Ngoài ra, trong quy trình bảo lãnh, ở Bước 4, phần theo dõi thực hiện hợp đồng bảo lãnh có nêu: “ Kiểm tra, theo dõi khách hàng (trừ trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có)” là không chính xác. Bởi vì đối với trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có thì cán bộ tín dụng cũng cần phải theo dõi việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh vì điều này sẽ ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng đối vơí người nhận bảo lãnh vì thế thiết nghĩ chỉ nên viết là: “Kiểm tra, theo dõi khách hàng: ”.
Mặt khác, trong quy trình bảo lãnh chưa đưa ra cách tính hạn mức đối với loại bảo lãnh hạn mức một cách tốt nhất. Thiết nghĩ NH ĐT&PT Việt Nam nên xem xét lại điều này và đưa ra một cách tính hạn mức phù hợp nhất. Cách tính hạn mức này phải dựa trên hạn mức bảo lãnh năm trước của khách hàng (khách hàng truyền thống mới được bảo lãnh hạn mức) và dựa trên các món bảo lãnh thực phát sinh vào năm trước đó, đồng thời trên cơ sở phân tích nhu cầu bảo lãnh có thể phát sinh trong năm tới của họ. Phân tích nhu cầu bảo lãnh trong năm tới có thể căn cứ vào khả năng phát triển kinh doanh từ đó xác định nhu cầu cần xây dựng hay mua máy móc thiết bị.của các doanh nghiệp khi đề nghị bảo lãnh sao cho phù hợp nhất.
80 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2471 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Qua bảng số liệu trên, ta có thể thấy được phần nào quy mô hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. Tuy nhiên, để thấy được mặt mạnh và yếu của hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng ở trong và ngoài nước, ta sẽ phân tích bảng số liệu sau:
Quy mô doanh số bảo lãnh trong và ngoài nước.
Đơn vị: Triệu đồng, ngoại tệ đã quy đổi
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Số tiền
tỷ trọng (%)
Số tiền
tỷ trọng (%)
Doanh số bảo lãnh trong nước
76528
78.73
127006
79.13
Doanh số bảo lãnh nước ngoài
20677
21.27
33494
20.87
Doanh số bảo lãnh
97205
100
160500
100
(Nguồn: Báo cáo của phòng Thanh toán quốc tế)
Ta thấy rằng tại ngân hàng, doanh số bảo lãnh nước ngoài luôn chiếm một tỷ trọng không phải là nhỏ so với bảo lãnh trong nước, khoảng 20% tổng doanh số bảo lãnh. Trong khi đó, bảo lãnh trong nước luôn chiếm một tỷ lệ lớn, khoảng 80% tổng doanh số bảo lãnh. Năm 2007 doanh số bảo lãnh nước ngoài tăng hơn 13 tỷ đồng nhưng do tốc độ tăng trưởng của doanh số bảo lãnh trong nước tăng mạnh nên tỷ trọng của bảo lãnh nước ngoài giảm từ 21.27% xuống còn 20.87%.
Tại Chi nhánh, bảo lãnh nước ngoài chủ yếu là bảo lãnh mở L/C còn bảo lãnh vay vốn nước ngoài hầu như không có. Trong bảo lãnh mở L/C lại có hai loại: bảo lãnh mở L/C trả chậm và bảo lãnh L/C trả ngay khi ngân hàng nhận được bộ chứng từ. Bảo lãnh mở L/C trả chậm tại ngân hàng không nhiều. Nguyên nhân là do bảo lãnh mở L/C trả chậm bị cản trở do trước đây các doanh nghiệp khi vay vốn nước ngoài thông qua bảo lãnh chỉ phải ký quỹ từ 10-30% giá trị lô hàng nhập. Sau khi lô hàng về, bán ra, nộp tiền vào ngân hàng sẽ giải ngân từng đợt cho đến khi hết theo giá trị của lô hàng. Do đó đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xin bảo lãnh mua hàng trả chậm một cách tràn lan, không kể đó là hàng tiêu dùng hay vật tư sản xuất. Từ khi có quyết định chặt chẽ về bảo lãnh mở L/C trả chậm thì số lượng bảo lãnh mở L/C trả chậm đã giảm đi trong cả hệ thống chứ không riêng gì Chi nhánh Thành Đô. Mặt khác việc quy định lại lãi suất vay ngoại tệ đã khiến cho các doanh nghiệp có nhu cầu vay ngoại tệ ở trong nước hơn là đi vay ở nước ngoài. Như vậy, doanh số bảo lãnh nước ngoài chủ yếu là bảo lãnh mở L/C theo kiểu trả tiền ngay khi nhận được bộ chứng từ. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp có nhu cầu nhập các thiết bị, máy móc từ nước ngoài về để tiến hành thi công xây dựng là rất lớn. Điều này chứng tỏ rằng các doanh nghiệp trong nước và các đối tác nước ngoài rất tin tưởng khi chọn ngân hàng làm người bảo lãnh.
2.3.1.2. Cơ cấu hoạt động bảo lãnh
2.3.1.2.1. Cơ cấu các loại hình bảo lãnh
Hiện nay, tại Chi nhánh BIDV Thành Đô áp dụng tất cả các loại hình bảo lãnh được quy định trong quy chế bảo lãnh của NHNN. Cho đến nay, ngân hàng đã cung cấp rất nhiều loại bảo lãnh cho khách hàng với mục tiêu đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh. Do nhu cầu của khách hàng về các loại bảo lãnh rất phong phú và đa dạng, trong khi đó để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác thì bản thân ngân hàng không những phải đáp ứng tốt những sản phẩm mà còn phải cung cấp những sản phẩm vượt trội, các ngân hàng khác chưa có hoặc cung ứng không tốt.
Cơ cấu các loại hình bảo lãnh tại Ngân hàng.
Đơn vị: triệu đồng. ngoại tệ đã quy đổi.
2006
2007
Chỉ tiêu
Số tiền
tỷ trọng (%)
Số tiền
tỷ trọng (%)
BL dự thầu
53647
55.19
53356
33.24
Bl thực hiện HĐ
15196
15.63
51893
32.33
BL tiền ứng trước
-
-
6153
3.83
BL bảo đảm CLSP
7685
7.91
7982
4.97
BL thanh toán
-
-
7622
4.75
BL mở L/C
20677
21.27
33494
20.87
Tổng
97205
100.00
160500
100.00
Biểu đồ 2: Mức tăng trưởng các loại hình bảo lãnh tại ngân hàng
Qua bảng số liệu ta có thể thấy rằng: BL dự thầu, BL thực hiện hợp đồng, BL mở L/C là những loại bảo lãnh có doanh số luôn chiếm tỷ lệ cao. Nguyên nhân là do, khách hàng xin bảo lãnh phần đông là các công ty xây lắp, các công ty trong lĩnh vực thương mại. Do đó loại hình này thường xuyên được sử dụng. Doanh số BL dự thầu hầu như luôn chiếm tỷ lệ cao trên 30% tổng doanh số bảo lãnh. có số món lớn hơn so với các loại bảo lãnh khác, do một công trình có rất nhiều nhà thầu tham gia và ngân hàng có thể nhận bảo lãnh cho nhiều nhà thầu cùng tham gia một công trình. Tuy giá trị bảo lãnh dự thầu lại không phải là lớn, chỉ bằng 1-3% giá trị dự thầu nhưng do số lượng hợp đồng lớn nên doanh số bảo lãnh dự thầu lớn, tuy nhiên qua 2 năm doanh số bảo lãnh loại này không tăng trưởng nhiều trong khi các loại hình bảo lãnh khác có sự gia tăng mạnh về doanh số nên làm cho tỷ trọng của loại hình này giảm rõ rệt .
