Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn. Thực trạng, xu hướng và giải pháp

Chương I: Cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 3 I. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp . 3 1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế nông nghiệp . 3 2. Các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp . 4 II. Cơ cấu kinh tế nông thôn . 4 1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn 4 2. Các bộ phận cấu thành kinh tế nông thôn 4 III. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn . 5 1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 5 2. Vì sao phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn . 6 3. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn . 9 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 11 Chương II: Phân tích thực trạng chuyện dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta hiện nay . 15 I. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 15 1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp . 15 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn 20 Chương III: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 23 I. Mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 23 1. Quan điểm và Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 23 2. Định hướng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 24 II. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 25 Kết luận . 29

doc35 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 20155 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn. Thực trạng, xu hướng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện kinh tế xã hội nước ta hiện nay là một vấn đề đáng qua tâm. Việc nhìn lại một cách khái quát nhất tình hình nông nghiệp, nông thôn, từ đó có cách tiếp cận đúng đắn, có luận cứ khoa học, hệ thống hóa lô-gíc để phân tích, luận giải các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với từng thời kỳ phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn đồng thời đưa ra những định hướng cho nông nghiệp, nông thôn Việt Nam phát triển trong tương lai - tất cả những việc đó là nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu nghiêm túc. Qua bài viết này hi vọng chúng ta tiếp cận được một phần nào đó về vấn chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay. MỤC LỤC: Chương I: Cơ sở lí luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 3 I. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp 3 1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế nông nghiệp 3 2. Các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp 4 II. Cơ cấu kinh tế nông thôn 4 1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn 4 2. Các bộ phận cấu thành kinh tế nông thôn 4 III. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 5 1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 5 2. Vì sao phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 6 3. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 9 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 11 Chương II: Phân tích thực trạng chuyện dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta hiện nay 15 I. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn 15 1. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp 15 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn 20 Chương III: Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 23 I. Mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 23 1. Quan điểm và Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 23 2. Định hướng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 24 II. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn 25 Kết luận 29 Phụ lục 31 Danh mục tài liệu tham khảo 34 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP , NÔNG THÔN I. CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP 1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế nông nghiệp 1.1 Kinh tế nông ngiệp bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp là lĩnh vực sản xuất vật chất nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu về lương thực, thưc phẩm cho nhân dân, làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp và làm nguồn hang cho xuất khẩu .[2] 1.2 Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tổng thể bao gồm các mối quan hệ tương quan giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực nông,lâm,ngư nghiệp trong khoảng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể . Cơ cấu kkinh tế nông nghiệp phụ tuộc chặt chẽ vào nhiều nhân tố đa dạng và phức tạp có thể phân thành các nhóm nhân tố sau : Nhóm nhân tố tự nhiên : trước hết đó là điều kiện đất đai , thời tiết , khí hậu có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Kinh tế nông nghiệp gắn với điều kiện tự nhiên rất chặt chẽ, nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ cho năng suất cao và ngược lại Nhóm nhân tố về kinh tế và tổ chức: Trong đó vấn đề thị trường và các nguồn lực đóng vai trò hết sức quan trọng . Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tê nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng.Chính sách phát triển kinh tế hàng hoá và chính sách khuyến khích xuất khẩu đã tạo điều kiện để phát triển nền nông nghiệp đa canh, hình thành các vùng sản xuất chuyên môn hoá với quy mô ngày càng lớn . Nhóm nhân tố về kĩ thuật : Tác động mạnh mẽ đến việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Nó mở ra những triển vọng to lớn trong việc áp dụng những công nghệ mới vào canh tác,chế biến và bảo quản nông sản nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm để có thể hòa nhập vào thị trường thế giới. [2] 2. Các bộ phận cấu thành kinh tế nông nghiệp: Nông nghiệp là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế theo nghĩa rộng bao gồm nông nghiệp,lâm nghiệp và ngư nghiệp. Đồng thời trong từng nhóm ngành lại được phân chia thành các bộ phận nhỏ: Trong nông nghiệp(theo ngành hẹp) được phân chia thành trồng trọt và chăn nuôi.Ngành trồng trọt được phân chia tiếp thành:cây lương thực,cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu…Ngành chăn nuôi bao gồm:gia súc, gia cầm Ngành lâm nghiệp bao gồm rừng trồng, rừng tự nhiên,khoanh nuôi tái sinh, khai thác rừng tự nhiên… Ngành ngư nghiệp:bao gồm đánh, bắt cá, nuôi trồng các loại thuỷ hải sản như tôm,cá…[2] II. Cơ cấu kinh tế nông thôn 1. Khái niệm cơ cấu kinh tế nông thôn: Cơ cấu kinh tế nông thôn là tỉ lệ giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau tác động qua lại lẫn nhau trong những điều tự nhiên, kinh tế-xã hội được thể hiện cả định tính và định lượng. 2. Các bộ phận cấu thành kinh tế nông thôn Các bộ phận cấu thành kinh tế nông thôn bao gồm: nông nghiệp,công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn.Các bộ phận này lại được cấu thành từ các bộ phận nhỏ hơn.Trong đó nông nghiệp được hình thành từ rất lâu đời,có tính quyết định nhất bởi nông nghiệp là cơ sở để nuôi sống 80%dân số ở nông thôn,tạo ra những sản phẩm thiết yếu đảm bảo cái ăn,cái mặc cho nhân dân.Các bộ phận khác như công nghiệp,tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn hình thành sau chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu kinh tế nông thôn nhưng đó là những bộ phận quyết định sự phát triển của kinh tế nông thôn bởi hầu hết các bộ phận này cho tỷ suất sinh lợi cao,góp phần rất lớn vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ.[2] III. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn: 1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn 1.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là một tổng thể các mối quan hệ tỷ lệ về số lượng tương đối ổn định của các bộ phận của nền kinh tế trong những điều kiện thời gian và không gian nhất định. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự tác động làm thay đổi dần tỷ trọng của từng ngành kinh tế, từng thành phần kinh tế, tỷ trọng lao động của từng ngành trong tổng thể nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ thường được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng các ngành trong tổng giá trị sản phẩm nội địa(GDP) của quốc gia đó hay vùng đó. 1.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là quá trình phát triển của các ngành kinh tế thuộc lĩnh vực nông nghiệpvà nông thôn dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối quan hệ tương tác giữa chúng so với một thời điểm trước đó mà thường là so với năm trước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn là kết quả của quá trình phát triển vừa chịu tác động của các yếu tố khách quan như điều kiện tự nhiên,kinh tế xã hội vừa chịu tác động của các yếu tố chủ quan như sự can thiệp của chính phủ bằng các chính sách kinh tế xã hội. Do là kết quả của quá trình phát triển và bản thân cơ cấu kinh tế luôn ở trạng thái động thường được so sánh qua hai mốc thời gian,thường là năm sau so với năm trước nên cơ cấu kinh tế tự thân nó đã có sự chuyển dịch.Sự chuyển dịch này có thể theo hướng tiến bộ hay không tiến bộ, mang lại kết quả kinh tế mong muốn hay không mong muốn và do đó có thể làm cho hệ thống kinh tế phát triển hay trì trệ, lâm vào khủng hoảng hay tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các khu vực kinh tế khác. 2. Vì sao phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn Từ khi đổi mới đến nay cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta có sự chuyển biến tích cực, nhưng nông nghiệp vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn một số nơi vẫn chưa thoát khỏi độc canh, thuần nông. Nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong kinh tế nông thôn các ngành nghề ngoài nông nghiệp vẫn chưa phát triển.Nhìn chung cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta còn bất hợp lí,hiệu quả thấp chưa khai thác hết mọi tiềm năng của đất nước và lợi thế sinh thái của từng vùng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn. Do đó,chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một tất yếu,cần thiết để phát triển nông nghiệp,nông thôn toàn diện, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của thị trường và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc ở nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta là một tất yếu xuất phát từ vị trí của nông nghiệp, nông thôn trong đời sống kinh tế xã hội, từ thực trạng cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta,từ yêu cầu của CNH, HDH và yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn trước hết phải xuất phát từ vị trí của nông nghiệp,nông thôn và thực trạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta. Kinh tế nông thôn trước mắt cũng như lâu dài vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội ở nước ta.theo số liệu thống kê tỉ trọng tổng sản phẩm trong nông-lâm-ngư nghiệp là…trong GDP năm 2006.Trong tương lai nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất quan trọng bảo đảm các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trên địa bàn nông thôn có gần 70% lao động xã hội, đó là nguồn cung cấp lao động cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, việc xác lập cơ cấu kinh tế nông thôn hợp lí có ý nghĩa quan trọng trong việc sử dụng lao động phù hợp để phát triển nền kinh tế nói chung và khu vực kinh tế nông thôn nói riêng. Mặt khác, nông thôn có 76,5% dân số cả nước,là nơi tập trung gắn bó của nhiều ngành kinh tế,là thị trường rộng lớn, nếu được mở rộng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn là do yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá(CNH),hiện đại hoá(HDH) nông nghiệp nông thôn. Trong giai đoạn hiện nay, CNH,HDH nông nghiệp và nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp. Trước hết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng xoá bỏ tình trạng thuần nông,phát triển công ngiệp và dịch vụ,thúc đẩy hình thành và phát triển các vùng chuyên môn hoá, phát triển công nghiệp đăc biệt là công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản phẩm. CNH, HDH nông nghiệp nông thôn làm cho kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội như: thuỷ lợi, giao thông, điện, thông tin liên lạc, các cơ sở nông nghiệp, dịch vụ văn hoá, y tế, giáo dục ngày càng phát triển, là điều kiện vật chất quan trọng cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng đô thị hoá. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn là do đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong những năm đổi mới đã tạo đà cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn bắt nhịp vào quá trình chuyển sang kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nó đang đặt ra cho nông nghiệp, nông thôn những yêu cầu mới, cũng như những thách thức gay gắt trong sự phát triển. Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá. Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong cơ chế thị trường trong cơ chế thị trường cũng phải bảo đảm và tuân thủ các mối quan hệ đó. Thị trường phát triển đòi hỏi cơ cấu kinh tế nông thôn cưng phải biến đổi theo hướng đa dạng hơn, tuân thủ các quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường. Nông nghiệp và nền kinh tế nông thôn không chỉ có nhiệm vụ tăng trưởng sản xuất lương thực mà còn phải đa dạng hoá sản xuất và sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế để trở thành một bộ phận tích cực thúc đẩy nền kinh tế đang từng bước chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta còn xuất phát từ yêu cầu phát triển một nền kinh tế có hiệu quả, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái và giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh ở nông thôn, trong đó là tạo công ăn vịêc làm và xoá đói giảm nghèo cho cư dân nông thôn. 3. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành: Ngành là một tổng thể các đơn vị kinh tế thực hiện một loạt chức năng trong hệ thống phân công lao động xã hội. Ngành phản ánh một loạt hoạt động nhất định của con người trong quá trình sản xuất xã hội, nó được phân bịêt theo tính chất và đặc điểm của quá trình công nghệ, đặc tính của sản phẩm sản xuất ra và chức năng của nó trong quá trình tái sản xuất. Trong một vùng lãnh thổ(quốc gia,tỉnh,huyện) bao giờ cũng phát triển nhiều ngành kinh tế. Mỗi vùng lãnh thổ nông nghiệp bao giờ cũng có nhiều ngành với mối quan hệ mật thiết với nhau. Chính vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành trong nông nghiệp chính là làm thay đổi các quan hệ tỷ lệ giữa các ngành trong GDP của vùng đó. Các ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn ra đời và phát triển gắn liền với sự phát triển của phân công lao động xã hội. Như vậy phân công lao động theo ngành là cơ sở hình thành các ngành và cơ cấu ngành. Chính vì vậy chuyển dịch vơ vấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn là một quá trình chuyển từ trạng thái cơ cấu cũ sang cơ cấu mới phù hợp hơn với sự phát triển tiến bộ của khoa học công nghệ, nhu cầu thị trường và nhằm sử dụng hiệu quả mọi yếu tố nguồn lực của đất nước. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành trong cơ cấu kinh tế nông thôn là phải hướng tới một cơ cấu ngành hợp lí, đa dạng trong đó cần phát triển các ngành chủ lực có nhiều lợi thế để đáp ứng yêu cầu trong nước và xuất khẩu. Đồng thời phải kết hợp tối ưu giữa cơ cấu ngành với cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu các thành phần kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ: Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ, đó là hai mặt của một quá trình gắn bó hữu cơ với nhau, thúc đẩy nhau phát triển. Sự phân công lao động theo ngành bao giờ cũng diễn ra trên một lãnh thổ nhất định. Vì vậy cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ chính là sự bố trí các ngành sản xuất và dịch vụ theo không gian cụ thể nhằm khai thác tiềm năng và lợi thế so sánh của vùng. Xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng lãnh thổ là theo hướng đi vào chuyên môn hoá và tập trung hoá sản xuất và dịch vụ, hình thành những vùng sản xuất hàng hoá lớn,tập trung có hiệu quả cao, mở rộng mối quan hệ với các vùng chuyên môn hoá khác, gắn bó cơ cấu kinh tế của từng vùng với cả nước. Chuyển dịch cơ cấu theo thành phần kinh tế: Cơ cấu thành phần kinh tế là nội dung quan trọng của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nói riêng. Trong nông nghiệp và nông thôn tồn tại nhiều thành phẩn kinh tế khác nhau tuỳ mỗi quốc gia, mỗi vùng mà số lượng thành phần kinh tế cũng khác nhau. Các thành phẩn kinh tế cơ bản như: kinh tế quốc doanh, tập thể, tư nhân, hộ gia đình. Trong đó kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại là lực lượng chủ yếu trực tiếp tạo ra các nông, sản phẩm cho nềnkinh tế quốc dân và kinh tế hộ tự chủ đang trong xu hướng chuyển dịch từ kinh tế hộ tự cung,tự cấp sang sản xuất hàng hoá và từng bước tăng tỷ lệ hộ kiêm và hộ chuyên ngành nghề công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Do đó chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế chính là sự thay đổi về các đơn vị sản xuất kinh doanh, xem thành phần kinh tế nào nắm vai trò tự chủ trong vịêc tạo ra các sản phẩm nông nghiệp chủ yếu cho nền kinh tế chung của xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VI(năm 1986) đã khẳng định việc chuyển nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước và coi trọng việc phát triển kinh tế nhiều thành phần.Cho nên xu thế chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế ở nước ta đó là sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong đó kinh tế hộ tự chủ là đơn vị sản xuất kinh doanh, lực lượng chủ yếu, trực tiếp tạo ra các sản phẩm nông- lâm-thuỷ sản cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy để có sản xuất hàng hoá lớn,nông nghiệp nông thôn nước ta không dừng lại ở kinh tế hộ sản xuất hàng hoá nhỏ mà phải đi lên phát triển kinh tế hộ sản xuất hàng hoá lớn, kiểu mô hình kinh tế trang trại. Đối với kinh tế hợp tác phải nhanh chóng hoàn thiện việc đổi mới hợp tác xã kiểu cũ theo luật hợp tác xã. Đồng thời khuyến khích mở rộng và phát triển các hình thức hợp tác kiểu mới, đó là những hợp tác xã có hình thức và tính chất đa dạng, quy mô và trình độ khác nhau. Hợp tác xã và hộ nông dân cùng tồn tại phát triển theo nguyên tắc tự nguyện của các hộ thành viên và bảo đảm lợi ích thiết thực giữa hai bên. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn chịu sự ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, mỗi nhân tố đều có vai trò, vị trí và tác động nhất định, có những nhân tố tác động tích cực nhưng cũng có những nhân tố tác động tiêu cực. Tổng hợp các nhân tố tác động cho phép chúng ta tìm ra các lợi thế so sánh của mỗi vùng, mỗi địa phương từ đó có thể lựa chọn một cách sơ bộ một cơ cấu kinh tế hợp lí, hài hoà, thích hợp nhất với sự tác đông của các nhân tố đó, các nhân tố ảng hưởng đến cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể được chia thành 3 nhóm: Nhóm nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên: Những nhân tố về điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhất là đối với các nước trình độ công nghiệp hoá còn thấp như nước ta. Nhóm nhân tố này bao gồm:vị trí địa lí, điều kiện khí hậu, thời tiết, đất đai,nguồn nước, rừng, khoáng sản và các yếu tố sinh học khác… Vị trí địa lí thuận lợi và các tiềm năng tự nhiên phong phú của mỗi vùng lãnh thổ là nhân tố thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển. Những vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì các thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể, tư nhân, kinh tế hộ và trang trại cũng phát triển với quy mô lớn và nhanh hơn so với các vùng khác. Nhóm nhân tố kinh tế-xã hội Nhóm nhân tố này luôn tác động mạnh mẽ tới sự hình thành và biến đổi cơ cấu kinh tế kinh tế nông nghiệpvà nông thôn.Các nhân tố xã hội ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn bao gồm:thị trường (trong nước và nước ngoài),hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, cơ sở hạ tầng nông thôn, sự phát triển các khu công nghịêp và đô thị, dân số và lao động bao gồm cả số lượng và chất lượng(trình độ dân trí, trình độ chuyên môn, tập quán sản xuất…) - Thị trường: luôn gắn với kinh tế hàng hoá, thị trường có thể được hiểu là lĩnh vực trao đổi trong đó người mua và người bán các loại hàng hoá nào đó tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá mua bán. Mặt khác do sự phát triển của xã hội, nhu cầu đa dạng của con người cũng không ngừng biến đổi và nâng cao, đòi hỏi thị trường đáp ứng ngày càng tốt hơn. Điều này quy định sự cần thiết phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng phù hợp với xu hướng biến động và phát triển của thị trường. Nhu cầu thị trường ngày càng đa dạng và nâng cao thì cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn càng phải phong phú, đa dạng hơn. Bên cạnh đó các quan hệ thị trường ngày càng mở rộng thì người sản xuất ngày càng đi vào chuyên môn hoá và tự lựa chọn thị trường. Như vậy các quan hệ thị trường góp phần cực kì quan trọng vào việc thúc đẩy phân công lao động trong nông thôn, là cơ sở hình thành cơ cấu nông thôn mới. Thị trường với bản chất của nó là tự phát dẫn đến những rủi ro cho người sản xuất và gây lãng phí các nguồn lực của xã hội vì thế cần phải có sự quản lí của nhà nước ở tầm vĩ mô để thị trường phát triển đúng hướng, lành mạnh, tránh dược rủi ro. - Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước: để can thiệp vào nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo cho các quy luật của thị trường phát huy những tác động tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực nhằm mục đích tạo đều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển với tốc độ cao và ổn định. - Cơ sở hạ tầng nông thôn đòi hỏi phải có trình độ phát triển tương ứng với yêu cầu hình thành và chuyển dịch của cơ cấu kinh tế. Bởi lẽ cơ sở hạ tầng nông thôn có ảnh hưởng trực tiếp rất lớn tới hình thành và phát triển các ngành kinh tế,các vùng kinh tế, đặc biệt là vùng chuyên môn hoá sản suất nông-lâm-ngư nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp tới trình độ kĩ thuật công nghệ của khu vực kinh tế nông thôn và do đó là một trong những nhân tố ảnh hưởng có vai trò quyết định tới sự hình thành, vận động và biến đổi của cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn - Sự phát triển các khu công nghiệp đô thị: là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế nông thôn. Sự phát triển các khu công nghiệp và đô thị sẽ tạo khả năng cung cấp kỹ thuật và công nghệ ngày càng hiện đại,tạo nguồn vốn đầu tư ngày càng dồi dào cho khu vực kinh tế nông thôn, góp phần thúc đẩy quá trình hình thành và cải biến của cơ cấ kinh tế nông thôn. - Vấn đề dân số và lao động, trình độ của người lao động. 4.3 Nhóm nhân tố về tổ chức kĩ thuật: Nhóm nhân tố này bao gồm: các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn, sự phát triển của khoa học công nghệ và việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất … Ngày nay khoa học công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,sự phát triển khoa học công nghệ và việc áp dụng nó vào sản xuất có vai trò ngày càng to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, kinh tế nông nghiệp và cơ cấu nông thôn nói riêng vì một mặt làm xuất hiện nhiều loại nhu cầu mới, tác động đến sự thay đổi về số lượng, tăng mức nhu cầu của ngành này hay ngành khác, làm thay đổi tốc độ phát triển giữa các ngành. Mặt khác nó tạo ra khả năng mở rộng ngành nghề và tăng trưởng các ngành sản xuất chuyên môn hoá cao và phát triển các ngành đòi hỏi có trình độ công nghệ cao. Chương II PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN NƯỚC TA HIỆN NAY I. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn: 1.Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp: Nhìn một cách tổng quát các cơ chế chính sách đổi mới đã mang lại một sinh khí mới cho khu vực nông nghiệp (bao gồm cả nông, lâm, thuỷ sản). Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ.Tỷ trọng nông lâm, thuỷ sản trong GDP đã giảm từ 24,5% năm 2000 xuống còn 20,9% năm 2005. Điều này phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH,HDH. [9] Vốn đầu tư trong nông nghiệp:Nhà nước đầu tư thích đáng cho lĩnh vực công nghiệp, nông thôn. Tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn 5 năm từ 1996-2000 cao hơn từ năm 91-95.Trong vòng 10 năm qua(1991-2000) vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ước tính đạt 65,2 nghìn tỷ đồng(so với giá năm 95), chiếm tỷ trọng 10,37% vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó 5 năm(91-95)là 8,5%.n ăm 96-2000 l à 11,4%. Năm 1995, giá trị sản xuất nông, lâm,ngư nghiệp còn chiếm tới 27,18%, công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 28,75%, thì đến năm 2004, các tỷ lệ này là 21,76% và 40,09%. Năm 2005, tỷ trọng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp giảm xuống còn 20,07%,giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng là 40,08%. (Xem bảng 01, phần phụ lục) Cơ cấu nội bộ ngành nông-lâm-ngư: Nông nghiệp vẫn là bộ phận quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Đó là khu vực thu hút đại bộ phận lao động nông thôn và lao động xã hội, cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho dân cho dân cư và cho sản xuất, là nguồn thu nhập chủ yếu của dân cư nông thôn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định kinh tế - xã hội của đất nước. (Xem bảng 05, phần phụ lục) “Tốc độ tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp vẫn dược duy trì( chỉ tính riêng trong giai đoạn 2001-2005 giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,4%/năm, giá trị tăng thểm 3,8%/năm). Công nghiệp nông thôn đã được chú trọng, từng bước phục hồi làng nghề thủ công truyền thống, cụm công nghiệp nhỏ ở các làng nghề, phát triển làng nghề mới, nhất là phát triển công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu …Ngoài ra các loại hình dịch vụ, thương mại, tín dụng, kĩ thuật nông nghiệp cũng dược phát triển mạnh ở nhiều vùng nông thôn.Cơ cấu sản xuất nông nghiệp bước đầu chuyển đổi theo hướng sản xuất hàng hóa và đã xóa dần tình trạng độc canh cây lương thực. Cơ cấu diện tích các loại cây trồng có những thay đổi tích cực theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế nhất là các cây phục vụ xuất khẩu. Sản phẩm xuất khẩu ở khu vực đã tạo được chỗ đứng trên thị trường quốc tế. Chẳng hạn năm 2005 Việt nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu hạt tiêu, thứ hai về xuất khẩu gạo, cà phê và hạt điều, cao su đứng thú tư. Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu chiếm khoảng 30-35% tổng khối lượng hàng nông sản. Việc đẩy mạnh sản xuất hàng nông sản đã tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp. Cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi đã có thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng chăn nuôi trong khi giá trị tuyệt đối của mỗi ngành tăng khá. Giá trị sản xuất thủy sản tăng nhanh là dấu hiệu tích cực trong chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nhưng giá trị của sản xuất lâm nghiệp lại chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng giảm sút, mặc dù điều kiện phát triển lâm nghiệp ở nước ta là rất lớn ( năm 1990 giá trị sản xuất khu vực lâm nghiệp là 7,6%, nông nghiệp là 81,4%, ngư nghiệp là 8,3%. Năm 2003 con số tương ứng là 5,0%,76,5%,và 18,4%. Tỷ trọng các mặt hàng nông sản xuất khẩu được chế biến còn rất thấp. phần lớn sản phẩm xuất khẩu ở khu vực nông nghiệp có sức cạnh tranh yếu, dẫn đến xu hướng giảm đi rõ rệt trong tổng cơ cấu hàng xuất khẩu của cả nước( từ 29% năm 2000 xuống còn 24,4% năm 2005).” [9] Tuy nhiên nếu đặt thay đổi cơ cấu kinh tế trong mối quan hệ với thay đổi cơ cấu lao động xã hội, có thể thấy rõ rằng trong khi tỷ trọng GDP nông nghiệp trong tổng GDP giảm dần thì lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội. Việc làm cho lao động nông thôn đang là một vấn đề nan giải trong tiến trình phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nói cách khác tuy GDP của công nghiệp và dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế nhưng Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi tình trạng là nước nông nghiệp lạc hậu, năng suất lao động thấp kém. (Xem bảng 02, phần phụ lục) Theo số liệu thống kê chính thức, trong các năm từ 1995-2004, tuy tỷ trọng lao động nông, lâm, ngư nghiệp trong tổng lao động xã hội đã giảm từ 71,25% xuống còn 58,77%, nhưng lượng tuyệt đối lại tăng thêm 896000 người tuy tốc độ thu hút thêm lao động háng năm thấp hơn so với công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, nhưng nông lâm ngư nghiệp vẫn là khu vực kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay. Trong xu hướng chuyển dịch chung của cơ cấu kinh tế, tỷ trọng đóng góp của nông, lâm, ngư nghiệp vào tốc độ tăng trưởng chung củc toàn bộ nền kinh tế có xu hướng giảm dần: năm 2000, tốc độ tang trưởng chung của toàn bộ nến kinh tế là 6,79%,trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đóng góp 1,10%,công nghiệp và xây dựng đóng góp 3,47% và dịch vụ đóng góp 2,22%;năm 2004, các tỷ lệ tương ứng là 7,69%, 0,74%, 