Dự phòng chung và dự phòng cụ thể được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.
2. Dự phòng chung và dự phòng cụ thể được hạch toán vào tài khoản "Dự phòng rủi ro". Tổ chức tín dụng thực hiện hạch toán việc trích lập, sử dụng dự phòng, số tiền thu hồi được sau khi đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Điều 18.
1. Tổ chức tín dụng phải báo cáo việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định về Chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
2. Trước ngày 15 tháng thứ hai của mỗi quý, tổ chức tín dụng phải báo cáo việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng cho Bộ Tài chính và Cục thuế tỉnh, thành phố nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở chính như sau:
a) Tổ chức tín dụng phân loại nợ theo quy định tại Điều 6 Quy định này lập báo cáo phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng theo các mẫu biểu số 1A và 1B (đính kèm).
b) Tổ chức tín dụng phân loại nợ theo quy định tại Điều 7 Quy định này lập báo cáo phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng theo các mẫu biểu số 2A và 2B (đính kèm).
63 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3345 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Ngân Hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối phó với cơ quan thuế và một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng.
Xử lý tài sản đảm bảo, nợ xấu còn nhiều gian nan
Trên thực tế ngân hàng gặp không ít khó khăn trong việc xử lý tài sản đảm bảo. Hầu hết các khoản vay của khách hàng đều có tài sản đảm bảo nhưng việc xử lý nó để thu hồi nợ là hết sức khó khăn. Loại trừ một số ít tài sản được định giá vượt khung, tài sản gặp rắc rối về quyền sở hữu, các tài sản đầy đủ giấy tờ sở hữu cũng gặp không ít khó khăn trong quá trình xử lý. Sự chồng chéo giữa các văn bản pháp luật cũng làm cho ngân hàng lúng túng trong việc xử lý. Ví dụ, Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT -NHNN-BTP- BTC-TCĐC giữa Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29.4.2001 quy định tổ chức tín dụng không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Theo khoản 3, Mục III của Thông tư này, nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên thì tổ chức tín dụng phải đưa ra bán đấu giá hay khởi kiện ra toà. Trong khi đó, Nghị định số 178 lại cho phép tổ chức tín dụng có quyền xử lý tài sản đảm bảo nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên. Việc này làm phát sinh những khó khăn trong thực tế như sau: + Trong các điều khoản của Hợp đồng đảm bảo, ngân hàng luôn ràng buộc điều kiện “Khi khách hàng vi phạm các điều khoản của Hợp đồng tín dụng thì ngân hàng được toàn quyền xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ”. Trên thực tế, nếu không đạt được sự thoả thuận với khách hàng hoặc khách hàng không hợp tác, cố tình chây kỳ để kéo dài thời gian trả nợ thì ngân hàng chỉ còn cách chuyển hồ sơ khởi kiện.
+ Luật pháp và các công cụ thực thi pháp luật chưa thực sự nghiêm minh, chưa hỗ trợ đầy đủ cho ngân hàng chủ động xử lý tài sản đảm bảo mà không có sự can thiệp của Toà án. Do đó, dù có phán quyết của Toà, ngân hàng vẫn còn gặp trở ngại vì khâu thi hành án còn chậm. Tiếp đến là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ quan thẩm định, cơ quan bán đấu giá... Từ lúc khởi kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ mất ít nhất 2 năm, trung bình mất 8-9 năm.
+ Một khó khăn khác mà ngân hàng thường gặp phải là khi tài sản của doanh nghiệp là các máy móc thiết bị chuyên dùng có giá trị cao thì rất khó thanh lý. Khi bán được thì phải ưu tiên thực hiện nghĩa vụ nộp thuế nhập khẩu vì hầu hết các thiết bị này đều được miễn thuế nhập khẩu vì thường được coi là tài sản cố định khi thành lập công ty.
Để hỗ trợ các Ngân hàng thương mại nâng cao năng lực tài chính, Ngân hàng Nhà nước đã có công văn hướng dẫn việc bán nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại nhà nước cho Công ty mua, bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC). Đây là một bước xây dựng thị trường mua bán nợ, hướng đi quan trọng để xử lý nợ xấu và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cũng gặp không ít khó khăn. Trong tay DATC không có những cơ chế riêng làm công cụ xử lý nợ. DATC cũng chưa có đủ năng lực tài chính để thực hiện mua bán nợ. Và không phải khoản nợ nào cũng dễ mua hoặc bán được. Với tâm lý sợ trách nhiệm, sợ mất quyền lợi, các doanh nghiệp nhà nước lại chọn phương cách treo nợ hơn là bán đấu giá thấp cho DATC. Ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu đặt ra cho DATC là phải hoạt động vừa nhằm lành mạnh hoá tài chính thúc đẩy cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vừa theo cơ chế hạch toán kinh doanh. Do đó để bảo toàn vốn, DATC phải cân nhắc lựa chọn những khoản nợ ít gặp rủi ro mất vốn. Do đó điều này đã làm chậm lại quá trình xử lý nợ cũng như số lượng các khoản xử lý được. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc xử lý nợ tồn đọng thường gắn liền và phục vụ một chính sách kinh tế cụ thể tuỳ theo bối cảnh riêng từng quốc gia chứ không đơn thuần chỉ nhằm xử lý nợ tồn đọng của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vì vậy mà các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia,... không đặt vấn đề bảo toàn vốn và có lợi nhuận làm nguyên tắc hoạt động chính cho tổ chức xử lý nợ. Thay vào đó họ chỉ yêu cầu các tổ chức xử lý nợ phải tối đa hoá giá trị thu hồi để giảm thiểu gánh nặng ngân sách mà Chính phủ phải bỏ ra để hỗ trợ cho chương trình xử lý nợ tồn đọng.
