nhanh chóng bổ xung thêm cán bộ mới có trình độ chuyên môn kỹ thuật, giúp đỡ công ty về vấn đề huy động vốn để nâng cao tiềm lực tài chính của công ty như cho công ty của mình vay với mức lãi suất ưu đãi hoặc bảo lãnh cho công ty nhằm tạo điều kiện cho các công ty có thể huy động vốn từ những tổ chức tín dụng khác, đồng thời nâng cao vị thế của công ty.
Xây dựng một trung tâm lưu giữ thông tin về khách hàng.
Cần hỗ trợ cho công ty cho thuê tài chính về thông tin khách hàng thông qua mạng lưới của mình, nhiều khi một doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa phải là khách hàng của Ngân hàng nhưng có thể có quan hệ thuê mua với công ty cho thuê tài chính, hoặc một doanh nghiệp có thể vừa là khách hàng của Ngân hàng ngoại thương vừa có thể là khách hàng của công ty cho thuê tài chính. Ngân hàng có thể lập trung tâm lưu trữ thông tin về khách hàng để cung cấp cho các đơn vị trực thuộc mình là công ty cho thuê tài chính. Việc hỗ trợ thông tin khách hàng giúp cho công ty cho thuê nhanh chóng cập nhật tình trạng khách hàng, vừa đỡ tốn kém chi phí và nhân lực để triển khai thu thập và xử lý thông tin.
Tăng quyền tự quyết và tự chủ cho hoạt động cho thuê tài chính.
Điều này tạo ra một cơ chế hoạt động linh hoạt hơn, năng động hơn. Giám đốc công ty có quyền tự quyết và tự chịu trách nhiệm về những quyết định của mình trước Ngân hàng Ngoại thương. Thay cho việc trực tiếp can thiệp vào hoạt động của công ty thì Ngân hàng có thể đề ra những nguyên tắc chung và tăng cường chất lượng hoạt động của bộ phận kiểm soát nội bộ để theo dõi chặt chẽ hoạt động của công ty.
Hỗ trợ công ty những nghiệp vụ về huy động vốn.
Cho phép công ty phát hành trái phiếu thông qua các chi nhánh có tiềm năng hoạt động làm đại lý, đồng thời cho phép công ty được thường xuyên nhận tiền gửi từ các chi nhánh trong hệ thống có lượng vốn huy động lớn nhưng không sử dụng hết với số lượng phù hợp với tình hình hoạt động của công ty theo tốc độ tăng trưởng dư nợ cho thuê.
3.3.2Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước.
Tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ cho thuê tài chính.
Ngân hàng Nhà nước cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các lớp đào tạo bồi dưỡng ngắn ngày cho các cán bộ tín dụng nhằm nâng cao nghiệp vụ, cập nhật kiến thức, tác nghiệp một cách có bài bản và khoa học hơn. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn thiện trung tâm thông tin tín dụng để đó thực sự trở thành nơi khai thác thông tin phong phú và đáng tin cậy cho các công ty cho thuê tài chính, tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng làm việc nhanh chóng và chính xác hơn.
Xây dựng hiệp hội cho thuê tài chính ở Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển hiệp hội cho thuê tài chính để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính nói chung và công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mở rộng hoạt động, trao đổi kinh nghiệm, thảo luận để đề xuất kiến nghị sửa đổi các vấn đề cho phù hợp với cơ chế.
Lập kế hoạch triển khai lộ trình mở cửa lĩnh vực cho thuê tài chính.
Theo đó cho tới năm 2010 thì các Ngân hàng sẽ mở cửa hoàn toàn hoạt động này, các công ty nước ngoài với ưu thế về vốn và kinh nghiệm sẽ là một thách thức lớn với Ngân hàng trong nước trong tiến trình hội nhập. Tuy nhiên đó sẽ chính là cơ hội cho chúng ta học hỏi khi đó hoạt động cho thuê tài chính mới
đạt tới tiêu chuẩn quốc tế.
Ban hành quy chế mới về quyền và nghĩa vụ cho công ty cho thuê tài chính.
Công ty có thể tham gia thị trường liên Ngân hàng, được tiếp xúc với các tổ chức đầu tư quốc tế hoặc tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ chính phủ hoặc phi chính phủ để tạo nguồn trung và dài hạn lớn hơn và ổn định cho đầu tư.