3,93% và 3,02%. Trong xu hướng chuyển dịch chung của cơ cấu kinh tế, tỷ trọng đóng góp của nông, lâm, ngư nghiệp vào tốc độ tăng trửơng chung của nền kinh tế có xu hướng giảm dần: năm 2000, tốc độ tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế là 6,79% trong đó nông, lâm, ngư nghiệp đóng góp 1,1%, công nghiệp và xây dựng đóng góp 3,4% và dịch vụ đóng góp 2,22%; năm 2004 các tỷ lệ tương ứng là 7,69%, 0,74%, 3,93% và 3,02%. (Xem bảng 03, phần phụ lục)( 3,trang 79-79) Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xu hướng này là: Tỷ trọng của khu vực nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP giảm dần. Tốc độ tăng trưởng của nông, lâm, ngư nghiệp thấp hơn tốc độ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bị tác dộng bất lợi của sự biến động bất thường của thời tiết, dịch bệnh thị trường và giá cả. Trong những năm qua, gần như năm nào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp cũng gặp thiên tai ở những mức độ khác nhau (nắng hạn, bão lũ, sâu bệnh, cháy rừng). Đồng thời thị trường nông sản cũng có những biến động thất thường do sự tác động của các yếu tố kinh tế và phi kinh tế ở khu vực hoặc toàn cầu. Xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế và mức đóng góp của nông nghiệp vào tăng trưởng chung hòan toàn không phủ nhận vai trò hết sức quan trọng của nông nghiệp và nông thôn vào quá trình CNH,HĐH đất nước. Xét trên cả góc độ kinh tế xã hội, nông nghiệp và nông thôn vẫn chiếm vị trí trọng yếu trong nền kinh tế trong suốt quá trình CNH, HĐH đất nước.(3,trang 80-81) Vấn đề chuyển dịch cơ cấu nôi tại ngành nông nghiệp: Nét nổi bật trong phát triển sản xuất nông nghiệp nước ta trong những năm gần đây là về cơ bản đã chuyển sang nền nông nghiệp hàng hóa, phát triển theo hướng tòan diện và đạt mức tăng trưởng khá cao. Quá trình chuyển dịch cơ cấu nội tại ngành nông nghiệp vẫn diễn ra hết sức chậm chạp. Giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Hiện nay lúa vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ đạo cả về diện tích gieo trồng(hơn 60%),về mặt cung cấp năng lượng(75%)và cả về mặt đóng góp cho xuất khẩu nông sản(23-27%).Tuy bước đầu phát triển chăn nuôi công nghiệp với hình thành một số trang trại có quy mô vừa, giống vật nuôi được cải thiện, việc sử dụng thức ăn công nghiệp trong chăn nuôi ngày càng trở nên phổ biến, nhưng trong nhiều năm, tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong giá trị sản xuất nông nghiệp mới vượt qua được ngưỡng 20%.ở nhiều vùng, chăn nuôi vẫn chưa thoát khỏi vị trí ngành sản xuất phụ, tính chất sản xuất hàng hóa còn mờ nhạt.[3,trang 84,89] (Xem bảng 04, phần phụ lục) Trong nội bộ ngành chăn nuôi: Trong ngành chăn nuôi đã có sự thay đổi trong cơ cấu đàn gia súc và gia cầm theo hướng tăng số lượng và tỷ trọng gia súc nuôi lấy thịt, sữa, giảm gia súc cày kéo. Riêng đàn lợn có xu hướng chung là tăng trọng lượng xuất khẩu chuồng đi đôi với việc tăng tỷ lệ nạc trong đàn lợn thịt để tăng giá trị, đáp ứng yêu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu Việc phát triển chăn nuôi tuy có hiệu quả hơn so với trồng cây lương thực, nhưng cung cấp gặp nhiều khó khăn và rủi ro do sự bấp bênh của thị trường trong nước và quốc tế, sự hạn chế về khả năng tự bảo đảm bảo con giống có năng suất cao, chất lượng tốt, bảo đảm thức ăn gia súc và khả năng phòng chống dịch bệnh ở quy mô lớn. Từ năm 2004, dịch cúm gia cầm đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành chăn nuôi, phòng chống dịch cúm gia cầm vẫn còn là vấn đề nam giải không những với Việt Nam mà còn cả nhiều nước khác trên thế giới “Năm 2005, ngành chăn nuôi gia cầm tiếp tục bị thiệt hại nặng nề, khả năng thiệt hại trực tiếp của ngành chăn nuôi gia cầm tương đương 2%GDP trong nông nghiệp. Nhưng thiệt hại do việc không tiêu thụ được gia cầm sạch lên đến 1100 tỷ đồng/tháng” [5, tr89-90] 2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Trong những năm gần đây cơ cấu kinh tế nông thôn đang chuyển dịch theo hướng tích cực : giảm tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Trong khi sản xuất nông, lâm, ngư nghịêp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và khá ổn định trong nhiều năm, thì việc phục hồi làng nghề thủ công truyền thống, phát triển làng nghề mới. phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cũng được chú trọng đầu tư phát triển. Trong quá trình này đã xuất hiện những mô hình tổ chức là mầm mống của xu hướng phát triển trong tương lai của nông thôn.