Chuyên đề Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu

LỜI MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, là một nước nông nghiệp trên 70% lực lượng lao động hoạt động trong ngành nông nghiệp, vì thế Đảng và Nhà nước ta đã xác định nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược nhằm sử dụng lực lượng lao động rất lớn trong nông nghiệp, phân công lại lực lượng lao động và tạo nguồn ban đầu cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Thế Giới, việc xuất khẩu của các quốc gia có vai trò rất quan trọng. Việc hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam ngày càng quan trọng và cần thiết bởi nước ta vẫn là nước đang phát triển, có hội nhập thì chúng ta mới phát triển được. Với những điều kiện hết sức thuận lợi như nước ta hiện nay, việc phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản đang là một xu hướng tất yếu để góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu và sự phát triển của nền kinh tế, nhất là khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới (WTO). Trong bối cảnh thế giới đang suy thoái toàn cầu. Hiện nay thì Việt Nam phải có những hướng đi đúng đắn và có biện pháp thích hợp trong việc xuất khẩu các mặt hàng nông sản như thế nào. Ý thức được điều này, em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu” 2. Mục đích nghiên cứu Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu nhằm - Tình hình tăng hay giảm xuất nhập khẩu nông sản ở Việt Nam - Những thành công và hạn chế - Vị thế của nông sản Việt Nam trên thế giới Nêu ra một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu như - Dự báo xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010- 2020 - Quan điểm phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010-2020 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong năm 2007-2009 Một số mặt hàng nông sản chủ yếu như gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu 4. Phương pháp sử dụng nghiên cứu - Phương pháp thống kê - Phương pháp so sánh - Phương pháp thay thế liên hoàn 5. Kết cấu của đề tài Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương: - Chương I: Tổng quan về suy thoái kinh tế toàn cầu và những ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản - Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu - Chương III: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu

doc70 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3947 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam. Xuất khẩu hồ tiêu sang Anh, Tây Ban Nha và Hàn Quốc cũng tăng trưởng khá tốt, trên 45%. Hàn Quốc từ vị trí 17 năm 2007 nhảy lên vị trí 15 năm 2008, Anh từ vị trí 14 lên vị trí 12 và Tây Ban Nha từ 12 lên thứ 8. Trong khi đó, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam năm 2008 sang một số thị trường như Đức, các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất, Pakistan, Ấn Độ và Ukraine lại giảm so với năm 2007. Thị trường Pakistan giảm nhập khẩu hồ tiêu nhiều nhất từ Việt Nam (-42,82%) trong khi Ấn Độ giảm 32,57%, còn Đức và các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất có mức giảm tương ứng là 10,5% và 12,03%. III. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU 1. Những thành tựu đạt được 1.1. Kết quả phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản trong bối cảnh suy giảm kinh tế tế toàn cầu. Quy mô thương mại nông sản ngày càng được mở rộng cả về thị trường lẫn mặt hàng, nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt vị trí cao trên thị trường thế giới. Mặc dù cũng chịu tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn có được vị trí cao trên thị thế giới về khối lượng xuất khẩu như gạo (thứ 2), cà phê (thứ 1 về cà phê robusta), hạt tiêu (thứ 1), hạt điều (thứ 2), cao su tự nhiên (thứ 5), v.v… Phạm vi thị trường của hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam cũng từng bước được mở rộng, hiện có mặt tại khắp các châu lục (Châu Âu, Châu Á, Bắc Mỹ và Mỹ Latinh, Châu Phi, Úc và Newzeland). Xuất khẩu nông sản đạt mức tăng trưởng cao và liên tục xuất siêu mặc dù thương mại chung trong tình trạng nhập siêu. Do chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế nên nhu cầu nhập khẩu của các nước giảm, tuy nhiên xuất khẩu nông sản của Việt Nam vẫn đạt mức cao về sản lượng. Xuất khẩu những mặt hàng nông sản chủ lực Xuất khẩu nông sản đã xây dựng được nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao, hình thành được cơ cấu thị trường xuất khẩu tương đối ổn định. Những mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu lớn của nước ta trong những năm vừa qua là gạo, cà phê, cao su, điều, tiêu, chè. Những mặt hàng này trung bình chiếm khoảng gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản giai đoạn 2001-2008. Bảng 2.7: Một số các mặt hàng nông sản có kim ngạch lớn trong giai đoạn 2001-2008. Thứ tự về kim ngạch Thứ tự về tăng trưởng Tên mặt hàng Mã HS Trung bình 2001-2008 Kim ngạch (triệu USD) Tăng trưởng (%) 1 24 Gạo 1006 1024019702.0 17.0 2 16 Cà phê 901 794628973.0 35.3 3 12 Cao su 4001 631497336.0 41.8 4 15 Điều 801 378584114.0 36.8 5 22 Tiêu 904 152505463.0 20.9 6 28 Chè 902 93357047.5 12.0 (Nguồn: Tính toán từ số liệu của TCHQ) Các thị trường chính của xuất khẩu nông sản Việt Nam Thị trường chính về xuất khẩu nông sản của Việt Nam là Châu Á và một số nước Châu Mỹ, Châu Âu. Những thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam xét theo kim ngạch là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Philippine, Đức, Đài Loan, Anh, Irắc, Hàn Quốc và Malaysia. Những thị trường này trung bình chiếm trên 55% tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2009. Các thị trường có tiềm năng cho xuất khẩu nông sản Việt Nam Các thị trường tiềm năng cho xuất khẩu nông sản nằm ở Châu Phi, Trung Đông. Những thị trường mà trong những năm gần đây có tốc độ nhập khẩu cao hàng nông sản của Việt Nam như ở khu vực Châu Phi (Cote’Ivoire, Algeria, Ghana, Ai Cập, Nam Phi), Châu Mỹ (Mexico, Canada), Châu Á (Iran, Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, các tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất, Israel), Châu Âu (Thụy Sĩ, Hi Lạp, Phần Lan) dường như chưa thực sự được chú ý trong các chương trình xúc tiến thương mại quốc tế. 1.2. Sức cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản Xuất khẩu nông sản nhìn chung có lợi thế so sánh cao đối với các sản phẩm trồng trọt, thủy sản. So sánh chỉ số RCA của các mặt hàng nông sản của Việt Nam với một số đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Indonexia, Malaixia, Philippine cho thấy Việt Nam có lợi thế cạnh tranh cao ở các mặt hàng như cà phê, cao su nguyên liệu. So sánh về hiệu quả sản xuất một số ngành hàng nông sản của Việt Nam với các đối thủ cạnh tranh: Về diện tích gieo trồng, Việt Nam có lợi thế trong các ngành hồ tiêu và điều, diện tích trồng hồ tiêu của Việt Nam đứng thứ 4 thế giới và đứng diện tích trồng hồ tiêu đứng thứ 3. Về năng suất, Việt nam có lợi thế trong hai ngành hàng cà phê và hạt điều so với các nước xuất khẩu cạnh tranh khác như Brazil, Indonesia, Ấn Độ. Về sản lượng sản xuất, Việt Nam có lợi thế về sản lượng đối với hai ngành hàng điều và hồ tiêu. Về sản lượng xuất khẩu, điều và tiêu là những mặt hàng xuất khẩu đứng đầu thế giới của Việt Nam. So sánh về hiệu quả xuất khẩu: Tính theo chỉ số kim ngạch xuất khẩu nông sản/lao động nông nghiệp thì Việt Nam cao hơn một số nước, cụ thể là Trung Quốc và Indonexia: Kim ngạch xuất khẩu nông sản/lao động nông nghiệp của Việt Nam đạt 290 USD/lao động (2005) và 355,7 USD/lao động (2006), Indonesia đạt 208 USD, Trung Quốc chỉ đạt 17 USD (2005). Cao nhất vẫn là Hoa Kỳ đạt 49270 USD (2006) và thứ hai là Thái Lan - 1218 USD (2005). 