Tập tính là một loạt các hoạt động phối hợp và thường dẫn tới hoạt động của một bộ phận cơ thể: ve vẩy tai, đuôi, đến mùa sinh sản các loài chim thường hót hoặc khoe lông, hoặc có sự tranh giành con cái bằng giao đấu Đôi khi tập tính lại là những phản ứng bất động VD như phản ứng tự vệ của con bọ que (giả chết).
Các phản ứng tập tính đều mang tính chất thích nghi, nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm tối đa những sự đe dọa trước mắt nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều hòa
Người ta chia làm hai loại tập tính cơ bản:
19 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 38857 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Tập tính ở động vật - Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PAGE
PAGE 3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA SINH HỌC
----- ------
CHUYÊN ĐỀ TẬP TÍNH HỌC ĐỘNG VẬT
Đề bài:
TẬP TÍNH KIẾM MỒI VÀ SĂN MỒI Ở ĐỘNG VẬT
Học viên : Ngô Như Hải
Lớp : Cao học K19
Người hướng dẫn : TS Nguyễn Lân Hùng Sơn
HÀ NỘI, 9 – 2010
I. Khái niệm về tập tính ở động vật
Tập tính ở động vật là một chuỗi các phản ứng trả lời các kích thích bên trong cũng như bên ngoài cơ thể nhờ đó mà động vật có thể tồn tại và phát triển được.
Cò bắt cá ở chỗ nước nông
Gấu bắt cá ở các vực nước
Màn song đấu của công
Tập tính là một loạt các hoạt động phối hợp và thường dẫn tới hoạt động của một bộ phận cơ thể: ve vẩy tai, đuôi, đến mùa sinh sản các loài chim thường hót hoặc khoe lông, hoặc có sự tranh giành con cái bằng giao đấu…Đôi khi tập tính lại là những phản ứng bất động VD như phản ứng tự vệ của con bọ que (giả chết).
Các phản ứng tập tính đều mang tính chất thích nghi, nghĩa là làm cho cơ thể sinh vật tiếp tục tồn tại, các phản ứng này giúp con vật tránh xa các mối nguy hiểm hoặc giảm tối đa những sự đe dọa trước mắt nhờ sử dụng một loạt các phản ứng điều hòa
Người ta chia làm hai loại tập tính cơ bản:
1. Tập tính bản năng (tập tính bẩm sinh nguyên thủy hay không do học tập)
Tập tính bản năng do nhân tố gen quyết định và thường không bị thay đổi bởi hoàn cảnh.
VD: Thủy tức khi có mồi chạm vào xúc tu, thủy tức sẽ tự đưa thức ăn vào miệng.
Đỉa sống trong nước, khi nghe có tiếng động trong nước sẽ tự động bơi lại phía đó để kiếm ăn.
2. Tập tính học tập
Tập tính học tập là kiểu hoạt động hình thành do kết quả của kinh nghiệm và có thể thay đổi bởi hoàn cảnh.
VD: Báo mẹ dạy con săn mồi: Sau khi bắt được con mồi, báo mẹ làm cho con mồi yếu đi rồi cho con tập săn mồi. Nếu báo được con người nuôi dưỡng từ nhỏ thì khi lớn lên được thả ra tự nhiên sẽ không có các kỹ năng săn mồi. Vì thế tập tính kiếm ăn của hầu hết các động vật bậc cao là tập tính học tập.
Báo mẹ dạy con săn mồi
Báo mẹ làm con mồi yếu đi
Ngoài ra còn có tập tính hỗn hợp: Vừa có tập tính học tập vừa có tập tính bản năng.
Cơ sở thần kinh của tập tính là các phản xạ. Các phản xạ thực hiện qua cung phản xạ
C¬ quan
thô c¶m
HÖ thÇn kinh
C¬ quan
Thùc hiÖn
KÝch thÝch
HoÆc trong
Hµnh ®éng
Kích thích là những tác nhân tác động vào con vật, kích thích có thể từ bên ngoài như ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, nồng độ oxi, độ pH (kích thích ngoài) tới làm con vật cảm nhận được thông qua các giác quan.