Loại bảo lãnh chiếm tỷ trọng lớn thứ hai là bảo lãnh mở L/C. Doanh số loại này hầu như tăng đều trong 2 năm về doanh số. Doanh số bảo lãnh mở L/C tăng được coi là một tín hiệu đáng mừng. Điều này có nghĩa là uy tín của ngân hàng đã được nâng lên không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài. Trong khi tại các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, loại bảo lãnh này thường chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn. Tuy nhiên, số món của loại bảo lãnh này không phải là nhiều. Doanh số cao chủ yếu là do giá trị bảo lãnh của một món là lớn, đây là do số tiền bảo lãnh thường chiếm một tỷ lệ rất lớn so với giá trị hợp đồng, trong khi giá trị của một hợp đồng có thể lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng có sự thay đổi rất lớn về doanh số, do giá trị mỗi hợp đồng lớn có thể lên đến hàng chục tỷ đồng, nên các hợp đồng bảo lãnh thực hiện hợp đồng tuy chỉ vào khoảng 10% giá trị hợp đồng nhưng lại tạo ra một doanh số bảo lãnh lớn. Do đó doanh số bảo lãnh năm 2007 tăng đột biến từ 15196 triệu đồng lên 51893 triệu đồng.
Tại chi nhánh, trong năm 2006 bảo lãnh tiền ứng trước và bảo lãnh thanh toán hầu như không xuất hiện, nhưng đến năm 2007 đã đạt doanh số vào khoảng 6 đến 7 tỷ đồng. Mặc dù vậy tỷ trọng của bảo lãnh thanh toán vẫn ở mức thấp, điều này nguyên nhân là do khách hàng của chi nhánh chủ yếu thuộc khối xây lắp.
Tóm lại ngân hàng đã thực hiện đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, đẩy mạnh tăng trưởng về doanh số, điều mà không phải ngân hàng nào cũng làm được. Chính điều này đã góp phần làm khả năng cạnh tranh của ngân hàng được nâng cao do đã có những sản phẩm vượt trội hơn hẳn so với các ngân hàng khác.
2.3.1.2..2. Cơ cấu theo thành phần kinh tế
Cơ cấu bảo lãnh theo thành phần kinh tế tại Ngân hàng.
Đơn vị: triệu đồng, ngoại tệ đã quy đổi.
2006
2007
Chỉ tiêu
Số tiền
tỷ trọng (%)
Số tiền
tỷ trọng (%)
Công ty CP nhà nước
67985
69.94
71560
44.59
Công ty CP khác
29220
30.06
88940
55.41
Tổng
97205
100.00
160500
100.00
Cơ cấu bảo lãnh theo thành phần kinh tế năm 2006:
Cơ cấu bảo lãnh theo thành phần kinh tế năm 2007:
Qua bảng số liệu, thấy rằng tỷ trọng về doanh số bảo lãnh của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có xu hướng tăng lên. Năm 2006 chỉ chiếm 30%, sang đến năm 2007 tăng lên là 55,41%. Điều này cho thấy cơ chế bảo lãnh tại ngân hàng đã tạo một số điều kiện nhất định cho thành phần này khi đề nghị bảo lãnh.
2.3.1.3. Đánh giá hiệu quả hoạt động bảo lãnh
* Đánh giá chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng
Do thực hiện tốt các tiêu chuẩn chất lượng bảo lãnh cũng như coi trọng công tác thẩm định, kiểm tra, giám sát quá trình hoàn thành hợp đồng của khách hàng. Tại Chi nhánh Thành Đô chưa có một món bảo lãnh nào mà ngân hàng phải đứng ra trả thay cho khách hàng. Cụ thể, trước khi quyết định bảo lãnh, các cán bộ tín dụng phải tiến hành thẩm định hồ sơ bảo lãnh, đồng thời yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo như thế chấp hay ký quỹ, không cần đảm bảo bằng tài sản hay ký quỹ một phần.
- Nếu là khách hàng truyền thống, có tín nhiệm, có độ tin cậy cao với ngân hàng sẽ được ngân hàng chấp thuận bảo lãnh mà không cần đảm bảo bằng tài sản hoặc ký quỹ một phần.
- Nếu là khách hàng mới, các công ty CP chưa có tín nhiệm thì chỉ được chấp thuận bảo lãnh nếu khách hàng có các biện pháp đảm bảo như cầm cố, thế chấp tài sản, ký quỹ 100%.
Sau khi quyết định bảo lãnh, các cán bộ tín dụng rất coi trọng việc kiểm tra, giám sát khách hàng, đôn đốc khách hàng thực hiện đúng hợp đồng.
Những món bảo lãnh mà ngân hàng đã thực hiện giúp khách hàng rất nhiều trong việc phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Rất nhiều dự án xây dựng quan trọng đã được hoàn thành tốt, đúng thời hạn; Nhiều doanh nghiệp đã vay được vốn từ nước ngoài, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi có sự bảo lãnh của ngân hàng. Tất cả những điều đó giúp cho hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Thành Đô đạt được chất lượng cao.
* Đánh giá hiệu quả hoạt động bảo lãnh
Để đánh giá tốt hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng, trong đó ngân hàng hoạt động như là một đơn vị kinh doanh, ta sẽ phân tích mức phí mà ngân hàng thu được từ hoạt động bảo lãnh.
Sử dụng chỉ tiêu:
Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh
Hệ số hiệu quả bảo lãnh = 100%
Tổng doanh thu dịch vụ ngân hàng
Ta có bảng về tình hình thu phí tại Ngân hàng như sau:
Bảng kết quả thu phí từ hoạt động bảo lãnh tại NHĐT&PT Hà Nội
Đơn vị: triệu đồng, ngoại tệ đã quy đổi
Năm 2006
Năm 2007
Chỉ tiêu
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Số tiền
Tỷ trọng(%)
Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh
467
31.01
963
27.05
Tổng doanh thu từ dịch vụ
1506
100
3560
100
Tuy hoạt động bảo lãnh còn mới mẻ so với các nghiệp vụ khác nhưng đã đóng góp một phần không nhỏ trong tổng doanh thu dịch vụ của ngân hàng. Năm 2006 chiếm 31% tổng doanh thu dịch vụ, tuy năm 2007 tỷ trọng này giảm xuống còn 27% nhưng nhìn vào số liệu tuyệt đối chúng ta có thể thấy thực tế doanh thu bảo lãnh tăng hơn gấp 2 lần.
Bên cạnh đó, các khách hàng xin bảo lãnh đều thực hiện rất nghiêm túc việc đóng phí bảo lãnh, chưa có trường hợp nào trốn phí hay nộp quá chậm. Tóm lại hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng tỏ ra có hiệu quả, đóng góp vào ngân hàng một khoản thu nhập đáng kể.
Tuy nhiên, tại ngân hàng, kết quả hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng hiện có của ngân hàng. Đó là do tại ngân hàng vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau.
2.3.2. Những tồn tại của hoạt động bảo lãnh
* Hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng vẫn chưa thể đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng
Như ta đã biết, hiện nay tại ngân hàng đã thực hiện tất cả các loại bảo lãnh mà trong quy chế bảo lãnh đã ban hành. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện thêm một số loại bảo lãnh mới như bảo lãnh nộp thuế. Song trong thực tế, nhu cầu bảo lãnh của khách hàng rất đa dạng và ngày càng tăng. Nhưng do gặp khó khăn trong quá trình thực hiện bảo lãnh đã hạn chế việc ngân hàng thoả mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Mặt khác, hiện nay có những nhu cầu bảo lãnh còn khá mới lạ không những đối với ngân hàng mà còn với nhiều ngân hàng khác. Nên ngân hàng đã gặp không ít khó khăn do chưa có quy chế nào quy định rõ, khiến ngân hàng chưa thể sử dụng loại hình bảo lãnh đó.