1.3. Chuỗi giá trị thương mại xuất khẩu Kênh xuất khẩu qua các khâu từ Người sản xuất (chủ yếu là nông hộ nhỏ lẻ; trang trại, HTX) qua các nấc trung gian là thương lái, doanh nghiệp kinh doanh thực hiện sơ chế và xuất khẩu. Ở khâu xuất khẩu chủ yếu là xuất khẩu tại cảng Việt Nam, chưa thiết lập được hệ thống phân phối đến thị trường quốc tế. Các Doanh nghiệp mới chủ yếu tập trung vào thu mua và xuất khẩu hàng hóa nông sản thô, chưa qua chế biến, không có thương hiệu nên giá trị thấp. Ít có doanh nghiệp tập trung đầu tư vào sản xuất, bảo quản, chế biến và xây dựng thương hiệu. Đối với hoạt động xuất khẩu, hiện nay hầu hết các loại hàng hóa nông sản chính do các công ty nhà nước thực hiện và các công ty này buôn bán theo hai cơ chế chính: + Xuất khẩu gián tiếp nông sản (cà phê, cao su, điều, tiêu, v.v…) qua trung gian (là các công ty nước ngoài, các đại lý ủy thác của các công ty nước ngoài tại Việt Nam hoặc các đầu nậu tại biên giới); + Xuất khẩu trực tiếp theo hợp đồng chính phủ (gạo, chè, v.v…). 1.4. Hội nhập kinh tế quốc tế. Việc tham gia và thực hiện các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế nhìn chung đã tác động tích cực tới thương mại nói chung và thương mại nông sản nói riêng. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã chủ động và tích cực tham gia vào quá trình đàm phán, gia nhập và thực hiện nhiều hiệp định tự do hóa thương mại (song phương, đa phương và khu vực). Việc tham gia và thực hiện các cam kết tự do hóa thương mại trong khuôn khổ các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực đã giúp mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản, góp phần quan trọng tới tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống của các hộ gia đình và người lao động. Ngoài ra, hiệp định thương mại là động lực của các nỗ lực cải cách có hệ thống của Việt Nam; các yêu cầu về nội dung và các thời hạn mà Hiệp định đặt ra giúp Việt Nam: - Xây dựng một hệ thống luật pháp thương mại và thủ tục quản lý pháp quyền phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và nhu cầu của nền kinh tế thị trường - Thúc đẩy sự phát triển của một số ngành dịch vụ còn yếu kém - Tăng trưởng đầu tư và xuất khẩu thông qua việc mở cửa thị trường. 2. Những hạn chế 2.1. Kết quả phát triển xuất khẩu nông sản trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu. Phát triển thương mại nông sản mới tập trung vào những thị trường-mặt hàng lớn, còn ít chú ý phát triển các thị trường-mặt hàng có nhiều tiềm năng. Trong hoạt động xuất khẩu, các chính sách và hỗ trợ phát triển thương mại nông sản cũng mới tập trung vào một số mặt hàng và một số thị trường nhất định vốn đã đạt được quy mô và vị trí tương đối tốt trên thị trường thế giới. Trong khi đó, nhiều mặt hàng và thị trường có tiềm năng lại chưa được quan tâm đúng mức. Trong hoạt động xuất khẩu chủ yếu vẫn là các sản phẩm nông sản thô, chưa có sản phẩm nông sản mũi nhọn có giá trị gia tăng cao, chế biến và thương hiệu mạnh nhập khẩu nguyên liệu chế biến một số ngành hàng lớn Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực trong thời gian qua vẫn chủ yếu vẫn là lúa gạo, cà phê, cao su…Chưa có những sản phẩm chế biến có thương hiệu mang tầm quốc tế. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu mới dừng lại ở cấp độ thấp trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, chủ yếu là các doanh nghiệp quốc tế đến thu gom, chưa trực tiếp tạo lập được kênh phân phối trực tiếp đến tay người tiêu dùng trên thị trường quốc tế. Một số mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhưng chi phí nhập khẩu nguyên liệu chế biến chiếm phần lớn trong kết cấu chi phí như điều… Phát triển thương mại nông sản còn hạn chế vì chưa làm tốt công tác quản lý và nâng cao chất lượng. Do chưa làm tốt công tác quản lý và nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản xuất khẩu nên xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các thị trường nhập khẩu có yêu cầu chất lượng hàng hóa cao, chính sách quản lý thị trường chặt chẽ và cả các chính sách bảo hộ hợp lý thông qua các yêu cầu về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm. 2.2. Sức cạnh tranh Nhiều mặt hàng nông sản chưa tạo ra được lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế nông nghiệp còn chưa cao. Nền kinh tế Việt Nam tham gia vào thị trường thế giới với tư cách một nước có trình độ công nghệ chưa phát triển, các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm sơ chế. Giá hàng hóa Việt Nam năm 2009 giảm có thể giải thích bởi một số nguyên nhân sau: - Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu khiến nhiều nước lâm vào suy thoái kinh tế, nhiều người lâm vào cảnh thất nghiệp, thu nhập của các hộ gia đình bị giảm sút. Bởi vậy khả năng chi trả và sự sẵn lòng chi trả của người dân các nước nhập khẩu hàng Việt Nam cũng bị giảm theo, khiến cho giá hàng Việt Nam thấp hơn dự kiến. - Những mặt hàng nông sản của Việt Nam thường có chất lượng kém đồng đều và thấp hơn so với các nước khác trên thế giới, do việc sử dụng nhiều thuốc trừ sâu, phân bón hóa học, kéo theo giá hàng hóa bị giảm xuống thấp hơn so với giá trên thị trường thế giới ( ví dụ, chè Việt Nam chỉ bán được với giá 1.100 đô la Mỹ/ tấn, trong khi giá chè nguyên liệu thô bình quân trên thế giới là 2.200 đô la Mỹ/tấn ). - Hiện nay Việt Nam vẫn còn ở nấc thang công nghệ thấp so với khu vực và thế giới, do vậy các mặt hàng chủ lực vẫn chỉ là những mặt hàng nông sản và những mặt hàng thô, chưa qua chế biến. Những mặt hàng này chịu sự ảnh hưởng của hiện tượng “giá cánh kéo” nên trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, khi mức giá chung trên thị trường thế giới suy giảm, giá hàng xuất khẩu của Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề. Bởi vậy, mặc dù xuất khẩu nhiều mặt hàng tăng nếu xét trên bình diện lượng xuất khẩu (gạo tăng 34,1%, cà phê tăng 14,4%, hạt điều tăng 6,0%), tuy nhiên do thực tế giá giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu vẫn sụt giảm ( trị giá gạo xuất khẩu bằng 92,2% cùng kỳ năm 2008, cà phê: 80,3%; hạt điều: 86,9%). 