Kích thích có thể từ bên trong con vật do sự thay đổi sinh lý bên trong con vật (kích thích trong).
Một số dạng tập tính phổ biến ở động vật:
- Tập tính kiếm mồi và săn mồi.
- Tập tính bảo vệ vùng lãnh thổ.
- Tập tính phát tín hiệu báo động.
- Tập tính thách đấu.
- Tập tính sinh sản.
- Tập tính xã hội hay tập tính sống bầy đàn.
- Tập tính ích kỷ và lòng vị tha.
II. Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật
Các tác nhân kích thích như: hình ảnh, âm thanh con mồi phát ra, nhiệt độ cơ thể con mồi, mùi máu tanh…hình thành nên tập tính rình mồi, rượt đuổi mồi để tấn công và vồ mồi.
Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở các động vật khác nhau là khác nhau:
1. Đối với động vật có tổ chức thần kinh chưa phát triển thì là tập tính kiếm mồi và săn mồi là tập tính bẩm sinh.
Đàn kiến ăn sâu
Bọ ăn sâu
VD: Ong bắp cày ký sinh Aphidius colemani là một loài ký sinh ăn tạp, tấn công nhiều loài rệp vừng.
Sau khi giao phối, con cái tấn công một con rệp vừng, đưa cơ quan đẻ trứng của nó vào khoang bụng của con rệp vừng. Bất cứ loài rệp vừng nào cũng phù hợp làm con mồi đối với ong bắp cày.
Con ong bắp cày cái A. colemani (trái)
đang tấn công 1 con rệp vừng
Khi ở trong cơ thể rệp vừng, các trứng tăng kích thước nhiều lần so với kích thước ban đầu của nó. Ấu trùng sau đó nở và bắt đầu ăn ở dạng thấm lọc. Ấu trùng ký sinh sau đó cắt một đường rạch nhỏ bên trong rệp vừng, gắn lớp biểu bì với lá bởi tơ và cuối cùng tạo thành kén trong con rệp vừng đang chết, tạo thành nhộng. Khi trưởng thành, ong bắp cày ký sinh sẽ cắt một lỗ tròn ở phần ngoại biên phía trên của “xác ướp” (giữa các tuyến rệp sáp) để chui ra ngoài.
2. Đối với động vật có hệ thần kinh phát triển tập tính bắt mồi và săn mồi rất phong phú và phức tạp.
Phần lớn các tập tính này được hình thành do học tập từ bố mẹ của chúng hay đồng loại hoặc do kinh nghiệm của bản thân và chúng được hoàn thiện dần để đảm bảo sự sống sót của các loài trong tự nhiên.
Hai anh em báo đang tấn
công một con linh dương
Một con sư tử cái đang tấn công đàn ngựa vằn
3. Trái lại ở con mồi khi phát hiện ra kẻ thù thì có tập tính lẩn trốn, bỏ chạy hoặc tự vệ
Trong đa số trường hợp con mồi bị truy đuổi quá gần thì lập tức nó chuyển từ trạng thái trốn chạy sang tư thế tấn công.
Khi gặp kẻ thù thường biểu hiện tư thế dọa nạt, thú ăn thịt thì nhe răng, giơ vuốt, thú móng guốc thì dậm chân. Một số loài thì xù lông lên và dựng đứng người.
Các loài khỉ thường có tập tính bẻ cành ném xuống thậm chí phóng uế vào mặt kẻ thù.
Thỏ bỏ chạy khi bị chó tấn công
Nhím xù lông để tự vệ trước
kẻ thù
Có những loài chọn những cách tự vệ kì dị, như giả chết, cuộn tròn thân mình hay biến mình thành vũ khí khó nuốt...