Mặt khác ở Việt Nam, mối quan hệ mua bán nợ giữa DATC với các tổ chức tín dụng, giữa DATC với tổ chức kinh tế và cá nhân hiện chưa được điều chỉnh, hầu hết thiếu quy định pháp lý, thậm chí chồng chéo và mâu thuẫn. Các quy định áp dụng cho DATC hầu như không tạo quyền ưu tiên đặc biệt trong việc tiếp cận và khai thác thông tin đánh giá khoản nợ nên đã gây ra không ít khó khăn trong việc mua và xử lý nợ. Chính vì thế mà DATC xử lý nợ mang nặng tính thủ tục, chưa có “hơi thở” thị trường. Trong quá trình xử lý nợ, có trường hợp ngân hàng đã mời DATC cùng giải quyết một món nợ, sau khi xem xong, DATC yêu cầu làm một công văn đề nghị bán nợ. Do chưa có hệ thống thẩm định nợ xấu nên sau đó, chi nhánh nhận được giá chào mua rất thấp chỉ khoảng 20% giá món nợ đó và ngân hàng lại rất băn khoăn không biết sẽ bán nợ cho DATC theo tỷ lệ nào.
4.1. Nguyên nhân khách quan
Trước hết, các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ, sự thay đổi thị hiếu người tiêu dùng…gây ra những biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng của mình. Điều này có thể làm cho khách hàng mất khả năng trả nợ.
Nguyên nhân khách quan thứ hai là sự thay đổi trong cơ chế, chính sách như: Chính trị, sự điều chỉnh chính sách, chế độ, luật pháp của Nhà nước hoặc thay đổi địa giới hành chính các địa phương, sự sáp nhập hay tách ra của các Bộ, Ngành trong nền kinh tế. Những sự thay đổi và điều chỉnh này tuy cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước nhưng đôi khi, cũng có tác động tiêu cực, ảnh hưởng đến ngân hàng và khách hàng dẫn tới làm giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
Nhân tố tiếp theo tác động vào quan hệ tín dụng này là thông tin không đầy đủ. Do thiếu thông tin về khách hàng nên ngân hàng rất dễ gặp các rủi ro như khách hàng cố tình vi phạm, che giấu thông tin hoặc làm sai lệch thông tin về mình (lập báo cáo tài chính thiếu trung thực, sử dụng vốn vay sai mục đích...). Khách hàng thì do không có đầy đủ thông tin về thị trường sẽ dẫn tới những quyết định kinh doanh sai lầm. Do đó, việc sản xuất kinh doanh không đáp ứng nhu cầu và dẫn tới làm ăn thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng.
Bên cạnh đó, môi trường pháp lý cũng tác động tới quan hệ vay mượn giữa ngân hàng và khách hàng. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh sẽ không đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của cá nhân, doanh nghiệp và tạo ra các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng.
Còn một nhân tố khách quan nữa là nhân tố quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, tín dụng trong nước có mối quan hệ chặt chẽ với tín dụng quốc tế, dễ bị ảnh hưởng bởi tình hình quốc tế như tình hình kinh tế, chính trị, chính sách tài chính của các quốc gia khác trên thế giới. Bất cứ một sự biến động nào trong nền kinh tế quốc tế cũng đều có tác động tới đất nước cho dù ít hay nhiều.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến ở đây là chính sách cho vay của ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng, chính sách cho vay là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng. Nó phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế. Khi chính sách cho vay thống nhất, đầy đủ và đúng đắn, cán bộ tín dụng sẽ dễ dàng xác định đúng phương hướng khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng. Còn ngược lại, một chính sách tín dụng thiếu độ chính xác, không đầy đủ và không nhất quán sẽ tạo ra kẽ hở cho người sử dụng vốn và dẫn tới rủi ro tín dụng.
Nguyên nhân thứ hai nằm ở năng lực và đạo đức của người cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng không tính toán chính xác hiệu quả đầu tư của dự án xin vay thì họ sẽ dễ dàng có những những quyết định sai lầm trong cho vay. Hoặc người cán bộ tín dụng khi chưa được đào tạo đầy đủ, không am hiểu về lĩnh vực kinh doanh mà mình đang cho vay sẽ không thể đánh giá hết khả năng sinh lời cũng như những rủi ro của khách hàng. Đôi khi, những cán bộ tín dụng vì một lý do nào đó vẫn cố ý cho vay mặc dù biết dự án không có hiệu quả sẽ dẫn tới rủi ro cho ngân hàng. Trong những trường hợp như vậy thì khả năng mất vốn của Ngân hàng là rất cao.
Thứ ba, ngân hàng chưa đánh giá đúng mức về khoản vay, về người đi vay hoặc do chủ quan tin tưởng khách hàng quen biết mà coi nhẹ khâu kiểm tra về tình hình tài chính, khả năng thanh toán hiện tại và tương lai, nguồn trả nợ.
Thứ tư là do ngân hàng thiếu một cơ chế theo dõi, quản lý rủi ro, thiếu hạn mức tín dụng tối đa cho từng lkhách hàng thuộc từng ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm, địa phương khách nhau để phân tán rủi ro, chưa có các tiêu thức đo lường rủi ro, độ rủi ro cho phép chấp nhận đối với mỗi đối tượng khách hàng.
Nguyên nhân thứ năm là thuộc về phía khách hàng. Trước hết, khả năng quản lý của khách hàng yếu kém sẽ dẫn tới sử dụng khoản vay không có hiệu quả, dễ thua lỗ. Tiếp theo, doanh nghiệp không chịu thu thập, tìm hiểu thông tin về thị trường, sản phẩm, đối tượng khách hàng sẽ dẫn tới những quyết định sai lầm trong kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp dễ dàng lâm vào tình trạng vỡ nợ hoặc phá sản. Một phần nữa cũng quan trọng không kém là đạo đức của khách hàng. Không ít những chủ doanh nghiệp hoặc cá nhân vay vốn của ngân hàng chẳng những yếu kém về năng lực kinh doanh mà còn thiếu cả tư cách đạo đức. Phần lớn trong số họ đều mong muốn thành đạt trong kinh doanh để có điều kiện trả nợ cho ngân hàng, tuy nhiên, cũng không hiếm những người chỉ mong muốn lừa đảo, chiếm đoạt lấy tiền từ ngân hàng vào những mục đích xấu xa khác như cờ bạc, hụi đề. Thông thường, những khách hàng này đều xuất trình những dự án rất sáng sủa, những lời hứa hẹn hoa mỹ. Các nhà ngân hàng một phần thì thiếu kinh nghiệm, phần nữa có thể do tham một chút lợi nhỏ nên đã đầu tư vào những dự án này và đương nhiên là sẽ gặp rủi ro.
