+ Về chính sách tín dụng: Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng xoá bỏ
bao cấp, thực hiện nguyên tắc lãi suất theo thị trường nhưng bảo đảm các chức
năng sau:
. Ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho người nông dân
và các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Các mặt
hàng cần ưu tiên trước mắt là thủy sản, gao, cà phê, hạt điều, thủ công mỹ nghệ,
sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa.
. Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp xuất
khẩu các mặt hàng có độ rủi ro cao với thời gian trả nợ dài hơn, điều kiện tiếp
cận vốn thuận lợi hơn.
. Bảo lãnh cho các doanh nghiệp xuất khẩu để vay vốn tại các ngân hàng
thương mại.
. Triển khai việc cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu.
41 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích đánh giá nguyên nhân làm xuất khẩu tăng chậm, nhập siêu tăng cao sau khi Việt Nam gia nhập WTO và các giải pháp khắc phục để tăng xuất khẩu, giảm nhập siêu trong thời kỳ tới năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc giảm được tỷ lệ nhập
siêu trong 2 năm 2009 – 2010 do tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt bình quân
13,5%/năm trong khi tăng nhập khẩu chỉ đạt bình quân 9,8%/năm cũng là hiện
tượng hợp qui luật, do tính chu kỳ kinh tế chi phối một cách tự nhiên chứ không
phải chủ yếu do nguyên nhân tác động chủ quan của Nhà nước ta.
2. Tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
đối với tăng trưởng xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu
- Tác động đến sức mua và nhu cầu thế giới
Kinh tế Việt Nam chịu tác động của khủng hoảng tài chính thế giới đang
gây khó khăn cho Việt Nam thực hiện mục tiêu chiến lược. Quá trình hội nhập
của Việt Nam trên 10 năm qua kể từ khi Việt Nam gia nhập khối Các nước
Đông Nam Á – ASEAN, và đặc biệt là 4 năm sau khi Việt Nam trở thành thành
viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã mang lại những tác động tích
cực trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên, tham gia quá trình hội nhập với kinh tế
toàn cầu, Việt Nam cũng không tránh khỏi các tác động tiêu cực mà đặc biệt là
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ và lan rộng ra toàn
17
thế giới từ cuối năm 2007. Nếu như quá trình hội nhập trong những năm qua đã
có tác động tích cực vào phát triển kinh tế Việt Nam qua hai kênh chính yếu là
tăng xuất khẩu và đầu tư nước ngoài, thì khi kinh tế thế giới bị khủng hoảng,
chúng ta lại chịu ảnh hưởng ngược lại của hai nhân tố này. Hai nhân tố này có
đóng góp cao cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua, vì vậy
khi khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu ảnh hưởng tiêu cực đến hai
nhân tố này đã tác động làm suy thoái tốc độ tăng trưởng GDP. Do đó, chúng ta
sẽ khó đạt được mục tiêu mong muốn. Bởi lẽ, trong bối cảnh kinh tế thế giới suy
thoái chung, đặc biệt là kinh tế Mỹ, hàng hoá ứ đọng chờ người mua, giá cả suy
giảm, đầu tư, sản xuất giảm làm tình trạng thất nghiệp thêm trầm trọng. Theo
đánh giá của IMF, do nhu cầu tiêu dùng của thế giới giảm, làm đầu tư giảm nên
mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm từ 3,7% năm 2008 xuống còn - 5,4%
năm 2009 và năm 2010 chỉ tăng 2,5% so với năm 2009. Khối lượng thương
mại, dịch vụ của thế giới cũng giảm từ 4,6% năm 2008 xuống còn 2,15 năm
2009, trong đó nhập khẩu vào các nền kinh tế phát triển là số âm (1,8% năm
2008 và âm - 0,1% năm 2009), và xuất khẩu của các nền kinh tế này giảm từ
4,1% năm 2008 xuống 1,2% năm 2009. Trong khi đó thị trường xuất khẩu của
Việt Nam chủ yếu vào các nền kinh tế phát triển gồm thị trường Mỹ năm 2007
là 21%, Nhật là 12,5%, các nước EU khoảng trên 15%, Úc là 7,3%, Trung Quốc
là 6,9%, Singapore là 4,6% ... Như vậy, việc tiêu thụ hàng hoá của các nước
này giảm mạnh trong các tháng cuối năm 2008 và kéo dài (nhập khẩu giảm mức
âm) vào năm 2009 cũng có ảnh hưởng mạnh đến kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Dù là qui mô kinh tế nhỏ, nhưng xuất khẩu đã đóng góp gần 34% (2009)
cho tăng trưởng GDP của Việt Nam, khi xuất khẩu giảm sẽ làm cho GDP giảm
tương ứng.
Tác động của yếu tố thứ hai là nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam qua
các kênh đầu tư trực tiếp, gián tiếp đã không giải ngân theo số đăng ký hoặc thời
gian cam kết. Tình hình thực hiện vốn FDI của Việt Nam gặp khó khăn, theo số
liệu thống kê công bố vốn FDI đăng ký năm 2008 đạt khoảng 64 tỷ USD và vốn
thực hiện là 11,5 tỷ USD, thấp hơn so với dự kiến là 0,5 tỷ USD. Đây là số vốn
FDI cao nhất từ trước đến nay, song đa số các dự án FDI lại đầu tư vào khu vực
bất động sản, chứ không phải đầu tư cho sản xuất. Vì vậy, về ngắn hạn tăng đầu
18
tư này sẽ ít tác động đến tăng trưởng. Trong khi đó do khủng hoảng tài chính thế
giới và lạm phát ở Việt Nam vẫn còn cao hơn các nước trong khu vực, thị
trường tín dụng hoạt động chựng lại, các doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn
ngân hàng với lãi suất cao. Một yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng tới giới đầu
tư quốc tế cũng như Việt Nam hiện nay đó là yếu tố tâm lý và lòng tin. Tình
hình giải ngân các dự án Chính phủ vay vốn ODA và các dự án FDI chậm cùng
với việc giảm lòng tin của nhà đầu tư trong và nước ngoài cũng làm hạn chế khả
năng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam.
- Tác động tới tỷ giá và rủi ro hối đoái đến hoạt động XNK:
Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) kiên trì chính
sách ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô là Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong
năm 2009 là tương đối phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên
ngân hàng và biên độ từ + 3% lên + 5% vào tháng 4/2009, trên thị trường tự do
giá ngoại tệ nhanh chóng áp sát mức 18.300 đồng/đô la Mỹ và đến tháng 11 đã
lên trên 19.000 đồng/đô la Mỹ, càng về cuối năm 2009 tỷ giá càng biến động và
mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD
tín dụng thì thừa, USD thương mại thì thiếu. Đến năm 2010 tỷ giá VNĐ/USD đã
vượt mức 20.000 đồng/1 USD. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho
doanh nghiệp và nếu có bán mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần cho do
NHNN qui định. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã
tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng
tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng
mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng (ước năm 2010 là 11 –
12%) và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa
chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát
và ổn định thị trường tiền tệ.