VD: Loài thú có túi Opssum châu Mỹ, sinh sống chủ yếu từ Canada tới nước Costa Rica. Bình thường chúng vẫn có những phản ứng khi gặp nguy hiểm giống như các loài có túi khác: kêu rít lên, cào cấu và nhe răng. Nếu tình thế nguy hiểm hơn chúng có thể cắn ác ý.
Tuy nhiên, nếu tình thế trở nên cực kỳ nguy hiểm chúng sẽ thực hiện “kế hoạch B” của mình: giả chết. Con vật sẽ thả rơi mình xuống đất, miệng nhỏ dãi như thể bị ốm, nằm bất động với cái miệng mở ra. Bên cạnh đó, nó tiết ra một chất có mùi như xác chết từ tuyến hậu môn của mình.
Hầu hết các loài ăn thịt thích giết ngay con mồi của mình, còn không có hứng thú với những con vật đã chết. Chính điều này giúp con thú gặm nhấm này thoát chết.
Loài vượn cáo Tây Phi thuộc họ linh trưởng. Vượn cáo là loài thú sống về đêm, thức ăn chủ yếu là nhựa cây, hoa quả và các loài động vật nhỏ. Vì di chuyển chậm chạp, các loài ăn thịt dễ dàng đe dọa mạng sống của chúng. Vì vậy, chúng có một cách tự vệ rất đặc biệt.
Vượn cáo tránh được những cú cắn chết người nhờ sự phòng vệ độc đáo. Chúng mở rộng phần cột sống từ cổ tới vai, tạo thành những điểm lồi, giống như một thứ vũ khí đặc biệt. Điều này, ngoài việc đe dọa kẻ thù, còn khiến cho chúng khó bị nuốt hơn. Những phần cột sống này cũng có tác dụng như một chiếc khiên, bảo vệ phần cổ của con vượn cáo khỏi những cú cắn chết người của kẻ thù vào những điểm yếu như cổ hay sau đầu.
Tê tê. Với lớp vảy cứng, loài tê tê gần như không phải lo ngại kẻ thù nào. Loài vật này sống chủ yếu ở châu Phi và châu Á. Tê tê có vẻ bề ngoài khá kì dị với lớp vỏ giáp khiến chúng trông như những nón thông khổng lồ di động.
Thức ăn chủ yếu của chúng là các loài sâu bọ. Chúng có những móng vuốt lớn và đầy sức mạnh, nhưng lại hiếm khi sử dụng. Thay vào đó, nó cuộn người lại như một quả bóng, khiến chúng rất khó bị loài thú ăn thịt trải ra. Phần rìa sắc nhọn của lớp vảy khiến chúng rất khó bị tác động bởi hầu hết các loài ăn thịt.
Ngoài ra, chúng có thể tặng cho kẻ thù những cú quất đuôi mạnh mẽ, gây ra những tổn thương nghiêm trọng
Tê tê có thể cuộn mình thành quả bóng và lăn trốn rất nhanh. Giải pháp cuối cùng của loài tê tê để phòng thủ là tiết ra một chất hôi thối, dinh dính từ hậu môn để đẩy lùi kẻ thù. Chính vậy, loài thú này hiếm khi phải lo lắng về những kẻ thù của mình.
Tatu. Cuộn mình như quả bóng da, không một khe hở cho kẻ thù là cách tự vệ của tatu. Loài tatu ở Nam Mỹ còn đặc biệt hơn ở khả năng cuộn thành một quả bóng hoàn hảo. Ngoài lớp vỏ giáp ngoài cột chặt thít, phần đầu và đuôi đan vào nhau khi loài vật này cuộn thành quả bóng. Điều này giúp chúng hoàn toàn an toàn trước mọi kẻ thù.
Trông tatu giống như một con vật mặc áo giáp vàng. Mọi người vẫn nghĩ, loài tatu với lớp áo giáp nặng nề, bảo vệ nó giống như mai rùa sẽ không bị các loài thú ăn thịt tiêu diệt. Tuy nhiên, chúng không dựa vào lớp vỏ dày dặn đó để bảo vệ trước các loài thú ăn thịt lớn. Thay vào đó, chúng tự đào hố để chôn mình dưới đất để trốn thoát.