5. Ảnh hưởng của nợ xấu tới Ngân hàng và nền kinh tế
Nhìn chung, đối với mỗi ngân hàng thì nợ xấu có tác động trực tiếp tới hoạt động của chính bản thân nó và từ đó tác gây ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng. Những ảnh hưởng này sẽ dẫn tới làm nguy hại cho nền kinh tế.
Trước hết, những khoản nợ này làm chậm quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của các tổ chức tín dụng, giảm vòng quay của vốn, từ đó làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Thứ hai, chi phí phát sinh nợ xấu là rất lớn (bao gồm chi trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu và các chi phí khách liên quan). Chi phí tăng cao ngoài dự kiến và những chi phí này làm giảm đáng kể, thậm chí gây lỗ cho các ngân hàng khi hạch toán kết quả kinh doanh. Ngân hàng mất vốn phải khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí là xoá nợ, ngoài một phần mà ngân sách cấp bù thì phần chủ yếu là do các ngân hàng phải trích lập quỹ phòng ngừa rủi ro. Điều này sẽ làm giảm thu nhập của ngân hàng.
Ngoài ra, khi tỉ lệ nợ quá hạn quá cao, vượt qua giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế, không thực hiện đúng cam kết mở L/C, uy tín của hệ thống NHTM trong nước và quốc tế sẽ giảm sút, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng.
Đồng thời, nợ xấu còn hạn chế khả năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Mặt khác, nợ xấu tác động trực tiếp đến khả năng tài chính của tổ chức tín dụng khi phân tích, đánh giá tình hình tài chính hoạt động của ngân hàng, là yếu tố bất lợi cho khả năng cạnh tranh và quá trình hội nhập, phát triển của ngân hàng.
6. Các biện pháp nhằm hạn chế nợ xấu
6.1. Các biện pháp phòng ngừa
Trước hết, các ngân hàng thương mại phải thực hiện thẩm định các điều kiện vay vốn. Đây là một khâu quan trọng, không thể thiếu được trang quy trình cho vay và quản lý khoản vay. Nó giúp cho ngân hàng thương mại phát hiện ra những rủi ro tiềm ẩn của khoản vay để đưa ra các quyết định cho vay hợp lý, hạn chế được nợ xấu cho ngân hàng. Quy trình thẩm định điều kiện vay vốn của một khoản vay thì bao gồm các bước như sau:
- Kiểm tra hồ sơ vay vốn (bao gồm hồ sơ khách hàng, hồ sơ khoản vay và hồ sơ bảo đảm tiền vay) và mục đích vay vốn.
- Điều tra, thu thập, tổng hợp thông tin về khách hàng và phương án sản xuất kinh doanh, dự án vay vốn
- Kiểm tra, xác minh lại các thông tin
- Thực hiện phân tích ngành
- Phân tích, thẩm định khách hàng vay vốn bao gồm: tư cách năng lực pháp lý, năng lực quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, bố trí lao động trong doanh nghiệp, tình hình hoạt động và khả năng tài chính…
- Dự kiến lợi ích ngân hàng sẽ nhận được nếu khoản vay được phê duyệt.
- Phân tích, thẩm định phương án kinh doanh, dự án đầu tư để đưa ra kết luận về tính khả thi, hiệu quả, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra.
- Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay.
Biện pháp thứ hai là thực hiện chấm điểm tín dụng khách hàng. Chấm điểm tín dụng khách hàng là việc đánh giá khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của một khách hàng đối với ngân hàng như trả lãi và gốc nợ vay khi đến hạn nhằm xác định rủi ro hoạt động cấp tín dụng. Mức độ rủi ro tín dụng thay đổi theo từng khách hàng và được xác định thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm dựa vào các thông tin tài chính và phi tài chính sẵn có của khách hàng tại thời điểm thực hiện chấm điểm tín dụng. Việc chấm điểm tín dụng nhằm giúp cho Ngân hàng thương mại trong việc đưa ra các quyết định cấp tín dụng : xác định hạn mức tín dụng đối với khách hàng, số tiền cho vay, thời hạn, mức lãi suất, mức phí, biện pháp bảo đảm tiền vay. Ngoài ra, nó còn giúp ngân hàng giám sát, đánh giá khách hàng khi khoản tín dụng còn dư nợ để phát hiện kịp thời những dấu hiệu bất thường của khách hàng, khoản vay, từ đó có những biện pháp đối phó, hạn chế rủi ro có thể xảy ra.
Biện pháp thứ ba là thực hiện giám sát quản lý chặt chẽ khoản . Việc kiểm tra, giám sát khoản vay được thực hiện sau khi cho vay nhằm bảo đảm người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả số tiền vay, đôn đốc hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn, đồng thời, có các biện pháp thích hợp nếu người vay không thực hiện đầy đủ, đúng hạn các cam kết
Thứ tư là thực hiện bảo đảm tiền vay. Biện pháp này nhằm tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi các khoản nợ đã cho khách hàng vay. Nó giúp nâng cao trách nhiệm thực hiện cam kết trả nợ của bên vay, phòng ngừa rủi ro khi phương án trả nợ dự kiến của bên vay không thực hiện được hoặc xảy ra các rủi ro không lường trước được và phòng ngừa sự gian lận của khách hàng đi vay. Bảo đảm tiền vay phải được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Trường hợp khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam kết, ngân hàng có quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, nếu khách hàng vay hoặc bên bảo lành vẫn chưa thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ, khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ.
Phần chênh lệch thừa sau khi xử lý vẫn phải được giữ để bảo đảm cho nghĩa vụ tín dụng khác còn đang tồn tại tại ngân hàng (nếu có thoả thuận).
6.2. Biện pháp khắc phục
Khi phát hiện ra khoản vay có vấn đề hoặc tài sản bảo của khách hàng có dấu hiệu sút giá so với ban đầu hoặc giá trị tài sản bảo đảm thấp so với giá trị khoản vay, cán bộ tín dụng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm nợ vay. Việc bổ sung này sẽ giúp làm tăng giá trị tài sản bảo đảm của khoản vay. Nếu trong trường hợp xảy ra rủi ro mất vốn thì tổn thất của ngân hàng sẽ giảm đi. Đồng thời, thêm một phần tài sản bị đem đi làm vật bảo đảm cho ngân hàng thì doanh nghiệp sẽ có thêm động lực để sản xuất kinh doanh có hiệu quả nhằm giữ lại những tài sản đó.