Từ tháng 11/2009 đến tháng 9/2010, tỷ giá chính thức đã được điều chỉnh
3 lần, tăng tổng cộng 11,17% lên mức 18,932 VND/USD. Tuy nhiên, dường
như sự điều chỉnh này vẫn chưa làm thoả mãn “cơn khát” của thị trường. Tỷ giá
giao dịch trên thị trường tự do vẫn luôn cao hơn thị trường chính thức. Vào ngày
02/11/2010, mức chênh lệch này đã lên tới 1.500 VND/USD, tức 7,69%, một
mức khá cao so với các đợt điều chỉnh tỷ giá trước đó. Tỷ giá thị trường tự do
19
sau hơn một tháng ổn định bỗng tăng trở lại từ ngày 27/9/2010, và bắt đầu vượt
xa mức niêm yết của ngân hàng. Diễn biến này trùng khít với đợt biến động của
thị trường vàng, giá vàng trong nước từ chỗ thấp hơn thế giới bỗng tăng mạnh
và cao hơn thế giới bắt đầu từ ngày 27/9/2010. Tỷ giá chợ đen phá đỉnh 19.900
đồng vào ngày 1/10/2010, vênh tới 400 đồng so với giá trong ngân hàng, khi
Ngân hàng Nhà nước phát đi thông điệp có thể cho nhập khẩu vàng. Bước sang
7/10, ngày các đầu mối được cấp quota nhập khẩu vàng, tỷ giá trên thị trường
liên ngân hàng cũng biến động mạnh, lên tới 19,860 đồng ăn một đô la, bỏ xa
mức trần qui định tới 360 đồng. Khi cấp quota nhập khẩu vàng với số lượng
không lớn (dưới 3 tấn)và yêu cầu thực hiện nhanh (từ 7 đến 12/10), Ngân hàng
Nhà nước muốn tạo ra liều thuốc vừa đủ giải toả tâm lý găm gữi vàng mà không
gây xáo trộn trên thị trường ngoại hối. Quả thực sau 7/10, giá vàng trong nước
đã thu hẹp đáng kể khoảng cách so với giá thế giới. Trên thị trường liên ngân
hàng, tỷ giá giảm 50 điểm về mức 19.800 đồng ngay khi các ngân hàng gom đủ
ngoại tệ nhập vàng. Nhưng từ hôm đó đến nay, tỷ giá tự do vẫn neo quanh
19,850 đồng, giữ khoảng cách khá xa mức trần 19.500 của ngân hàng mà chưa
có dấu hiệu co lại. Thậm chí có lúc tỷ giá ngoài thị trường tự do đã lên tới trên
21.000. Điều đó cho thấy, diễn biến tỷ giá những ngày đầu tháng 10 đến cuối
năm nay không phải ngắn ngày mà báo hiệu nhiều nguy cơ sẽ có những biến đổi
mạnh.
Thực tế, thị trường ngoại tệ được giữ ổn định trong vòng hơn một tháng
trước cuối tháng 9/2010 không chỉ vì quyết định tăng tỷ giá liên Ngân hàng
thêm hơn 2% vào ngày 17/8, mà chủ yếu do có nguồn ròng từ hoạt động xuất
khẩu vàng. Theo thống kê của hải quan, nhập khẩu vàng trong 9 tháng đầu năm
chỉ đạt 6 tấn, tương đương 208 triệu USD, trong khi xuất khẩu lên tới 65,8 tấn,
tương đương 2,52 tỷ USD. Đáng chú ý, đợt xuất tăng mạnh trong hai tháng 8 và
9 giúp cung ứng khoảng 1,2 tỷ USD.
Nhưng từ nay đến cuối năm, thị trường ngoại tệ không thể trông chờ
nhiều vào xuất khẩu vàng, vì giá trong nước khó có cơ hội thấp hơn nhiều so với
thế giới như trước và nguồn cung cũng không còn nhiều để có thể xuất đi ồ ạt.
Các nguồn cung ngoại tệ truyền thống hiện chưa có tín hiệu khởi sắc
mạnh mẽ. Dòng vốn gián tiếp vẫn ra vào ở mức cầm chừng do thị trường chứng
20
khoán ảm đạm. Ngay cả khi thế giới cảnh báo về dòng vốn nóng đổ vào trái
phiếu của các nước đang phát triển, thì với Việt Nam các nhà đầu tư ngoại mới
dừng lại ở sự quan tâm do lo ngại bất ổn tỷ giá cũng như sự quản lý chặt chẽ của
Việt Nam. Mặt khác, giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng chưa
có dấu hiệu khởi sắc. Kiều hối chuyển về nước cuối năm có thể tăng lên nhưng
khó có thể trở thành nguồn cung dồi dào cho thị trường khi người dân ngày càng
có xu hướng tích trữ đô la Mỹ. Số liệu cập nhật cuối tháng 9 của Ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) cho thấy dự trữ ngoại hối của Việt Nam tính tới cuối
tháng 6 đạt khoảng 13,5 tỷ USD, tương đương 9,6 tuần nhập khẩu hàng hoá và
dịch vụ, cao hơn so với mức 11,8 tỷ USD hồi tháng 3 nhưng vẫn thấp hơn so với
mức 14,1 tỷ USD vào cuối năm 2009. “Thâm hụt thương mại đáng kể và lạm
phát khá cao, đi đôi với việc người dân chuyển từ các tài sản bằng đồng nội tệ
sang đô la Mỹ và vàng, sẽ tiếp tục làm giảm giá đồng Việt Nam”, ngân hàng
ADB cảnh báo.
VND cũng đang bị mất giá khá mạnh khi so sánh với các đồng tiền khác
trong khu vực. Sử dụng tỷ giá 19,500 VND/USD để qui đổi chéo, từ đầu năm
đến tháng 11/2010 VND mất giá hơn 20% so với đồng Yên của Nhật Bản, hơn
17% so với đồng tiền của Thái Lan và Malaysia, gần 8% so với đồng Nhân dân
tệ của Trung Quốc. Nếu sử dụng tỷ giá thị trường tự do thì mức mất giá hiện nay
của VND đang rất cao so với các đồng tiền khác.
Sở dĩ xảy ra hiện tượng này là vì đồng nội tệ của hầu hết các quốc gia
Đông Nam Á đã lên giá so với USD, khi dòng vốn đầu tư gián tiếp đổ mạnh vào
khu vực này, trong khi đó VND lại mất giá so với USD.
Nguyên nhân khiến cho VND liên tục mất giá:
- Tài khoản vãng lai bị thâm hụt lớn: Việc đồng nội tệ luôn chịu áp lực
mất giá là do sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trong nền kinh tế. Bản chất là
một nền kinh tế nhập siêu lớn khiến cho cán cân tài khoản vãng lai (current
account) chênh lệch hàng chục tỷ USD.
Trong khi đó, cán cân tài khoản vốn (trong đó gồm vốn đầu tư trực tiếp
(FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FPI), vốn vay (ODA), vay thương mại của Chính
21
phủ và doanh nghiệp) lại phụ thuộc vào diễn biến kinh tế toàn cầu và ổn định vĩ
mô trong nước.
- Vào trung tuần tháng 7 vừa qua, NHNN khẳng định tổng cán cân tài
khoản vãng lai và tài khoản vốn của Việt Nam vẫn thặng dư 3,4 tỷ USD. Tuy
nhiên, theo “Báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2010” của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư vừa công bố, tính tổng thể, cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam
trong năm 2010 có thể thâm hụt khoảng 4 tỷ USD. Và đến đầu tháng 12/2010,
Ngân hàng Nhà nước đã thông báo năm 2010 cán cân thanh toán tổng thể của
Việt Nam ước thâm hụt khoảng 4 tỷ USD.
Việc chênh lệch trong hai báo cáo nêu trên chỉ có thể giải thích là do
khoản mục sai số trong cán cân thanh toán tổng thể đã tăng lên. Điều này cũng
đồng nghĩa với thực tế gia tăng tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế, do người
dân tăng cường nắm giữ USD.
Mặc dù vậy, số liệu này vẫn chưa tính troán hết được một số dòng ngoại
tệ dịch chuyển ra khỏi nền kinh tế. Có thể kể đến là những khoản nợ đáo hạn
phải thanh toán mà không vay mới, lợi nhuận của các doanh nghiệp FDI chuyển
về nước mà không tiếp tục tái đầu tư, các dòng vốn gián tiếp chu chuyển sau
thông tin không thuận lợi về Vinashin, hay chỉ nhập khẩu phục vụ an ninh quốc
phòng.