2.3. Chuỗi giá trị thương mại nông sản Đối với chuỗi giá trị thương mại quốc tế, chưa hình thành được những doanh nghiệp xuất khẩu nông sản mạnh có tầm ảnh hưởng lớn, hàng nông sản chưa có thương hiệu nổi tiếng trên thị trường quốc tế. Phần lớn các mặt hàng nông sản có vị trí thấp trong chuỗi giá trị gia tăng toàn cầu, giá trị gia tăng thấp, rủi ro cao. 2.4. Hội nhập quốc tế Cơ chế quản lý và các dịch vụ công phát triển thương mại nông sản bộc lộ nhiều hạn chế trong việc thực hiện một cách uyển chuyển các cam kết hội nhập và tình hình thị trường quốc tế có nhiều biến động. Việc thực hiện các cam kết gia sau 02 năm sau khi gia nhập WTO đã bộc lộ rõ những bất cập, hạn chế trong cơ chế quản lý, điều hành và phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước, trong các dịch vụ công phát triển thương mại nông sản nói chung và công tác thông tin, phân tích và dự báo thị trường nói riêng (trường hợp giảm thuế suất thuế nhập khẩu vượt mức cam kết WTO đối với các sản phẩm thịt; công tác phân tích dự báo, điều hành xuất khẩu gạo trong bối cảnh biến động giá lương thực trên thị trường thế giới, v.v..). IV. NGUYÊN NHÂN 1. Nguyên nhân của những thành công 1.1. Nguyên nhân khách quan Kinh tế trong nước và quốc tế liên tục đạt mức tăng trưởng cao trong nhiều năm trước suy thoái đã thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng hàng hóa nói chung và hàng nông sản nói riêng. Giá xuất khẩu hàng hóa nói chung và giá xuất khẩu nông sản nói riêng trong những năm vừa qua nhìn chung có lợi cho các nước xuất khẩu, do vậy kim ngạch xuất khẩu nông sản liên tục tăng trưởng cao. Sự lớn mạnh của sản xuất và kinh doanh nông sản. Cùng với sự đổi mới của nền kinh tế, nông nghiệp tăng trưởng nhanh, nhiều vùng chuyên canh hàng hóa nông sản dần được tạo dựng, một lực lượng doanh nghiệp với những doanh nhân kinh doanh nông sản hình thành và phát triển mạnh đã tạo điều kiện cho Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu nông sản. 1.2. Nguyên nhân chủ quan Những chủ trương, chính sách trong thời kì Đổi Mới đã tạo ra động lực và nền tảng pháp lý có ý nghĩa quyết định đối với những thành công trong sản xuất và thương mại nông sản. Quá trình chủ động tham gia đàm phán hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế dưới nhiều hình thức khác nhau (song phương, đa phương và khu vực) đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của kinh tế nói chung và thương mại nói riêng, trong đó có thương mại nông sản. Bộ Nông nghiệp&PTNT đang dần từng bước đầu tư, hoàn thiện thể chế tổ chức hỗ trợ cho công tác phát triển thương mại nông sản như phân công chức năng nhiệm vụ cho các đơn vị, tăng cường phối hợp hoạt động giữa các đơn vị trong Bộ, đầu tư vào hoạt động thông tin thị trường, thực hiện chương trình XTTM… Hoạt động xúc tiến thương mại hàng hóa nói chung và xúc tiến thương mại nông sản nói riêng bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản khai thác và mở rộng thị trường, ngành hàng xuất khẩu. 2. Nguyên nhân của những hạn chế 2.1. Nguyên nhân khách quan Sản xuất nông sản của nước ta phần lớn vẫn còn là sản xuất hàng hóa nhỏ, công nghệ lạc hậu nên khối lượng và chất lượng sản phẩm hàng hóa còn thấp, chưa đáp ứng được tốt nhu cầu và các quy định về vệ sinh an toàn chất lượng tại thị trường trong nước và đặc biệt là các thị trường xuất khẩu. Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa sang thị trường, trong khi thị trường mở rộng nhanh và diễn biến ngày càng phức tạp, khiến cho bộ máy tổ chức, cơ chế và năng lực điều hành, quản lý thị trường gặp nhiều khó khăn. Kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng, thị trường thế giới biến động phức tạp khó lường, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa trong đó có nông sản giảm mạnh. Lĩnh vực thương mại nông sản có phạm vi tương đối rộng, liên quan tới nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội cũng như nhiều cơ quan quản lý khác nhau nên khó phân định vị trí-chức năng-nhiệm vụ, dễ nảy sinh vướng mắc, khó khăn trong phối hợp. Chính phủ và các Bộ, ngành mới có sự thay đổi về tổ chức bộ máy (tách, sáp nhập một số Bộ, ngành trong đó có Bộ NN&PTNT và Bộ Thủy sản và một số Bộ, ngành khác trong năm 2007) nên tổ chức, cơ chế, cán bộ và năng lực điều hành, quản lý thương mại nông sản còn chưa hoàn thiện. Thương mại nông sản trên thế giới có nhiều rủi ro, biến động đặc biệt là biến động giá vật tư, nguyên liệu đầu vào của sản xuất nông nghiệp và giá sản phẩm nông sản đầu ra. 2.2. Nguyên nhân chủ quan Các cấp chính phủ và bộ, ngành mới có chiến lược, định hướng phát triển thương mại hàng hóa nói chung mà chưa xây dựng được chiến lược, định hướng phát triển thương mại nông sản. Việc phân công chức năng-nhiệm vụ về quản lý và phát triển thương mại nông sản chưa phù hợp với thực tế và năng lực hoạt động của các bộ, ngành đặc biệt là giữa Bộ NN&PTNT và Bộ Công Thương, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển đặc thù (từ sản xuất, chế biến tới thương mại, tiêu dùng) của các mặt hàng nông sản. Công tác quy hoạch sản xuất và thương mại nông sản chưa gắn kết với công tác nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường, chưa dựa trên các cở sở nghiên cứu và dự báo khoa học về cung-cầu của thị trường, thiếu quy hoạch phát triển các vùng nguyên liệu ổn định và theo quy mô sản xuất hàng hoá lớn phục vụ xuất khẩu nông sản. Các dịch vụ công phục vụ công tác điều hành, quản lý thương mại cho bộ ngành cũng như hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn yếu kém. Thiếu các nghiên cứu về thương mại và thị trường dài hạn, chưa hình thành hệ thống thông tin thương mại, giám sát và dự báo thị trường do đó dẫn đến tình trạng thiếu các thông tin cập nhật và chính xác về thị trường, hầu như không có các thông tin dự báo và cảnh báo đáng tin cậy. Phần lớn các hoạt động đầu tư xúc tiến thương mại nông lâm thuỷ sản dựa vào nguồn vốn Nhà nước, chưa huy động được sự tham gia tích cực từ phía các hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp, sự tài trợ của các tổ chức trong nước và quốc tế. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động thương mại chưa tương xứng, chưa đầu tư phát triển thương mại điện tử, chưa huy động được sự tham gia mạnh mẽ của các thành phần kinh tế trong hoạt động đầu tư và kinh doanh cơ sở hạ tầng thương mại ví dụ như hệ thống kho bãi, cầu cảng, giao thông, v.v.. còn manh mún, chi phí cao nên chưa khai thác hết được các cơ hội của thị trường, chưa phát huy được lợi thế cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp. Do hình thành chưa lâu, chưa tăng cường năng lực cho bộ mày và hoạt động nên các hiệp hội chưa đóng một vai trò hữu hiệu trong phát triển thương mại các mặt hàng nông sản, chưa trở thành cầu nối liên kết chặt chẽ giữa cộng đồng doanh nghiệp với Chính phủ, thị trường…chưa có nhiều các hoạt động và sản phẩm dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp hiệu quả. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU. I. DỰ BÁO XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2020. Giai đoạn 2008-2009, do kinh tế thế giới nói chung và kinh tế của các thị trường xuất khẩu trọng điểm của hàng nông sản Việt Nam đều gặp khó khăn, rơi vào suy thoái nên xuất khẩu hàng hóa nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng của Việt Nam đã có mức tăng trưởng chậm lại do gặp khó khăn về thị trường đầu ra. Tuy nhiên, dự báo kinh tế thế giới đang dần có những chuyển biến tích cưc. Trên cơ sở phân tích triển vọng tình hình kinh tế thế giới nói chung và tình hình kinh tế các thị trường xuất khẩu chính của hàng nông sản Việt Nam nói riêng, tình hình kinh tế trong nước và dự báo cân đối cung-cầu các mặt hàng nông sản, bằng phương pháp phân tích dự báo sử dụng số liệu lịch sử về thương mại nông sản trong giai đoạn 2001-2009, bài luận này đưa ra một số chỉ tiêu có tính chất dự báo và định hướng đối với phát triển xuất khẩu nông sản giai đoạn 2010-2020 như sau: Trong giai đoạn 2010-2020, mặc dù kinh tế thế giới có khả năng đạt mức tăng trưởng trung bình cao hơn giai đoạn 2001-2009, nhưng do tốc độ tăng dân số thế giới đặc biệt là tốc độ tăng dân số tại các nước phát triển tiếp tục giảm, hơn nữa giá các mặt hàng thuộc nhóm lương thực (vốn là các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam) được dự báo giảm, nên xuất khẩu nông sản trong giai đoạn 2010-2020 của Việt Nam nếu duy trì được mức tăng trưởng như trong giai đoạn 2001-2009 là kịch bản khả quan nhất, nhiều khả năng sẽ tăng trưởng thấp hơn giai đoạn 2001-2009. Bảng 3.1: Dự báo xuất khẩu một số mặt hàng nông sản giai đoạn 2010-2020 Kim ngạch (triệu USD) Tăng trưởng 2010-2020 (%) 2010 2020 Tổng giá trị xuất khẩu 11600.0 17400.0 4.14 Nông sản 4600.0 5400.0 1.62 Gạo Sản lượng xuất khẩu 3500.0 3500.0 0.0 Giá trị xuất khẩu 780.0 880.0 Cà phê Sản lượng xuất khẩu 840.0 800.0 -0.49 Giá trị xuất khẩu 670.0 800.0 Cao su Sản lượng xuất khẩu 600.0 1000.0 5.2 Giá trị xuất khẩu 480.0 800.0 Chè Sản lượng xuất khẩu 120.0 150.0 2.3 Giá trị xuất khẩu 170.0 200.0 Điều Sản lượng xuất khẩu 120.0 150.0 2.3 Giá trị xuất khẩu 630.0 560.0 Lạc Sản lượng xuất khẩu 200.0 200.0 0.0 Giá trị xuất khẩu 120.0 12.0 Hồ tiêu Sản lượng xuất khẩu 120.0 120.0 0.0 Giá trị xuất khẩu 240.0 240.0 Rau quả tươi (USD) 470.0 600.0 2.5 Thịt chế biến 2500.0 4000.0 4.8 Các sản phẩm khác 930.0 1000.0 0.73 (Nguồn: Báo cáo Đánh giá và định hướng công tác quy hoạch nông lâm nghiệp, thủy sản đến 2020, Bộ NN&PTNT.) II. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2020 Bối cảnh phát triển mới đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới trong phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản. Sau một thời kỳ phát triển nhanh, theo chiều rộng, xuất khẩu nông sản đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với nhiều thách thức đó là kinh tế toàn cầu rơi vào khủng hoảng, trì trệ trong trung hạn và có nhiều khả năng chỉ có thể hồi phục sau 2012. Bối cảnh này đòi hỏi việc định hướng các chỉ tiêu về phát triển thương mại phải mang tính thực tế, không còn ở mức cao như trong giai đoạn thuận lợi 2001-2008, cần có các chuyển đổi căn bản trong phát triển thương mại về chất, từ chiều rộng hướng vào chiều sâu, thúc đẩy sự phát triển của những mặt hàng mới và khai thác các thị trường nhiều tiềm năng, khuyến khích phát triển sản phẩm qua chế biến, nâng cao giá trị gia tăng, tham gia ngày càng mạnh và tiến lên nấc thang cao của chuỗi giá trị toàn cầu. Phát triển xuất khẩu nông sản đến năm 2015 và tầm nhìn 2020 phải phù hợp và đặt trong khung khổ của Luật Thương mại, các chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội chung, chiến lược và quy hoạch phát triển thương mại hàng hóa và các chiến lược về xuất khẩu, quy hoạch về kết cấu hạ tầng thương mại của Chính phủ và Bộ Công thương, các chiến lược và quy hoạch phát triển của ngành NN&PTNT đến năm 2020… Các chương trình, dự án phát triển thương mại nông sản của Bộ Nông nghiệp và các Bộ ngành có liên quan cần có sự phối hợp, lồng ghép để đảm bảo hiệu quả cao nhất. Phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản tính tới các cam kết của hội nhập như AFTA, WTO và các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực khác, đánh giá đúng xu hướng và ảnh hưởng của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tới xuất khẩu nông sản, vận dụng một cách linh hoạt các điều khoản trong cam kết của hội nhập để đạt được cân đối thương mại trong ngắn hạn và hiệu quả phát triển trong dài hạn. Phát triển thương mại nông sản trên cơ sở phát triển hài hòa thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Mở rộng thị trường trong nước gắn với thị trường ngoài nước, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, bảo đảm lưu thông hàng hóa thông suốt, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống để từ đó có định hướng hợp lý cho phát triển sản xuất. Hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước về thương mại nông sản, tăng cường chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động thương mại các mặt hàng nông sản của Bộ NN&PTNT, bảo đảm hoạt động thương mại phát triển lành mạnh và bền vững; nâng cao khả năng tự điều chỉnh của thị trường trong nước khi thị trường thế giới biến động. Hình thành đồng bộ hệ thống cơ chế chính sách phát triển thị trường và môi trường pháp lý thuận lợi để khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh. Phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản trên cơ sở khai thác và hỗ trợ hiệu quả cho các mặt hàng nông sản có lợi thế cạnh tranh cao, duy trì tốc độ tăng trưởng những mặt hàng đã có vị trí cao trên thị trường thế giới đồng thời quan tâm đầu tư thích đáng cho những mặt hàng có tiềm năng phát triển cao. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG NÔNG SẢN VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM KINH TẾ TOÀN CẦU. Trước bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu, các nước chịu ảnh hưởng đều có kế hoạch cắt giảm chi tiêu, điều này có ảnh hưởng không nhỏ tới kế hoạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung và kế hoạch xuất khẩu nông sản nói riêng. Vì vậy, bài luận này đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu nông sản trong điều kiện và bối cảnh kinh tế thế giới 1. Xây dựng cơ sở pháp lý và chính sách phát triển thương mại nông sản - Nghiên cứu và đề xuất hoàn thiện khung pháp lý chung về phát triển thương mại nông sản + Trên cơ sở rà soát các Nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ theo hướng tăng cường vai trò của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được chủ động trong phát triển thương mại, cân đối cung cầu thị trường nông sản + Về quản lý chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm: Phối hợp với các Bộ, Ngành rà soát, bổ sung sửa đổi chế tài xử lý các vi phạm chất lượng, ATVSTP đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Có biện pháp chế tài xử lý nghiêm khắc (đình chỉ sản xuất, thu hồi, tiêu hủy sản phẩm) đối với các hình thức nhập lậu, sản xuất không đảm bảo chất lượng, ATVSTP, gây hậu quả nghiêm trọng tới sức khỏe và lợi ích người tiêu dùng. + Về kiểm soát nhập khẩu nông sản: Theo dõi chặt chẽ việc nhập khẩu nông sản hàng hóa, kịp thời đề xuất các giải pháp (hàng rào kỹ thuật, thuế,...) nhằm hạn chế việc nhập khẩu ồ ạt gây ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. - Rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển một số ngành hàng nông sản chủ lực gắn với thị trường và sử dụng nhiều lao động việc làm ở nông thôn: + Rà soát, điều chỉnh các quy hoạch nông sản đã có cho phù hợp với tình hình biến đổi mới về kinh tế-xã hội thế giới và trong nước. + Xây dựng quy hoạch đối với những thị trường-ngành hàng chưa có quy hoạch, đặc biệt chú trọng sự gắn kết giữa quy hoạch sản xuất với chế biến, thương mại và tiêu dùng. + Điều chỉnh và xây dựng mới các chương trình phát triển xuất khẩu đối với một số thị trường trọng điểm và những ngành hàng nông sản chủ lực Xây dựng phương án để giảm xuất khẩu những mặt hàng thô, giá trị gia tăng thấp, tăng xuất khẩu những sản phẩm chế biến, chứa hàm lượng giá trị gia tăng cao. 2. Nghiên cứu và đề xuất các chính sách và chương trình phát triển xuất khẩu nông sản trong phạm vi ngành nông nghiệp. - Viện Chính sách & Chiến lược PTNNNT (IPSARD) là đầu mối cho công tác phân tích và dự báo dài hạn của ngành nông nghiệp, giúp Cục CB TMNLTS&NM thực hiện tốt chức năng tư vấn những vấn đề chiến lược và chính sách phát triển cho Bộ trong lĩnh vực phát triển thương mại, điều hành thị trường nông sản trong dài hạn. Một số nội dung chủ yếu bao gồm: + Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ công tác nghiên cứu hỗ trợ công tác phát triển thương mại trong trung và dài hạn; + Xây dựng các chương trình và sản phẩm nghiên cứu thương mại và dự báo thị trường dài hạn; + Tăng cường năng lực tổ chức bộ máy nghiên cứu thương mại và dự báo thị trường dài hạn. 3. Hoàn thiện kết cấu hạ tầng hỗ trợ phát triển xuất khẩu nông sản - Rà soát, nghiên cứu và đề xuất xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (chợ đầu mối, kho chứa, cầu cảng, v.v..) đối với một số ngành hàng và vùng trọng điểm về sản xuất và thương mại nông sản. - Nghiên cứu và đề xuất phương án xây dựng sàn giao dịch nông sản đối với một số ngành hàng nông sản có khối lượng giao dịch lớn, chiếm vị trí cao trên thị trường quốc tế. Trên cơ sở một số mô hình sàn giao dịch đã có (sàn giao dịch cà phê tại Đắc Lắc), tổng kết thành công, hạn chế để nghiên cứu khả năng vận dụng cho một số ngành hàng như: Lúa gạo, Cao su, Hồ tiêu, Điều, Chè. - Tiến hành nghiên cứu tính khả thi để xây dựng hệ thống hạ tầng phục vụ cho các hoạt động sau thu hoạch, nhất là hệ thống phơi sấy, kho chứa hàng hóa (hệ thống silo ở các địa phương vùng trọng điểm lương thực) ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. - Phối hợp với Bộ Công Thương, các hiệp hội ngành hàng thống nhất với các doanh nghiệp để xây dựng dự án thành lập kho ngoại quan tại một số thị trường lớn như Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản, Nga trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. 4. Tăng cường hệ thống thu thập, xử lý thông tin thương mại - Tăng cường chức năng quản lý nhà nước của Bộ làm đầu mối quản lý Nhà nước trong lĩnh vực thương mại nông sản , trong đó có: + Tăng cường năng lực cho Cục CB TM NLTS&NM đủ sức tham mưu, tư vấn cho Bộ; định hướng phát triển thương mại của ngành trong dài hạn; có khả năng giám sát diễn biến thương mại các ngành hàng nông sản, các thị trường trọng điểm quốc tế và thị trường trong nước. + Hình thành mạng lưới chuyên ngành tại các địa phương, nhất là ở các địa bàn trọng điểm là các vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh chính, thị trường chính, cửa khẩu. - Tăng cường quản lý thúc đẩy công tác xúc tiến thương mại và cung cấp dịch vụ công hỗ trợ phát triển thương mại nông sản với một số nội dung chủ yếu là: + Tăng cường năng lực Cục CB TMNLTS&NM thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, thương hiệu và cung cấp dịch vụ công phát triển thương mại nông sản. Nâng cao năng lực Trung tâm XTTM Nông sản và sắp xếp Trung tâm XTTM Nông sản trực thuộc Cục CB TMNLTS&NM nhằm tăng cường sự thống nhất và nâng cao hiệu quả hoạt động trong hoạt động XTTM nông sản và cung cấp các dịch vụ công phục vụ phát triển thương mại của ngành. Trung tâm XTTM Nông sản là đơn vị có con dấu và tài khoản riêng, hạch toán độc lập, hoạt động theo các quy định pháp luật hiện hành. + Xây dựng mạng lưới chuyên trách theo dõi thương mại nông nghiệp tại các thương vụ ở một số thị trường tiêu thụ nông sản lớn làm nhiệm vụ Cung cấp các báo cáo định kỳ; Tham mưu trong tình huống có biến động bất thường xảy ra; Hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh nông sản thâm nhập thị trường nơi mình phụ trách. + Tăng cường năng lực tư vấn về định hướng chiến lược và chính sách phát triển thương mại phục vụ công tác điều hành và quản lý của Bộ. Hình thành một Ban tư vấn Thương mại độc lập tập trung vào công tác tham mưu về quản lý điều hành thị trường, hội nhập, định hướng chiến lược và chính sách thương mại nông sản. Ban Tư vấn Thương mại có hoạt động phối hợp chặt chẽ với Tổ Công tác Điều hành Thị trường Nông nghiệp của Bộ NN&PTNT và Tổ Điều hành Thị trường trong nước của Bộ Công thương. Ban Tư vấn bao gồm các thành viên từ các Cơ quan quản lý Nhà nước, Viện Nghiên cứu, Hiệp hội, doanh nghiệp (Cục CB TM NLTS&NM; Viên CS&CL PTNNNT; Vụ Hợp tác QT; các Hiệp hội; Doanh nghiệp… ). Các sản phẩm chính của Ban gồm có: Báo cáo nhanh phục vụ nhu cầu quản lý nhà nước; Báo cáo chuyên đề phục vụ lãnh đạo; Các báo cáo phân tích chiến lược phát triển ngành hàng và hội nhập; Báo cáo chính sách. 5. Tăng cường năng lực bộ máy phân tích và dự báo ngắn hạn và trung hạn thương mại và thị trường nông sản Trung tâm tin học và thống kê (CIS) là đầu mối cho công tác thu thập thông tin thị trường và phân tích thông tin