* Chưa cân đối về cơ cấu bảo lãnh
Sau khi xem xét cơ cấu bảo lãnh theo các đối tượng khác nhau, ta thấy rằng tại ngân hàng có sự mất cân đối không chỉ giữa các loại hình bảo lãnh mà còn giữa bảo lãnh trong xây lắp và trong thương mại.
Trong cơ cấu bảo lãnh theo loại hình, bảo lãnh thanh toán và bảo lãnh tiền ứng trước vẫn còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Trong khi hai loại bảo lãnh này lại tiềm ẩn số lượng khách hàng rất lớn.
Bên cạnh đó là sự chưa cân đối giữa các đối tượng khách hàng: các khoản bảo lãnh có giá trị lớn của ngân hàng chủ yếu tập trung ở nhóm khách hàng truyền thống, những tổng công ty lớn và có uy tín trên thị trường. Điều này làm giảm rủi ro của ngân hàng nhưng lại hạn chế khả năng mở rộng và tìm kiếm khách hàng. Hiện nay, không phủ nhận có những công ty cổ phần, công ty TNHH làm ăn rất hiệu quả, số vốn lên tới hàng trăm tỷ đồng. Họ có mối quan hệ làm ăn rất rộng với rất nhiều đối tác trong nước và nước ngoài. Do đó, ngân hàng cũng phải chú trọng hơn tới việc tìm kiếm các khách hàng tiềm năng.
Giữa bảo lãnh trong xây lắp và trong các lĩnh vực kinh doanh khác có sự chưa cân đối khá lớn. Như phân tích ở phần thực trạng, bảo lãnh trong lĩnh vực kinh doanh chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ tổng doanh số bảo lãnh trong khi nhu cầu bảo lãnh của khách hàng trong lĩnh vực này ngày càng tăng lên. Nhất là khi quan hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp ngày càng rộng và giá trị giao dịch ngày càng lớn thì đây chính là một thị trường có tiềm năng không phải là nhỏ mà ngân hàng cần phải biết khai thác.
* Cơ cấu về phí bảo lãnh vẫn chưa hoàn thiện
Do có sự thay đổi mới đây của NHNN, mức phí bảo lãnh đã được điều chỉnh tăng. Song hoạt động bảo lãnh cũng giống hoạt động tín dụng, chứa đựng trong nó những rủi ro nhất định. Do đó mức phí này vẫn không thể bù đắp rủi ro cho ngân hàng bảo lãnh, đặc biệt là đối với bảo lãnh mở L/C bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh tiền ứng trước. Chi phí mà ngân hàng bỏ ra khi thực hiện một món bảo lãnh như bảo lãnh mở L/C không phải là nhỏ (như chi phí trả lãi suất huy động vốn cho phần trích quỹ bảo lãnh, chi phí thẩm định). Vì vậy đây được coi là một bất lợi đối với ngân hàng.
* Một số trường hợp thời gian thực hiện bảo lãnh còn chưa đạt tiêu chuẩn
Mặc dù các cán bộ tín dụng đã tuân thủ nghiêm túc các quy định về thời gian song có trường hợp khách hàng vẫn phàn nàn do chờ đợi lâu để thực hiện song một món bảo lãnh. Đây có thể do một số món bảo lãnh có số tiền bảo lãnh lớn, các cán bộ tín dụng phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy trình bảo lãnh. Mà quy trình bảo lãnh đôi khi còn phức tạp gây phiền hà cho khách hàng. Mặt khác việc thảo thư phát hành bảo lãnh còn gặp khó khăn do đó các cán bộ tín dụng lại mất thời gian chỉnh sửa lại mẫu thư sao cho phù hợp với từng hợp đồng đã làm kéo dài thời gian thực hiện một món bảo lãnh.
Những hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh Thành Đô hiện nay vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để. Đó là do có những nguyên nhân, bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, gây ra. Sau đây là một số nguyên nhân chủ yếu khiến ngân hàng gặp khó khăn khi giải quyết những hạn chế trên.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1. Nguyên nhân chủ quan
* Công tác Marketing, tìm kiếm khách hàng còn chưa được phát triển
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn cạnh tranh, thu hút được khách hàng thì ngoài việc cung ứng sản phẩm tốt phải có chiến lược Marketing hiệu quả. Công tác Marketing ở đây bao gồm từ khâu tìm kiếm khách hàng cho đến khâu cung ứng sản phẩm, tập hợp ý kiến khách hàng về sản phẩm, từ đó có những chiến lược Marketing hiệu quả. Tại ngân hàng, công tác Marketing đã được chú ý hơn so với trước song vẫn không được đầu tư một cách thích đáng. Đặc biệt là khâu nghiên cứu về thị trường tiềm năng chưa được quan tâm đúng mức.
Do đó, ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác Marketing để góp phần thu hút thê khách hàng mới. Đây là một trong những hoạt động góp phần nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng.
* Việc thu thập và xử lý thông tin về khách hàng và thị trường vẫn còn gặp khó khăn
Ngày nay việc thu thập thông tin đã được hỗ trợ rất nhiều từ các phương tiện máy móc hay từ các trung tâm lưu giữ thông tin nhưng để có được những thông tin quan trọng, cán bộ tín dụng vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định.
Trong nhiều trường hợp, khi doanh nghiệp đã nộp đầy đủ các giấy tờ liên quan (thường nằm trong hồ sơ bảo lãnh) theo yêu cầu của ngân hàng thì cũng không chắc chắn được rằng những giấy tờ đó có đảm bảo được tính chân thực không. Trong trường hợp liên quan đến tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng khó biết được rằng tài sản thế chấp đó doanh nghiệp có dùng để đảm bảo cho những giao dịch trước đó (như đảm bảo cho bảo lãnh, đảm bảo cho khoản vay) tại những ngân hàng khác không. Nhất là trong điều kiện hiện nay, việc đăng ký giao dịch đảm bảo chưa phổ biến đối với các ngân hàng, TCTD. Hơn nữa việc trao đổi thông tin giữa các ngân hàng vẫn còn hạn chế nên ngân hàng không kiểm soát chặt chẽ được khách hàng.
* Công tác thẩm định bảo lãnh còn gặp khó khăn
Để có được chất lượng cao trong hoạt động bảo lãnh thì việc phân tích, đánh giá khách hàng phải đóng một vai trò quan trọng. Sự thành bại và hiệu quả của hoạt động bảo lãnh phụ thuộc không nhỏ vào khâu này. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng, không chỉ NH ĐT&PT Hà Nội mà còn tại nhiều ngân hàng khác (nhất là tại các Ngân hàng quốc doanh) khâu này còn được thực hiện chưa đầy đủ. Đây một phần là do phương pháp thẩm định dự án nhiều khi không phù hợp do môi trường kinh doanh đã có rất nhiều thay đổi. Bên cạnh đó, một thực tế còn tồn tại, đó là tại rất nhiều ngân hàng, khách hàng truyền thống chủ yếu là Doanh nghiệp Nhà nước. Đây là đối tượng khách hàng có mối quan hệ lâu năm với ngân hàng nên để duy trì quan hệ mà nhiều khi ngân hàng chưa thẩm định một cách kỹ càng.
* Trình độ cán bộ nghiệp vụ và công tác tổ chức cán bộ còn chưa hoàn thiện
Cán bộ tín dụng vừa phải thực hiện nghiệp vụ cho vay thông thường vừa phải kiêm luôn cả nghiệp vụ bảo lãnh. Bên cạnh ưu điểm là họ hiểu được khách hàng, nắm rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhược điểm là họ không có đủ thời gian để chuyên tâm nghiên cứu sâu về cách thức giải quyết những nhân tố phát sinh trong bảo lãnh.
