Chuyên đề Tôn giáo học: ngày chủa nhật

Chuyên đề tôn giáo học: Ngày Chúa Nhật MỤC LỤCI.KHÁI QUÁT VỀ NGÀY CHÚA NHẬT. 1 1. Định nghĩa Ngày Chúa Nhật. 1 2. Nguồn gốc ngày Chúa nhật trong Kinh thánh. 1 2.1 Nguồn gốc ngày Chúa Nhật. 1 2.2 Ngày Chúa nhật đã thay thế ngày sa-bát thế nào ? 4 2.1.1 Nét độc đáo của ngày Chúa nhật. 4 2.1.2 Liên hệ giữa ngày sa-bát và Chúa nhật. 5 3. Lịch sử ngày Chúa nhật. 5 3.1 Ngày thứ nhất trong tuần trở thành ngày của Chúa : 5 3.1.1 Ngày Phục Sinh 6 3.1.2 Tám ngày sau 6 3.2 Ngày thứ nhất, ngày lễ hàng tuần 7 II. CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG NGÀY CHÚA NHẬT. 9 1. Một số hoạt động trong ngày Chúa Nhật. 9 2. Thánh Lễ. 12 3. Ý nghĩa của thánh lễ. 28 4. Ý nghĩa ngày Chúa Nhật. 29 4.1 Đối với xã hội. 29 4.2 Ý nghĩa ngày chủ nhật đối với Công giáo: 30

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4704 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tôn giáo học: ngày chủa nhật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) mỗi ngày Chúa Nhật là trung tâm điểm của đời sống Giáo Hội. Ngày Chúa Nhật cũng là ngày cử hành Mầu Nhiệm vượt qua theo truyền thống Tông Đồ, và phải được tuân giữ trong toàn thể Giáo Hội như ngày lễ buộc chính yếu" (x. SGLGHCG, số 2177; giáo luật số 1246). Nguồn gốc ngày Chúa nhật trong Kinh thánh. 2.1 Nguồn gốc ngày Chúa Nhật. Theo giáo huấn của Công đồng Va-ti-ca-nô II về ngày Chúa nhật, trong Hiến chế Phụng vụ số 102 và 106: Hiến chế Phụng vụ số 102 đưa ra định nghĩa về ngày Chúa nhật và trình bày năm phụng vụ như là một cuộc mừng kính mầu nhiệm cứu chuộc với những lời lẽ như sau: "Mẹ chúng ta là Hội thánh thấy mình có bổn phận phải mừng kính công trình cứu chuộc của Bạn Trăm năm, bằng một cuộc tưởng nhớ thánh thiêng vào những ngày nhất định trong suốt cả năm. Mỗi tuần vào ngày gọi là ngày của Chúa, Hội thánh tưởng nhớ cuộc phục sinh của Chúa. Cuộc phục sinh này cũng là chính cuộc phục sinh Hội thánh cử hành long trọng mỗi năm một lần, cùng với cuộc thọ hình trong đại lễ Vượt Qua." Hiến chế Phụng vụ số 106 diễn tả chi tiết hơn các dạng khác nhau của ngày Chúa nhật. Ngày Chúa nhật cốt yếu là ngày họp nhau để mừng kính mầu nhiệm Đức Ki-tô sống lại mà ngọn nguồn có từ thời Tân Ước. Số này nói như sau : "Hội thánh mừng kính mầu nhiệm phục sinh, dựa vào truyền thống của các Tông đồ có ngay từ chính ngày Đức Ki-tô phục sinh là ngày thứ tám được gọi chí lý là ngày của Chúa hay ngày Chúa nhật." Bản văn này cho thấy một cách chính xác bản tính và danh xưng của ngày Chúa nhật : bản tính là ngày mừng kính mầu nhiệm phục sinh, và danh xưng là ngày của Chúa. Hội thánh mừng kính mầu nhiệm phục sinh vào chính ngày Chúa Ki-tô sống lại. Về nguồn gốc lập ra ngày Chúa nhật thì các sử gia chấp nhận một cách dễ dàng, chỉ có mối tương quan giữa ngày Chúa nhật và ngày sa-bát là gây tranh cãi mà thôi. Trước hết chúng ta nói về khía cạnh liên kết ngày Chúa Nhật của những người Kitô với những gì Kinh Thánh nói về ngày Sabbat, ngày của Thiên Chúa trong Cựu Ước, ngày mà người Do Thái Giáo ngày nay vẫn cử hành. Kết thúc bài tường thuật về một tuần lễ tạo dựng vũ trụ, chương thứ nhất của sách Sáng Thế nói rằng Thiên Chúa nghỉ việc "vào ngày thứ Bảy", và Ngài "chúc lành cho Ngày Thứ Bảy và thánh hóa ngày ấy" (STK 2,2-3). Ngày Sabát, Ngày thứ Bảy trong Kinh Thánh Cựu Ước, có liên hệ đến Mầu Nhiệm của việc Thiên Chúa nghỉ ngơi. Nếu chúng ta, những người Kitô, chúng ta cử hành ngày của Chúa vào ngày Chúa Nhật, đó là bởi vì trong ngày nầy, đã xảy ra biến Cố Chúa Kitô phục sinh, ngày hoàn tất công việc tạo dựng đầu tiên và bắt đầu công việc tạo dựng mới. Trong Chúa Kitô Phục Sinh, việc nghỉ ngơi của Thiên Chúa đạt đến sự thể hiện trọn vẹn, đầy đủ nhất của nó. Qua hình ảnh Thiên Chúa nghỉ việc, Kinh Thánh nói đến sự vui mừng thỏa mãn của Ðấng tạo hóa trước những công cuộc do Tay Ngài làm ra. Vào ngày thứ Bảy, Thiên Chúa quay lại nhìn đến con người và thế giới, với lòng khâm phục và đầy tình yêu thương, một tâm tình được xác nhận trong dòng lịch sử cứu rỗi, khi Ðấng Tạo Hóa, đặc biệt trong những biến cố của cuộc xuất hành, trở thành Ðấng cứu chuộc của dân Ngài. Như thế, "Ngày của Chúa" là ngày mạc khải tình thương của Thiên Chúa đối với những tạo vật của Ngài. Các ngôn sứ đã không ngại ngùng ca ngợi mối tương quan tình thương nầy bằng những từ ngữ của tình yêu hôn nhân ((x. Os 1,16-24) Gier 2,2 van van):  Là Ðấng Tạo Hóa, Thiên Chúa trở thành như vị hôn phu của nhân loại, và việc nhập thể của Con Một Ngài kết thành điểm cao chóp đỉnh của cuộc hôn nhân huyền nhiệm nầy. Vào ngày Chúa Nhật, người Kitô được mời gọi khám phá lại cái nhìn đầy nét tươi vui của Thiên Chúa và cảm thấy mình như được bao gồm và được bảo vệ bởi cái nhìn nầy. Cuộc sống chúng ta, trong thời đại của kỷ thuật, liều bị làm cho càng ngày càng trở thành như vô danh hơn, và chỉ quy hướng về (chỉ phục vụ cho) tiến trình sản xuất. Như thế con người không còn có thể vui hưởng những vẻ đẹp của tạo vật, và hơn nữa, không còn có thể đọc thấy trong những vẻ đẹp nầy một phản ảnh dung mạo của Thiên Chúa. Những người kitô dừng lại mỗi ngày Chúa Nhật, không những vì lý do để nghỉ ngơi hợp lý, nhưng còn nhất là để cử hành công việc của Thiên Chúa Tạo Hóa và Cứu Chuộc. Từ việc cử hành nầy, phát sinh những lý do để vui mừng và hy vọng, làm cho đời sống hằng ngày có được mùi vị mới, và cung cấp một phương thuốc căn bản để chửa trị bệnh buồn chán, mất ý nghĩa sống, thất vọng, mà đôi khi họ có thể bị cám dỗ cảm thấy như vậy. 2.2 Ngày Chúa nhật đã thay thế ngày sa-bát thế nào ? 