3.2.3Kiến nghị đối với các Bộ và các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Chính phủ và Bộ tài chính cần cập nhật các thông tin về thông tin giá cả thị trường đầu vào, các thay đổi về công nghệ, các định mức kĩ thuật của từng ngành một cách nhanh chóng để tạo thuận lợi cho cho việc thẩm định dự án của các cán bộ cho thuê tài chính.
Ban hành các ưu đãi về thuế và lãi suất đối với hoạt động cho thuê.
Chính phủ cần có chính sách khuyến khích về thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty cho thuê tài chính trong những năm đầu bước vào hoạt động như là một ngành đặc thù. Trước đây, chính phủ vẫn chưa có chính sách khuyến khích này. Đối với một dự án đầu tư, cùng một khách hàng, khi vay trung và dài hạn tại các Ngân hàng thì doanh nghiệp được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tuy nhiên nếu thuê tài chính thì Doanh nghiệp không được hưởng ưu đãi này, mặc dù cho thuê tài chính là hoạt động trung và dài hạn. Do đó Bộ tài chính cần xem xét cho phép hỗ trợ lãi suất sau đầu tư đối với khách hàng cho thuê tài chính.
Tạo ra sự ràng buộc giữa nhà cung cấp và người đi thuê.
Vì vậy nhiều khi việc giao hàng chậm trễ hoặc không đúng quy cách kĩ thuật như trong hợp đồng đã làm cho người đi thuê phải chịu thiệt hại và một khi quyền lợi của họ không được đảm bảo thì khiến họ không hào hứng với việc lựa chọn phương thức tài trợ thông qua thuê tài sản để sử dụng.
Ban hành những hướng dẫn cụ thể các loại hình cho thuê.
Hiện nay nhu cầu thuê mặt bằng và thiết bị để kinh doanh và cá nhân thuê bất động sản nhằm mục đích sinh sống tăng lên nhanh chóng. Vì thế việc điều chỉnh và đưa ra những văn bản hướng dẫn chính xác là tuyệt đối cần thiết trong thời gian tới về việc triển khai các nghiệp vụ mới khác như Mua bán các khoản phải thu, nghiệp vụ cho thuê vận hành đặc biệt là cho thuê đối tượng là bất động sản, nghiệp vụ mua và cho thuê lại, dịch vụ ủy thác cho thuê bởi vì hiện nay quy định của pháp luật về các nghiệp vụ này chưa rõ ràng nên các công ty chưa thể triển khai thực hiện được mặc dù đã có đủ tiềm lực và khả năng thực hiện.
Quy định về giới hạn cho thuê tài chính đối với một khách hàng.
Trong Luật các Tổ chức tín dụng, khoản 1 điều 79 nói rõ : “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của Tổ chức tín dụng”. Nhưng Nghị định 16/2001/NĐ-CP trong điều 31 lại quy định: “Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của các công ty CTTC”. Nếu Luật các TCTD đã công nhận công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng và cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thì cần phải có sự nhất quán về quy định trên. Còn nếu xem cho thuê tài chính là một loại hình tín dụng trung, dài hạn đặc biệt cần quy định khác hơn tín dụng thông thường thì trước hết luật các tổ chức tín dụng phải quy định tỷ lệ 30%, sau đó Nghị định 16 mới được phép cụ thể hoá vấn đề này. Mong các cấp có thẩm quyền lưu ý chỉnh sửa quy định trên để đảm bảo tính thống nhất của các văn bản pháp luật và để đối tượng được điều chỉnh có cơ sở thực hiện tốt.
Về việc thu hồi tài sản cho thuê và xử lý tài sản cho thuê.
Theo điều 9 nghị định 65/NĐ – CP sửa đổi nghị định 16 thì nếu bên thuê không thực hiện đúng hợp đồng thì bên thuê có quyền thu lại tài sản ngay lập tức mà không cần phán quyết của tòa án. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện thì công ty vẫn gặp phải khó khăn lớn vì doanh nghiệp đang sử dụng tài sản nên không dễ gì trao trả lại tài sản cho bên cho thuê. Công ty cũng không có một lực lượng nào để cưỡng chế khách hàng cả. Hơn nữa trong việc xử lý tài sản cho thuê thì công ty chịu sự hướng dẫn của rất nhiều cơ quan như Ngân hàng Nhà nước, Bộ tư pháp, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ thương mại. Như vậy sẽ gây ra khó khăn cho công ty cho thuê tài chính trong việc bán tài sản để thu hồi vốn.. Vì vậy, cần có các quy định đồng bộ giữa NHNN và các cơ quan công quyền như công an, UBND các cấp để có sự hỗ trợ các công ty cho thuê tài chính. Nên chăng việc thu hồi tài sản của công ty cần phải có một cơ quan chức năng duy nhất đứng ra hướng dẫn
Về việc sử dụng bản sao công chứng giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô.