Trước đây, công tác Marketing do phòng nguồn vốn đảm nhiệm thì nay chuyển sang cho phòng thẩm định. Các cán bộ phòng thẩm định chuyên về công tác thẩm định, xem xét khả năng tài chính, các thông số kỹ thuật nên việc phải kiêm nhiệm luôn cả công tác Marketing sẽ gặp khó khăn. Họ không phải là những người chuyên sâu về nghiệp vụ này trong khi công tác Marketing là rất quan trọng. Vì thế hiện nay tại ngân hàng vẫn chưa có cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực Marketing, tiếp thị khách hàng.
* Đầu tư cho công nghệ thông tin, các trang thiết bị máy móc hiện đại, cơ sở hạ tầng còn chưa hợp lý
Chi nhánh NHĐT&PT Thành Đô đã thực hiện từng bước việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động như nối mạng nội bộ giữa các phòng ban,…Điều này giúp cho việc kiểm tra tình hình công nợ của khách hàng một cách nhanh chóng nhất là đối với bảo lãnh theo hạn mức. Tuy nhiên, việc đầu tư đổi mới trang thiết bị vẫn còn bị hạn chế do đó các máy móc tại ngân hàng đôi lúc gặp trục trặc do cũ, lạc hậu gây mất thời gian cho khách hàng đến giao dịch.
Để có thể thu thập thông tin về khách hàng ngoài việc trực tiếp đến thẩm định, cán bộ tín dụng có thể tìm kiếm thông tin thông qua mạng Internet,…. Nhưng do chưa đầu tư thích đáng nên để thu thập thông tin một cách nhanh chóng vẫn còn gặp khó khăn.
Muốn thu hút được khách hàng thì chất lượng sản phẩm cung ứng phải thật tốt song đôi khi cơ sở hạ tầng trang thiết bị cũng ảnh hưởng rất nhiều tới tâm lý khách hàng. Một cơ sở hạ tầng hiện đại tạo tâm lý tin tưởng đối với khách hàng, hỗ trợ cho chiến lược Marketing. Hiện nay, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị tại ngân hàng đã được sửa sang nhiều song vẫn còn lạc hậu so với một số ngân hàng khác trên cùng địa bàn.
* Còn có nhiều vấn đề liên quan đến thời hạn bảo lãnh
Xác định thời hạn bảo lãnh là một vấn đề quan trọng. Thời hạn bảo lãnh thường là căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng đã được thoả thuận giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Sau đó căn cứ vào sự tính toán của bên được bảo lãnh mà đưa ra thời hạn bảo lãnh. Song trong một số trường hợp, do không đánh giá đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng của mình nên thời hạn bảo lãnh đưa ra là không chính xác. Ngoài ra trong nhiều trường hợp thời gian bảo lãnh trong thư bảo lãnh và giấy đề nghị bảo lãnh là không giống nhau, nhất là với thư bảo lãnh không chốt ngày.
Những hạn chế tại ngân hàng là do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Do đó để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh, ngân hàng cần có các giải pháp thích hợp. Bên cạnh đố cũng cần phải có những sự điều chỉnh ở tầm vĩ mô của các Chính phủ và các cơ quan có liên quan. Đứng về phía cá nhân mình, em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để góp phần mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NH ĐT&PT Thành Đô.
2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan
* Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ
Hiện nay, Chi nhánh NHĐT&PT Thành Đô đang hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật các TCTD và hệ thông các Luật, văn bản dưới Luật của chính phủ và NHNN ban hành. So với trước đây thì hệ thống các văn bản này đã có những thay đổi hợp lý hơn, tạo điều kiện hơn cho ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động song nó vẫn chưa thực sự mở ra những hành lang pháp lý thực sự thông thoáng và hợp lý. Do vậy, hệ thống các văn bản này vẫn cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh.
Tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động, kinh nghiệm và thói quen, các ngân hàng sẽ cụ thể hoá các văn bản. Vì thế khi thực hiện một số loại hình bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, phía ngân hàng sẽ phải tham khảo thêm các thông lệ chung để đưa ra các điều khoản trong hợp đồng và khi mối quan hệ bảo lãnh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia thì việc giải quyết các tranh chấp sẽ khó khăn.
Bên cạnh đó, các văn bản Luật vẫn chưa bổ sung thêm các loại hình bảo lãnh mới mà nhu cầu về chúng đang ngày càng tăng như bảo lãnh nộp thuế. NHNN Việt Nam vẫn chưa chính thức thừa nhận, cho phép sử dụng các nghiệp vụ bảo lãnh này. Điều này khiến ngân hàng dè dặt khi đưa ra một sản phẩm mới.
Mức phí mà NHNN quy định vẫn còn là một vấn đề đáng quan tâm đòi hỏi phải có sự thay đổi thích đáng. Mức phí tối đa do NHNN quy đinh chưa đảm bảo cho ngân hàng cân đối được giữa doanh thu thu được với chi phí mà họ bỏ ra nhất là với bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ban hành thẩm quyền quyết định bảo lãnh cho Giám đốc chi nhánh là cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Đặc biệt đối với khoản bảo lãnh vay vốn nước ngoài phải trình NHĐT&PT Việt Nam duyệt. Tuy nhiên trong một số trường hợp, món bảo lãnh có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn thì việc NHĐT&PT Việt Nam xem xét giải quyết sẽ kéo dài thời gian, ảnh hưởng tới tính kịp thời của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặt khác, quy trình bảo lãnh do NHĐT&PT Việt Nam ban hành đã tạo ra những chuyển biến rất lớn trong hoạt động bảo lãnh trong toàn hệ thống. Song nó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập còn tồn tại như là quy trình còn phức tạp, các mẫu biểu được quy định sẵn đôi khi còn sai sót.
* Môi trường canh tranh gay gắt
Trong điều kiện hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có hơn 4 Ngân hàng quốc doanh và rất nhiều ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh như VIB, ACB.... Trong số những ngân hàng trên có những ngân hàng có chiến lược Marketing rất tốt, số vốn lớn, khả năng cung ứng sản phẩm đạt ở mức cao. Đây là những ngân hàng có sức cạnh tranh cao. Do đó ngân hàng cần có định hướng phát triển cụ thể nhằm tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mình.
* Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
- Một vấn đề khá bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam đó là trình độ và năng lực quản lý còn thấp. Điều này không những ảnh hưởng tới công tác tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới quá trình doanh nghiệp đến xin bảo lãnh.
Trước hết, do trình độ quản lý yếu kém nên các doanh nghiệp thường không nắm chắc các quy định về bảo lãnh như yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, tài sản đảm bảo khiến cho ngân hàng mất nhiều thời gian để xem xét liệu đã đủ điều kiện thực hiện một món bảo lãnh chưa. Chính điều này đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của bản thân doanh nghiệp do mất quá nhiều thời gian. Nếu ngân hàng xem xét qua loa thì có thể sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Thứ hai, do công tác tổ chức điều hành không tốt, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác. Tuy đã có tài sản đảm bảo nhưng khi có vi phạm xẩy ra thì ngân hàng vẫn bị ảnh hưởng, đặc biệt trong những trường hợp tài sản thế chấp sau khi phát mại không đủ bù đắp chi phí ngân hàng đã bỏ ra.
- Các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp mới thường không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo. Với những DNNN, phần lớn tài sản nằm trong tình trạng lạc hậu, khó thanh khoản. Nhiều tài sản như công xưởng, đất đai lại thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên gây khó khăn trong việc thanh lý, phát mại do chưa có văn bản Luật nào quy định rõ điều này.