- Theo chu kỳ cuối năm, việc mất cân đối cung cầu ngoại tệ càng dễ xảy
ra khi nhu cầu nhập khẩu tăng cao, các khoản tiền vay bằng ngoại tệ đến hạn
phải trả ... Trong khi đó, các nguồn thu từ giải ngân FDI và kiều hối không đáp
ứng kịp cũng khiến cho thị trường ngoại tệ xáo trộn. Lòng tin vào đồng nội tệ
suy giảm do lạm phát đang tăng cao trong quí IV./2010. Vì vậy, nhiều ý kiến
cho rằng nguyên nhân căng thẳng tỷ giá chủ yếu xuất phát từ lòng tin của người
dân vào đồng nội tệ bị suy giảm.
- Một nguyên nhân khác là dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm và đang ở
mức khá thấp. Không những vậy, nợ nước ngoài của Việt Nam cũng tăng lên
đáng kể (39% GDP vào cuối năm 2009), nợ công ở mức 56% GDP. Dù phần lớn
các khoản nợ này là nợ dài hạn nhưng đây vẫn là một mối đe doạ đến việc ổn
định tỷ giá.
22
- Lòng tin sụt giảm khiến người dân tăng cường tích trữ ngoại tệ. Điều
này có thể thấy được khi khoản mục sai số trong cán cân thanh toán năm 2009 bị
âm đến 9,4 tỷ USD và dự kiến năm 2010 cũng âm khoảng 6 tỷ USD.
- Cơ chế điều hành tỷ giá “nặng về ý chí”: Việc điều hành tỷ giá của Việt
Nam được thực hiện theo cơ chế “thả nổi có điều tiết”. Tỷ giá tham chiếu là tỷ
giá liên ngân hàng dao động trong biên độ +/-3%. Tuy nhiên, tỷ giá liên ngân
hàng thường thấp hơn nhiều so với tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường do
người mua phải trả thêm các khoản phí.
Không những vậy, những đợt điều chỉnh tỷ giá của NHNN thường khá
“đột ngột” và hầu như thị trường không thể dự báo trước. Điều này cũng khiến
cho thị trường phản ứng không tích cực đối với các lần điều chỉnh tỷ giá và lòng
tin vào sự ổn định tỷ giá càng suy giảm. thị trường dường như đang cần một cơ
chế điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt và minh bạch hơn.
Đánh giá khả năng VND tiếp tục mất giá
Với những phân tích trên, có thể thấy áp lực về tăng tỷ giá tiếp tục ỏ mức
khá cao trong thời gian tới. Dù áp lực ngoại tệ là khá lớn do nhu cầu thanh toán
nhập khẩu và trả nợ nhưng có thể được bù đắp bởi lượng kiều hối, FDI giải
ngân và vốn vay mới. Ngoài ra, và việc đang kỳ vọng dòng vốn đầu tư gián tiếp
(FPI) có thể chảy mạnh vào Việt Nam trong thời gian tới, khi giá cổ phiếu đang
rất hấp dẫn so với các nước trong khu vực có thể xảy ra.
Áp lực về việc thu gom ngoại tệ để nhập khẩu vàng không quá lớn vì
nhập khẩu chính ngạch được NHNN kiểm soát. Lượng nhập khẩu lậu vàng
không nhiều do giá vàng trong nước và trên thế giới chênh lệch không đáng kể
khi qui đổi theo tỷ giá thị trường.
Một lý do nữa cho thấy tiền Đồng khó giảm mạnh là do hiện nay VND đã
mất giá hơn 15% so với hầu hết các đồng tiền của các nước trong khu vực Đông
Nam Á. Điều này khiến VND không còn được định giá cao như trước. Tính tỷ
giá hối đoái thực hiệu dụng dựa trên tỷ giá trên thị trường tự do thì tiền Đồng
đang được định giá thấp hơn nhiều so với nhiều đồng tiền của các đối tác thương
mại.
23
Tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu
Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 đạt 62,7 tỷ USD, năm
2009 đạt 57,1 tỷ USD, giảm 9,0% so với năm 2008. Tình hình xuất khẩu như
vậy không đến nỗi quá xấu nếu chúng ta nhìn vào nguyên nhân của nó. Kim
ngạch xuất khẩu giảm là do giá cả thế giới giảm (riêng yếu tố giảm giá trong 9
tháng đầu năm 2009 làm kim ngạch xuất khẩu giảm trên 6 tỷ USD) - một yếu tố
ngoài tầm kiểm soát của chúng ta; trong khi đó khối lượng hàng hoá xuất khẩu
có sự tăng đáng kể giúp chúng ta giảm thiểu được đáng kể đến tốc độ tăng kim
ngạch xuất khẩu và xa hơn là giảm thiểu được tác động tiêu cực đến việc làm và
thu nhập của người lao động.
Từ quí II/2009 đến quí IV/2009, thâm hụt thương mại tiếp tục gia tăng, và
đến quí I/2010 bắt đầu có chiều hướng giảm dần và xu hướng này vẫn tiếp tục
duy trì trong cả 3 quí của năm 2010.
3. Tác động của việc gia nhập WTO đến tăng trưởng xuất khẩu của
Việt Nam
Trong hai năm 2007 và 2008, hội nhập kinh tế quốc tế có tác động tích
cực đến xuất khẩu - một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế. Năm
2007, kim ngạch xuất khẩu đạt 48,6 tỷ USD, tăng 21,9% so với năm 2006.
Trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt 62,7 tỷ USD, tăng tới 29,1% so với
năm 2007. Tuy nhiên do tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch
xuất khẩu năm 2009 đạt 57,1 tỷ USD, chỉ bằng 91,1% năm 2008, nhưng vẫn
cao hơn mức kim ngạch xuất khẩu năm 2006 là 45,8%.
24
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
thời kỳ 2004 -2009 (%)
2004
2005
2006
2007
2008
2009
Tăng
trưởng
BQ hàng
năm
2004-
2006
Tăng
trưởng
BQ
hàng
năm
2007-
2008
Tăng
trưởng
BQ
hàng
năm
2007 –
2009
ASEAN 37,3 41,6 15,5 22,3 25,7 -12,4 31,0 24,0 10,4
Trung Quốc 54,0 11,3 0,5 12,4 33,0 1,2 19,9 22,3 14,8
Nhật Bản 21,8 22,5 20,7 16,2 39,0 -25,7 21,7 27,1 6,3
Hoa Kỳ 27,6 17,9 32,4 28,8 17,8 -4,6 25,8 23,3 13,1
EU 29,0 9.0 31,0 28,2 20,8 -14,6 22,6 24,4 9,8
Tổng số 31,4 22,5 22,7 21,9 29,1 -8,9 24,4 27,1 13,7
Nguồn: IMF, WB, Tổng cục thống kê Trung Quốc.
Nếu không tính năm 2009 (do tác động mạnh của khủng hoảng), tăng
trưởng xuất khẩu năm 2007 và 2008 tuy có tăng nhưng không thể hiện mức độ
bứt phá so với các năm trước và như kỳ vọng sau khi nước ta gia nhập WTO.
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm giai đoạn sau khi gia
nhập WTO là 27,1% (từ 2007- 2008) và 13,7% (từ 2007 – 2009) trong khi tăng
trưởng xuất khẩu trung bình giai đoạn trước khi gia nhập WTO 2004 – 2006
cũng đạt 24,4%.
Kết quả xuất khẩu giai đoạn từ năm 2007 – 2008 lại chủ yếu nhờ giá trên
thị trường thế giới tăng cao. Thậm chí, một số mặt hàng như than đá, hạt tiêu,
gạo, giá năm 2008 tăng gấp 2 lần so với giá năm 2006, trong khi khối lượng
xuất khẩu của nhiều mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng nông sản và nhiên liệu
tăng thấp. Năm 2008, chỉ có ba mặt hàng trong số các mặt hàng nông sản chính
của Việt Nam là hạt tiêu, gạo, và hạt điều có khối lượng xuất khẩu tăng hơn so
với năm 2007. Sang đến năm 2009, tình hình đã thay đổi. Mặc dù khối lượng
xuất khẩu các mặt hàng gia tăng, nhưng do cuộc khủng hoảng toàn cầu giá của
nhiều mặt hàng nông sản đã giảm mạnh (giảm khoảng 1/4 so với năm 2008)nên
chỉ có hai mặt hàng nông sản là hạt điều và chè có kim ngạch xuất khẩu cao hơn
so với năm 2008. Năm 2010, mặc dù đã có một số mặt hàng nông sản có dấu
hiệu tăng giá trở lại nhưng phần lớn các mặt hàng xuất khẩu giá vẫn thấp hơn
đỉnh năm 2008.