2.1.1 Nét độc đáo của ngày Chúa nhật. Một sự kiện rất đáng chú ý là ngày Chúa nhật đã được Hội thánh lập ra. Đôi khi có người lầm tưởng rằng đó là ngày sa-bát chuyển qua, nhưng không phải. Giữa ngày sa-bát và Chúa nhật có một liên hệ lịch sử, vì ngày Phục sinh diễn ra vào hôm sau ngày sa-bát. Còn về nội dung thì ngày Chúa nhật có một nội dung tôn giáo độc lập và đặc biệt, không phát xuất từ ngày sa-bát. Cho nên nền tảng của ngày Chúa nhật không phải là ngày sa-bát Do thái. Có hai lý do minh chứng điều này : Trước hết ngay từ đầu và trong thời gian Hội thánh hiện hữu trong khung cảnh Do thái giáo, ngày Chúa nhật được đặt thêm vào ngày sa-bát. Các Tông đồ vẫn giữ ngày sa-bát, cộng đoàn các môn đệ vẫn tiếp tục cử hành việc thờ phượng trong khung cảnh Do thái giáo và lại lập thêm cách thế thờ phượng riêng. Tiếp đến là ngay từ đầu, trong lúc còn cùng với ngày sa-bát rồi cho đến khi tách biệt riêng thành ngày thờ phượng của những người không phải từ Do thái mà vào đạo, ngày Chúa nhật không có dáng dấp gì của ngày sa-bát cả. Ngày sa-bát nhấn mạnh đặc biệt đến sự nghỉ việc và coi đây là yếu tố quan trọng bậc nhất, còn ngày Chúa nhật cốt yếu là ngày thờ phượng chung, đòi phải dành ra một số thời giờ rảnh rỗi cần thiết để lo việc thờ phượng Chúa. Ngoài ra lại còn một yếu tố nữa khiến cho ngày Chúa nhật khác với ngày sa-bát : đó là ngày sa-bát chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài, còn ngày Chúa nhật thì chú trọng đến ý nghĩa nội tại, dựa vào thái độ của Chúa Giê-su, các Tông đồ và đặc biệt thánh Phao-lô, nhất là trong thư gửi tín hữu Do thái đối với ngày sa-bát. 2.1.2 Liên hệ giữa ngày sa-bát và Chúa nhật. Tuy Chúa nhật không thay thế cho ngày sa-bát và cũng không phải là ngày sa-bát kéo dài sang, nhưng giữa hai ngày đó vẫn có một vài liên hệ. Đó là sự liên hệ giữa việc thờ phượng và sự nghỉ ngơi, nhưng chỉ là liên hệ thực tế hơn là liên hệ cốt yếu. Quả thật trong ngày sa-bát, người Do thái có đến hội đường để nghe sách luật và phải nghỉ việc hoàn toàn, cũng như người công giáo đi nhà thờ dự lễ và kiêng việc xác. Hiểu như thế thì có liên hệ, còn ngoài ra thì ít liên hệ và lại khác nhau nữa, như đã nói ở trên, vì Chúa nhật cốt yếu là ngày thờ phượng, còn nghỉ việc chỉ là phụ thuộc và tương đối. Đàng khác mãi đến thế kỷVI, Hội thánh mới buộc phải kiêng việc nặng nhọc ngày Chúa nhật và dần dần sau này mới coi việc nghỉ ngày Chúa nhật là một yếu tố gắn liền với ngày của Chúa. 3. Lịch sử ngày Chúa nhật. 3.1 Ngày thứ nhất trong tuần trở thành ngày của Chúa : Lịch sử ngày Chúa nhật bắt đầu bằng cuộc sống lại của Đức Ki-tô vào ngày thứ ba sau khi Người chết, và ngày thứ nhất trong lễ Do Thái. Chính Người đã ghi một dấu đặc biệt lên ngày thứ nhất sau ngày sa-bát, bằng cách chọn ngày đó để ra khỏi mồ. Các tác giả Tin Mừng đã tường thuật biến cố này thật là khúc chiết. Nhưng đây không phải là tường thuật một sự kiện lịch sử mà thôi, vì trong những bài tường thuật đó, đã thấy lộ ra những yếu tố đạo lý về việc mừng kính ngày Chúa nhật 3.1.1 Ngày Phục Sinh "Sáng ngày thứ nhất trong tuần, Đức Ki-tô đã sống lại và hiện ra với các người thân. Sau khi đã hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la, và mấy phụ nữ khác, rồi ông Phê-rô, chính ngày hôm đó Người lại hiện ra với hai người môn đệ trên đường Em-mau. Các ông này nhận ra Chúa khi Người bẻ bánh chia cho các ông. Sau đó, Người hiện ra với các Tông đồ đang hội nhau ở nhà Tiệc ly. Người ăn với các ông và nói : "Như Chúa Cha đã sai Thầy thì bây giờ Thầy cũng sai anh em." Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo : "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha." (Ga 20,21-23). Tất cả những sự việc trên diễn tả một cách đầy đủ ngày Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh. Đây là biến cố chính yếu của lịch sử cứu độ. Biến cố này ghi dấu đến muôn đời ngày thứ nhất trong tuần. Mầu nhiệm mà ngày nay chúng ta cử hành trong các ngày Chúa nhật đã có từ ngày Chúa phục sinh. 3.1.2 Tám ngày sau Nhưng nếu chỉ có Chúa nhật thứ nhất này thì chưa có gì khiến người ta cử hành mỗi tuần một lần ngày ấy như một ngày lễ. Phải có một ngày khác nữa, đó là sau khi hoàn thành mầu nhiệm cứu chuộc vào một ngày lịch sử, Chúa Ki-tô đã phân biệt ngày này với sáu ngày khác. Người đã tách biệt, thánh hóa và làm cho ngày ấy thành ngày riêng của Người. Tám ngày sau, Người lại hiện ra với các môn đệ. Ngày Chúa nhật của chúng ta hiện nay đã bắt đầu từ ngày ấy, ngày kỷ niệm tám ngày sau khi Chúa Giê-su sống lại, ngày Chúa nhật của Tông đồ Tô-ma. Ngay từ tuần Bát nhật Phục sinh, ngày thứ nhất trong tuần đã được ấn định là ngày Chúa Giê-su hiện ra với các môn đệ. Không thấy nói Người hiện ra vào một ngày nào khác. Các cuộc gặp gỡ giữa Người với các môn đệ đều diễn ra vào ngày Chúa nhật. Đó là nguồn gốc các buổi gặp gỡ đầu tiên giữa các tín hữu. Thánh Gio-an tường thuật giai đoạn này như sau : "Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà đó, lần này có cả ôngTô-ma nữa. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói :"Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma : "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin." Ông Tô-ma thưa Người : "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con !" Đức Giê-su bảo : "Vì thấy Thầy, nên anh mới tin. Phúc cho những người không thấy mà tin !" (Ga 20,26-29) Xưa nay đọc đoạn Tin Mừng vắn tắt này, thường người ta chỉ chú trọng tới cuộc hiện ra của Chúa Giê-su và sự cứng lòng tin của ông Tô-ma nhiều hơn là những gì khác. Điều này không sai. Nhưng ở đây còn hai yếu tố khác sẵn có để làm nền tảng cho giáo lý về ngày Chúa nhật : đó là các dấu đanh và sự cần thiết phải có lòng tin. Khi tỏ các dấu đanh cho ông Tô-ma là Chúa Giê-su muốn đặt thánh giá vào trung tâm các cuộc cử hành phục vụ, và khi đòi ông Tô-ma phải tin là Người muốn rằng khi cử hành phụng vụ, người ta phải tin và phải quy tụ các tín hữu lại với nhau. 3.2 Ngày thứ nhất, ngày lễ hàng tuần Ngoài các sách Tin Mừng, sách Công vụ Tông đồ cũng cho ta thấy vị trí của ngày thứ nhất, đối với các tín hữu thuộc thế hệ đầu. Theo chương hai mươi thì ngày Chúa nhật đã có từ thời thánh Phao-lô, khi người đi hết nơi này đến nơi khác để lập các giáo đoàn : "Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau làm lễ bẻ bánh. Ông Phao-lô thảo luận với các anh em, và vì hôm sau ông ra đi, nên ông đã kéo dài cuộc nói chuyện đến mãi nửa đêm." (Cv 20,7) Thánh Phao-lô cũng xin tín hữu Cô-rin-tô quyên tiền vào ngày thứ nhất. Ngày Chúa nhật đã được đặt ra làm ngày nhất định để họp nhau. Đó là ngày Đấng phục sinh ngồi đồng bàn với các môn đệ. Chỉ cần các Ki-tô hữu họp nhau lại ngày hôm đó là Chúa Ki-tô có mặt một cách đặc biệt. Trong các giáo đoàn do thánh Phao-lô thành lập, ngày Chúa nhật vẫn giữ tên Do Thái là ngày hôm sau ngày sa-bát, hay ngày thứ nhất trong tuần. Chỉ trong sách Khải huyền mới thấy tên riêng là ngày của Chúa: "Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đàng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn." (Kh 1,10) Ngày Chúa nhật đã được cử hành ngay từ thời đó như một ngày lễ hàng tuần để tôn kính Chúa Giê-su Ki-tô. Có lẽ khi dùng chữ ngày của Chúa, người ta muốn dùng kiểu nói đó để tôn kính Đức Ki-tô là Chúa, nghĩa là Chủ tể càn khôn, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong sách Khải huyền thường hay thấy phảng phất biểu tượng phục sinh. Trong Tin Mừng theo thánh