Trong khi nhóm khách hàng mới chủ yếu là các công ty CP phải ký quỹ hoặc thế chấp 100%. Các tài sản này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên vấn đề thanh lý, phát mại là không có khó khăn nhiều. Nhưng với món bảo lãnh có giá trị bảo lãnh lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản thế chấp có giá trị tương đương. Vì thế làm mất cơ hội kinh doanh của cả ngân hàng và khách hàng.
- Bản thân các doanh nghiệp khi tiến hành một dự án đầu tư cũng không thẩm định kỹ càng. Có thể đầu tư vượt quá khả năng của mình dẫn đến việc không thực hiện được hợp đồng, Hoặc tính toán các yếu tố đầu vào hay xác định thời hạn bảo lãnh không chính xác khiến bị thua lỗ hoặc vi phạm về thời gian.
- Nguyên nhân gây ra tình trạng các ngân hàng khó kiểm soát, quản lý được khách hàng là do các doanh nghiệp vay vốn, mở tài khoản giao dịch tại nhiều ngân hàng khác nhau. Việc này khiến cho ngân hàng khó nắm bắt được tình hình hoạt động và công nợ thực tế của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định đúng đắn.
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CHI NHÁNH THÀNH ĐÔ.
3.1. Định hướng phát triển trong những năm tới
3.1.1. Định hướng chung
Mục tiêu, kế hoạch kinh doanh năm 2008
Lấy an toàn, chất lượng và hiệu quả bền vững làm mục tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh tại chi nhánh. Đặt mục tiêu hiệu quả kinh doanh bền vững trên cơ sở hoạt động có bài bản và chuẩn mực; quảng bá được hình ảnh của chi nhánh Thành Đô và thương hiệu BIDV.
Đảm bảo hiệu quả kinh doanh của chi nhánh. Thu nhập của cán bộ nhân viên 2008 cao hơn năm 2007. Chủ động cơ cấu lại nguồn huy động và sử dụng vốn, đảm bảo cơ cấu tài sản hợp lý về kỳ hạn - loại tiền - loại hình khách hàng... chuyển dịch theo hướng tích cực, tiệm cận với chuẩn quốc tế.
Tăng cường công tác dịch vụ, ngày càng nâng cao tỷ trọng của hoạt động này trong tổng lợi nhuận của chi nhánh trên cơ sở phát triển thêm nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ mới hướng tới khách hàng dân cư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ để tăng doanh số hoạt động dịch vụ.
Kiểm soát được mọi hoạt động, đảm bảo minh bạch, an toàn, hiệu quả. Chế độ thông tin báo cáo và chỉ đạo được thông suốt kịp thời.
Đào tạo chuyên sâu đội ngũ cán bộ có đạo đức nghề nghiệp, tinh thông nghiệp vụ.
Chỉ tiêu cụ thể
Trên cơ sở kết quả đạt được của năm 2007, với mục tiêu trên Chi nhánh xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2008 trên một số chỉ tiêu chính như sau:
- Chênh lệch thu chi: 34tỷ
- Thu dịch vụ ròng: 6tỷ
- Trích DPRR trong năm: 10 tỷ
- Lợi nhuận sau thuế 17.28 tỷ
- Tỷ lệ nợ quá hạn < 1.5%
- Tỷ lệ nợ xấu < 5%
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh
Với mục tiêu phát triển Chi nhánh NHĐT&PT Thành Đô thành một chi nhánh mạnh trong hệ thống, sản phẩm có chất lượng tốt, có uy tín trong và ngoài nước thì phải không ngừng đổi mới, cải tiến chất lượng các nghiệp vụ đã có và phát triển thêm một số loại hình nghiệp vụ mới. Trong đó phải phát triển các hoạt động dịch vụ để nâng cao sức cạnh tranh, tăng thu nhập. Bên cạnh các nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ bảo lãnh là một trong các nghiệp vụ trong tương lai đem lại thu nhập cao cho ngân hàng. Đánh giá tình hình thực hiện bảo lãnh trong những năm vừa qua, ban lãnh đạo ngân hàng đã đề ra những mục tiêu phấn đấu sau:
- Tăng tỷ trọng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh trong tổng thu nhập của ngân hàng để cơ cấu lại nguồn thu nhập giữa hoạt động tín dụng và hoạt động dịch vụ, phù hợp với mục tiêu phấn đấu xây dựng ngân hàng thành một chi nhánh hoạt động đa năng tổng hợp, có hiệu quả.
- Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh. Bên cạnh việc củng cố, nâng cao chất lượng của các loại hình bảo lãnh đã có thì phát triển thêm một số loại hình bảo lãnh mới.
- Thực hiện tốt chính sách khách hàng, chiến lược Marketing để thu hút thêm khách hàng. Không chỉ phục vụ trong lĩnh vực xây dừng mà còn trong cả lĩnh vực thương mại, không chỉ phục vụ đối với thành phần kinh tế quốc doanh mà còn chú trọng tới các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh.
- Chú trọng tới việc đưa công nghệ hiện đại vào không chỉ hoạt động bảo lãnh mà còn tới tất cả các hoạt động khác nhằm đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất với chất lượng tốt nhất.
- Đào tạo và quản lý tốt đội ngũ cán bộ, đặc biệt bồi dưỡng nâng cao kiến thức về nghiệp vụ bảo lãnh.
Trên cơ sở kết hợp phân tích những khó khăn vướng mắc trong công tác bảo lãnh, định hướng kinh doanh nói chung và nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng tại ngân hàng trong những năm tới, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị như sau:
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh
3.2.1. Xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn hoàn thiện và cải tiến quy trình bảo lãnh
Quy trình bảo lãnh có thể hoàn thiện theo hướng
- Tăng cường công tác thẩm định khách hàng về mặt pháp lý, tài chính nhằm hạn chế rủi ro, nâng cao chất lượng bảo lãnh.
- Đơn giản hoá các thủ tục, giảm bớt thời gian xét duyệt nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn, đầy đủ theo quy định. Giải quyết các vướng mắc xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên kịp thời tránh để khách hàng chờ đợi quá lâu.
- Nâng cao chất lượng theo dõi, giám sát và quản lý chặt chẽ khách hàng được bảo lãnh trong quá trình thực hiện hợp đồng.
- Chú trọng việc đánh giá, tổng kết, đúc rút ra kinh nghiệm sau khi tất toán một món bảo lãnh từ đó tìm ra những giải pháp hoàn thiện cho các món bảo lãnh tiếp theo.
3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định
Giống như hoạt động tín dụng, hoạt động bảo lãnh cũng chứa đựng những rủi ro nhất định. Nếu ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì món bảo lãnh đó sẽ trở thành một món vay bắt buộc, khi đó nó sẽ có nguy cơ không thu hồi được nợ. Chính vì vậy để hạn chế rủi ro xẩy ra, ngân hàng cần phải hết sức chú trọng tới công tác thẩm định trước khi ra quyết định. Muốn vậy các cán bộ tín dụng cần đảm bảo tuân thủ quy trình và nội dung thẩm định phương án thực hiện hợp đồng kinh tế đã ký giữa hai bên. Tuy nhiên, quá trình này nhiều khi không được chặt chẽ và chính xác do các yếu tố khách quan và chủ quan. Do vậy trong việc thẩm định nhu cầu bảo lãnh, ngân hàng cần chú trọng hơn đến các vấn đề sau:
- Tư cách pháp nhân: Điều này là cần thiết đối với các khách hàng mới, đặc biệt là công ty cổ phần, công ty TNHH. Bởi vì, khi có tranh chấp xẩy ra, mọi việc đều được đưa ra trước pháp luật. Do đó, ngân hàng cần quan tâm tới tư cách pháp lý của khách hàng để nhằm tránh những bất lợi cho ngân hàng sau này.
-Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh: Các cán bộ tín dụng cần đặc biệt chú trọng tới việc phân tích tình hình hoạt động kinh doanh dựa trên các báo cáo tài chính, hay công suất sử dụng máy móc, số lượng công nhân viên. Việc thu thập thông tin có thể trực tiếp qua khách hàng hoặc qua bạn hàng, báo chí và đặc biệt là trực tiếp đến tìm hiểu tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng phải chú ý tới việc phân tích môi trường kinh doanh, đánh giá khó khăn, thuận lợi của doanh nghiệp từ đó đưa ra ý kiến xem liệu doanh nghiệp có khả năng hoàn thành được hợp đồng hay không.
- Khả năng điều hành của chủ doanh nghiệp: Đây là một yếu tố khá quan trọng, ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các cán bộ tín dụng cần phải đánh giá kỹ càng khả năng điều hành của lãnh đạo doanh nghiệp thông qua năng lực tổ chức (bố trí, sắp xếp lao động...), năng lực chuyên môn và uy tín của họ. Có thể thu thập thông tin qua các nhân viên, qua bạn hàng hoặc tiếp xúc trực tiếp. Kết hợp với kinh nghiệm từ trước, các cán bộ tín dụng sẽ đưa ra đánh giá chính xác hơn.
- Khả năng tài chính: Một trong những điều kiện để ra quyết định bảo lãnh đó là doanh nghiệp phải có khả năng tài chính lành mạnh, có khả năng trả được nợ. Ngân hàng sẽ xem xét đánh giá tình hình công nợ hiện có của doanh nghiệp, thu chi hàng năm của doanh nghiệp để ra quyết định.
- Định giá tài sản thế chấp: Đây là một trong những vướng mắc rất lớn không chỉ đối với chi nhánh mà còn đối với rất nhiều ngân hàng khác.
Trong thực tế, nhóm khách hàng truyền thống thường là các DNNN, tài sản thế chấp của họ chủ yếu thuộc quyền sở hữu của nhà nước do đó cơ chế thanh lý, phát mãi rất phức tạp. Do đó trước khi tiếp nhận tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng cần nắm rõ các quy định hiện thời của các cơ quan chức năng về tài sản thế chấp đó để có phương hướng giải quyết phù hợp.
Một vấn đề gặp phải nữa đó là việc định giá tài sản thế chấp, đặc biệt tài sản đó là nhà cửa, máy móc, trang thiết bị. Việc định giá tài sản này gặp phải khó khăn do chúng có tính hao mòn. cả hữu hình và vô hình. Cán bộ tín dụng phải tính toán được chính xác mức độ hao mòn của tài sản dựa trên phương pháp tính hao mòn tại doanh nghiệp đó, đồng thời kết hợp với kinh nghiệm của bản thân. Ngoài ra cán bộ tín dụng cần tính đến cả hao mòn vô hình bằng cách đánh giá tình hình thị trường về loại tài sản đó, mức độ lên xuống của giá cả. Nếu tổng giá trị tài sản thế chấp không bằng 70% giá trị bảo lãnh thì phải yêu cầu doanh nghiệp đảm bảo thêm tài sản hoặc thực hiện thêm hình thức đảm bảo khác như ký quỹ.
3.2.3 Nâng cao tính cạnh tranh của hoạt động bảo lãnh
Những định hướng lớn và mục tiêu của ngân hàng chỉ có thể đạt được dựa trên cơ sở đáp ứng được các nhu cầu và đem lại lợi ích cho khách hàng. Vì vậy trong hoạt động bảo lãnh Chi nhánh nên điều hoà hợp lý giữa lợi ích của mình và khách hàng, nhàm nâng cao tính cạnh tranh cho hoạt động bảo lãnh của ngân hàng. Thực hiện như vậy, thu nhập của ngân hàng từ mỗi nghiệp vụ có thể sẽ giảm sút nhưng bù lại, ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn và tổng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh có thể tăng lên.
Cụ thể hoá giải pháp này là ngân hàng nên áp dụng mức phí bảo lãnh linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng. Nhất là những khách hàng truyền thống, lâu năm, có uy tín thì nên có chế độ ưu đãi. Điều này sẽ tạo sự thoải mái, hài lòng va tạo mối quan hệ tốt đối với khách hàng.
Ngoài ra cũng phải chú trọng đến viêc xác định hạn mức bảo lãnh cho từng khách hàng. Hiện nay việc xác định hạn mức còn cứng nhắc và thiếu chặt chẽ. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến chất lượng hoạt động bảo lãnh. Vì vậy, ngân hàng phải xác định hạn mức bảo lãnh dựa trên những cơ sở thống nhấtvà khoa học, đưa ra một hạn mức bảo lãnh hợp lý sẽ tạo điều kiện nâng cao chất lượng bảo lãnh.
Ngân hàng cũng nên điều chỉnh mức ký quỹ phù hợp với từng đối tượng khách hàng, tránh đọng vốn của khách hàng, nâng cao tính hấp dẫn của nghiệp vụ bảo lãnh.
Cùng với việc gia nhập WTO, môi trường hoạt động của ngành ngân hàng ngày càng trở nên cạnh tranh hơn. Vì vậy để thu hút, hấp dãn khách hàng thì Chi nhánh phải quan tâm đến việc thực hiện tốt chính sách Marketing, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, mở rộng các nghiệp vụ bảo lãnh. Chi nhánh có chính sách đa dạng, phong phú, linh hoạt. Cụ thể như:
Ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đến giao dịch như đảm bảo an ninh, thuận tiện , thủ tục gọn nhẹ nhanh chóng.
Thái độ đón tiếp của nhân viên nhã nhặn, tận tình, lịch sự.
Chi nhánh nên xây dựng một chiến lược Marketing hỗn hợp gồm chiến lược khách hàng, chiến lược sản phẩm, chiến lược giá cả,...nắm bắt nhu cầu thị trường để tìm ra giải pháp cho từng giai đoạn cụ thể.
3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ quá trình thực hiện các món bảo lãnh.
Chi nhánh cần tăng cường kiểm tra kiểm soát với hoạt động bảo lãnh, với mục đích kiểm tra việc chấp hành các quy định, phát hiện các tồn tại, sai sot từ đó có những điều chỉnh kịp thời, phù hợp.
Trong nhiều trường hợp do các cán bộ tín dụng sau khi thực hiện một món bảo lãnh quên không chuyển thông tin xuống phòng kế toán nên không nhập ngoại bảng, ảnh hưởng tới việc thu phí. Do đó cần tăng cường các biện pháp kiểm tra đối với quá trình thực hiện bảo lãnh. Sau khi thực hiện xong một món bảo lãnh, yêu cầu tất cả các cán bộ tín dụng buộc phải vào sổ theo dõi. Để đến cuối tuần so sánh với phòng kế toán. Đồng thời phải hoàn thiện chương trình điện toán trong đó yêu cầu các cán bộ tín dụng khi thực hiện xong một món bảo lãnh phải nhập thông tin ngay.
Cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi, cập nhật tình hình vốn, hoạt động của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn của doanh nghiêp đúng mục đích, khi phát hiện khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích thì chi nhánh phải có biện pháp xử lý kịp thời, thu hồi lại nợ trả cho bên cho vay. Cán bộ tín dụng cũng có thể tư vấn cho khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả hơn, giải quết các khó khăn, điều này sẽ làm cho mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng mật thiết.
3.2.5 Giải pháp về nguồn nhân lực
Con người là một trong những yếu tố quyết định tới kết quả của công tác bảo lãnh nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung. Do đó cần phải quan tâm tới công tác đào tạo, tổ chức cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển.
Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện các hoạt động sau nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cả về lý luận và thực tế cho các cán bộ tín dụng:
- Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, kết hợp với đào tạo tại chỗ.