25
26
Hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng từ Việt Nam khi gia nhập
WTO giảm (nhất là hàng dệt may, nông sản và một số mặt hàng chế biến khác)
đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu. Xuất khẩu một số mặt hàng có
tốc độ tăng trưởng cao nhờ tiếp cận thi thuận lợi hơn. Kim ngạch xuất khẩu hàng
phi dầu thô năm 2007 và 2008 tăng tương ứng 27,7% và 30,6% so với năm
trước. Năm 2009, trong khi tổng kim ngạch xuất khẩu giảm hơn 9,8% thì kim
ngạch xuất khẩu hàng phi dầu thô chỉ giảm 3,7% so với năm 2008.
Bảng 6 cho thấy tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các mặt
hàng chế biến chính của Việt Nam trong giai đoạn từ 2004 – 2009. Ngay sau khi
gia nhập WTO, một số hàng xuất khẩu đã có kim ngạch tăng đột biến. Đó là sản
phẩm nhựa (tăng 56,95 năm 2007), dệt may (32,1%), túi xách và ví (24,9%).
Các mặt hàng chế biến khác cũng tăng, nhưng chậm hơn. Trong khi xuất khẩu
các mặt hàng nông sản (năm 2007) tăng cao có thể do nguồn cung ở các nước
chủ lực sản xuất các sản phẩm này giảm, thì việc mở rộng xuất khẩu túi xách,
hàng điện tử, sản phẩm nhựa, dệt may, chủ yếu là nhờ tham gia WTO Việt Nam
đã thể hiện tốt hơn lợi thế so sánh tĩnh vốn có của mình (chi phí lao động tương
đối thấp, nguồn lực tài nguyên khá).
Bảng 6: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu một số
mặt hàng chế biến 2004 – 2009 (%)
2006 2007 2008 2009 2004-
2006
2007-
2008
2007-
2009
Hàng thủy sản 22,9 12,1 20,2 -7,0 15,1 16,1 7,8
Hàng dệt may 22,7 32,1 18,0 -1,3 17,5 24,8 15,4
Giày dép 18,3 11,2 19,2 -15,8 16,7 15,2 3,7
Hàng điện tử,
máy tính
25,8 19,8 21,9 5,1 28,4 20,8 15,3
Gỗ và các sản
phẩm gỗ
24,4 22,7 18,7 -9,9 47,2 20,7 9,5
Dây điện và
dây cáp điện
36,2 25,0 13,5 -12,2 34,2 19,1 7,6
27
Sản phẩm từ
Plastic
26,4 56,9 29,8 -12,9 38,5 42,7 21,0
Ba lô, cặp, ví 6,6 24,9 32,5 -13,2 27,3 28,6 12,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trong các năm 2008 và năm 2009, kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng
chế biến đã giảm sút so với năm 2007. Điều này một phần do cuộc khủng hoảng
tài chính bắt đầu trở nên mạnh mẽ hơn từ giữa năm 2008 đã dẫn đến nhiều đơn
đặt hàng bị huỷ bỏ. Mặc dù vậy một số mặt hàng vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu cao như hàng nhựa (29,8% năm 2008), hàng điện tử máy
tính (21,9% năm 2008), túi xách (32,5% năm 2008), và hàng thuỷ sản (20,2%
năm). Trong khi đó, khối lượng và trị giá xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của
Việt Nam như sản phẩm gỗ, giày dép, dây điện và cáp điện vẫn chưa thấy có sự
biến đổi mạnh so với thời kỳ trước đó, thậm chí có xu hướng chững lại. Tốc độ
tăng trưởng kim ngạch của các sản phẩm này đều thấp hơn so với giai đoạn
trước khi gia nhập WTO. Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung bình hàng
năm trong hai năm 2007 – 2008 của các sản phẩm dây điện và dây cáp điện
giảm xuống còn 19,1%/năm, thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng kim ngạch
xuất khẩu 42,7%/năm trong các năm từ 2004-2006.
Có hai nhóm yếu tố chính có ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu.
Trước hết, các yếu tố kìm hãm xuất khẩu có thể không còn là hàng rào
bảo hộ tại các nước bạn hàng, mà ở mức độ nhất định là do những hạn chế mang
tính cơ cấu nội tại nền kinh tế như năng suất có hạn, khả năng cạnh tranh thấp
do qui trình thủ tục xuất khẩu vẫn còn chưa thuận tiện, chi phí liên quan đến
dịch vụ hậu cần (chuyên chở, bưu chính viễn thông, kho bãi, cảng) và dịch vụ tài
chính ngân hàng còn cao. Mặt khác, hạn chế trong từng ngành sản xuất về chất
lượng sản phẩm (bao gồm cả an toàn vệ sinh thực phẩm), mẫu mã, tiếp thị và
những bất cập trong tận dụng cơ hội khai thác thị trường hiện có và tiếp cận thị
trường mới, ... cũng là các yếu tố kìm hãm đáng kể.
Nhóm yếu tố thứ hai là biến động của nền kinh tế toàn cầu. Hội nhập sâu
rộng hơn cũng có nghĩa là tăng trưởng xuất khẩu của nhiều mặt hàng, nhất là đối
28
với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, biến động mạnh cùng với thăng trầm của
nền kinh tế thế giới, nhất là của các bạn hàng chính. Tốc độ tăng kim ngạch xuất
khẩu dệt may suy giảm và kim ngạch xuất khẩu gạo tăng đột biến là hai thí dụ
điển hình minh chứng cho điều này.
Một tác động gián tiếp của WTO là sự thay đổi tích cực hơn trong chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu. Cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch dần từ sản phẩm thô (dầu
thô, than đá, cao su, gạo) sang sản phẩm công nghiệp chế biến, kể cả sản phẩm
có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn. Điều đó chứng tỏ Việt Nam
bước đầu đã ít nhiều phát huy được lợi thế động bên cạnh việc tiếp tục tận dụng
những lợi thế tĩnh vốn có của mình.
4. Các TNCs tác động và chi phối ngày càng nhiều đến XNK và tình
trạng nhập siêu của Việt Nam
- Đối với XK, các doanh nghiệp Việt Nam với tiềm lực hạn chế, không
thể cạnh tranh trực diện với các TNCs ở các thị trường XK có sức mua lớn, ổn
định (EU, Bắc Mỹ, Đông Bắc Á ...), nên khoảng 80% hàng hoá XK của Việt
Nam phải xuất FOB, giá rẻ, hiệu quả và doanh thu XK thấp so với hàng hoá
cùng loại của các nước phát triển trước trong khu vực, ngoài khu vực. Một số
mặt hàng nông sản XK chủ lực của Việt Nam chiếm tới 20 – 50% thị phần toàn
cầu (gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều), nhưng không có tác động đáng kể nào đến
cung - cầu, giá cả trên thị trường thế giới để tăng hiệu quả XK.
- Đối với nhập khẩu, phần lớn các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt
Nam (FDI) là các công ty chi nhánh con, cháu, chắt của các TNCs lớn trên thế
giới. Do xu hướng của các TNCs là chuyển từ đầu tư vào các ngành kỹ thuật
cao, các dịch vụ có giá trị gia tăng cao (tài chính, bảo hiểm, dịch vụ phân phối,
logistics ...), nên tác động chuyển dịch có tính “dây chuyền” qua các công ty chi
nhánh con, cháu bằng con đường FDI chuyển giao các thiết bị, công nghệ lạc
hậu vào Việt Nam. Điều đó, một mặt đã làm tăng kim ngạch nhập khẩu máy
móc thiết bị, phụ kiện, phụ tùng thay thế vào Việt Nam. Mặt khác, khả năng
cạnh tranh XK hàng hoá Việt Nam chậm được nâng lên (các doanh nghiệp FDI
đã chiếm khoảng 50% kim ngạch XK của Việt Nam).