Gio-an, cũng thấy nói đến ngày Chúa nhật. Ngày Phục sinh, ngày thứ nhất trong tuần đã khai mạc một chương trình cứu độ mới, một nền phụng vụ mới vượt lên trên các ngày lễ Do Thái, một cách thờ phượng mới trong tinh thần và trong chân lý. Tất cả Tin Mừng theo thánh Gio-an đều xây dựng trên mầu nhiệm phục sinh. Đó là nhận xét của nhiều nhà chú giải Kinh thánh và sử học gần đây như Y.B.Trémel, M.E. Boismard, D.Mollat và A.Jaubert. Những nhận xét này củng cố thêm xác tín đã có từ lâu về nguồn gốc ngày Chúa nhật phát xuất từ thời các Tông đồ. II. CÁC HOẠT ĐỘNG TRONG NGÀY CHÚA NHẬT. Một số hoạt động trong ngày Chúa Nhật. Ngày chủ nhật là ngày nghỉ ngơi, là ngày dành thời gian cho gia đình: khi xã hội phát triển, khoa học công nghệ ngày càng tiên tiến, trình độ lao động và sản xất ngày càng nâng cao thì đời sống con người cũng đươc nâng lên. Tuy nhiên để đời sống được nâng cao thì đòi con người cần phải có sự đầu tư rất nhiều mặt, cả về trí tuệ lẫn thời gian. Đặc biệt ở các nước phát triển thì vấn đề thời gian trong lào động lại càng quan trọng, họ hầu như không còn thời giờ để có thể làm những việc cho riêng mình vì quỹ thời gian không còn. Họ phải làm quá tám tiếng một ngày vì khối lượng công việc quá lớn. Đôi khi có những lúc công việc đòi buôc họ phải làm đêm để kịp tiến độ công việc yêu cầu. Hơn nữa trong xã hội ngày nay, không chỉ có nam giới tham gia vào công việc ngoài xã hội, mà còn có sự góp mặt của cả phái nữ. Phái nữ ngày càng khẳng định vị trí của mình trong vấn đề kinh tế xã hội. Chính vì thế thời gian giành cho gia đình và những người thân là rất ít. Thời gian gần đây chúng ta thấy có rất nhiều trường hợp con cái trong gia đình, vì thiếu tình cảm và sự quan tâm của cha mẹ nên đã gặp rất nhiều khó khăn. Có những trường hợp con cái vì thiếu sự chăm sóc và quản lý, thiếu tình cảm của cha mẹ, nên đã tìm đến với những tệ nạn xã hội để giải khuây. có những trường hợp cha mẹ vì công ăn việc làm đã để con cái lao vào cảnh bệnh tật về tâm lý chỉ vì chúng không được quan tâm. Trong các gia đình có cha mẹ già cũng thường hay có trường hợp cha mẹ phải tìm đến viện dưỡng lão, vì con cái trong gia đình không có thời giờ để chăm sóc cha mẹ. Do đó, sau một tuần học tập, làm việc mệt mỏi cả gia đình có thể họp mặt lại cùng nhau đi chơi, về thăm ông bà, cha mẹ hay thăm hỏi bạn bè. “Gia đình là tế bào của xã hội” ( theo quan điểm, khái niệm của xã hội ), còn theo quan điểm tư tưởng của Giáo Hội thì gia đình là Hội Thánh thu nhỏ giữa lòng thế giới, chính vì vậy ngày Chúa nhật đối với người Công giáo lại càng quan trọng hơn. Ngày Chúa nhật, cả nhà xum họp vui vẻ bên nhau vừa để gắn kết gắn kết các thành viên trong gia đình hơn nữa, vừa có thời gian để cha mẹ quan tâm đến con cái nhiều hơn, nhất là việc giá dục Đức Tin cho con cái không những qua các giờ kinh hằng ngày mà còn qua việc học giáo lý ngày Chúa nhật nữa. Ngày Chúa nhật cũng là ngày dành thời gian cho bạn bè, họ hàng thân cận. Đây là một một cơ hội để mọi người có cơ hội gắn kết với nhau hơn bằng nhiều cách như: đến chơi nhà nhau, ăn cùng với nhau 1 bữa cơm hay chỉ đơn giản là gặp nhau trên đường đi lễ hoặc sau khi Thánh Lễ kết thúc. Lúc đó họ có thể nán lại hàn huyên, trò chuyện đôi chút trước khi trở về với mái ấm gia đình của mình, chỉ thế thôi cũng làm cho tình bạn gắn bó hơn, những mối quạn hệ khăng khít bền vững hơn. Việc vui chơi giải trí cũng là một việc không thể thiếu với mỗi gia đình vào ngày Chúa Nhật đối với mỗi người nói chung và người Công giáo nói riêng, bên cạnh việc dành chút thời gian cho bạn bè, họ hàng lân cận thì việc vui chơi giải trí cũng là một phần trong việc gia đình dành thời gian cho nhau để đi chơi công viên, đi dạo phố, mua sắm hay đi thăm ông bà, cha mẹ, cô bác, anh chị em…..hay chỉ đơn giản là cả nhà cùng nhau đi ăn cơm nhà hàng hoặc một bữa ăn thịnh soạn mà trong đó có công sức đóng góp của cả nhà. Vì bữa cơm gia đình đối với người Việt Nam là vô cùng quan trọng vì đó chính là những điều kiện để giữ gìn hạnh phúc. Tuy nhiên do điều kiện ngày nay, đất nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, vì thế rất nhiều gia đình không đảm bảo được những bữa cơm quan trọng ấy. Trong một tuần chỉ có ngày chủ nhật là cơ hội để gia đình có thể quây quần trong bàn ăn với nhau. Vì vậy ngày chủ nhật chính là tâm điểm mà các thành viên mong đợi, và cũng chính vì thế nó đóng góp một phần rất lớn trong việc bảo vệ hạnh phúc gia đình, như vậy ngày Chúa nhật là ngày nghỉ tuyệt vời với mọi gia đình. Tuy nhiên đó chưa phải là điều tuyệt vời nhất, điều tuyệt vời nhất là Gia đình Công giáo dành ngày Chúa nhật cho Chúa thông qua việc tham gia học hỏi, sinh hoạt Giáo lý hay phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể( đối với các em thiếu nhi từ 6 tới 17 tuổi). Đây là hoạt động đòi buộc đối với các em vì quá trình học Giáo lý là quá trình củng cố và tôi luyện Đức Tin, giúp các em hiểu biết hơn về Giáo lý Hội Thánh và dần hình thành nhân cách của người KiTô hữu trong các em. “Nhân cách của người KiTô hữu” ở đây chính là những nhân đức, đức tính tốt cần thiết của con người nói chung và của người KiTô hữu nói riêng. Đó không chỉ là những đức tính tốt mà xã hội cần mà còn là những nhân đức mà Giáo hội cần như: sống ngoan hiền, lễ phép với ông bà, cha mẹ, anh chị và mọi người xung quanh, chân thành, tốt bụng, quan tâm chia sẻ với mọi người, và đặc biệt là yêu Chúa, yêu tha nhân, chăm lo học hỏi Giáo lý, siêng năng tham dự Thánh Lễ và lãnh nhận bí tích Thánh Thể. Ngày Chúa nhật cũng là dịp để các hội đoàn, đoàn thể trong Giáo xứ gặp gỡ, sinh hoạt với nhau như Hội Gia trưởng ( Hội những ông bố Công giáo ), Hội Hiền Mẫu (Hội những bà mẹ Công giáo), Hội Giới trẻ ( tầng lớp thanh niên nam, nữ ở độ tuổi từ 18t đến 35t )… đây là dịp để các Hội đoàn tụ họp nhau lại cùng nhau đọc kinh, cầu nguyện, chia sẻ với nhau về đời sống Đức Tin, đời sống Cầu nguyện cũng như đời sống hằng ngày, qua đó củng cố Đức Tin cũng như đời sống Đạo được nên hoàn thiện hơn. Nói đến các hoạt động ngày Chúa nhật không thể không nói đến Thánh Lễ, vì Thánh Lễ là đỉnh cao của ngày Cháu nhật. Đối với người Công Giáo, Thánh Lễ là hoạt động tối quan trọng trong đời sống mỗi Tín hữu, bên cạnh đó đây cũng là hoạt động có tính bắt buộc theo luật của Hội Thánh, không chỉ có thế Thánh Lễ còn là một hoạt động có vai trò quan trọng đối với đời sống tâm linh của người KiTô Hữu. Đó là lí do tại sao có những tín hữu ( người có lòng tin) tuy không mặn mà với đời sống