thị trường ngắn hạn và trung hạn của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giúp Cục CB TMNLTS&NM thực hiến tốt chức năng quản lý Nhà nước và tư vấn cho Bộ trong lĩnh vực phát triển thương mại, điều hành thị trường nông sản Một số nội dung chủ yếu bao gồm: + Nghiên cứu đề xuất nâng cấp trang tin thị trường và xúc tiến thương mại: của Bộ do Trung tâm Tin học và Thống kê quản lý trở thành Cổng thông tin thương mại nông sản và vật tư nông nghiệp, nhằm cung cấp thông tin thị trường, xúc tiến thương mại, bao gồm: Giá cả thị trường trong nước và thế giới, số liệu xuất nhập khẩu; Thông tin về quy định của các thị trường tiềm năng, cơ hội giao thương; Các báo cáo phân tích dự báo ngành hàng. + Nâng cấp và mở rộng Hệ thống thông tin khuyến nông và thị trường 20 tỉnh 100 huyện do Trung tâm Tin học và Thống kê quản lý; xây dựng hệ thống thông tin phục vụ công tác phân tích dự báo ngắn hạn và trung hạn thương mại nông sản + Tăng cường năng lực bộ máy phân tích và dự báo ngắn hạn và trung hạn thương mại và thị trường nông sản 6. Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả hợp tác quốc tế trong phát triển thương mại nông nghiệp - Bộ Nông nghiệp và PTNT chủ động phối hợp với Bộ Công thương và các Bộ ngành liên quan, các Hiệp hội, cộng đồng doanh nghiệp triển khai các kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu, tính tới việc ký kết các hiệp định thương mại, hiệp định công nhận lẫn nhau về kiểm dịch động thực vật và kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm với một số thị trường trọng điểm và truyền thống nhằm tăng cơ hội tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam (thị trường Nga, Trung Quốc..). - Đẩy mạnh và đổi mới phương thức hoạt động XTTM theo hướng hỗ trợ, thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế và nội địa cho các mặt hàng nông, sản. Tăng cường hỗ trợ, góp phần nâng cao năng lực kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp thông qua xây dựng các liên kết chuỗi giá trị hàng nông sản - Hướng dẫn hỗ trợ các doanh nghiệp trong các hoạt động nghiên cứu triển khai, cải tiến kỹ thuật, đăng ký thương hiệu hàng hóa, quảng bá thương hiệu, thực hiện nghiên cứu thị trường nước ngoài. Ưu tiên đầu tư hạ tầng thương mại điện tử - Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ XTTM kiến thức về kinh tế, thương mại, nghiệp vụ kinh doanh…Rà soát, có kế hoạch quy hoạch, đào tạo lại nguồn nhân lực XTTM. - Tăng cường đầu tư nâng cao năng lực và sự tham gia của các Hiệp hội trong công tác XTTM và xây dựng các chiến lược và chính sách phát triển thương mại nông sản. Thông qua các chương trình XTTM quốc gia hoặc ngành để hỗ trợ, tạo điều kiện cho các Hiệp hội ngành hàng cung cấp các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh như đào tạo, thông tin, tư vấn kinh doanh cho doanh nghiệp. - Tăng cường vận động, thu hút và sử dụng đúng mục tiêu nguồn vốn ODA nhằm phục vụ cho phát triển thương mại nông sản, nhất là cho nâng cao hiệu quả các dịch vụ công phát triển thương mại nông sản. - Từng bước tạo hành lang pháp lý thuận lợi và cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển thương mại nông sản cả ở thị trường trong và ngoài nước. - Chủ động hợp tác tích cực với các quốc gia, các viện, trường đại học tiên tiến trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu và tư vấn về thị trường và thương mại nông sản. - Tiếp tục thực hiện các thoả thuận song phương, đa phương và khu vực về thương mại nông sản đã ký kết. Nghiên cứu và đề xuất khả năng ký kết các nội dung liên quan tới thương mại nông sản trong các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực mới. 7. Các giải pháp khác Trước hết, cần đổi mới công tác thông tin, dự báo. Đầu tư thay đổi hệ thống, công nghệ dự báo thị trường là những bước cần làm đầu tiên. Bên cạnh đó cần sớm hình thành cơ chế phối hợp thông tin không chỉ giữa các cơ quan quản lý, các hiệp hội ngành hàng với nhau, mà cần thiết lập kênh thông tin với nông dân, doanh nghiệp chế biến, thu mua nông sản. Cơ chế thu thập, xử lý thông tin cũng cần đổi mới theo hướng đi sâu vào các ngành hàng. Thứ hai, xây dựng và tạo lập một nền nông nghiệp hữu cơ với sản phẩm là hàng hoá ”sạch”. Sản xuất hàng nông sản “sạch” chất lượng cao theo nhu cầu của thị trường là điều cần thiết đầu tiên để nông sản Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu. Cần có biện pháp khắc phục sự manh mún ruộng đất hiện nay để thuận lợi cho việc cơ giới hóa, ứng dụng khoa học - kỹ thuật mới đi vào sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn như: mở rộng hạn điền, tăng thời gian sử dụng đất, đẩy mạnh giao dịch thị trường đất nông nghiệp nhằm đẩy nhanh việc chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, góp vốn, cho mượn quyền sử dụng đất... Tiếp theo, để bảo đảm chất lượng của nông sản xuất khẩu (về vệ sinh an toàn thực phẩm và có độ dinh dưỡng cao) cần rà soát lại diện tích trồng các loại cây hiện có. Những diện tích cây trồng nào đem lại năng suất cao, chất lượng tốt sẽ giữ lại để phát triển lâu dài, còn những diện tích không thích hợp cần phải bỏ đi. Áp dụng phương thức sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tuyệt đối không sử dụng phân bón vô cơ, thuốc trừ sâu và kháng sinh. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là áp dụng cách sản xuất nông nghiệp lỗi thời, mà phải chọn lọc những gì tốt nhất từ canh tác cổ truyền, cải tiến chúng bằng những kiến thức khoa học hiện đại. Có như vậy mới bảo đảm chất lượng sản phẩm đồng đều, đáp ứng yêu cầu ngày càng khó tính của thị trường, quyết định sự thành công trên thương trường. Gấp rút hình thành hệ thống tiêu chuẩn, các phòng kiểm nghiệm đánh giá chất lượng sản phẩm nông sản. Coi trọng và tăng cường năng lực kiểm tra, giám sát của cơ quan chức năng, xử lý “mạnh tay” các trường hợp cố tình áp dụng kỹ thuật nuôi trồng có hại cho môi trường, làm “bẩn” nông phẩm. Nhà nước nên chủ động kiểm soát chặt các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh, để tạo ra hàng hóa nông sản sạch. Nền nông nghiệp sạch không chỉ thể hiện ở việc sản xuất ra những nông sản sạch, bảo đảm dinh dưỡng và không gây tác hại cho người sử dụng, mà còn không gây tác hại cho người sản xuất và làm suy thoái, ô nhiễm môi trường sinh thái. Với trình độ phát triển hiện nay và trong một số năm nữa, nên chú trọng phát triển nông nghiệp hữu cơ đối với một số loại cây trồng đặc sản. Để phát triển theo những hướng này, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó nhận thức của người nông dân và của các cơ quan quản lý nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng. Thứ ba, phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Chỉ khi nền nông nghiệp được quản lý theo chuỗi giá trị sản xuất thì