Bên cạnh đó, nếu cán bộ tín dụng thấy có dấu hiệu khách hàng làm ăn không có hiệu quả thì cũng phải chú ý. Đây là một trong những nguy cơ làm tăng nợ xấu cho ngân hàng. Khi thấy những dấu hiện trên thì cán bộ tín dụng phải kịp thời đưa ra những biện pháp phòng ngừa, giúp tư vấn cho khách hàng trong việc quản lý, điều hành, định hướng sản xuất kinh doanh. Việc này sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, hạn chế tổn thất và nguy cơ phá sản. Do đó, khả năng trả nợ cho ngân hàng của doanh nghiệp sẽ được đảm bảo. Nguy cơ nợ xấu được ngăn chặn.
Biện pháp tiếp theo dụng là cho vay thêm. Biện pháp này được áp dụng khi khách hàng đang gặp khó khăn về vốn, có thể ảnh hưởng tới việc thu nợ và phương án sản xuất kinh doanh của káhch hàng có thể phát triển tốt nếu có đủ vốn thì cán bộ tín dụng sẽ xem xét để cho vay thêm. Biện pháp này cũng giúp ngăn chặn những thua lỗ cho khách hàng vay vốn, do đó, đảm bảo khả năng thu hồi được nợ cho ngân hàng.
Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn thực hiện gia hạn nợ cho khách hàng, Việc này cũng chỉ được thực hiện nếu như cán bộ tín dụng thấy nó có hiệu quả khi mà khách hàng chưa có đủ khả năng trả nợ nhưng nếu cứ duy trì khoản cho vay đó thêm một thời gian thì chắc chắn sẽ sinh lãi và trả được nợ cho ngân hàng.
7. Mô hình đề xuất , để giảm thiểu rủi ro tín dụng trong Ngân Hàng
7.1. Xây dựng mô hình lý thuyết
- Mục tiêu của Ngân Hàng đối với nợ là làm sao có thể giảm thiểu rủi ro trong nợ xấu.
- Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu :
+ Lãi suất tăng, nợ xấu tăng. Đó là vòng luẩn quẩn mà các ngân hàng đang tránh đề cập. Đó là lý thuyết kinh tế nhưng cũng là thực tế ở Việt Nam.
Lãi suất huy động của các ngân hàng , cả USD và VND, đã và đang tăng. Lãi suất cho vay đầu ra buộc phải tăng theo để cân đối. Theo đó, chi phí vốn của doanh nghiệp đội lên, khả năng trả nợ bị ảnh hưởng. Khi lãi suất cho vay ở mức 10 – 12%/năm thì chi phí vay vốn có thể coi là bình thường, dễ chịu. Nhưng khi lên đến 15%, thậm chí cao hơn, thì lại nảy sinh vấn đề lớn.
Những doanh nghiệp mạnh sẽ không chấp nhận mức lãi suất quá cao, họ có khả năng tìm đến những nguồn vốn khác. Nghi vấn đặt ra đối với những doanh nghiệp dám chấp thuận mức lãi suất cao. Phần lớn sự chấp thuận đó xuất phát từ sự thiếu vốn trầm trọng, năng lực tài chính hạn chế, độ tín nhiệm thấp nên không tiếp cận được những nguồn vốn khác. Và tất nhiên, nguy cơ nợ xấu ngân hàng tăng lên từ nhóm đối tượng này.
+ Về ảnh hưởng “bong bóng” của những tài sản thế chấp, nguyên này thể hiện rõ ràng hơn trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua. Cụ thể nhất là hoạt động cho vay đầu tư bất động sản.Chiếm phần lớn trong danh mục tài sản thế chấp vay vốn hiện nay là bất động sản. Giá nhà đất tăng cao, vượt cả giá trị hợp lý của nó và thị trường đóng băng, khả năng trả nợ của nhiều chủ đầu tư rơi vào khủng hoảng. Biện pháp thường thấy của các ngân hàng là gia hạn nợ, nhưng đó là cách để tiến gần hơn tới ranh giới nợ xấu. Mặt khác, khi giá nhà đất giảm như trong thời gian qua, các ngân hàng lại rơi vào tình trạng giá tài sản thế chấp cho khoản nợ lại cao hơn giá thực tế.Rất may, trong hoạt động cho vay này, các ngân hàng đã và đang đề cao cảnh giác; Ngân hàng Nhà nước cũng đã nhiều lần nhắc nhở, nhiều ngân hàng cũng đã kịp thời thắt hầu bao. Tất nhiên, nợ xấu loại này hiện đang chiếm một phần không nhỏ.
+ Về công tác thẩm định. Trừ một số ít khách hàng có phát sinh nợ xấu bắt nguồn từ nguyên nhân khách quan như: kinh doanh thua lỗ, công nợ khó đòi, khó khăn do thay đổi cơ chế, thay đổi chính sách tăng trưởng của Nhà nước thì hầu hết các khoản nợ xấu bắt nguồn từ khâu thẩm định quá hời hợt của cán bộ tín dụng. Do không xác định được quy mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách hàng đối với ngành nghề mà khách hàng đang kinh doanh, không xác định được nguồn thu của khách hàng từ đâu và về đâu để có thể đưa ra một mức cho vay và cách thức giám sát hợp lý. Cán bộ ngân hàng đôi khi còn hời hợt trong phần kiểm tra sử dụng vốn, dẫn đến không phát hiện kịp thời những khó khăn của khách hàng ngay từ khi vừa nhen nhóm. Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích sửa nhà, mua sắm vật dụng, thậm chí là tiêu xài cá nhân... Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân hàng, thế là phát sinh nợ xấu. Mặt khác, tư cách khách hàng là yếu tố quan trọng gắn liền với thiện chí hoàn trả tiền vay của khách hàng thường bị lãng quên trong quá trình thẩm định ban đầu.