Đạo nhưng vẫn cố gắng đi tham dự Thánh Lễ mỗi ngày Chúa nhật. Thánh Lễ. Thánh lễ là hoạt động thờ phượng Thiên Chúa. Thánh lễ được tiến hành (dâng lễ) bởi một hay nhiều linh mục hay giám mục với sự tham dự của các giáo dân. Thánh lễ tiến hành bởi nhiều linh mục/giám mục gọi là Thánh lễ đồng tế, trong đó có một vị là Chủ tế. Thông thường thánh lễ được tiến hành trong nhà thờ, nhưng cũng có thể tiến hành ở nơi khác như bệnh viện, trường học, nhà riêng... Thánh lễ được cử hành khởi đầu bằng lời ca, tiếng hát trong niềm vui và hân hoan. Ca hát là cách diễn tả thông thường của bất cứ lễ hội nào. Và việc gặp gỡ Thiên Chúa luôn luôn là một lễ hội. Bài hát nhập lễ nhằm xóa tan sự lạnh lùng của mỗi người chúng ta và kết hợp chúng ta thành một cộng đoàn tình thương và sống động. Hát là dấu chỉ niềm hân hoan trong tâm hồn. Chúng ta hát để diễn tả sự hiệp nhất của cộng đoàn tham dự và để nói lên rằng chúng ta vui sướng được gặp lại nhau, như Thánh vịnh 132 đã biểu lộ : "Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, Anh em được sống sum vầy bên nhau !" Niềm vui này phải được diễn tả cụ thể trong nghi thức đầu tiên của thánh lễ là sự tập họp của đoàn dân Chúa. Chủ tế bước lên bàn thờ mang một phẩm phục tùy theo từng mùa trong năm phụng vụ và tùy từng ý nghĩa thiêng liêng của Thánh lễ ngày hôm đó. Với nghi thức làm dấu Thánh giá mở đầu Thánh lễ: “Nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con, và Chúa Thánh Thần”. Amen. Đã mang một ý nghĩa hết sức cao trọng: Giúp tất cả các Kitô hữu là những người có Chúa Kitô, nhận biết mình thuộc về Chúa Kitô, bày tỏ niềm tin của chúng ta vào Chúa Kitô đã chết trên thánh giá vì chúng ta, chúng ta nói lên lòng ước muốn đón nhận sự phong phú khôn lường của thánh giá và ước muốn liên kết đời sống chúng ta với đời sống của Chúa Kitô chết trên thánh giá. Vậy, thánh giá quả là dấu chỉ sự cứu độ, sự cứu chuộc và sự phục sinh. Dấu thánh giá còn nhắc chúng ta về bí tích Thánh Tẩy của mình, bởi chúng ta đã được rửa tội "nhân danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Dấu thánh giá là biểu thức của chính đức tin Kitô giáo, đó là sự hiện hữu của Thiên Chúa tình yêu được mạc khải bởi đời sống của Chúa Kitô. Do đó người ta hiểu tại sao các Kitô hữu thường làm dấu thánh giá và luôn luôn bắt đầu một nghi thức phụng vụ bằng dấu thánh giá. Trong tình yêu thương bao la của Thiên Chúa toàn năng, vị Chủ tế đại diện cho Chúa Giêsu Kitô ngõ lời chào toàn thể cộng đoàn dân Chúa khi tham dự Thánh lễ, theo các hình thức được ấn định: Hình thức thứ nhất trích từ câu kết thư thứ hai của thánh Phaolô gửi tín hữu Cô-rin-tô 13,13: "Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em". Hình thức thứ hai phát xuất từ sách bà Rút 2,4: "Chúa ở cùng anh chị em". Hình thức thứ ba mượn lời thơ thánh Phaolô gửi tín hữu Ê-phê-xô 1,2: "Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh chị em được đầy ân sủng và bình an". Sau khi khi làm dấu thánh giá cùng với nghi thức mở đầu thánh lễ theo quy định của Hội Thánh Công giáo trong sách lễ Rôma. Linh mục nói lên ý nghĩa của Thánh lễ ngày hôm đó và kêu gọi mọi người sám hối, nhìn lại thân phận tội lỗi con người của mình để xứng đáng cử hành thánh lễ. Tuy nhiên, Thánh lễ ngày Chúa Nhật sẽ khác với thánh lễ ngày thường vì có lời Kinh Vinh Danh mà ngày thường không có. Kinh Vinh Danh chỉ đọc trong Thánh lễ ngày Chúa Nhật hoặc trong các Thánh lễ trọng, theo quy định của Giáo Hội Công Giáo. Kinh Vinh Danh có một ý nghĩa rất quan trọng: Kinh Vinh Danh được sáng tác bằng tiếng Hy lạp dựa trên tư tưởng các thánh Vịnh. Người ta không biết ai là tác giả, nhưng Kinh Vinh Danh đã thấy xuất hiện trong Kinh buổi Sáng bên Đông phương vào thế kỷ thứ IV. Kinh Vinh danh thuộc trong những bài ca cổ kính nhất của Kitô giáo và cũng còn được gọi là "Ca vịnh Thiên Thần". Khởi đầu chính các Thiên Thần hát mừng ngày Đức Giêsu giáng sinh. Kinh còn được mang tên "Lời đại tán tụng" phân biệt với lời tán tụng: Vinh danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần thường dùng kết thúc khi hát các bài Thánh Vịnh. Giáo hội đoàn tụ trong Chúa Thánh Thần hát Kinh Vinh Danh tôn vinh Chúa Cha. và cầu khẩn với Chúa Con. Kinh Vinh Danh được hát hay đọc vào phần đầu thánh Lễ Chúa nhật (trừ mùa Vọng và mùa Chay), trong các lễ Trọng và lễ Kính. Sau kinh Vinh Danh đó là phần công bố lời Chúa. “ Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi” ( Tv 118,105) Phần công bố lời Chúa được xem là một trong hai phần quan trọng nhất của Thánh lễ. Thật thế Lời Chúa chính là trong tâm và là nền tảng đời sống người Kitô hữu. “ Phúc thay ai biết lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa”. Khi xưa Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua các cha ông. Nhưng vào thời sau hết này, Người đã phán dạy chúng ta qua Thánh tử. Chính Chúa Giêsu Kitô đã giảng dạy và công bố tin mừng nước trời cho tất cả mọi người, để tất cả những ai nghe lời mà tin và sống theo lời Người thì được ơn cứu độ. Lời Chúa được các Thánh Tông Đồ ghi chép một cách chính xác, nhờ sự soi sáng, linh hứng của Chúa Thánh Thần và được thể hiện trong Kinh Thánh. Vì thế khi nghe công bố Tin Mừng, giáo dân ngồi xuống nghe đọc các đoạn trích trong Kinh Thánh. Thông thường gồm 3 bài đọc: Bài đọc 1: Trích từ Cựu ước do giáo dân đọc. Sau bài đọc 1 là Thánh Vịnh và Đáp ca, được đọc hoặc hát. Bài đọc 2: Trích từ Tân ước (trừ các bài Tin Mừng). Sau đó cộng đoàn giáo dân đứng lên hát bài hoan ca ngắn Alleluilla, Mừng vui lên. Bài Tin Mừng: do vị Chủ tế đọc (hoặc một trong các Linh mục đồng tế đọc) trích từ 1 trong 4 bài Tin mừng (của các Thánh Mathêu, Maccô, Gioan, Luca) nói về hoạt động và những lời giáo huấn của chính Chúa Giê Su. Khi đọc đến bài Tin Mừng, toàn thể giáo dân đứng và nghe Tin Mừng. Các bài Tin Mừng chứa đựng chính lời của Chúa Giêsu. Khi linh mục đọc Tin Mừng trong thánh lễ, chính Chúa Kitô đang hiện diện và nói với chúng ta. Tin Mừng thuật lại các việc và hành động của Chúa Giêsu. Do đó, khi nghe công bố Tin Mừng, chúng ta đứng lên để tỏ lòng tôn kính Chúa Giêsu, tôn kính những giáo huấn của Người, cũng như mọi việc Người làm Các bài đọc được sắp xếp theo lịch phụng vụ do Giáo hội công giáo ban hành. Như vậy mỗi ngày, tất cả các nhà thờ công giáo đều đọc cùng một số đoạn trích như nhau. Lịch các bài đọc phụng vụ được lập lại mỗi 3 năm (năm A, năm B, năm C). Bài Tin Mừng của vị Chủ tế là bài quan trong nhất, hai bài đọc chỉ là hai bài bổ trợ và chỉ để nói lên ý