29
- Các TNCs đã tác động ở mức độ thấp, nhưng ngày càng tăng đên thị
trường trong nước.
+ Do các TNCs ngày càng sử dụng các phương pháp kinh doanh quốc tế
của đầu tư không có quyền sở hữu cổ phần, như: uỷ thác, gia công, hợp đồng
tiêu thụ, chuyển nhượng kỹ thuật, nhượng quyền thương mại ... cũng đã phần
nào tác động có tính dẫn dắt nhu cầu của thị trường Việt Nam hướng đến tiêu
thụ sản phẩm của các TNCs ở các công ty chi nhánh nước ngoài sản xuất thông
qua con đường nhập khẩu vào Việt Nam. Điều đó cũng làm tăng nhập khẩu
hàng ngoại.
+ Các TNCs đang tác động đáng kể đến thị trường trong nước qua kênh
FDI. Trong thời kỳ 1996 – 2008, tốc độ tăng trưởng bán lẻ của khu vực FDI đã
tăng nhanh nhất, từ 17,8%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000 lên 46%/năm trong
giai đoạn 2006 – 2008 (sau khi Việt Nam gia nhập WTO). Thị phần bán lẻ của
khu vực FDI đã tăng nhanh và chiếm tỷ trọng đáng kể trên thị trường trong nước
(năm 1996 chiếm 0,2%, năm 2000 chiếm 1,6%, năm 2005 chiếm 3,7% năm
2008 chiếm 8% và năm 2010 chiếm khoảng 10%). Đến nay, có khoảng 10 hệ
thống phân phối đa quốc gia đang hoạt động trên đảm bảo toàn quốc (trong đó
có những tập đoàn lớn như: BouBon, Parkson, Metro, Cash & Carry, Lottria,
Medicade ...), tuy chỉ chiếm 10% tổng số siêu thị và trung tâm thương mại
nhưng lại chiếm tới 50% lượng hàng hoá lưu thông bán lẻ qua hệ thống bán lẻ
hiện đại (siêu thị, trung tâm thương mại ...). Đặc biệt , hệ thống bán lẻ hiện đại
(khâu có giá trị gia tăng cao, thị trường bán lẻ Việt Nam có tốc độ tăng trưởng
nhanh hàng đầu thế giới) ở các đô thị lớn Việt Nam đang có nguy cơ bị các tập
đoàn phân phối lớn của nước ngoài thao túng, chi phối.
- Sự hình thành và phát triển các mạng sản xuất khu vực, mạng sản xuất
toàn cầu dưới sự chi phối của các TNC, các công ty đa quốc gia đã tác động
mang tính điều chỉnh cơ cấu một số ngành công nghiệp và cán cân thương mại
của Việt Nam theo kênh FDI.
+ Các tập đoàn đa quốc gia khi đầu tư vào Việt Nam thì các cơ sở sản
xuất của họ ở một số nước trong khu vực (Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc ...)
là nguồn cung cấp nguyên vật liệu, linh kiện để thực hiện các công đoạn chế tạo,
30
gia công, lắp ráp tiếp theo tại Việt Nam. Vì thế, khi FDI vào Việt Nam ngày
càng tăng thì nhập khẩu các mặt hàng chất dẻo nguyên liệu, linh kiện ô tô, xe
máy, máy móc thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, vải sợi, nguyên phụ liệu dệt may và
da giầy ... từ những nước kể trên cũng sẽ tăng theo để làm đầu vào cho các nhà
máy sản xuất có vốn FDI tại Việt Nam. Khi nước ta chưa phát triển được các
ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ sản xuất thì nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng
này là tất yếu.
+ Khi thương mại khu vực ngày càng tự do hơn dưới sự tác động của
AFTA, ACFTA ..., các dòng chảy thương mại ít gặp rào cản hơn, việc nhập
khẩu các mặt hàng nêu trên thuận lợi hơn khi tính bức thiết phải mở thêm các cơ
sở công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam của các tập đoàn đa quốc gia cũng giảm
xuống. Và đây cũng là một nguyên nhân quan trọng của sự chậm trễ trong phát
triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam.
+ Chưa có nhiều tập đoàn đa quốc gia thiết lập cơ sở sản xuất cho khu vực
châu Á – Thái Bình Dương ở Việt Nam. Đây cũng chính là điểm khác biệt gíữa
Việt Nam với các nước ASEAN 6. Do các nước này đã thu hút được nhiều tập
đoàn đa quốc gia đặt cơ sở sản xuất của khu vực tại nước mình nên kim ngạch
xuất khẩu linh kiện điện tử, máy móc, thiết bị điện và cơ khí chiếm một tỷ trọng
rất lớn trong tổng kim ngạch XK của các nước này sang Trung Quốc. Trong khi
tỷ trọng XK nhóm sản phẩm này của Việt Nam chỉ đạt 8,7% tồng kim ngạch XK
sang Trung Quốc thì tỷ lệ đó của Philipin là 88,7%, của Malayxia là 70%, của
Thái Lan là 52,5% (giai đoạn 2001 – 2007). Đây cũng là nguyên nhân chúng ta
chưa thể cân bằng được cán cân thương mại với Trung Quốc (năm 2007 nhập
siêu của Việt Nam với Trung Quốc lên tới 9,1 tỷ USD, chiếm 63% tổng giá trị
nhập siêu từ 22 thị trường nhập siêu của Việt Nam), điều mà các nước ASEAN
6 đã làm được.
- Là chủ thể chính xây dựng và lãnh đạo các chuỗi giá trị toàn cầu, các
TNCs đã có tác động bất lợi đến việc nâng cấp trình độ sản xuất, gia công và tái
cấu trúc các ngành sản xuất công nghiệp ở Việt Nam
+ Xu hướng chung là các TNCs tập trung vào các khâu tạo ra giá trị gia
tăng cao trong các chuỗi giá trị toàn cầu, như: nghiên cứu, thiết kế, sáng tạo
31
(công nghiệp), tạo ra giống mới và qui trình sản xuất tiên tiến (nông nghiệp),
marketing và phân phối ... sau đó chuyển giao cho các doanh nghiệp ở các nước
có trình độ phát triển thấp hơn (theo con đường FDI hoặc chuyển giao kỹ thuật)
thực hiện các khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp hơn, như: sản xuất, chế biến, gia
công lằp ráp ... Theo cách thức đó, các TNCs vừa giữ được vai trò lãnh đạo, chi
phối các chuỗi giá trị toàn cầu, vừa tạo ra mạng lưới sản xuất rộng khắp toàn cầu
để bòn rút tài nguyên, sức lao động rẻ của các nước có trình độ phát triển thấp
(một kiểu chủ nghĩa thực dân trong thời đại toàn cầu hoá). Vì thế, nếu các doanh
nghiệp Việt Nam không nỗ lực tham gia sâu hơn vào các nấc thang cao hơn
trong các chuỗi giá trị toàn cầu, vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao nêu trên,
thay vì chi sản xuất gia công, lắp ráp như hiện nay, thì nguy cơ rơi vào “bẫy chi
phí lao động trung bình” và đứng ở vị trí thấp trong bậc thang chuỗi giá trị toàn
cầu là khó tránh khỏi, nguy cơ Việt Nam có thể tụt hậu xa hơn.
+ Với chiến lược “khóa thị trường thế giới” và kiềm chế các nước có trình
độ phát triển thấp trong các “bẫy chi phí lao động trung bình” của các NICs nêu
trên, đã và đang tác động bất lợi đến việc nâng cấp trình độ sản xuất, gia công và
tái cấu trúc các ngành cũng như trong nội bộ từng ngành công nghiệp của Việt
Nam trong thời gian tới. Đây thực sự đang là một thách thức trong điều kiện
nguồn lực của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhỏ, mức độ mở cửa của nền
kinh tế ngày càng lớn, khu vực FDI có vị thế ngày càng lớn trong nền kinh tế.