+ Nguồn cung cấp thông tin. Thực sự, ngoài những thông tin do khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng. Rất khó kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng. Tâm lý một số cán bộ muốn đẩy phần rủi ro cho ngân hàng khác bằng cách chỉ cung cấp thông tin tốt về khách hàng đó khi ngân hàng bạn hỏi thăm. Ngân hàng vẫn chưa có sự liên thông với các cơ quan khác như Thuế, Hải quan,... để kiểm chứng những thông tin tài chính do khách hàng cung cấp. Trừ những doanh nghiệp lớn, các công ty cổ phần do yêu cầu phải kiểm toán cáo báo cáo tài chính của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hệ thống kế toán của chúng ta còn nhiều bất cập và chưa hoàn toàn thống nhất với các chuẩn mực của hệ thống kế toán thế giới. Thậm chí còn có doanh nghiệp sử dụng đồng thời hai hệ thống kế toán, một luôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối phó với cơ quan thuế và một rất đẹp đẽ khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng.Và nhiều yếu tố quan trọng khác gây ra nợ xấu.
Như vậy, xác suất để Ngân Hàng giảm thiểu rủi ro nợ xấu - phụ thuộc vào 3 yếu tố chính là:
+ Lãi suất
+ Về công tác thẩm định
+ Nguồn cung cấp thông tin
P (MUCTIEU=1) = F(LÃI SUẤT, CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH, NGUỒN CUNG CẤP THÔNG TIN)
Bảng 1: Các biến trong mô hình
Tên biến
Mô tả
Dấu mong đợi
Biến phụ thuộc:
MUCTIEU
Giảm thiểu nợ xấu = 1 , Không làm giảm thiểu nợ xấu = 0 .
Biến phụ thuộc
LS
Lãi suất
+
CTTĐ
Công tác thẩm định
+
NCCTT
Nguồn cung cấp thông tin
+
7.2. Dữ liệu cho mô hình và giải thích các biến
Dữ liệu cho các biến đã cho ta bảng sau:
Mă biến
Hệ số
Exp(Hệ số)
Wald_ Sig
Biến phụ thuộc
Giảm thiểu nợ xấu = 1 , Không làm giảm thiểu nợ xấu = 0 .
MUCTIEU
Biến độc lập
Lãi suất
Công tác thẩm định
Nguồn cung cấp thông tin
Hằng số
LS
CTTĐ
NCCTT
Constant
0.071795
1.106146
2.643074
-12.9196
1.074435
3.022687
14.05635
2.45E-06
0.046724
0.049936
0.007936
0.015122
Nguồn: Kết quả hồi quy Logistic bằng SPSS .
Ta có công thức tính của mô hình logistic sau:
P( X=1) = exp^ßX/(1+ exp^ßX )
Ln {p/(1- p) }=Ln {[exp^ßX/(1+exp^ßX )]/[1- exp^ßX/(1+ exp^ßX )] }
Ln { p/(1- p) }= Ln [exp^ßX ]
Ln { p/(1- p) }= ßX
Nếu gọi P là xác suất giảm thiểu nợ xấu trong tín dụng của Ngân Hàng thì kết quả hồi quy Logit cho ta hàm số sau để xác định P.
=> Δ{ p/(1- p) }
- Từ bảng trên ta có :
+ Lãi suất :
p/(1-p) = 0.071795
p = 0.071795*(1-p)
p = 0.071795 – 0.071795*p
1.071795*p = 0.071795
p = 0.066986
Ta thấy rằng với lãi suất tăng lên 0.071795 , thì sắc suất giảm thiểu nợ xấu sẽ là : 0.066986.
Tương tự như trên ta sẽ tính được xác suất của việc giảm thiểu nợ xấu khi công tác thẩm định và nguồn cung cấp thông tin tăng lên , lần lượt là : 0.525199 ; 0.725506 .
7.3. Giải thích kết quả mô hình
Ở độ tin cậy 95%, các biến độc lập đều có ý nghĩa:
Nguồn cung cấp thông tin là nhân tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến xác suất giảm nợ xấu trong tín dụng của Ngân Hàng (exp của hệ số tương ứng với biến NCCTT =14.05 lớn hơn hẳn so với các exp của các hệ số khác). Hơn nữa NCCTT có ảnh hưởng cùng chiều đối với P. Nói cách khác, nếu Nguồn cung cấp thông tin của Ngân Hàng càng tốt thì Ngân Hàng càng có khuynh hướng thực hiện mục tiêu giảm thiểu nợ xấu trong tín dụng của Ngân Hàng.
Yếu tố quan trọng thứ hai ảnh hưởng đến xác suất giảm nợ xấu trong tín dụng của Ngân Hàng là công tác thẩm địnhnhận . Exp (hệ số của CCTĐ) = 3.02 (lớn hơn 1). Công tác thẩm định càng cao đối với thì họ càng có khuynh hướng giảm thiểu nợ xấu, ngược lại công tác thẩm định càng thấp thì họ càng có khuynh hướng không giảm giảm rủi ro nợ xấu.
Sau hai nhân tố trên là nhân tố ảnh hưởng dương đối với xác suất giảm thiểu nợ xấu trong tín dụngcủa Ngân Hàng và ́ Exp (hệ số LS) = 1.07. Ngân Hàng có lãi suất càng cao thì ́ xác suất thực hiện các biện pháp giảm rủi ro nợ xấu của họ càng cao.
Các yếu tố lãi suất, cung cấp thông tin , công tác thẩm định đều ảnh hưởng tỷ lệ thuận đến khả năng đạt đến mục tiêu (mục tiêu đó là Ngân Hàng thực hiện các biện pháp giảm thiểu mức rủi ro nợ xấu trong tín dụng của mình). Yếu tố ảnh hưởng đến xác suất giảm thiểu nợ xấu trong tín dụng của Ngân Hàng quan trọng nhất là cung cấp thông tin sau đó là công tác thẩm định và cuối cùng là lãi suất.
KẾT LUẬN
Các Ngân Hàng là hệ thần kinh trong nền kinh tế thị trường. Ngân Hàng giữ vai trò đầu tư vốn vào nền kinh tế , do đó nó tạo nên tính hiệu quả của các nền kinh tế .Mà vấn đề quan trọng hàng đầu của ngân Hàng là xử lý nợ xấu , vì nợ xấu ảnh hưởng đến hoạt động tích cực hay tiêu cực đến Ngân Hàng.
Hiểu được tầm quan trọng của nợ xấu , em đã sử dụng mô hình Logistic để thấy được các yếu tố nào có tác động cùng chiều hay ngược chiều đến nợ xấu , và từ đó cho Ngân Hàng có thể có những quyết định trong những khoản vay tín dụng.
Với những lý do khách quan và chủ quan, trong chuyên đề này em chưa có được kết quả thật tốt như mong muốn, em mong thầy thông cảm.