mới nâng cao được giá trị nông sản. Như vậy các khâu từ sản xuất nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ sản phẩm phải gắn kết chặt chẽ với nhau. Theo đó có 3 mối quan hệ cần được xử lý: Nhà nước - doanh nghiệp; nông dân - doanh nghiệp; và nông dân - thị trường trong nước và nước ngoài. Đồng thời có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, nông dân đầu tư mạnh cho công nghệ sau thu hoạch, khâu bảo quản, chế biến để hạn chế thất thoát, nâng cao giá trị nông sản. Để phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cần giải quyết nhiều vấn đề, trong đó chủ yếu là: - Quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn theo định hướng xuất khẩu. Từ đó, tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới để đáp ứng tốt yêu cầu chế biến xuất khẩu. - Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu. Có những chính sách ưu đãi kích thích sự tham gia của tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp chế biến xuất khẩu. Thứ tư, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Trong 10 năm qua (1988 - 2008) lĩnh vực nông nghiệp chỉ thu hút được số vốn 4,7 tỉ USD, chiếm 10% số dự án và 3,3% vốn đầu tư FDI cả nước. Trong đó chỉ có khoảng 2 tỉ USD được giải ngân, gần 30% số dự án bị giải thể trước thời hạn. Nhiều dự án kinh doanh thua lỗ hoặc triển khai chậm. Sở dĩ như vậy vì quy hoạch ngành, vùng và một số sản phẩm quan trọng chưa được xây dựng, triển khai, thiếu ổn định nên không tạo điều kiện cho việc xây dựng các danh mục, chương trình kêu gọi vốn FDI. Thông tin về các dự án kêu gọi đầu tư cũng còn sơ lược, thiếu chuẩn xác nên chưa hấp dẫn, thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư. Do đó, xây dựng Quỹ Xúc tiến đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, cụ thể hóa chính sách ưu đãi đào tạo nghề phải được xem là những việc cần làm ngay. Thứ năm, tổ chức tốt thị trường, hệ thống và các kênh phân phối nông sản. Nhiều chuyên gia chỉ ra đây là mắt xích quan trọng nhưng lại vẫn luôn là khâu yếu hiện nay. Những mục tiêu cần hướng tới trong giai đoạn 2010 - 2015 là: - Tổ chức tốt lưu thông hàng hóa nhằm tạo ra những tiền đề bên trong cho sản xuất và phân công lao động trong nông nghiệp theo hướng mở rộng các ngành nghề chế biến dịch vụ bên cạnh sản xuất nông nghiệp, đồng thời tạo ra các tiền đề bên ngoài (nhất là mở rộng thị trường xuất khẩu) để đưa sản xuất hàng hoá ở nông thôn lên quy mô lớn, tiếp cận với thị trường thế giới. - Xuất phát từ tiêu thụ, từ nhu cầu thị trường trong và ngoài nước để kế hoạch hóa sản xuất và lưu thông nhằm “bán cái thị trường cần chứ không phải bán cái mình có”. Cấu trúc lại nền sản xuất nông nghiệp theo hướng gắn chặt sản xuất với thị trường, trên cơ sở phát huy tối đa các lợi thế so sánh vùng, địa phương. Thứ sáu, xây dựng thương hiệu cho hàng nông sản Việt Nam. Theo các chuyên gia, hiện có tới 85% - 90% lượng hàng nông sản của nước ta vào thị trường thế giới phải thông qua trung gian bằng các “thương hiệu” nước ngoài, vì vậy giá thấp, bị o ép... là những câu chuyện thường xảy ra. Do đó nông sản của Việt Nam phải cố gắng tạo được uy tín của khách hàng, có thương hiệu, sau đó bảo vệ thương hiệu đó thì mới có thể có mặt và tham gia được vào chuỗi tiêu thụ nông sản của thế giới. Tăng cường liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản giúp cho nông sản Việt Nam tham gia ngày một sâu rộng vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu Trước mắt, các hiệp hội ngành hàng nông lâm sản của Việt Nam nên tổ chức giới thiệu sản phẩm của ngành mình cho người tiêu dùng ở một số địa phương tại các nước mà hàng Việt Nam hướng xuất khẩu tới. Tùy theo điều kiện thực tế và chiến lược cụ thể của từng doanh nghiệp mà quy trình xây dựng, phát triển thương hiệu sẽ trải qua các bước tác nghiệp và trật tự khác nhau. Tuy nhiên phát triển thương hiệu cần thống nhất xác định trong thời gian dài và có sự bảo đảm nhất định về tài chính để có đủ khả năng ổn định phát huy thế cạnh tranh năng động cho một vài nhóm sản phẩm với phân khúc thị trường mục tiêu rõ ràng. Thứ 7, nâng cao chất lượng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. Chú trọng đầu tư nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ, làm cơ sở nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành nông sản, trước hết triển khai các chương trình giống cây trồng, vật nuôi; ứng dụng công nghệ sinh học; phát triển bảo quản, chế biến nông lâm sản. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang triển khai 33 dự án nhằm chọn tạo, nhập nội, sản xuất giống gốc chất lượng cao đối với hầu hết các loại cây trồng, vật nuôi chủ yếu. Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng dự án để tiếp nối đưa giống tốt đến với nông dân, tập trung vào các loại cây, con chính của địa phương mình. Tuy vậy, công việc mới chỉ bắt đầu. Mặt khác, cần hỗ trợ tích cực để chuyển giao và ứng dụng các quy trình canh tác tiến bộ để giảm giá thành sản phẩm. Đối với bảo quản, chế biến nông sản, cần hướng tới áp dụng các công nghệ tiên tiến đạt tiêu chuẩn về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm quốc tế. Thứ 8, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nông nghiệp. Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có thị trường, có thế mạnh về kỹ thuật, tay nghề, chất lượng cao và chi phí thấp; đổi mới công nghệ, áp dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất và quản lý kinh doanh, quản lý chất lượng sản phẩm và quản lý môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng và bảo vệ nhãn hiệu hàng hoá của doanh nghiệp. Thị trường nông sản quốc tế rộng lớn và đa dạng. Để cạnh tranh có hiệu quả cần nhiều doanh nghiệp năng động và có năng lực. Cùng với các doanh nghiệp Nhà nước xuất khẩu hàng nông lâm sản, Chính phủ khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia. Thực hiện việc sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp Nhà nước Thứ 9, tăng cường liên kết quốc tế trong sản xuất và xuất khẩu nông sản. Nền kinh tế thế giới đang vận hành theo mô hình chuỗi giá trị toàn cầu, do vậy nền kinh tế nước ta cũng cần được cơ cấu lại theo hướng để Việt Nam đóng vai trò xuất sắc trong các ngành sản xuất của chuỗi giá trị toàn cầu. Phải làm sao để khi nhắc đến một sản phẩm nào đó trong chuỗi giá trị toàn cầu, thế giới nhớ ngay đến Việt Nam chứ không phải một nước nào khác có sản phẩm đạt chất lượng và giá cả cạnh tranh nhất. So với một số nước trong khu vực Đông Nam Á, Việt Nam có điều kiện tự nhiên và cơ cấu sản xuất nông nghiệp khá tương đồng, song các nước này lại có lợi thế hơn Việt Nam ở trình độ khoa học - công nghệ và kinh nghiệm hoạt động thương mại quốc tế. Trong điều kiện đó, để bảo đảm hiệu quả của xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản, cần