5. Sự sụt giảm tốc độ nhập khẩu máy móc thiết bị, dịch vụ Logisties
và công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển tác động tiêu cực đến tăng trưởng
xuất khẩu và nhập siêu.
- Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào bên ngoài về máy móc thiết bị và
công nghệ còn rất cao, nhưng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu nhóm sản phẩm này
có xu hướng giảm mạnh từ năm 2003 đến nay là một khía cạnh tiêu cực, đặt ra
những thách thức không nhỏ đối với sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tính chung
cả thời kỳ 1996 – 2008, nhịp độ tăng trưởng kim ngạch nhóm sản phẩm này đạt
77 tỷ USD, chiếm 20,23% tổng kim ngạch NK và bằng 14,4% GDP của cả thời
kỳ. Trong đó, giai đoạn 1996 – 2000, kim ngạch NK sản phẩm này chiếm 28,3
tổng kim ngạch NK và bằng 12,7% GDP của cả giai đoạn, các chỉ số tương ứng
32
của giai đoạn 2001 – 2008 là 59,6 tỷ USD, chiếm 18,7% tổng kim ngạch NK và
bằng 18,7% GDP. Điểm đáng chú ý là tốc độ tăng trưởng nhập khẩu nhóm hàng
này năm 2004 chỉ đạt 4,04%, năm 2005 đạt 6,0%, năm 2006 tăng trưởng âm (-
5,4%). Sự sụt giảm mạnh tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng kim ngạch NK nhóm
sản phẩm này trong tổng kim ngạch NK (năm 2006 chiếm 14,7%, năm 2007
chiếm 18% và năm 2008 chiếm 16,9%) ở thờì điểm bước ngoặt ngay trước và
sau khi Việt Nam gia nhập WTO là một khía cạnh tiêu cực, vì nó làm giảm hiệu
ứng của nhập khẩu đối với năng lực cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước.
- Trong cơ cấu nhập khẩu giai đoạn vừa qua, nhóm hàng nhập khẩu là
nguyên phụ liệu, phụ kiện ... chiếm khoảng 60% giá trị nhập siêu (riêng kim
ngạch NK nguyên phụ liệu dệt may, da giày trong 3 năm 2006 – 2008 đã là 6,5
tỷ USD). Nếu ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam phát triển, đáp ứng đủ
nhu cầu sản xuất trong nước, thì việc giải quyết vấn đề kiềm chế nhập siêu, cải
thiện cán cân thanh toán vãng lai của Việt Nam sẽ thuận lợi hơn hiện nay rất
nhiều.
- Công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa phát triển cũng là một trở lực rất
đáng kể đối với việc thu hút FDI vào Việt Nam, đối với phát triển sản xuất công
nghiệp Việt Nam, nhất là vào các ngành công nghiệp chế biến XK. Trên lý
thuyết, công nghiệp chính chuyển dần sang hướng XK, đã kích thích công
nghiệp hỗ trợ phát triển theo (XK các sản phẩm hỗ trợ chủ yếu thông qua XK
các sản phẩm lắp ráp cuối cùng). Tuy vậy, công nghiệp hỗ trợ Việt Nam rất
thiếu và yếu. Một mặt, dung lượng thị trường nhỏ, chưa đảm bảo qui mô kinh tế
đối với công nghiệp hỗ trợ, sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp; các kâu đúc
tạo phôi, rèn, ép, mài, gia công chính xác, xử lý bề mặt, sản xuất khuôn mẫu còn
rất yếu v.v... Mặt khác, chưa có một tổ chức đầu mối để quản lý, thống kê, đề
xuất chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ một cách cụ thể, sát thực, thiếu sự
phối hợp sản xuất, liên kết giữa các nhà sản xuất chính với các nhà sản xuất hỗ
trợ, giữa các nhà sản xuất hỗ trợ với nhau, giữa các doanh nghiệp FDI với các
doanh nghiệp trong nước.
- Sự phụ thuộc nặng nề vào nước ngoài về các dịch vụ logistics, dịch vụ
bảo hiểm hàng hoá XNK là một bất lợi rất lớn đối với sự tự chủ của Việt Nam
trong phát triển XNK hàng hoá, đối với cải thiện cán cân thương mại, cán cân
33
thanh toán vãng lai cả ngắn hạn và dài hạn. Đến nay, các doanh nghiệp nước
ngoài cung cấp gần 80% dịch vụ vận tải biển, gần 90% dịch vụ bảo hiểm đối với
hàng hoá XNK của Việt Nam. So với mức bình quân cảu khu vực, tải trọng
trung bình của đội tàu Việt Nam chỉ bằng 30%, mức độ container hoá đội tàu chỉ
bằng 16%, lượng hàng container qua cảng chỉ bằng 13%, năng lực xếp dỡ bình
quân tại các cảng biển chỉ bằng 45%. Đối với vận tải hàng không, so với mức
bình quân trong khu vực, năng suất lao động chỉ bằng 42%, qui mô đội bay chỉ
bằng 46%, thị phần của Việt Nam mới chiếm 0,67% toàn cầu và 3,6% các nước
đang phát triển.
6. Mức độ phụ thuộc vào nước ngoài về nguồn tài chính khá cao,
trong điều kiện hệ thống giám sát non yếu đang tiềm ẩn một số rủi ro, bất
ổn đối với nền kinh tế - xã hội và xuất khẩu.
- Tổng dư nợ nước ngoài đã ở mức cao, để lại gánh nặng cho nền kinh tế -
xã hội trong dài hạn. Nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng vọt từ 1,38 tỷ USD
năm 2003 lên 14,2 tỷ USD năm 2005 và 19,2 tỷ USD năm 2007, bằng 27%
GDP, năm 2009 này là 39% GDP. Đây là mức khá cao đối với nền kinh tế qui
mô nhỏ của Việt Nam. Tuy nợ nước ngoài vẫn trong tầm kiểm soát, ít nhất là
trong trung hạn, nhưng do phần lớn vay nợ nước ngoài là ODA, được đầu tư vào
xây dựng cơ sở hạ tầng, mà việc sử dụng nguồn vốn vay này đang bị thất thoát,
tham nhũng ... nên sẽ ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển dài hạn khác, gây
bất bình trong dư luận xã hội không tác động nhiều đến tăng nguồn hàng xuất
khẩu nhưng tác động mạnh đến nhập khẩu vật liệu xây dựng.
- Sự đảo chiều liên tục của các dòng vốn vay thương mại và FII trong bối
cảnh thị trường chứng khoán biến động mạnh, có tính “bong bóng”, nền kinh tế
phải đối mặt với tình trạng “đo là hoá” và “vàng hoá”, lòng tin thị trường thấp,
tính đầu cơ và rủi ro cao ..., đã tạo sức ép và thách thức rất lớn đối với ổn định
kinh tế vĩ mô nói chung hệ thống tài chính – ngân hàng còn non yếu của Việt
Nam nói riêng. Trong 2 năm 2006 – 2007, dòng vốn FII đổ vào thị trường chứng
khoán khoảng 7,4 tỷ USD trong bối cảnh thị trường rất “nóng”1, đã tạo cú hích
lớn từ bên ngoài thổi phồng “bong bóng của thị trường”. Tuy nhiên, đến quí IV
1 Tỷ lệ vốn hoá so với GDP đã tăng vọt từ 1,1% ở thời điểm tháng 12/2005 lên 22,85 tháng 12/2006 và 43%
tháng 12/2007.