Em chân thành cám ơn thầy đã giúp đỡ em trong thời gian qua!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Nghiệp vụ Ngân Hàng Thương Mại – ĐH Kinh Tế Quốc Dân
2. Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng- TS.Nguyễn Văn Tiến.
3. Giáo trình Ngân Hàng Thương Mại .
4. Một số tài liệu do nợi thực tập cung cấp.
5. Một số tài liệu tìm kiếm trên Internet.
Phụ lục
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Số: 493/2005/QĐ-NHNN
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----- o0o -----
Hà Nội , Ngày 22 tháng 04 năm 2005
QUYẾT ĐỊNH CỦA THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
THỐNG ĐỐC NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
Căn cứ Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 01/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam số 10/2003/QH11 ngày 17 tháng 6 năm 2003;
Căn cứ Luật Các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày12 tháng 12 năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Căn cứ Nghị định số 52/2003/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2003 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tài chính tại Công văn số 4280 TC/TCNH ngày 12 tháng 4 năm 2005 của Bộ Tài chính;
Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Các Ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy định về việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo. Các quy định về việc phân loại tài sản "Có", trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng tại các văn bản dưới đây hết hiệu lực thi hành:
1. Quyết định số 488/2000/QĐ-NHNN5 ngày 27 tháng 11 năm 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy định về việc phân loại tài sản "Có", trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
2. Công văn số 354/CV-CNH ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Ngân hàng Nhà nước về việc phân loại và trích lập dự phòng khi chuyển nợ quá hạn theo Quyết định số 688/2002/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Điều 3. Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ Các Ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng, Thủ trưởng các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
QUY ĐỊNH
Về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng
trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng
(Ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước)
Chương I
QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1.
1. Tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam (sau đây gọi tắt là tổ chức tín dụng), trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội, phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng theo Quy định này.
Trường hợp chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam muốn thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định của ngân hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải trình Ngân hàng Nhà nước chính sách trích lập dự phòng của ngân hàng nước ngoài để xem xét, quyết định. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được phép thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định của Hội sở chính ngân hàng nước ngoài sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
2. Việc trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng giảm giá chứng khoán, quỹ dự phòng tài chính thực hiện theo quy định của pháp luật về chế độ tài chính đối với các tổ chức tín dụng.
Điều 2.
Trong Quy định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1."Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng" (sau đây gọi tắt là "rủi ro") là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.
2. "Dự phòng rủi ro" là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và Dự phòng chung.
"Dự phòng cụ thể" là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.
"Dự phòng chung" là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
3. "Sử dụng dự phòng" là việc tổ chức tín dụng sử dụng dự phòng rủi ro để bù đắp tổn thất đối với các khoản nợ.
4. "Nợ" bao gồm:
a) Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính;
b) Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác;
c) Các khoản bao thanh toán;
d) Các hình thức tín dụng khác.
5. "Nợ quá hạn" là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.
6. "Nợ xấu" (NPL) là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.
7. "Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ" là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp thuận điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn ghi trong hợp đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá khách hàng có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại.
8. "Khách hàng" là các tổ chức hoặc cá nhân có quan hệ tín dụng với tổ chức tín dụng.
Điều 3.
1. ít nhất mỗi quý một lần, trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng tiếp theo, tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ gốc và trích lập dự phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngày làm việc cuối cùng của quý (tháng) trước.
Riêng đối với quý IV, trong thời hạn 15 ngày làm việc đầu tiên của tháng 12, tổ chức tín dụng thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đến thời điểm cuối ngày 30 tháng 11.
2. Đối với các khoản nợ xấu (NPL), tổ chức tín dụng phải thực hiện việc phân loại nợ, đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng trên cơ sở hàng tháng để phục vụ cho công tác quản lý chất lượng và rủi ro tín dụng.
3. Đối với các khoản cho vay bằng nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Bên thứ ba mà Bên thứ ba cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm xử lý rủi ro khi xảy ra và các khoản cho vay bằng nguồn vốn góp đồng tài trợ của tổ chức tín dụng khác mà tổ chức tín dụng không chịu bất cứ rủi ro nào thì tổ chức tín dụng không phải trích lập dự phòng rủi ro nhưng phải phân loại nợ theo quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này nhằm đánh giá đúng tình hình tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng phục vụ cho công tác quản lý rủi ro tín dụng.
4. Đối với các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay và chấp nhận thanh toán, tổ chức tín dụng phải phân loại vào nhóm 1 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này để quản lý, giám sát tình hình tài chính, khả năng thực hiện nghĩa vụ của khách hàng và trích lập dự phòng chung.
Chương II
QUY ĐỊNH CỤ THỂ
Mục 1. Phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể
Điều 4.
1. Trong thời gian tối đa ba (03) năm kể từ ngày Quy định này có hiệu lực, tổ chức tín dụng phải xây dựng Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của tổ chức tín dụng. Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ tối thiểu phải bao gồm:
- Các cơ sở pháp lý liên quan đến thành lập và ngành nghề kinh doanh của khách hàng;
- Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài sản, khả năng thực hiện nghĩa vụ theo cam kết;
- Uy tín đối với tổ chức tín dụng đã giao dịch trước đây;
- Các tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống (đánh giá yếu tố ngành nghề và địa phương) trên cơ sở đó xếp hạng cụ thể đối với khách hàng.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không bắt buộc áp dụng đối với tổ chức tín dụng là ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và quỹ tín dụng nhân dân cơ sở.
Điều 5.
Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể theo quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này.
Điều 6.
1. Tổ chức tín dụng thực hiện phân loại nợ như sau:
Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, Điều này.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
- Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
- Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
- Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý.
- Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại;
- Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.
2. Trường hợp khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo kỳ hạn đã được cơ cấu lại tối thiểu trong vòng một (01) năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, ba (03) tháng đối với các khoản nợ ngắn hạn và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại, tổ chức tín dụng có thể phân loại lại khoản nợ đó vào nhóm 1.
3. Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với tổ chức tín dụng mà có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
4. Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
5. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ quy định tại Khoản 1 Điều này như sau:
a) Nhóm 1: 0%
b) Nhóm 2: 5%
c) Nhóm 3: 20%
d) Nhóm 4: 50%
đ) Nhóm 5: 100%. Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.