Ngoài ra, chúng có một trò tự vệ đặc biệt nữa là, tạo nên âm thanh kì lạ trước khi cuộn tròn thành quả bóng, khiến cho kẻ thù giật nảy mình. Chính vì vậy, những con tatu không cần phải đào lấy hang cho mình mà sử dụng những cái hang đã đào của các loài vật khác
Nhím có mào. Loài nhím có mào sinh sống ở châu Phi và cả ở phía Nam châu Âu, chủ yếu là ở Italia. Chúng được coi là loài gặm nhấm lớn nhất trên thế giới và cũng là một trong những loài thú có vú tự bảo vệ mình tốt nhất. Loài nhím có mào có thể gây chết kẻ thù bằng cách đâm lông vào kẻ thù.
Vũ khí lợi hại của chúng là những chiếc lông cứng và sắc nhọn bằng keratin. Nên dù màu sắc của lông thường là trắng và đen, khiến chúng dễ bị kẻ thù phát hiện từ xa nhưng chúng vẫn có thể an toàn.
Khi bị đe dọa, chúng thường lắc cái lông đuôi, tạo ra những tiếng ồn để đe dọa kẻ thù. Nếu không hiệu quả, chúng cố gắng quay lưng, tấn công hay đâm kẻ thù bằng phần lông cứng ở thân. Chúng có chất kháng sinh trong máu giúp không bị nhiễm độc khi gặp tai nạn.
Những chiếc lông nhím rất dễ gãy. Khi chúng đi vào cơ thể kẻ thù gây nhiễm trùng từ những vết thương như vậy. Nguy hiểm hơn, khi những cái lông cứng chọc sâu vào thịt, chúng phá hoại các mạch máu và cả nội tạng.
Ngoài ra, ở sinh vật còn có trường hợp thay đổi ngoại hình để nó trở nên lẫn vào môi trường xung quanh gọi là ngụy trang. Đây là hành vi (tập tính) của sinh vật nhằm trốn tránh khỏi khả năng quan sát của đối tượng khác. Tập tính này có thể giúp sinh vật trốn tránh kẻ thù hoặc dễ dàng hơn trong việc săn mồi.
Luôn có sự tiến hóa liên tục trong khả năng phát hiện sự trá hình và tương tự năng lực ẩn trốn cũng biến đổi luôn luôn. Ở mỗi cặp động vật săn đuổi-trốn tránh, cấp độ tiến hóa trá hình và phát hiện khác nhau.
Ví dụ của ngụy trang như những đường vằn trên lưng con hổ lẫn vào trong môi trường để dễ dàng săn mồi hơn.
Hổ Sumatra
Những vạch đen trên da ngựa vằn khiến rất khó phân biệt từng cá thể làm kẻ thù khó tấn công.
- Ngụy trang có thể là động vật hòa mình vào môi trường xung quanh.
Bọ lá
Con cá bõn lẫn với môi trường xung quanh
Một con thằn lằn HYPERLINK "" \o "Anolis caroliensis (trang chưa được viết)"Anolis caroliensis với khả năng đổi màu da giống hệt môi trường xung quanh gần nhý trở thành 1 phần của cành cây
- Cách khác là động vật biến hình thành thứ gì khác hấp dẫn hoặc có vẻ ngoài nguy hiểm. Một số động vật ẩn trốn làm giả chuyển động trong tự nhiên, ví dụ chiếc lá trong gió.
Các động vật khác gắn liền hoặc lấy những vật liệu trong tự nhiên đắp lên thân mình để ẩn náu.