34
năm 2008, dòng vốn này lại đảo chiều mạnh (các nhà đầu tư nước ngoài đã bán
khoảng 100 triệu USD cổ phiếu và 1,6 tỷ USD trái phiếu), đã gây khó khăn lớn
cho hệ thống ngân hàng. Cũng trong thời gian này, đầu tư dưới dạng tiền và tiền
gửi đã biến động mạnh, thất thường, thể hiện cơ cấu tài sản có và tài sản nợ của
các NHTM Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn (tính ròng, năm 2006: - 1,53 tỷ USD;
năm 2007: + 2,6 tỷ USD; năm 2008: + 3,0 tỷ USD). Mặt khác, trong năm 2008,
khoản vay thương mại 0,63 tỷ USD để tài trợ cho nhập khẩu cũng đã tác động
làm nhập siêu tăng cao cho Việt Nam. Cuối năm 2008 và đầu năm 2009, tình
trạng “sai lệch kép” (sai lệch cơ cấu thời hạn và cơ cấu đồng tiền) rất lớn, nợ
xấu đã dẫn đến nguy cơ thiếu thanh khoản trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn
cầu ngày càng tăng trầm trọng. Hơn nữa, khi nguy cơ nền kinh tế có thể giảm
tốc nhanh (từ cuối năm 2008) thì những thách thức kinh tế vĩ mô ngắn hạn lại
gia tăng (nhu cầu đối với hàng XK sụt giảm, giá các mặt hàng thô giảm, thị
trường chứng khoán và thị trường bất động sản đóng băng, các điều kiện ngày
càng khó khăn trên thị trường tài chính toàn cầu, khả năng tài trợ cho thâm hụt
cán cân thương mại ngày càng trở nên mong manh hơn ...)2. Các thách thức này
cần đặc biệt lưu tâm khi năng lực quản trị rủi ro ở cấp vi mô còn yếu, chưa đủ
đáp ứng với chính sự phình ra trong hoạt động đầu tư tài chính và kinh doanh
của các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Đồng thời, hệ thống giám sát tài chính
vẫn “tụt hậu” nhiều so với hiện thực hoạt động tài chính ngân hàng và kinh
doanh bất động sản.
- Trong những năm qua, đa số vốn FDI được tập trung vào các ngành cơ
khí, chế tạo có hệ số bảo hộ cao (một số ngành có hệ số bảo hộ trên 80% như ô
tô, xe máy, thiết bị điện ...) nhằm thay thế hàng nhập khẩu, sản phẩm chủ yếu
tiêu thụ ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, mức độ bảo hộ cao trong điều kiện
sản lượng thấp (thị trường hạn chế về sức mua), đã dẫn đến chi phí sản xuất cao
(chủ yếu do nhập khẩu bộ linh kiện), người tiêu dùng Việt Nam phải chấp nhận
giá cao, Nhà nước cũng bị mất nguồn thu mà không tạo ra tích luỹ cho doanh
2 - Tỷ lệ vốn hoá so với GDP ở thời điểm tháng 12/2008 chỉ còn 15%, giảm gần 3 lần so với thời điểm tháng
12/2007
- Kim ngạch XK năm 2009 chỉ đạt 57,1 tỷ USD, giảm 9,1% so với năm 2008
- Giá bất động sản ở thời điểm tháng 12/2008 sụt giảm khoảng 30% so với thời điểm tháng 12/2007
- Mức thặng dư cán cân thanh toán tổng thể đã giảm mạnh từ 10,7 tỷ USD năm 2007 xuống 1,5 tỷ USD năm
2008 và thâm hụt 8 tỷ USD năm 2009, ước năm 2010 thậm hút 4 tỷ USD.
35
nghiệp để tái đầu tư. Vì thế, việc nội địa hoá không đạt được kết quả như mong
đợi. Hệ quả kéo theo là do khả năng tích luỹ thấp nên các doanh nghiệp bị hạn
chế không phát triển được công nghiệp hỗ trợ, giá trị gia tăng thấp.
- Từ sau năm 2005, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn
FDI lại có sự chuyển hướng mạnh từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (có hệ
số bảo hộ giảm mạnh và có giá trị gia tăng thấp) sang các ngành khai khoáng và
khí đốt, lĩnh vực kinh doanh tài sản ... (có hệ số bảo hộ giảm rất ít nhưng hiệu
quả đầu tư cao, giá trị gia tăng và tỷ suất lợi nhuận cao). Thực tế và xu hướng
nêu trên đặt ra những thách thức đối với việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, và
nhiệm vụ “nắn dòng” FDI từ những khu vực bất lợi sang khu vực có lợi như các
ngành công nghiệp chế biến chế tạo hướng về xuất khẩu.
III.- MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU, GIẢM
NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ TỚI
1. Phương hướng:
- Nỗ lực nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá Việt Nam được
coi là phương thức cơ bản để đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, cải thiện
cán cân thương mại và kiềm chế nhập siêu.
- Sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp điều tiết kinh tế vĩ mô để kích
thích xuất khẩu, quản lý nhập khẩu phù hợp với các thông lệ quốc tế và cam kết
đa phương, song phương của Việt Nam nhằm kiềm chế nhập siêu.
- Điều chỉnh hợp lý mối quan hệ giữa đầu tư và tiết kiệm, nâng cao hiệu
quả đầu tư theo định hướng, giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, duy trì
cán cân thanh toán tổng thể trong tầm kiểm soát được nhằm hạn chế nhập siêu.
- Ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế,
nhưng phải đảm bảo khả năng thích ứng của nền kinh tế với những biến động
của tình hình quốc tế, giảm thiểu những tổn thương không tránh được là điều
kiện tiên quyết cho việc ngăn ngừa tăng nhập khẩu đột biến, kiềm chế nhập siêu.
- Nhập siêu để tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng xuất khẩu, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt Nam là sự cần
36
thiết khách quan trong giai đoạn hiện nay nhưng phải đảm bảo chất lượng và
tính hướng đích của nhập siêu.
- Chú trọng hoạt động ngoại giao kinh tế để đạt được các thoả thuận song
phương về cán cân thương mại, trước hết là với các thị trường đang nhập siêu
cao.
- Chủ động kiểm soát chặt chẽ hoạt động nhập khẩu một số ngành hàng
trong nước đã có đủ năng lực thay thế hàng hoá nhập khẩu trên cơ sở đảm bảo
nguyên tắc không phân biệt đối xử, không dẫn tới bóp méo thương mại.
- Chuyển dịch cơ cấu các ngành sản xuất vào các ngành sản phẩm có lợi
thế so sánh, nâng cao hiệu quả đầu tư và sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá
Việt Nam, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ
tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá là con đường, phương thức cơ bản
để giảm nhập siêu, tạo lập cán cân thương mại hợp lý, hướng tới xuất siêu.
- Nâng cao chất lượng nhập khẩu, ưu tiên và nâng cao tỷ trọng nhập khẩu
máy móc, thiết bị tiên tiến từ các thị trường công nghệ “nguồn” hướng vào phục
vụ các ngành sản xuất, hướng về xuất khẩu là yếu tố hàng đầu để nâng cao chất
lượng tăng trưởng xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá
Việt Nam, thu hẹp chênh lệch kim ngạch xuất – nhập khẩu, hạn chế nhập siêu.
- Tỷ giá hối đoái, thuế, lãi suất, quĩ dự trữ ngoại hối, tiêu chuẩn và quy
chuẩn kỹ thuật là những công cụ chủ yếu được Chính phủ sử dụng để điều tiết
kinh tế vĩ mô, hướng tới tạo lập cán cân thanh toán tổng thể, cán cân tài khoản
vãng lai, cán cân thương mại hợp lý, qua đó kiềm chế nhập siêu và tiến tới xuất
siêu.
- Đẩy mạnh sự tham gia có hiệu quả của doanh nghiệp và hàng hoá Việt
Nam vào mạng lưới sản xuất phân phối toàn cầu, các chuỗi giá trị toàn cầu, các
chuỗi cung ứng toàn cầu là phương thức hiện đại trong tạo lập cán cân thương
mại hợp lý, giảm nhập siêu và nâng cao chất lượng, hiệu quả của nhập siêu,
hướng tới xuất siêu trong dài hạn.