Điều 7.
Tổ chức tín dụng có đủ khả năng và điều kiện thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính thì xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro như sau:
1. Căn cứ trên Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, tổ chức tín dụng trình Ngân hàng Nhà nước chính sách dự phòng rủi ro và chỉ được thực hiện sau khi Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
2. Điều kiện để Ngân hàng Nhà nước chấp thuận chính sách dự phòng rủi ro:
a) Hệ thống xếp hạng tín dụng đã được áp dụng thử nghiệm tối thiểu một (01) năm;
b) Kết quả xếp hạng tín dụng được Hội đồng quản trị phê duyệt;
c) Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh, đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín dụng;
d) Chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mô hình giám sát rủi ro tín dụng, phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó bao gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín dụng, các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín dụng;
đ) Phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc trong việc phê duyệt, thực hiện và kiểm tra thực hiện Hệ thống xếp hạng tín dụng và chính sách dự phòng của tổ chức tín dụng và tính độc lập của các bộ phận quản lý rủi ro;
e) Hệ thống thông tin có hiệu quả để đưa ra các quyết định, điều hành và quản lý đối với hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và thích hợp với Hệ thống xếp hạng tín dụng và phân loại nợ.
3. Hồ sơ của tổ chức tín dụng đề nghị Ngân hàng Nhà nước (Vụ Các Ngân hàng và tổ chức tín dụng phi ngân hàng) chấp thuận chính sách dự phòng rủi ro gồm:
a) Văn bản của Chủ tịch Hội đồng quản trị đề nghị Ngân hàng Nhà nước chấp thuận chính sách dự phòng rủi ro, trong đó phải giải trình được Hệ thống xếp hạng tín dụng và chính sách dự phòng của tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện được quy định tại các Khoản 2 Điều này.
b) Bản sao Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro và các dự thảo văn bản hướng dẫn thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng.
4. Trong thời gian ba mươi (30) ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định tại Khoản 3 Điều này, Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấp thuận chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng. Trường hợp không chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước có văn bản yêu cầu tổ chức tín dụng chỉnh sửa theo quy định.
5. Hàng năm, tổ chức tín dụng phải đánh giá lại Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro cho phù hợp với tình hình thực tế và các quy định của pháp luật. Việc thay đổi, điều chỉnh chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
6. Tổ chức tín dụng có chính sách dự phòng rủi ro được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận quy định tại Khoản 1, Điều này thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể như sau:
6.1. Phân loại nợ :
a) Nhóm 1(Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
b) Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
c) Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
d) Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.
đ) Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
6.2. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ quy định tại Khoản 6.1 Điều này như sau :
a) Nhóm 1: 0%
b) Nhóm 2: 5%
c) Nhóm 3: 20%
d) Nhóm 4: 50%
đ) Nhóm 5: 100%
Điều 8.
1. Số tiền dự phòng cụ thể phải trích được tính theo công thức sau:
R = max {0, (A - C)} x r
Trong đó:
R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị của khoản nợ
C: giá trị của tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
2. Giá trị của tài sản bảo đảm (C) được xác định trên cơ sở tích số giữa tỷ lệ áp dụng được quy định tại Khoản 3 Điều này với:
- Giá trị thị trường của vàng;
- Mệnh giá của trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Kho bạc, và các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng;
- Giá trị thị trường của chứng khoán của doanh nghiệp và của tổ chức tín dụng khác;
- Giá trị của tài sản bảo đảm là động sản, bất động sản và các tài sản bảo đảm khác ghi trên hợp đồng bảo đảm, hợp đồng cho thuê tài chính.
3. Tỷ lệ tối đa áp dụng để xác định giá trị của tài sản bảo đảm quy định như sau:
Loại tài sản bảo đảm
Tỷ lệ tối đa (%)
Số dư trên tài khoản tiền gửi, sổ tiết kiệm bằng Đồng Việt Nam tại tổ chức tín dụng 100%
Tín phiếu kho bạc, vàng, số dư trên tài khoản tiền gửi, sổ tiết kiệm bằng ngoại tệ tại tổ chức tín dụng 95%
Trái phiếu Chính phủ:
- Có thời hạn còn lại từ 1 năm trở xuống
- Có thời hạn còn lại từ 1 năm đến 5 năm
- Có thời hạn còn lại trên 5 năm
95%
85%
80%
Thương phiếu, giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng khác: 75%
Chứng khoán của các tổ chức tín dụng khác: 70%
Chứng khoán của doanh nghiệp: 65%
Bất động sản (gồm: nhà ở của dân cư có giấy tờ hợp pháp và/hoặc bất động sản gắn liền với quyền sử dụng đất hợp pháp): 50%
Các loại tài sản bảo đảm khác: 30%
4. Đối với các khoản cho thuê tài chính, tài sản cho thuê được tính là tài sản bảo đảm.
Mục 2. Dự phòng chung
Điều 9.
1. Tổ chức tín dụng thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0,75 % tổng giá trị của các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này.
2. Trong thời hạn tối đa năm (05) năm kể từ ngày Quy định này có hiệu lực thi hành, tổ chức tín dụng phải thực hiện trích lập đủ số tiền dự phòng chung theo quy định tại Khoản 1, Điều này.
Mục 3. Sử dụng dự phòng
Điều 10.
Tổ chức tín dụng sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng đối với các khoản nợ trong các trường hợp sau đây:
1. Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật; cá nhân bị chết hoặc mất tích.
2. Các khoản nợ thuộc nhóm 5 được quy định tại Điều 6 và Điều 7 Quy định này. Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, tổ chức tín dụng được sử dụng dự phòng (nếu có) để xử lý rủi ro tín dụng.
Điều 11.
1. Tổ chức tín dụng thực hiện việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng một quý một lần. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo những nguyên tắc sau:
a) Sử dụng dự phòng cụ thể quy định tại Khoản 1 Điều 8 Quy định này để xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản nợ đó.
b) Phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ: Tổ chức tín dụng phải khẩn trương tiến hành việc phát mại tài sản bảo đảm theo thoả thuận với khách hàng và theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ.
c) Trường hợp phát mại tài sản không đủ bù đắp cho rủi ro tín dụng của khoản nợ thì được sử dụng dự phòng chung để xử lý đủ.