Con mực con trốn trên bề mặt đáy cát
Con bọ ngựa rừng HYPERLINK "" \o "Madagascar"Madagascar
Những con cú ở Australia hòa lẫn với màu của vỏ cây
Nhện Cyclosa mulmeinensis có khả năng tự tạo những vật trang trí có hình dạng và màu sắc giống cơ thể chúng, nhằm đánh lạc hướng kẻ thù chính là ong bắp cày.
Loài nhện này trang trí mạng của chúng bằng xác côn trùng chết và bao trứng của chúng. Do đó ong bắp cày không thể phân biệt được nhện với những vật trang trí trên mạng.
4. Tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật phụ thuộc vào nguồn thức ăn mà chúng sử dụng. Dựa vào nguồn thức ăn mà chia động vật ra: Nhóm ăn thực vật, nhóm ăn thịt, nhóm ăn tạp. Các nhóm động vật khác nhau có tập tính kiếm ăn là khác nhau.
4.1. Nhóm ăn thực vật
4.1.1. Nhóm ăn cỏ: Ngựa, bò, dê, cừu, thỏ, gặm nhấm…
Capybara: các răng cửa rất to hiệu quả để gặm cỏ ngắn còn lại sau mùa khô, chúng hoạt động suốt đêm, các bữa ăn được xen kẽ giữa các giấc ngủ ngắn.
Hyrax: răng lại không thích hợp với chế độ ăn cỏ thô. Các răng cửa trông như răng nanh hầu như không được sử dụng vì vậy con vật phải nghiêng đầu một bên và dùng các răng má.
4.1.2. Nhóm ăn cành, lá, vỏ cây: hươu, hươu cao cổ, voi, thỏ rừng, hải ly, lười…
Hải ly: Vào mùa đông hải ly góp nhặt và tích trữ các loại cây thân mộc trong ao Hải ly dựa vào nguồn thức ăn này trong suốt mùa đông. Vào mùa hè, khi có nhiều lựa chọn hơn về thức ăn Hải ly chuyển sang ăn lá mềm..
Với móng vuốt và hàm răng sắc nhọn, loài hải ly là một trong loài thú có khả năng xây đập nổi tiếng
Đây là loài nổi tiếng với việc dùng gỗ, bùn đất và đá để "xây dựng” các đập nước. Mục đích là tạo nên một con hào nhằm bảo vệ cho gia đình của mình. Những chiếc đập như vậy sẽ ngăn chặn được những loài thú săn mồi như chồn, cáo, sói, gấu. Đồng thời chúng cũng sẽ giúp hải ly dễ dàng kiếm thức ăn hơn trong mùa đông.
4. 1.3. Nhóm ăn quả: Khỉ, voọc mũi hếch, vươn đen họ cáo có túi, chuột sóc, nhím…
4.1.4. Nhóm ăn hạt: Chuột lớn, chuột nhắt, chuột gerbil, gundi, sóc…
Sóc ưa ăn hạt dẻ nhất, thường tìm và ăn hạt
1.5. Nhóm ăn rễ: chuột túi và chuột ăn rễ, wom bat…
1.6. Nhóm ăn nước mật và phấn hoa:
Possum mật có mõm dài và nhọn để đưa sâu vào bên trong đầu hoa, chót lưỡi có gai nhọn như bàn chải để liếm nước mật ngọt.
4.2. Nhóm ăn thịt: Bộ ăn thịt, bộ chân màng, bộ cá voi..
Thức ăn: thân mềm, giun, sâu bọ, lưỡng cư, bò sát nhỏ và các loài thú ăn thực vật.
4.2.1. Thú ăn sâu bọ:
Tê tê là đại diện điển hình của thú ăn sâu bọ. Để sống và tồn tại hàng ngày chúng cần bắt 1 lượng côn trùng rất lớn kể cả sâu bọ có nọc độc như ong, kiến…
Tê tê có tập tính bắt mồi rất lạ: Miệng tê không có răng và cũng không há ra được, thực chất giống như một lỗ nhỏ. Tê tê dùng cái lưỡi rất dài thò qua miệng, phóng tới tấp vào các khe nhỏ của tổ mối, kiến. Lưỡi nó có chất dính và bằng động tác thò ra thụt vào cứ thế kiến, mối bị lôi tuột vào miệng, rồi tê tê nuốt chửng.