- Ngân hàng cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho các cán bộ tín dụng. Bởi vì với những món bảo lãnh mà có liên quan tới phía nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoaì, bảo lãnh thanh toán… thì việc am hiểu và nắm rõ các điều khoản ghi bằng ngoại ngữ trên hợp đồng là rất quan trọng. Để từ đó đưa ra các điều khoản khi ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh phải chính xác. Nếu không việc tranh chấp là khó tránh khỏi khi có vi phạm xẩy ra. Bên cạnh đó, một vấn đề nữa đặt ra với các cán bộ tín dụng là phải nắm rõ và thường xuyên cập nhật các thông tin về luật, quy tắc và thông lệ trong giao dịch bảo lãnh.
- Bồi dưỡng, nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm của toàn thể các cán bộ ngân hàng. Luôn phải coi hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Cần phải có thái độ niềm nở, phục vụ tận tình, chu đáo để tạo ra hình ảnh tốt về ngân hàng.
- Khuyến khích các cán bộ tự nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ. Khuyến khích các cán bộ học cao hơn, đặc biệt là nâng cao số cán bộ có trình độ đại học và sau đại học. Thường xuyên tổ chức các hội thi, phong trào tìm hiểu về các nghiệp vụ tại đơn vị giúp các cán bộ bổ sung kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, tạo không khí đoàn kết trong ngân hàng.
- Tổ chức sắp xếp lao động phải hợp lý, đảm bảo phù hợp về trình độ, năng lực, tính cách, nguyện vọng. sở thích của mỗi người.
- Chi nhánh nên có một phòng Marketing riêng với các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này để có các chiến lược toàn diện và tổng thể. Điều này sẽ giúp cho chi nhánh có được những chiến lược Marketing một cách toàn diện trên cơ sở những nghiên cứu có tính khoa học hơn. Đồng thời cũng giúp cho Phòng thẩm định chuyên sâu hơn về chuyên môn của họ. Trong phòng Marketing sẽ có không chỉ các cán bộ chuyên về Marketing mà còn có những cán bộ học chuyên về ngân hàng-tài chính để trao đổi thông tin, hỗ trợ nhau khi lập chiến lược.
- Để có được đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, bên cạnh những cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm cần có các cán bộ trẻ có tính sáng tạo, năng động. Do đó cần có các chính sách thu hút, tuyển dụng các cán bộ có trình độ và năng lực cao từ các nơi khác. Đồng thời thu hút các cán bộ trẻ có tài năng, có khả năng tìm tòi, sáng tạo, năng động.
3.2.6. Hiện đại hoá trang thiết bị
Trong thời đại toàn cầu hoá như hiện nay, nếu chúng ta không được trang bị các công nghệ hiện đại để theo kịp với trình độ xã hội thì hiển nhiên là chúng ta sẽ đứng ngoài lề sự phát triển đó. Tuy hiện nay chi nhánh đã có một số trang thiết bị công nghệ ngân hàng tương đối hiện đại, nhưng vẫn chưa đầy đủ, và còn lạc hậu so với các ngân hàng trên thế giới và trong khu vực. BIDV đang từng bước hiện đại hoá trang thiết bị, công nghệ ngân hàng, tiến tới trở thành một tập đoàn tài chính lớn. Chi nhánh nên áp dụng nhiều hơn nữa các trang thiết bị, công nghệ vào hoạt động bảo lãnh, bởi đây cũng là một biện pháp giảm thiểu rủi ro, cũng như nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh.
3.2.7 Hoàn thiện công tác quản trị rủi ro trong hoạt động bảo lãnh
* Chính sách phí bảo lãnh
Phí bảo lãnh cũng là một nhân tố quyết định tới nhu cầu bảo lãnh của khách hàng. Ngân hàng nên đưa ra một chính sách phí linh hoạt có tính cạnh tranh cao để thu hút khách hàng nhưng vẫn phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho ngân hàng. Ngân hàng nên có một biểu phí chi tiết hơn hiện nay, quy định cụ thể đối với từng loại đối tượng khách hàng, loại hình bảo lãnh, mức độ rủi ro đối với từng loại.
* Mức ký quỹ:
Tuỳ từng đối tượng khách hàng mà ngân hàng nên có mức ký quỹ cho hợp lý. Bởi vì mức ký quỹ là 100% tỏ ra không hợp lý vì nó gây khó khăn cho khách hàng do bị đông vốn lưu động. Chi nhánh nên yêu cầu khách hàng ký quỹ theo môt tỷ lệ nhất định đồng thời kết hợp linh hoạt với các hình thức đảm bảo khác như đảm bảo bằng số dư tài khoản tiền gửi hoặc tài sản thế chấp. Điều này rất có ý nghĩa đối với khách hàng khi giá trị bảo lãnh lớn. Tuỳ từng đối tượng mà cán bộ tín dụng sẽ đưa ra mức ký quỹ và hình thức đảm bảo khác cho phù hợp.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quản lý khách hàng về mặt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng với bên nhận bảo lãnh cũng như với ngân hàng
Cán bộ tín dụng phải thường xuyên đôn đốc khách hàng thực hiện đúng các quy định trong hợp đồng. Nếu khách hàng gặp khó khăn, cán bộ sẽ cùng họ tham gia tìm hiểu nguyên nhân để từ đó có biện pháp tháo gỡ, khắc phục. Thường xuyên phối hợp với các phòng ban như phòng kế toán để theo dõi số dư tiền gửi tại ngân hàng đồng thời theo dõi tình hình công nợ của doanh nghiệp tại ngân hàng khác. Nếu khách hàng có dấu hiệu vi phạm thì phải có biện pháp xử lý kịp thời.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền
Một môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ và phù hợp với thực tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng không những cho hoạt động của ngân hàng mà còn cho tất cả các tổ chức kinh tế. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng phát triển. Nghiệp vụ bảo lãnh là một nghiệp vụ mới tại Việt Nam, mặc dù các văn bản pháp luật đã ra đời song nó vẫn chưa quy định rõ ràng và đầy đủ. Ngay như vấn đề tài sản thế chấp đã phát sinh từ khi có hoạt động tín dụng nhưng cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy định rõ về việc thanh lý, phát mãi tài sản thế chấp của các DNNN. Do đó việc xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ và đồng bộ, thống nhất là yêu cầu cấp thiết đối với sự phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam. Các văn bản liên quan đến bảo lãnh được chính phủ ban hành vẫn chưa có điều lệ quốc tế điều chỉnh, điều này gây bất lợi cho phía Việt nam khi có tranh chấp với nước ngoài. Cho nên việc xây dựng hành lang pháp lý đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành có liên quan.
- Chính phủ cần quy định rõ ràng danh mục tài sản cầm cố, quy định xử lý danh mục tài sản thế chấp, cầm cố khi doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng.
- Chính phủ và các Bộ cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy chế đấu thầu để đảm bảo chắc chắn rằng tất cả các doanh nghiệp có đủ điều kiện đều có cơ hội tham gia. Đây cũng là một giải pháp để đảm bảo an toàn cho nghiệp vụ Bảo lãnh ngân hàng.
- Tiếp tục duy trì chế độ thế chấp, cầm cố tài sản đối với các Doanh nghiệp Nhà nước nhưng trong đó nên đồng ý cho phép ngân hàng có thể phát mãi các tài sản trên để thu nợ.
- Tiếp tục tiến hành cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước nhằm nâng cao vai trò làm chủ thực sự của các doanh nghiệp mà đặc biệt là khẳng định quyền sở hữu hợp pháp của các doanh nghiệp này đối với các tài sản thế chấp để làm căn cứ đảm bảo cho ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh.