chính cốt yếu của bài Tin Mừng, cũng là điều mà Chúa Giêsu Kitô muốn dạy chúng ta sống trong tình yêu thương bao la của Ngài. Vậy nên, ba bài đọc này tuy khác nhau nhưng luôn luôn phù hợp với nhau theo sự sắp xếp của Giáo Hội và theo Thánh ý của Thiên Chúa. Sau khi công bố lời Chúa, là những lời giảng giải của vị Chủ tế, lời giảng của vị Chủ tế là những lời giải thích, là những lời chú giải, là những ví dụ về ba bài đọc nói trên đặc biệt là bài Tin Mừng. Lời giảng lễ của vị Chủ tế là để toàn thể cộng đoàn dân Chúa có thể hiểu và sống đúng với những gì Chúa muốn nói, sống đúng tinh thần Kitô giáo. Vì vậy, phần giảng lễ của vị Chủ tế không phải là phần buộc trong Thánh lễ, trong những trường hợp đặc biệt vị Chủ tế có thể không giảng sau khi công bố Tin Mừng trong những Thánh lễ ngày thường. Nhưng trong Thánh lễ ngày Chúa Nhật thì Chủ tế bắt buộc phải giảng lễ. Phần giảng lễ trở nên sống động và trở nên ý nghĩa trong đời sống giáo dân, vì chính nhờ những lời khuyên, những lời giảng dạy của Chủ tế đã nói lên sự đồng hành của Linh mục, của những người mục tử luôn bên cạnh những con chiên của mình. Chăn dắt con chiên của mình, trong những lời khuyên răn dạy bảo đó, là những tâm tình chia sẻ trong sự hiệp nhất của tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong các Thánh lễ Chúa Nhật và các Thánh lễ kính trọng thể thì đều có Kinh Tin Kính. Kinh Tin Kính được đọc như là sự chấp nhận và đáp lại Lời Chúa mà giáo dân đã nghe trong các bài đọc và bài giảng. Kinh Tin Kính tóm tắt tất cả các điều căn bản của đức tin Kitô giáo. Đọc kinh Tin Kính là dấu chỉ nhìn nhận đức tin của mọi Kitô hữu. Trong các Thánh lễ, Kinh Tin Kính thường đọc là kinh Tin Kính Nicea-Constantinopoli, tuy nhiên vẫn có thể thay thế bằng Kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ, đặc biệt trong mùa Chay và mùa Phục Sinh, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam thường khuyến khích đọc Kinh Tin Kính các Thánh Tông Đồ. Sau lời Kinh Tin Kính là phần Lời nguyện tín hữu hay còn có tên gọi khác là lời nguyện giáo dân hoặc lời nguyện công đoàn với một ý nghĩa sâu xa trong đời sống Kitô hữu Cộng đoàn dâng lên Thiên Chúa những lời cầu xin, khẩn nguyện, kêu van và tạ ơn không những cho Giáo Hội, cho cộng đoàn và cho những người tham dự thánh lễ, mà còn cho tất cả mọi người, như lời khuyên của thánh Phaolô (1 Tm 2, 1). Trong lời nguyện tín hữu, chúng ta để con tim chúng ta cùng rung nhịp đập với mọi tạo vật, với mọi chiều kích của vũ trụ, biết thông cảm với những khổ đau, lao nhọc, với những niềm hy vọng của mọi người trên trái đất này. Lời nguyện tín hữu phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay của mình và khẩn cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các tạo vật của Người. Trong lúc đọc Kinh Tin Kính và đọc lời nguyện tín hữu, vào các Thánh lễ Trọng hay Thánh lễ Chúa Nhật có việc quyên tiền vào các giỏ của nhà thờ. Một số người không thích quyên tiền trong các thánh lễ Chúa nhật, vì việc ấy làm chia trí trong lúc cầu nguyện. Phải chăng đó là hành vi quá vật chất và trần tục trong khung cảnh hoàn toàn thiêng liêng ? Quyên tiền là một nghi thức rất cổ xưa và là sự tổng hợp của hai cách thực hành đã có từ buổi đầu của Kitô giáo : ° Một đàng, các tín hữu đem bánh và rượu đến để dâng thánh lễ. Các lễ vật này được rước kiệu lên bàn thờ, được chủ tế đón nhận để dâng lên Thiên Chúa. Đó là nguồn gốc của phần Dâng Lễ và lời nguyện tiến lễ (lời nguyện trên lễ vật). Từ thế kỷ thứ IX, vì việc nhận lễ vật bằng tiền mặt có vẻ tiện lợi hơn, nên việc rước kiệu lễ vật được thay thế bằng việc quyên tiền. Việc quyên tiền này trong thánh lễ là dấu chỉ sự tham dự tích cực của mọi tín hữu vào thánh lễ cũng như lễ vật của mỗi người. Nghi thức kiệu lễ vật trong thánh lễ, hiện vẫn còn được thực hiện tại một vài miền và vào các dịp lễ lớn, giữ lại dấu vết của tục lệ cổ xưa này. ° Đàng khác, tình liên đới giữa các phần tử trong cộng đoàn Kitô được cổ vũ ngay từ thời sơ khai để cung cấp cho những nhu cầu của Giáo Hội và của người nghèo. Do đó việc quyên tiền trong thánh lễ là một trong những phương cách thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và tình liên đới với tha nhân. Tiếp theo sau Phần đầu là Phụng vụ Lời Chúa thì đến đây Thánh lễ chuyển sang phần thứ hai: Phụng vụ Thánh Thể. Phụng vụ Thánh Thể bắt đầu với lời ca Dâng Lễ và Chủ tế Dâng bánh không men, rượu và nước. Trong Thánh lễ chỉ sử dụng loại bánh không men, mà không dùng bất kì loại bánh nào khác vì: Luật hiện hành của Giáo Hội buộc rằng thánh lễ phải được cử hành với bánh không men (Giáo Luật, số 926). Nhưng ngày xưa không hẳn như thế. Vào giữa thế kỷ thứ II, thánh Justinô cho biết là giáo dân đem bánh nướng tại nhà mình đến để dâng trên bàn thờ. Chắc chắn đó là bánh nướng được làm dậy bằng men. Cho tới thế kỷ thứ XI, người ta chấp nhận cả bánh có men lẫn bánh không men để cử hành thánh lễ. Vào giữa thế kỷ XI, Giáo Hội Tây Phương có thói quen chỉ dùng bánh không men. Tại sao bánh có men được thay dần dần bằng bánh không men ? 1. Trước tiên, vì theo gương Chúa Kitô. Theo các thánh sử Mát-thêu (26, 17), Mác-cô (14, 12) và Lu-ca (22, 7-8), bữa Tiệc Ly là tiệc lễ Vượt Qua, trong đó người ta dùng bánh nướng không men để tưởng nhớ ngày dân Do-thái, do phải vội vã lên đường trốn ra khỏi Ai-cập, họ không có đủ thời giờ để chờ bột dậy men rồi đem nướng. Dùng bánh không men là cách để nhắc nhở việc ấy. 2. Vào thế kỷ thứ XII, việc tôn kính Thánh Thể trở nên phổ biến và được thực hiện một cách tỉ mỉ. Người ta cố giữ làm sao không cho một mẩu vụn bánh nào rơi xuống đất. Bánh không men được xét là thích hợp hơn để dâng thánh lễ vì ít bở hơn và nhẹ hơn bánh có men. Vả lại, với bánh không men, người ta làm được dễ dàng những tấm bánh trắng và đẹp, dấu chỉ sự tinh tuyền của lễ vật chúng ta dâng. Hơn nữa, với bánh không men, người ta dễ làm các bánh nhỏ dành cho giáo dân. 3. Thánh lễ là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Do Giáo Hội Đông Phương vẫn duy trì bánh không men, nên việc chúng ta cũng dùng bánh không men để biểu lộ sự hợp nhất với các Kitô hữu Đông Phương. 4. Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác. Dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể. Chủ tế dùng nước và rượu để dâng lễ, tuy nhiên trong Thánh lễ, vị Chủ tế chỉ đổ một ít nước vào trong rượu mà thôi, đó không phải là một việc làm không có mục đích nhưng tất cả các việc ấy đều có một ý nghĩa thiêng liêng. Ngày xưa, tại các xứ vùng biển Địa Trung Hải, người ta có thói quen pha một chút nước vào rượu, thường nặng và gắt. Vào bữa Tiệc Ly (bữa ăn cuối cùng của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi chịu tử nạn), phải chăng Chúa Giêsu đã pha chút nước vào rượu nho ? Có thể như vậy, tuy không có một tài liệu nào xác quyết việc này cả. Nhưng từ thế kỷ thứ II, người ta có thể xác định chắc chắn có việc pha nước vào rượu trong thánh lễ. Nghi thức này có ý nghĩa rất hay : đó là dấu chỉ mối liên quan chặt chẽ giữa thần tính và nhân tính trong Chúa Kitô ; đồng thời, là sự liên kết chặt chẽ của chúng ta (tượng trưng bởi nước) với Chúa Kitô (rượu nho) làm thành lễ vật dâng trong trong thánh lễ. Chúa Kitô không tự hiến tế một mình, nhưng liên kết với Giáo Hội mà chính Người là đầu. Ý nghĩa phong phú của các biểu tượng này được thể hiện trong lời cầu nguyện của vị chủ tế khi pha chút nước vào rượu nho : "Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con". Chủ tế dâng dâng bánh và rượu, để sau lời truyền phép của Chủ tế - trong thiên chức thiêng liêng mà chính Chúa Giêsu đã thiết lập qua bí tích truyền chức thánh. Bánh và rượu được trở nên MÌNH và MÁU cực Thánh của Chúa Giêsu Kitô, trong sự mầu nhiệm thiêng liêng của Thiên Chúa vì yêu thương con người. Trong lời truyền phép, giây phút ấy là giây phút thiêng liêng và cực Thánh trong thánh lễ. Vị Chủ tế là hiện thân của chính Chúa Giêsu để lặp lại lờ nói của Chúa Giêsu Kitô trong bữa tiệc ly. Người cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn: Vì này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì các con. Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối,Người cầm lấy chén, cũng tạ ơn, trao cho các môn đệ mà nói: Tất cả các con hãy nhận lấy mà uống: Vì này là chén Máu Thầy, Máu giao ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội. Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. Nghi thức bẻ bánh lập lại cử chỉ của Chúa Kitô trong bữa Tiệc Ly : "Người cầm lấy bánh, bẻ ra và trao cho các môn đệ". Vào thời các Tông đồ, thánh lễ được gọi là việc "bẻ bánh". Thánh Phaolô giải thích : "Tấm bánh mà chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao ? Vì có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết thảy chúng ta thông phần vào một tấm bánh" (1 Cor 10, 16-17). Cử chỉ bẻ bánh thể hiện rõ ràng giá trị và tầm quan trọng của dấu hiệu hiệp nhất của mọi người trong cùng một tấm bánh, và của dấu hiệu yêu thương trong việc mọi người cùng chia với nhau tấm bánh duy nhất. Trước đó, kinh Tạ Ơn đã nhấn mạnh điều này khi bày tỏ lời nguyện sau : "Chúng con cúi xin Cha cho Thánh Thần liên kết chúng con nên một khi chúng con dự tiệc Mình và Máu Đức Kitô" (kinh Tạ Ơn II). Chúng ta không thể tăng triển trong sự hiệp nhất với Chúa Kitô nếu chúng ta không cùng một lúc tăng triển trong sự hiệp nhất huynh đệ. Ngày xưa, nghi thức bẻ bánh chiếm nhiều thời gian vì phải chia sẻ bánh thánh cho tất cả cộng đoàn. Ngày nay, vì những lý do mục vụ (số người rước lễ đông chẳng hạn), người ta thường sử dụng những bánh lễ nhỏ cho giáo dân và một bánh lễ lớn cho linh mục. Ngài chỉ bẻ bánh lớn này mà thôi. Do đó nghi thức bẻ bánh có thể khó nhận ra được, nhưng vẫn luôn giữ được ý nghĩa sâu sắc của nó. Sau đó vị Chủ tế tiếp tục dâng Thánh lễ theo những nghi thức thiêng liêng, để ca ngợi Thiên Chúa, để tôn vinh chính MÌNH và MÁU Thánh của Chúa Giêsu và để nâng con người lên với Thiên Chúa. Tiếp theo và phần trao ban chính MÌNH và MÁU Thánh của Chúa cho công đoàn, nhưng trước đó vị Chủ tế có làm nghi thức thức bẻ một phần MÌNH Thánh Chúa vào trong MÁU Thánh của Người. Sách lễ không giải thích nghi thức này, có lẽ do không thấy sự cần thiết hoặc do không chắc chắn về ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn giữ lại nghi thức ấy vì muốn trung thành với truyền thống. Có hai cách giải thích : 1.Nghi thức này có thể liên quan đến thời gian đầu của Giáo Hội. Các mẫu bánh thánh trong thánh lễ của Đức Giáo Hoàng được phânchia cho các cha xứ tại các nhà thờ nội thành Rôma. Những vị này không thể đến dự lễ Đức Giáo Hoàng cử hành do phải dâng lễ cho giáo dân. Việc chia bánh thánh này muốn diễn tả sự hợp nhất của linh mục đoàn thành Rôma với vị giáo hoàng của mình. 2. Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại để cho những người bệnh và những người hấp hối rước lễ. Người ta cathay thế lại mỗi khi bánh thánh trở nên khô cứng, bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm bớt để chịu lễ cho dễ dàng hơn. Ngày nay, mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta thường nói đến ý nghĩa tượng trưng của bánh thánh và rượu thánh. Giới thiệu mình và máu, như Chúa Giêsu đã làm ở bữa Tiệc Ly, theo não trạng của người Do-thái, là gợi lên sự chết, vì sự sống (tượng trưng bởi máu) không ở trong xác thịt nữa. Do đó, hòa lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô hằng sống, đó là chuyện tự nhiên. Vả lại, khi nhìn bánh và rượu trên bàn thờ, chúng ta nghĩ ngay đến bữa ăn, dấu chỉ của sự sống. Khi bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế đọc nhỏ : "Xin Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hòa lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh nhận cho chúng con được sống muôn đời". Việc rước MÌNH và MÁU Thánh của Chúa Giêsu Kitô là việc cực trọng, vì thế chỉ những người trong đạo Công Giáo mới được rước lễ, trong điều kiện sạch tội trọng. Vì vậy, việc rước lễ không phải là nghi thức bắt buộc, nhưng trong mùa Phục Sinh thì Giáo Hội bắt buộc toàn thể Kitô hữu phải rước MÌNH và MÁU Thánh của Chúa Kitô ( điều này quy định rõ trong sáu điều răn Hội Thánh). Rước lễ còn được gọi là Hiệp lễ. Giáo dân rất ít có cơ hội được rước cả MÌNH và MÁU Thánh của Chúa, nhưng điều đó cũng có một lí do xác đáng. Giáo Hội khuyến khích việc chịu lễ Mình và Máu Thánh Chúa, vì hoàn toàn phù hợp với lời mời của Chúa Giêsu : "Hãy cầm lấy mà ăn", "Hãy cầm lấy mà uống". Nhưng khi có nhiều người tham dự thánh lễ, việc cho rước lễ dưới hai hình bánh và rượu gặp nhiều khó khăn cụ thể. Đó là lý do giải thích tại sao hiếm khi bạn được rước lễ dưới hai hình thức. Mong rằng trong các dịp lễ trọng, và khi có nhiều thừa tác viên cho rước lễ, giáo dân được rước cả Mình và Máu Thánh Chúa. Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây, là khi bạn chỉ rước Mình Thánh Chúa hoặc chỉ rước Máu Thánh Chúa, bạn đều rước Chúa Giêsu Kitô trọn vẹn. Người hiện diện thật sự và trọn vẹn ngay chỉ dưới một hình thức (Sắc lệnh của Công Đồng Trentô (hoặc Triđentinô), khóa họp 13, năm 1551). Có người đặt câu hỏi : có thể rước lễ nhiều lần trong ngày được không ? Theo Giáo Luật mới (1983), số 917, ai đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong ngày đó, nhưng chỉ ở trong thánh lễ mà họ tham dự mà thôi. Ngày xưa, linh mục dâng thánh lễ bằng tiếng la-tinh và quay lưng lại với giáo dân. Mỗi người tự dọn mình bằng cách đọc thầm kinh dọn chịu lễ trước khi lên rước lễ. Nhưng ngày nay, theo tinh thần canh tân phụng vụ sau Công Đồng Vaticanô II, toàn bộ thánh lễ là sự chuẩn bị cho việc rước lễ. Hay nói đúng hơn, toàn bộ thánh lễ là hiệp lễ (rước lễ) : từ việc mặc niệm lúc đầu thánh lễ, nhìn nhận tội lỗi mình, nghe Lời Chúa qua các bài đọc, lời nguyện giáo dân, thông dự vào kinh Tạ Ơn, đọc kinh Lạy Cha. Tất cả đều nhằm khai triển hành động của Chúa Kitô, Đấng làm cho chúng ta trở nên thân thể của Người. Trong kinh Tạ Ơn, sau khi bánh, rượu đã được thánh hiến, chúng ta xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta được hiệp nhất trong Hội Thánh, là Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Bạn thấy rước lễ quan trọng như thế nào khi biết rằng rước lễ tóm lược toàn bộ thánh lễ. Do đó những người tham dự thánh lễ không nên tách rời cộng đoàn và tự cô lập mình, khi nghĩ rằng mình không xứng đáng lên rước lễ. Bạn không quên điều này : rước lễ không phải là một phần thưởng, nhưng là một lương thực. Bạn hãy nhớ lại câu mà mọi người đều đọc trước khi rước lễ : "Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự đến cùng con, nhưng xin Chúa chỉ phán một lời, thì con được lành mạnh" (Sách Lễ Rôma, bản dịch 1992 của HĐGMVN). Như thế, vấn đề ở đây không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, nhưng trái lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của ta ví tựa như trời cao với vực thẳm, cho nên đây không là lúc đặt vấn đề mình có xứng đáng hay không để rước Chúa vào lòng. Lời nguyện trên lập lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình : "nhưng xin Ngài phán một lời" (Lc 7, 7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu "Hãy cầm lấy mà ăn" quan trọng hơn việc tìm kiếm sự thanh khiết của chúng ta nhiều. Vả lại, chúng ta cảm thấy nghịch thường khi thấy một số tín hữu nhận lời mời của Chúa Kitô đến dự bữa tiệc thánh của Người, và do đó, tự xem là con cái trong một gia đình, lại tự tách riêng ra, không tham dự rước lễ, làm như họ là người ngoài bữa tiệc hoặc là những người bàng quan. Tham dự thánh lễ mà không rước lễ là chưa thấu hiểu ý nghĩa đích thật của bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, có một vài ngoại lệ. Ngoài vấn đề những người bị vạ tuyệt thông hoặc phạm tội nặng không được rước lễ, có thể vào lúc rước lễ, với đức tin cao độ, chúng ta thực sự cảm thấy chưa sẵn sàng trong nội tâm để tiến lên đón nhận Mình thánh Chúa. Vì rước lễ đòi hỏi sự chuẩn bị cả con người chúng ta, nên phải làm hết sức để tránh làm sao cho việc rước lễ khỏi trở nên máy móc, nhàm chán. Có lẽ trong một vài trường hợp, ta không nên lên rước lễ, không phải vì ưu tư về sự thanh khiết của mình, nhưng vì không phù hợp với lòng thành của mình trước cử chỉ ta sắp thực hiện. Khi Chủ tế, Linh mục, Tu sĩ nam nữ hoặc những người được trao ban đặc quyền, trao ban chính MÌNH và MÁU Thánh của Chúa đều nói “ MÌNH và MÁU Chúa Kitô”. Người được lãnh nhận thưa “ Amen”. Trong mọi cử hành phụng vụ, từ “ Amen” được thưa lên mang một ý nghĩa quan trọng. Amen là một chữ do-thái. Các tín hữu thời Cựu Ước thường dùng Amen để kết thúc lời cầu nguyện của họ. Chúa Kitô cũng đã sử dụng, không những lúc Người cầu nguyện, mà còn cả trong lúc giảng dạy để nhấn mạnh, làm nổi bật chân lý Người nói : "Amen - Thật - Ta bảo thật các ngươi..." Chúng ta thường gặp ngôn thức này trong Tin Mừng. Trước kia, sau các lời nguyện, người ta thưa "Ước gì được như vậy". Bây giờ người ta thích dùng chữ Amen hơn, vì Ước gì được như vậy không thể diễn tả hết được sự phong phú của chữ Amen. Khi thưa Amen, người ta không chỉ bày tỏ ước muốn được như vậy, mà còn xác nhận một điều chắc chắn. Đó là trường hợp khi vị linh mục công bố : "Mình Thánh Chúa Kitô" và tín hữu thưa "Amen". Chữ Amen ở đây có nghĩa "Vâng ! Tôi xác tín Chúa Kitô đến ngự trong tôi dưới hình bánh này". Đó là một điều chắc chắn ! Khi bạn thưa Amen sau lời nguyện của linh mục chủ tế, điều đó không chỉ có nghĩa là ước muốn những lời cầu nguyện đó được chấp nhận, nhưng còn nói lên rằng : lời nguyện đó cũng là lời nguyện của chính bạn, và bạn muốn tháp nhập vào đó với hết tâm tình. Hơn thế nữa, Amen diễn đạt đức tin của toàn cộng đoàn vào sự trung tín của Chúa. Người sẽ nhậm lời những gì cộng đoàn cầu xin với niềm tin tưởng. Bởi vì căn gốc của chữ do-thái này có ý nghĩa sự trung thành, trung tín. Như thế, khi thưa Amen, chúng ta tung hô sự trung tín của Chúa, như lời thánh Phaolô : "Xin Thiên Chúa là Đấng trung tín chứng giám cho rằng lời nói của chúng tôi đối với anh em, không phải là vừa "Có" lại vừa "Không". Quả thế, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng mà chúng tôi đã rao giảng nơi anh em, [...], nơi Người chỉ là "Có" mà thôi. Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên Chúa đã thành "Có" ở nơi Người. Vì thế nhờ Người mà chúng tôi hô lên lời "Amen" tôn vinh Thiên Chúa" (2 Cor 1, 18-20). Việc rước MÌNH và MÁU Thánh của Chúa có thể được thể hiện dưới hai hình thức bằng tay hoặc bằng miệng. Đối với một số người, rước lễ bằng tay có vẻ thiếu tôn kính với Mình Thánh Chúa Kitô. Hôm trước ngày chịu nạn, trong lúc lập phép Thánh Thể, Chúa Giêsu "cầm lấy bánh, đọc lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ" (Lc 22, 19). Chắc chắn là các môn đệ đã cầm bánh thánh trong tay của mình. Và Giáo hội cũng đã tiếp tục làm như thế trong suốt mười thế kỷ đầu. Sử liệu không thiếu để minh chứng việc này. Việc rước lễ bằng miệng chỉ xuất hiện sau đó. Một đàng, việc Giáo Hội chống mọi hình thức ma thuật và tục lệ mê tín dị đoan (thí dụ : chôn bánh thánh trong đất ruộng để mùa gặt được tốt) dẫn đến việc rước lễ bằng miệng. Đàng khác, do người ta ngày càng nhạy cảm về tính chất thiêng liêng của Mình Thánh để rồi đi đến suy nghĩ cho rằng chỉ có linh mục mới có quyền đụng đến bánh thánh. Rước lễ bằng tay và rước Máu thánh Chúa được tái lập bởi Công Đồng Vaticanô II. Ngày nay người tín hữu được tự do chọn một trong hai cách rước lễ. Cách nào hay hơn đối với bạn ? Điều cốt yếu là bạn tham dự bữa tiệc Thánh Thể và đón rước Mình Thánh Chúa