4.2.2. Thú săn mồi khác
Thường các loài thú ăn thịt, quá trình bắt mồi gồm 5 giai đoạn
a. Giai đoạn 1
Con săn mồi cùng 1 loài thường phải ganh đua nhau kịch liệt mới có thể sống được. Có thể là con vật cô độc (hổ, mèo) hoặc một đôi vợ chồng cùng với con cái (cáo), hay cả nhóm sống theo bầy đàn (sư tử, linh cẩu, chó sói, chó rừng..)
Chúng giới hạn lãnh thổ của mình bằng sự đánh dấu khứu giác, cũng bằng cả những giọng luyến ở cách xa: tiếng gầm của sư tử, tiếng hú của chó sói, tiếng gầm gừ của linh cẩu.
b. Giai đoạn 2
Dò tìm con mồi bằng cách theo dõi và rình con mồi nhờ vào những nhóm giác quan đã hoàn hảo. Loài động vật có vú cùng 1 lúc sử dụng cả khứu giác, thị giác và thính giác.
Những động vật ăn thịt có kích thước lớn tiến tới sát “con vật săn” mà không gây ra 1 tiếng động nào bằng cách lẩn trốn những cặp mắt sau những hốc đá hay lùm cây và tránh được chiều gió thổi.
c. Giai đoạn 3
Có những kỹ thuật chính để săn bắt con mồi theo đuổi, mai phục, thăm dò và tóm gọn con mồi. Sự rượt đuổi đòi hỏi những điều kiện thích nghi với tốc độ và sự nhanh nhẹn.
Những con săn mồi tấn công những con mồi lớn hơn cơ thể nó hoặc tập hợp lại thành nhóm để tự vệ hay cùng nhau săn bắt và cùng nhau chia những con mồi săn được. Ba tính chất quan trọng lúc rình mồi là: kín đáo, chăm chú theo dõi và nhanh nhẹn khi tấn công.
d. Giai đoạn 4
Những con săn mồi phải giết chết nạn nhân đã rồi mới ăn thịt.
Những miếng mồi có kích thước to lớn phải được tiêu hóa ở nơi kín đáo, tránh những con mắt soi mói hoặc ít ra là không bị lấy cắp.
e. Giai đoạn 5: Tiêu thụ con mồi
Những thú ăn thịt bé hơn: Cầy giông, cầy hương, mèo rừng…mỗi ngày ăn 3 – 4 con chuột mới no nhưng khi không bắt được mồi chúng cũng ăn cả sâu bọ và giun đất.
Các loài thú vốn là ăn thịt như gấu ngựa nhưng do không đủ thức ăn chúng đã dần trở thành thú ăn tạp, ngoài thịt, thức ăn của chúng còn là trái cây (dẻ, chuối, sung, tai chua, củ mài, củ ráy…).
Các kiểu bắt mồi:
- Mèo, báo,hổ, sư tử chủ yếu rình mồi rồi bất chợt vồ mồi à phù hợp với việc kiếm ăn trong rừng có những bụi cây rậm rạp, cỏ mọc cao.
- Cáo cũng rình mồi và vồ mồi bất chợt, nhiều khi chúng còn rượt đuổi con mồi à thích nghi vơi lối sống ở bìa rừng hoặc trong rừng thưa của cáo.
- Cậy đông: Loài linh cẩu đốm Phi châu sử dụng những thủ đoạn dọa dẫm và quấy nhiễu cho đến khi con kia chịu không nổi phải bỏ đi cho yên thân.
4.3. Nhóm ăn tạp: chuột Gerbil, gấu xám, sóc, lợn, chó sói bờm, cáo hung…
Lợn: ăn tạp các cây, củi, rễ..