- Phát triển xuất khẩu dịch vụ và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh trên thị
trường trong nước, trước hết là các dịch vụ Logistics, vận tải đa phương thức, tài
37
chính – ngân hàng, pháp lý ... nhằm vừa hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu vừa góp
phần bù đắp thâm hụt cán cân thương mại, giảm thâm hụt cán cân tài khoản
vãng lai, giảm áp lực lên tỷ giá hối đoái.
- Phát triển xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, tham gia sâu rộng các liên kết
kinh tế quốc tế phải trên cơ sở đảm bảo cơ cấu công thương hợp lý, có tính độc
lập, tự chủ, tăng độ an toàn, ít bị tổn thương trước các biến động của thị trường
thế giới. Theo hướng này, cần tiếp tục đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, đa dạng
hoá đối tác thương mại, giảm thiểu mức độ tập trung thương mại của Việt Nam
ở một số thị trường quốc tế hoặc một số mặt hàng chủ lực, phòng tránh nguy cơ
rủi ro, đồng thời, đảm bảo một cơ cấu FDI hợp lý trong một số ngành đặc thù có
ý nghĩa chiến lược để không bị các TNCs chi phối, dẫn dắt nền kinh tế nước ta
phát triển theo hướng bất lợi.
- Về lâu dài, giảm dần bảo hộ, tiến tới tự do hoá nhập khẩu đối với các
mặt hàng không có khả năng gây nguy hại cho sức khoẻ con người, cho động
vật, thực vật, môi trường sinh thái và tài sản.
- Hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng hỗ trợ, khuyến khích
nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của sản phẩm, hàng hoá và các doanh nghiệp
Việt Nam, nâng tầm tư duy chiến lược kinh tế và kinh doanh toàn cầu của các
nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp Việt Nam, chú trọng nguồn nhân lực có tính
chuyên nghiệp hoá cao; thực hiện chiến lược thu hút kỹ thuật tuần hoàn để
không ngừng nâng cấp trình độ kỹ thuật của nền kinh tế, nâng cao hàm lượng kỹ
thuật của hàng hoá xuất khẩu, nâng cao năng lực hấp thụ kỹ thuật và công nghệ
nhập khẩu.
2. Giải pháp phát triển xuất khẩu hàng hoá, tạo hiệu ứng tích cực
của xuất khẩu đến nhập khẩu nhằm giải quyết vấn đề nhập siêu của Việt
Nam trong dài hạn
- Các giải pháp nhằm hỗ trợ kinh doanh cho doanh nghiệp
Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu theo hướng : Cải thiện
môi trường cạnh tranh; điều chỉnh chính sách, cơ chế thúc đẩy sản xuất, xuất
khẩu; tổ chức hệ thống kênh phân phối, đại lý đối với các vật tư chủ yếu, đổi
38
mới công nghệ sản xuất và qui trình quản lý để giảm chi phí sản xuất, chi phí
lưu thông, tiết kiệm nhân lực, năng lượng, vật tư.
+ Xây dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu: Triển khai xây
dựng các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức
nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng
xuất khẩu trong nước, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt
may, giày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa, điện tử ... nhằm nâng cao khả năng
cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn.
Vấn đề này mặc dù đã được đặt ra nhiều năm nay đối với nhiều mặt hàng, ngành
hàng nhưng cho đến nay kết quả vẫn rất khiêm tốn. Trong thời gian tới đề nghị
Nhà nước cho phép triển khai các khu tập trung như những khu công nghiệp,
khu bảo thuế, trung tâm buôn bán nguyên phụ liệu (dệt may, giày dép ...) và cho
phép các nhà đầu tư, phân phối hàng hoá trong nước và nước ngoài vào hoạt
động. Những trung tâm này có thể là trung tâm tổng hợp.
+ Rà soát và kiến nghị Thủ tướng Chính phủ các nhóm mặt hàng sản xuất
trong nước thay thế nhập khẩu, các ngành công nghiệp phụ trợ cần ưu tiên bố trí
nguồn vốn đầu tư trong giai đoạn 2011-1015 và các cơ chế, chính sách hỗ trợ
đầu tư theo phương châm tạo môi trường, cơ chế để huy động vốn từ mọi nguồn
lực của xã hội.
+ Mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép sự tham gia một cách mạnh mẽ
hơn nữa của các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động kinh doanh cung ứng
các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tại Việt Nam như dịch vụ logistics, dịch vụ vận tải
đa phương thức, dịch vụ giao nhận, kho vận ...; từng bước xoá bỏ tình trạng độc
quyền trong kinh doanh ở một số lĩnh vực dịch vụ như bưu chính viễn thông,
điện, kinh doanh cảng biển ... để nâng cao hiệu quả hoạt động trong những lĩnh
vực này và từ đó giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
+ Triển khai ký kết các thoả thuận song phương và công nhận lẫn nhau về
kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường
xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia,
New Zealand ... để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc
39
thanh toán cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về kiểm dịch thực vật, vệ sinh an
toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thuỷ sản.
+ Tổ chức tốt công tác dự báo thông tin tình hình thị trường hàng hoá
trong nước và thế giới, rà soát chi phí đầu vào cho sản xuất để có giải pháp kịp
thời giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh cả trên thị trường trong và
nước ngoài; nghiên cứu, triển khai các hình thức hỗ trợ doanh nghiệp không
tráivới qui định WTO, trước mắt nghiên cứu triển khai hình thức bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu ...
- Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín
dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu.
+ Về chính sách tín dụng: Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng xoá bỏ
bao cấp, thực hiện nguyên tắc lãi suất theo thị trường nhưng bảo đảm các chức
năng sau:
. Ưu tiên cấp tín dụng và đảm bảo cung ứng đủ vốn cho người nông dân
và các doanh nghiệp thu mua nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu. Các mặt
hàng cần ưu tiên trước mắt là thủy sản, gao, cà phê, hạt điều, thủ công mỹ nghệ,
sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa.
. Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp xuất
khẩu các mặt hàng có độ rủi ro cao với thời gian trả nợ dài hơn, điều kiện tiếp
cận vốn thuận lợi hơn.
. Bảo lãnh cho các doanh nghiệp xuất khẩu để vay vốn tại các ngân hàng
thương mại.
. Triển khai việc cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu.
+ Về chính sách thuế: Hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện tốt chính
sách hoàn thuế đối với các nhà nhập khẩu nguyên liệu để cung cấp cho các nhà
sản xuất hàng xuất khẩu trong nước. Áp dụng qui trình miễn, giảm, hoàn thuế
nguyên liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu theo thông lệ quốc tế.
+ Điều tiết tỷ giá hối đoái, kiềm chế lạm phát: Tỷ giá hối đoái có tác dụng
tích cực hoặc hạn chế hoạt động xuất nhập khẩu. Do đó, điều tiết tỷ giá hợp lý
sao cho vừa thu hút được vốn nước ngoài, vừa khuyến khích doanh nghiệp đầu
40
tư hướng tới khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục vụ cho việc tăng
trưởng kinh tế và vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý và cần thiết.
Mặt khác, các Bộ ngành sản xuất cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ nâng
cao hiệu quả đầu tư sản xuất, nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu để đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu của các nước bạn hàng làm cho tỷ lệ tăng trưởng xuất
khẩu có thể tăng lên khi khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu thông qua tăng
tỷ giá.
+ Tăng cường các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ một cách thận
trọng, linh hoạt, phù hợp chủ trương tăng trưởng bền vững, kiểm soát lạm phát;
Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng huy động và sử dụng vốn
hiệu quả, giảm chi phí để ổn định lãi suất cho vay đối với hoạt động xuất khẩu;
điều hành linh hoạt tỷgiá nhằm bảo đảm khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát mức
tăng nhập khẩu phù hợp yêu cầu tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát; phát
triển thị trường ngoại hối nhằm phục vụ tốt các nhu cầu mua, bảo đảm ngoại tệ
và phòng ngừa rủi ro về tỷ giá trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_danh_gia_nguyen_nhan_9537.pdf