Kitô phục sinh với tất cả lòng cung kính. Tiếp tục sau đó là lời nguyện Hiệp lễ và cuối cùng là Kết lễ. Chủ tế ban phép lành cho toàn thể dân Chúa tham dự Thánh lễ nhân danh Chúa Cha – Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chủ tế kết thúc Thánh lễ sau lời chúc: “Lễ xong, chúc anh chị em đi bình an”. Lời này không chỉ có mục đích để kết thúc thánh lễ bằng cách giải tán giáo dân, nhưng còn có ý nghĩa sai đi. Chủ tế muốn nói : ° Anh chị em vừa nghe Lời Chúa, vừa suy ngẫm và tung hô lời giáo huấn của Chúa Kitô, thì bây giờ hãy đem những lời ấy ra thực hành. Hãy đi làm chứng về điều mình vừa nghe, về điều mình tin. ° Trong thánh lễ, anh chị em đã nhớ rằng Chúa Kitô đã hiến mạng sống mình vì tình yêu, và anh chị em cố gắng noi theo gương của Người. Anh chị em đã lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Giờ đây, anh chị em hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô ! Hãy ban tặng sự sống của mình giống như Chúa Kitô đã làm! Hãy yêu mến tha nhân như Người đã làm gương cho chúng ta ! Hãy yêu thương, tha thứ, và đi gieo niềm hy vọng khắp mọi nơi! Trong sách lễ bằng Pháp ngữ, chủ tế nói : "Hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô" (Allez dans la paix du Christ). Còn trong sách lễ bằng Anh ngữ, có thể chọn một trong ba công thức sau : - "Hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô" (Go in the peace of Christ), - "Thánh lễ đã xong, hãy ra đi trong bình an" (The Mass is ended, go in peace), - "Hãy ra đi trong bình an yêu mến và phục vụ Thiên Chúa" (Go in peace to love and serve the Lord). Ý nghĩa của thánh lễ. Thánh lễ là nguồn và là đỉnh cao đời sống Kitô giáo của mọi Kitô hữu. Hơn thế nữa Thánh lễ Chúa nhật càng quan trọng hơn, thiêng liêng hơn và là nguồn mạch sự sống đời đời, là mối dây kết hợp giữa con người và Thiên Chúa. Tham dự Thánh lễ ngày Chúa Nhật là bắt buộc với mọi người chọn Chúa là Chúa, là Đấng tối cao cuộc đời của mình. Nhưng Thánh lễ ngày Chúa Nhật đối với người Kitô hữu không còn là bổn phận mà thực sự là cơ hội, là lúc để mình có thể bày tỏ và tìm lại nơi suối nguồn tình yêu, là nguồn gốc và tân cùng của con người, mà khám phá ra giá trị cũng như đạt được cuộc sống vĩnh cửu trong Ba Ngôi Thiên Chúa. 4. Ý nghĩa ngày Chúa Nhật. 4.1 Đối với xã hội. Hầu hết ai cũng thừa nhận rằng, trong xã hội cạnh tranh và lao lực của chúng ta cần thiết phải có một ngày để nghỉ ngơi, đó là một điều tối cần thiết để có thể làm việc và sinh hoạt cho một tuần kế tiếp. Như đã đề cập đến ở trên, ngày chủ nhật có từ rất xa xưa, và ngày nay nó lại càng trở nên vô cùng cần thiết và ý nghĩa. Ngày chủ nhật là ngày để cho mọi người được thư giãn sau một tuần làm việc, học tập mệt mỏi, căng thẳng. Là cơ hội để các thành viên trong gia đình có điều kiện để quan tâm, tìm hiểu, và chăm sóc lẫn nhau, là mối dây liên kết hạnh phúc gia đình. Hơn nữa ngày nghỉ còn có một ý nghĩa khác đó là có thể thăm hỏi bạn bè, tham gia các giờ học tập nâng cao kiến thức cuộc sống, là thời gian để có thể nối kết tình cảm với mọi người. Chính vì những lý do trên, ngày chủ nhật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống, nó là một sự chuyển tiếp của một tuần lễ, là sự tổng kết cho một tuần đồng thời cũng mở ra sự hứng thú cho một tuần kế tiếp, tạo cho con người có đủ năng lực để có thể bước vào một tuần mới và vượt qua được những thử thách. Ngày chủ nhật được mọi người trên thế giới đón nhận và áp dụng rộng rãi trên tất cả các lĩnh vực. Hầu hết các nước trên thế giới đều có luật quy định về ngày này để bảo vệ quyền lợi cho công dân. 4.2 Ý nghĩa ngày chủ nhật đối với Công giáo: Ngày Chúa Nhật là ngày tưởng niệm cuộc Phục sinh của Chúa Giê-su. Cử hành, mừng kính ngày Chúa nhật đối với cộng đồng Ki-tô hữu, trước hết có nghĩa là nhớ đến cái chết của Đức Ki-tô trên thánh giá, nhớ đến mầu nhiệm phục sinh bất khả phân ly giữa cái chết và sự sống lại của Người và nhớ đến mầu nhiệm cứu độ, nhờ công ơn Đức Ki-tô xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Sự sống lại này là đối tượng và căn bản đức tin, là bảo đảm niềm hy vọng và ơn cứu độ cho họ ngay từ bây giờ và cả bên kia thế giới nữa. Ngày Chúa Nhật còn là dấu hiệu về sự có mặt của Đức Ki-tô : vì ngày này không chỉ đưa chúng ta trở về tưởng nhớ dĩ vãng mà thôi, nhưng còn tập hợp chúng ta lại chung quanh Đức Ki-tô hiện diện. Chúa nhật là ngày của Chúa, ngày Chúa hiện diện giữa con cái hội họp nhau lại nhân danh Người. Đó là ngày của cộng đoàn, giáo dân quy tụ nhau tại nhà thờ, tập trung quanh bàn thánh, là hình ảnh biểu dương sự hiệp nhất của Hội thánh là thân thể mầu nhiệm của Đức Ki-tô. Khi hội họp nhau như thế, các Ki-tô hữu không nhằm gặp nhau cho bằng gặp nhau chung quanh Đức Ki-tô. Cuộc hội họp của họ chỉ có đầy đủ ý nghĩa khi có Chúa hiện diện với họ. Chúa hiện diện giữa họ trong thánh lễ, vì thánh lễ là dấu hiệu về sự hiện diện của Người. Chính nhờ thánh lễ mà Đức Ki-tô gặp lại con cái mình, đưa họ dần dần tiến đến tình trạng phục sinh của Người và xây dựng Hội thánh. Ngày Chúa nhật là ngày tốt nhất để cử hành thánh lễ. Các Ki-tô hữu phải bỏ tất cả để tham dự thánh lễ. Về vấn đề này, sách Giảng huấn của các Tông đồ dạy rằng:"Anh em đừng để các công việc phần đời lên trên Lời Chúa, nhưng trong ngày của Chúa, hãy bỏ tất cả và chuyên cần đến nhà thờ, vì đó là nơi anh em dâng lời ngợi khen lên Thiên Chúa. Chẳng vậy thì những người không hội nhau vào ngày của Chúa, để nghe lời ban sự sống và nuôi dưỡng mình bằng của ăn thánh tồn tại muôn đời; sẽ lấy lẽ gì để bào chữa trước mặt Người ?" Hình ảnh thế giới tương lai đã thể hiện trong ngày Chúa Nhật. Ngày xưa Chúa đã sống lại và bây giờ hiện diện trong cộng đoàn đang tụ họp để hành lễ cũng là Đấng sẽ trở lại uy hùng rực rỡ để phán xét người sống và kẻ chết. Tín điều này làm cho ngày Chúa nhật có tính cách cánh chung. Cũng như tất cả các dấu hiệu bí tích khác, ngày Chúa nhật không những quay về dĩ vãng mà còn hướng về tương lai nữa. Ngày Chúa nhật tượng trưng cho chúng ta về vương quốc vô tận ; sự nghỉ ngơi đời đời với Chúa, lời ca tụng không cùng bên cạnh Con Chiên với muôn ngàn thần thánh trên trời. Như vậy, ngày Chúa nhật là hình ảnh và điềm tiên báo thế giới tương lai và sự sống đời đời; ngày tưởng niệm Đức Ki-tô sống lại đó cũng là một bảo đảm cho ngày Người trở lại, một bảo đảm cho chúng ta được tham dự đầy đủ vào mầu nhiệm phục sinh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuyên đề tôn giáo học- Ngày Chúa Nhật.doc
Luận văn liên quan