coi trọng việc mở rộng quan hệ liên kết quốc tế trong cả sản xuất và xuất khẩu. Quan hệ liên kết này có thể bao gồm những nội dung chủ yếu sau đây: - Phối hợp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học - công nghệ để tạo ra những giống cây trồng, vật nuôi có khả năng cạnh tranh cao. - Phối hợp xây dựng hệ thống dịch vụ kiểm dịch động thực vật xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc tế. - Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và nông thôn. - Phối hợp các chính sách thương mại của các nước trong khu vực trong thực hiện hoạt động xuất khẩu nông sản. - Hình thành các hiệp hội theo ngành hàng để phối hợp hành động trên thị trường quốc tế.../ - Thiết lập và phát triển mối liên kết trực tiếp, ổn định và lâu dài giữa các doanh nghiệp thương mại (lưu thông trong nước và xuất nhập khẩu) với cơ sở công nghiệp chế biến, hợp tác xã thương mại và dịch vụ, công ty cổ phần nông thôn và với hộ nông dân, trang trại, cơ sở trồng nông sản. Tạo ra mối liên kết dọc theo từng sản phẩm, từ khâu giống, kỹ thuật, vật tư đầu vào, sản xuất, thu mua, bảo quản, chế biến đến tiêu thụ (trong và ngoài nước); - Củng cố và phát triển mô hình hợp tác xã thương mại và dịch vụ ở nông thôn làm cầu nối giữa người nuôi, trồng với các doanh nghiệp thương mại và cơ sở chế biến, thực hiện việc cung cấp đầu vào và tiêu thụ đầu ra cho nông dân. - Chú trọng xây dựng các loại hình chợ dân sinh (bán lẻ tổng hợp, phục vụ sản xuất và đời sống tại chỗ của nông dân), chợ đầu mối, chợ chuyên doanh phát luồng bán buôn, trung tâm đấu giá, sàn giao dịch ở vùng sản xuất nông sản tập trung (tiêu thụ nông sản thông qua bán buôn để chuyển bán cho thị trường khu vực khác, cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu); các tổng kho bán buôn, trung tâm logistics (để bảo quản, sơ chế, phân loại, bao gói, vận chuyển… làm tăng giá trị sản phẩm và cung ứng cho mạng lưới bán buôn, bán lẻ trong nước và cho xuất khẩu) Cuối cùng, Đào tạo nguồn nhân lực. Yếu tố quyết định sự thành công của hội nhập là con người. Trong thời gian tới, cần đầu tư lớn hơn cho đào tạo và đào tạo lại, trang bị các kiến thức khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế cho cho lực lượng cán bộ trong ngành nông nghiệp. Phổ cập các kiến thức về hội nhập, các cam kết mà ngành nông nghiệp Việt nam đã ký và phải thực hiện cho các doanh nghiệp, nông dân. KẾT LUẬN Ngày nay xuất nhập khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, thông qua xuất khẩu các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước tranh thủ những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ của thế giới để đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tình hình hiện nay thế giới đang bị suy thoái toàn cầu và dần khắc phục đứng trước những thời cơ và thử thách đó Việt Nam phải tìm cho mình một chiến lược kinh doanh phù hợp để đạt được kết quả cao, ngoài việc nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu, còn phải có hướng đi đúng đắn và xác định cho mình những hình thức kinh doanh phù hợp và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việt nam những mặt hàng nông sản là mặt hàng xuất khẩu chính nên luôn phải đổi mới để đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt Tôi đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu” Do thời gian hạn hẹp cũng như trình độ còn hạn chế nên đề tài chỉ bó hẹp trong việc nghiên cứu một số vấn đề mặt hàng chính của nông sản. Mong các bạn đọc cùng thầy cô đóng góp ý kiến. Tôi mong rằng thị trường suất khẩu nông sản của Việt Nam sớm ổn đình trở lại, Đưa kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày càng tăng DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Trang Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 so với năm 2008 19 Bảng 2.2: Xuất khẩu nông sản chủ yếu của Việt Nam 22 Bảng 2.3: Xuất khẩu gạo của các nước xuất khẩu chính 27 Bảng 2.4: Sản lượng cà phê thế giới đến năm 2009 28 Bảng 2.5: Sản xuất cao su tự nhiên của một số nước sản xuất chủ yếu 30 Bảng 2.6: Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu sang 15 thị trường Chính năm 2008 31 Bảng 2.7: Một số các mặt hàng nông sản có kim ngạch lớn trong giai đoạn 2001-2008. 34 Bảng 3.1: Dự báo xuất khẩu một số mặt hàng nông sản giai đoạn 2010-2020 47 MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1.Đặt vấn đề 1 2.Mục đích nghiên cứu 1 3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 4.Phương pháp sử dụng nghiên cứu 2 5.Kết cấu đề tài 2 Chương I: Tổng quan về suy thoái kinh tế toàn cầu và những ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu nông sản 3 I.Vài nét về suy thoái kinh tế toàn cầu 3 Lý luận chung về suy thoái kinh tế 3 Thực trạng suy thoái kinh tế toàn cầu 5 Tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu vào Việt Nam 7 II.Những ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu đến hoạt động xuất khẩu nông sản 10 Đối với các yếu tố cung 10 Đối với các yếu tố cầu 11 III. Kinh nghiệm của một số quốc gia về hoạt động xuất khẩu nông sản trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu. 12 Thái Lan 12 Ấn Độ 13 Các nước Mỹ La tinh 13 Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 16 Đặc trưng của nông sản Việt Nam 16 Thực trạng hoạt động xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu. 18 Tình hình xuất khẩu nông sản nói chung 18 Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu. 23 Vị thế của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới. 26 Đánh giá thực trạng về hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 33 Những thành tựu đạt được 33 Những hạn chế 38 Nguyên nhân 41 Nguyên nhân của những thành công 41 Nguyên nhân của những hạn chế 43 Chương III: Một số giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu. 46 Dự báo xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010- 2020 46 Quan điểm phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam giai đoạn 2010-2020 48 Một số giải pháp phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu 50 Xây dựng cơ sở pháp lý và chính sách phát triển thương mại nông sản 50 Nghiên cứu và đề xuất các chính sách và chương trình phát triển xuất khẩu nông sản trong phạm vi ngành nông nghiệp 52 Hoàn thiện kết cấu hạ tầng hỗ trợ phát triển xuất khẩu nông sản 52 Tăng cường hệ thống thu thập, xử lý thông tin thương mại 53 Tăng cường năng lực bộ máy phân tích và dự báo ngắn hạn và trung hạn thương mại và thị trường nông sản 55 Đẩy mạnh và phát huy hiệu quả hợp tác quốc tế trong phát triển thương mại nông nghiệp 56 Các giải pháp khác 57 Kết luận 66 Danh mục tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu các mặt hàng nông sản Việt Nam trong bối cảnh suy giảm kinh tế toàn cầu.doc
Luận văn liên quan