Tập tính kiếm mồi điển hình của một số động vật
Sư tử.Được mệnh danh là chúa tể của rừng nhiệt đới, sư tử săn cả những con mồi lớn nhất như trâu và linh dương đầu bò. Thành công gần như tuyệt đối của những kẻ săn mồi này là nhờ sự kết hợp giữa những kĩ năng.
Sư tử sống thành bầy và tất cả thành viên cùng nhau đi săn. Những sư tử con sớm học được các kĩ năng săn mồi nhờ trò chơi chiến đấu cùng nhau.
Tỉ lệ thành công trong cuộc đi săn của sư tử chỉ có 1/5 nhưng những khả năng săn mồi được nhấn mạnh khi chúng ta xem xét những con mồi của chúng – đều là những động vật lớn và có khả năng chống trả quyết liệt.
Kiếm mồi đơn lẻ
Kiếm mồi bầy đàn
Cá sấu. Không gì đe dọa bằng một kẻ săn mồi luôn ẩn mình dưới nước, ngụy trang lẫn trong môi trường, im lìm quan sát con mồi để lên kế hoạch giết gọn.
Cá sấu, một kẻ săn mồi lén lút và cực kì tàn bạo. Với bộ hàm cực khỏe và những chiếc răng dài sắc nhọn, cá sấu săn nhiều loài khác nhau.
Một vài loài, như cá sấu sông Nile, có thể đốn ngã những con mồi rất lớn như ngựa vằn hoặc trâu. Đặc trưng tấn công của nó là nằm chờ ở mé nước nơi động vật tìm đến uống nước và sau đó lôi tuột con vật không may xuống nước để bắt đầu cắn xé cho đển khi có được những khoanh thịt cho bữa ăn.
Tập tính kiếm ăn của báo
R×nh måi
§uæi måi
C¾n cæ ®Ó con måi mÊt m¸u vµ chÕt
Ở những động vật bậc cao chúng còn có khả năng học khôn, tự sáng tạo ra các công cụ trong quá trình kiếm ăn.
Tinh tinh biÕt dïng cµnh c©y ®Ó b¾t mèi trong tæ ¨n.
Ngoài ra 1 số loài cộng sinh với các loài khác để kiếm ăn
VD: Loài cò ruồi chuyên đậu trên lưng trâu bò để bắt ruồi muỗi
Cá sấu há miệng cho chim bay vào vệ sinh răng miệng sau mỗi lần ăn.
Một số chim ăn ong mật thường dẫn thú đến phá tổ sau đó thì ăn xác ong đã chết.
Một số loài chim kiếm ăn ở nước thường cũng có những tập tính kiếm mồi chuyên hóa, có thể lặn xuống nước để đuổi bắt cá
5. Con người và việc “kiếm ăn”
Cũng như động vật, ở người cũng có những tập tính bẩm sinh. Con người qua giáo dục, học tập và rèn luyện đã xây dựng được những tập tính mới, thói quen và có khả năng kiềm chế, không để thể hiện những tập tính bẩm sinh không phù hợp với xã hội văn minh.
Như vậy việc “kiếm ăn” của con người cũng khác xa hoàn toàn so với động vật khác, bởi con người có tư duy, ý thức và có văn hóa.
6. Ý nghĩa của việc kiếm mồi và săn mồi ở động vật.
Để tồn tại và phát triển, các động vật có nhu cầu tìm kiếm thức ăn nói chung và săn mồi nói riêng. Đây là những tập tính bảo đảm sự sống còn của các loài động vật
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Văn Tiến. Tập tính học là gì?, Nxb KH & KT
Trang web
2. HYPERLINK ""
3. HYPERLINK ""
4. HYPERLINK ""
5. HYPERLINK ""
6. HYPERLINK ""
7. HYPERLINK ""
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyên đề- Tập tính ở động vật - tập tính kiếm mồi và săn mồi ở động vật.doc