Theo Nghị định 16/2001/NĐ – CP đối với những phương tiện vận tải có đăng ký sở hữu thì Công ty cho thuê tài chính được giữ bản chính đăng kí đó. Bên đi thuê thì chỉ được nắm giữ bản sao công chứng của các giấy tờ đó. Trên thực tế thì bên sử dụng phương tiện gặp rất nhiều khó khăn tại một số địa phương do việc không chấp nhận sử dụng đăng ký là bản sao công chứng với lý do là không có văn bản hướng dẫn của bộ chủ quản hoặc không đúng với thông tư liên quan. Do vậy, để thống nhất thực hiện thì kiến nghị bộ công an cần đưa ra văn bản hướng dẫn cụ thể để tránh xảy ra các trường hợp vướng mắc trên.
Hình thành và phát triển thị trường máy móc thiết bị cũ.
Từ đó công ty cho thuê tài chính kết thúc hợp đồng cho thuê có thể đem tài sản tới các thị trường này để bán đi. Nếu thị trường phát triển thuận lợi thì công ty có thể bán tài sản với giá cao để thu đủ giá trị còn lại của tài sản đồng thời công ty cho thuê tài chính vẫn có lãi.
KẾT LUẬN
Thực tập cuối khoá luôn là thời gian rất bổ ích cho sinh viên trong việc tiếp xúc thực tế với công việc, qua đó có thể tự mình so sánh được sự giống và khác nhau giữa thực tiễn và lý thuyết để bổ sung thêm kiến thức và học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước.
Qua thời gian thực tập ở công ty Cho thuê Tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, kết hợp với những kiến thức đã học ở trường, Tôi đã hoàn thành " Chuyên đề tốt nghiệp". Bên cạnh phần tìm hiểu về lý luận về nghiệp vụ cho thuê tài chính với việc mở rộng tín dụng cho thuê tại công ty cho thuê tài chính. Chuyên đề còn giới thiệu được những nét cơ bản về quá trình hình thành và tình hình hoạt động kinh doanh của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Từ đó nêu được những kết quả đạt được cũng như những hạn chế mà công ty còn gặp phải trong quá trình cung cấp dịch vụ cho thuê. Cuối cùng tôi đưa ra một vài ý kiến đóng góp nhằm mở rộng nghiệp vụ cho thuê tài chính ở công ty cho thuê tài chính nói riêng cũng như cho thị trường cho thuê tài chính nói chung.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Đặng Ngọc Đức và tập thể các cán bộ phòng Kinh doanh Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam đã tạo điều kiện cho tôi thực hiện tốt giai đoạn thực tập và hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Mai Ngân
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình "Tín dụng Ngân hàng" Nhà xuất bản thống kê Hà Nội – 2001 Chương X.
Giáo trình " Tìm hiểu và sử dụng tín dụng thuê mua – VN" 1996.
Giáo trình " Nghiệp vụ Ngân hàng Thương Mại" chương 12 tác giả Lê Văn Tề, Nhà xuất bản Thống kê.
Hệ thống văn bản pháp luật:
Thông tư số 05/2006/ TT- NHNN hướng dẫn một số nội dung về hoạt động cho thuê tài chính và dịch vụ uỷ thác theo quy định tại Nghị định số 16/2001/ NĐ – CP ngày 02/05/2001 và nghị định 65/2005/NĐ- CP ngày 19/5/2005.
Thông tư số 06/2005 /TT – NHNN hướng dẫn thực hiện một số nội dung tại nghị định số 16/2001/ NĐ – CP về tổchức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính", quy định về sửa đổi bổ sung một số điều của nghị định 16/2001/ NĐ –CP.
Quy trình cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.
Báo cáo kết quả kinh doanh, bảng tổng kết tài sản, bảng báo cáo năm của công ty cho thuê tài chính NHNTVN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Mở rộng tín dụng thuê mua tại công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam.doc