2. Việc tổ chức tín dụng sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng không phải là xoá nợ cho khách hàng. Tổ chức tín dụng và cá nhân có liên quan không được phép thông báo dưới mọi hình thức cho khách hàng biết về việc xử lý rủi ro tín dụng.
3. Sau khi đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng phải chuyển các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng từ hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp để thu hồi nợ triệt để.
4. Sau năm (05) năm kể từ ngày sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng được xuất toán các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng ra khỏi ngoại bảng đối với các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 10 Quy định này. Riêng đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước, việc xuất toán chỉ được phép thực hiện sau khi được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chấp thuận.
Điều 12.
1. Trường hợp số tiền dự phòng không đủ để xử lý toàn bộ rủi ro tín dụng của các khoản nợ phải xử lý, tổ chức tín dụng hạch toán trực tiếp phần chênh lệch thiếu của số tiền dự phòng vào chi phí hoạt động.
2. Trường hợp số tiền dự phòng đã trích còn lại lớn hơn số tiền dự phòng phải trích, tổ chức tín dụng phải hoàn nhập phần chênh lệch thừa theo quy định của pháp luật về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng.
Điều 13.
1. Tổ chức tín dụng phải thành lập Hội đồng xử lý rủi ro do Chủ tịch Hội đồng quản trị làm Chủ tịch và các thành viên gồm Trưởng ban kiểm soát, phụ trách bộ phận kế toán, phụ trách bộ phận tín dụng, quản lý tín dụng và các thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng quản trị quyết định.
2. Đối với các tổ chức tín dụng không có Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, Hội đồng xử lý rủi ro bao gồm Tổng giám đốc (Giám đốc) làm Chủ tịch và các thành viên khác do Tổng giám đốc (Giám đốc) quyết định.
Điều 14.
Nhiệm vụ của Hội đồng xử lý rủi ro:
1. Xem xét việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của quý hiện hành do Tổng giám đốc (Giám đốc) thực hiện.
2. Xem xét báo cáo tình hình theo dõi, sao kê và thực hiện thu hồi nợ đối với các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng.
3. Quyết nghị việc xử lý rủi ro tín dụng của quý hiện hành và phương án thu hồi nợ trong quý (tháng) tiếp theo đối với các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng, trong đó phải xác định rõ thời gian và những biện pháp để thu hồi nợ.
Điều 15.
Hồ sơ để làm căn cứ cho việc xử lý rủi ro tín dụng:
1. Hồ sơ về cho vay và thu nợ; hồ sơ về chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác; hồ sơ về bảo lãnh, cam kết cho vay; hồ sơ về cho thuê tài chính; hồ sơ về tài sản bảo đảm và các giấy tờ khác có liên quan.
2. Đối với những trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 11 Quy định này, ngoài hồ sơ nêu tại Khoản 1 Điều này còn phải có:
a) Đối với khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp:
- Bản sao Quyết định tuyên bố phá sản của toà án hoặc quyết định giải thể của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
- Bản sao báo cáo thi hành quyết định tuyên bố phá sản và báo cáo kết thúc việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản của Phòng thi hành án, văn bản giải quyết các khoản nợ của tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể.
b) Đối với khách hàng là cá nhân:
- Bản sao giấy chứng tử, giấy xác nhận mất tích do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Điều 16.
Mọi khoản tiền thu hồi được từ các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng bằng dự phòng rủi ro hạch toán theo quy định của pháp luật về chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng.
Mục 4. Hạch toán, báo cáo
Điều 17.
1. Dự phòng chung và dự phòng cụ thể được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng.
2. Dự phòng chung và dự phòng cụ thể được hạch toán vào tài khoản "Dự phòng rủi ro". Tổ chức tín dụng thực hiện hạch toán việc trích lập, sử dụng dự phòng, số tiền thu hồi được sau khi đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Điều 18.
1. Tổ chức tín dụng phải báo cáo việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định về Chế độ báo cáo thống kê áp dụng đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành.
2. Trước ngày 15 tháng thứ hai của mỗi quý, tổ chức tín dụng phải báo cáo việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng cho Bộ Tài chính và Cục thuế tỉnh, thành phố nơi tổ chức tín dụng đặt trụ sở chính như sau:
a) Tổ chức tín dụng phân loại nợ theo quy định tại Điều 6 Quy định này lập báo cáo phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng theo các mẫu biểu số 1A và 1B (đính kèm).
b) Tổ chức tín dụng phân loại nợ theo quy định tại Điều 7 Quy định này lập báo cáo phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng theo các mẫu biểu số 2A và 2B (đính kèm).
Mục 5. Tổ chức thực hiện
Điều 19.
1. Các ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài (trừ các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã được phép thực hiện theo Khoản 1 Điều 1 Quy định này) thực hiện việc trích lập dự phòng cụ thể và dự phòng chung theo Quy định này.
2. Các ngân hàng thương mại Nhà nước đánh giá tình hình trích lập dự phòng cụ thể và khả năng trích lập dự phòng chung báo cáo Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính xem xét quyết định trên cơ sở từng trường hợp cụ thể nhưng tối đa không quá năm (05) năm, các ngân hàng thương mại Nhà nước phải trích lập đầy đủ dự phòng theo Quy định này.
Mục 6. Kiểm tra và xử lý vi phạm
Điều 20.
1. Ngân hàng Nhà nước (Thanh tra Ngân hàng Nhà nước) có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tài chính kiểm tra việc thực hiện phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.
2. Trường hợp tổ chức tín dụng vi phạm Quy định này, tuỳ theo tính chất và hành vi vi phạm, sẽ bị xử lý như sau :
- Xử phạt hành chính.
- Tăng tỷ lệ trích lập dự phòng tương ứng với mức độ rủi ro của các khoản nợ.
- Hạn chế tín dụng, hạn chế mở rộng mạng lưới và nội dung hoạt động.
- Đình chỉ hoạt động đối với trường hợp vi phạm nghiêm trọng.
Chương III
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 21.
Việc sửa đổi, bổ sung và thay thế Quy định này do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Tài chính./.
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
THỐNG ĐỐC
(Đã ký)
Lê Đức Thuý
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích nợ xấu, để giảm thiểu rủi ro trong tín dụng của Ngân Hàng.DOC