Chính phủ cũng cần ổn định môi trường chính trị xã hội, môi trường kinh tế vĩ mô, xây dựng cơ chế thị trường đồng bộ, hoàn chỉnh hệ thống tiền tệ, tín dụng, và giá cả. Môi trường kinh tế phát triển ổn định, lành mạnh sẽ là động lực thúc đẩy hoạt động tài chính, tiền tệ - ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng. Bất ổn về chính trị xã hội luôn đem lại những rủi ro bất khả kháng đối với doanh nghiệp làm giảm chất lượng của hoạt động bảo lãnh.
3.3.2. Với ngân hàng nhà nước
3.3.2.1. Về điều kiện được bảo lãnh
NHNN quy định tổng số tiền bảo lãnh tối đa cho một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Trong trường hợp vượt mức trên thì phải được chấp thuận của NHNN. Điều này nên để cho các ngân hàng tự giải quyết không nên trình từng trường hợp, nên để ngân hàng thực hiện báo cáo theo định kỳ.
3.3.2.2. Về mức phí bảo lãnh
Ngoài ra, mức phí tối thiểu mà NHNN hiện đang quy định tương đối cao. Nếu các cán bộ tín dụng mà tuân theo quy định của NHNN thì lại không thu hút được khách hàng, thiết nghĩ NHNN nên xem xét điều này để có sự thống nhất, không ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời các cán bộ tín dụng khi thoả thuận mức phí sẽ dễ dàng hơn, không bị trái Luật.
3.3.2.3. Về các hình thức bảo lãnh
Hiện nay, có nhiều loại hình bảo lãnh mà các ngân hàng thương mại đã thực hiện hoặc khách hàng đang có nhu cầu nhưng trong các văn bản Luật vẫn chưa quy định cụ thể, chỉ quy định một cách rất chung chung là các loại bảo lãnh khác. Những loại bảo lãnh mới nhưng đã được các ngân hàng áp dụng như bảo lãnh thuế,... Để tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, không gặp phải cản trở do trong Luật chưa quy định rõ ràng, thiết nghĩ NHNN nên quy định rõ hơn về các loại bảo lãnh mới này.
3.3.3. Kiến nghị với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Tuỳ thuộc vào từng loại bảo lãnh và đối tượng khách hàng mà ngân hàng quyết định mức phí cho hợp lý. Trong trường hợp doanh nghiệp xin ký quỹ 100% thì rõ ràng doanh nghiệp sẽ cảm thấy thiệt thòi, vì vậy nên chăng cần phải quy định mức phí bảo lãnh linh hoạt hơn với từng loại bảo đảm.
Hiện nay, NHĐT&PT Việt Nam đang quy định mức thẩm quyền quyết định cho chi nhánh là 30 tỷ cho một món bảo lãnh. Nếu số tiền bảo lãnh mà vượt mức trên thì phải trình lên NHĐT&PT Việt Nam xem xét và giải quyết. Thiết nghĩ nên nâng cao mức phán quyết cho các chi nhánh để đỡ mất thời gian cho khách hàng và cũng tạo điều kiện cho chi nhánh hoạt động một cách tự chủ hơn.
Quy trình bảo lãnh còn phức tạp, có nhiều phần quy định không cần thiết, gây phiền hà cho khách hàng. Thiết nghĩ NHĐT&PT Việt Nam nên giảm bớt các quy định, các phần không cần thiết. Trong phần Lập tờ trình nằm trong Bước2 – Quyết định bảo lãnh, nên bỏ phần Nội dung Tờ trình vì phần trên đã nêu rõ rằng các cán bộ tín dụng khi lập tờ trình đã phải nêu đầy đủ quan điểm cá nhân đồng thời có ý kiến của trưởng phòng tín dụng. Trong phần này chỉ cần nêu rằng: “ Nội dung Tờ trình được thảo trên cơ sở mẫu tờ trình có sẵn. Tờ trình NHĐT&PT Việt Nam phải tuân theo Mẫu tờ trình số BM 02a/QT-BL-02” là đủ.
Ngoài ra, trong quy trình bảo lãnh, ở Bước 4, phần theo dõi thực hiện hợp đồng bảo lãnh có nêu: “ Kiểm tra, theo dõi khách hàng (trừ trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có)” là không chính xác. Bởi vì đối với trường hợp bảo lãnh bằng ký quỹ 100% vốn tự có thì cán bộ tín dụng cũng cần phải theo dõi việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh vì điều này sẽ ảnh hưởng tới uy tín của ngân hàng đối vơí người nhận bảo lãnh vì thế thiết nghĩ chỉ nên viết là: “Kiểm tra, theo dõi khách hàng: ”.
Mặt khác, trong quy trình bảo lãnh chưa đưa ra cách tính hạn mức đối với loại bảo lãnh hạn mức một cách tốt nhất. Thiết nghĩ NH ĐT&PT Việt Nam nên xem xét lại điều này và đưa ra một cách tính hạn mức phù hợp nhất. Cách tính hạn mức này phải dựa trên hạn mức bảo lãnh năm trước của khách hàng (khách hàng truyền thống mới được bảo lãnh hạn mức) và dựa trên các món bảo lãnh thực phát sinh vào năm trước đó, đồng thời trên cơ sở phân tích nhu cầu bảo lãnh có thể phát sinh trong năm tới của họ. Phân tích nhu cầu bảo lãnh trong năm tới có thể căn cứ vào khả năng phát triển kinh doanh từ đó xác định nhu cầu cần xây dựng hay mua máy móc thiết bị...của các doanh nghiệp khi đề nghị bảo lãnh sao cho phù hợp nhất.
Ngoài ra, đối với việc gia hạn bảo lãnh, đơn xin gia hạn không có phần duyệt của ngân hàng. Do đó khi gia hạn, cán bộ tín dụng lại phải làm lại tờ trình này, đây là một điều không thuận lợi, mất nhiều thời gian cho khách hàng. Do đó, trong tờ trình xin gia hạn bảo lãnh phải có luôn phần duyệt của ban lãnh đạo.
KẾT LUẬN
Cho đến nay, bảo lãnh ngân hàng là một loại hình nghiệp vụ không thể thiếu đối với các ngân hàng cũng như với sự phát triển kinh tế của đất nước, nhu cầu đổi mới hoạt động của hệ thống NHTM càng đòi hỏi ngày một hoàn thiện và phát triển. Chính vì vậy các nghiệp vụ ngân hàng ngày càng được áp dụng rộng rãi nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu và qua quá trình tìm hiểu thực tế về hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh NH ĐT&PT Thành Đô, bằng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, chuyên đề tốt nghiệp đã đạt được một số kết quả sau:
- Khái quát được quá trình hình thành, sự cần thiết ra đời hoạt động bảo lãnh cũng như những vấn đề cơ bản khác về nghiệp vụ bảo lãnh.
- Tổng hợp và phân tích tình hình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại Chi nhánh NH ĐT&PT Thành Đô, từ đó tìm hiểu những mặt hạn chế tại Chi nhánh từ đó tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó.
- Trên cơ sở thực tế, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng.
Chuyên đề tốt nghiệp của em được thực hiện trong thời gian 4 tháng đến nay đã kết thúc. Song do trình độ hiểu biết còn hạn chế và thời gian nghiên cứu hạn hẹp nên chuyên đề chưa thể bao quát được nội dung của toàn bộ hoạt động bảo lãnh cũng như không thể tránh khỏi những sai sót do chưa có tính thực tế. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và tập thể cán bộ tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô để nội dung chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân, em còn nhận được sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô trường ĐH KTQD, tập thể phòng tín dụng 2, Chi nhánh ngân hàng ĐT&PT Thành Đô.
Em xin trân trọng cảm ơn thầy Lê Đức Lữ và toàn thể các thầy cô giáo khoa Ngân hàng - Tài chính giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thành Đô.DOC