Đó là việc hình thành và phát triển trong tương lai của nông thôn. Đó là việc hình thành và phát triển các cụm công nghiệp nhỏ ở các làng nghề truyền thống ở ngoại thành Hà nội, ở Bắc Ninh, Vĩnh Phúc…Sự phát triển này được coi là phù hợp với xu thế khách quan của phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp ở nông thôn, không những giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường mà còn phù hợp với yêu cầu đô thị hóa nông thôn một cách khoa học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng giao lưu hàng hóa …Trong những năm gần đây ngày càng có nhiều doanh nghiệp công nghiệp với trình độ trang bị hiện đại thuộc các ngành các thành phần kinh tế được xây dựng ở nông thôn. Cùng với sự phát triển công nghiệp và thủ công nghiệp, các hình thức dịch vụ như thương mại, tín dụng, kĩ thuật nông nghiệp, vận tải, thông tin văn hóa, giải trí…cũng được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn. Sự phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn( thủ công nghiệp, xây dựng. thương mại, các hoạt động dịch vụ khác)đã góp phần chuyển một phần lao động nông nghiệp có thu nhập thấp sang phát triển các ngành nghề có thu nhập cao hơn, giải quyết thêm việc làm và dần dần thay đổi bộ mặt ở nông thôn. Cơ cấu hộ nông thôn phân theo ngành chính đang có những thay đổi theo chiều hướng tích cực.” [3, tr 81 – 84] (Xem bảng 05, phần phụ lục) Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn cũng bộc lộ nhiều khuyết điểm, bất cập, đó là: Tốc độ chuyển dịch hết sức chậm chạp. Về cơ bản cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn mang tính chất của nền kinh tế thuần nông, nhiều ngành nghề phi nông nghiệp, nói chung vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghề phụ. Sự phát triển công nghiệp và các hoạt động dịch vụ ở nông thôn chủ yếu tập trung ở ngoại vi các thành phố lớn, các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và một số tỉnh miền Trung. Khả năng thu hút lao động vào các hoạt động phi nông nghiệp vẫn hết sức hạn chế. Điều đó bắt nguồn từ quy mô và tốc độ phát triển các hoạt động này còn thấp kém. Nhiều ngành nghề phi nông nghiệp vẫn trong trạng thái phát triển bấp bênh, sản xuất phân tán, manh mún, trang bị kĩ thuật lạc hậu, năng suất và khả năng cạnh tranh thấp.Tuy trình độ phát triển chưa cao và lượng lao động dư thừa ở nông thôn còn lớn nhưng việc đảm bảo lao động cho các làng nghề hiện nay đang rất khó khăn do chất lượng lao động nông thôn thấp kém, công tác đào tạo nghề còn nhiều bất cập. Giữa các ngành nghề trong kinh tế nông thôn chưa có sự phát triển gắn kết, hỗ trợ nhau trong một tổng thể thống nhất. Xây dựng nhà máy chế biến nhưng không được bảo đảm đủ nguyên liệu hoặc nguyên liệu nông sản không tìm được thị trường tiêu thụ. Việc phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở vùng nông thôn diễn ra một cách tự phát, kém hiệu quả và bền vững về cả kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch chậm.[3, trang 83, 84] CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN. I. Mục tiêu và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn 1. Quan điểm và Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn: Thứ nhất: Tạo thêm công ăn việc làm và thu hút lao động tại chỗ. Phục hồi tài nguyên rừng và làm tăng độ màu mỡ của đất.Đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi trong hệ thống sinh thái nông nghiệp. Góp phần giữ gìn cải thiện vệ sinh môi trường. Thứ hai: Phát triển thị trường nông thôn trong suốt, thống nhất với thị trường cả nước để điều hòa nguồn lực. Từng bước hòa nhập với thị trường khu vực và thị trường quốc tế. Thứ ba: Thị trường nông thôn phát triển phải có tác động tích cực với chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Phát triển thị trường nông thôn, bảo đảm khai thác có hiệu quả tiềm năng nông nghiệp, nông thôn, phát huy và phát triển tiềm năng của từng vùng, từng sản phẩm, từng ngành nghề. Thứ tư: Cần cải tiến và tổ chức lại có hệ thống, đổi mới cơ chế các hoạt động thương mại. Xây dựng thị trường đồng bộ gồm thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, lao động… với nhiều thành phần tham gia để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Mục tiêu cơ bản trong quá trình CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn từ nay đến 2010 là phải bảo đảm an ninh lương thực quốc gia với dân số khoảng 94 triệu người năm 2010.Với đời sống vật chất và tinh thần nâng cao. Đến năm 2010 thu nhập của nông dân tăng gấp 2 lần, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%...[7] 2. Định hướng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn: Thứ nhất: trong ngành nông nghiệp, mở rộng, nâng cao chất lượng cây công nghiệp, rau, hoa quả…đảm bảo cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và nguyên liệu cho các ngành chế biến, hướng ra xuất khẩu. Hình thành các vùng chuyên canh lớn cùng với công nghệ chế biến hiện đại để nâng cao chất lượng và giá trị nông sản. Phải đưa chăn nuôi trở thành ngành chính, có sản lượng và chất lượng cao. Đến năm 2010 ngành chăn nuôi phải đạt 40% GDP. Phát triển mạnh và đầu tư thỏa đáng cho công ngiệp chế biến nông sản. Thứ hai: Khôi phục và phát triển các ngành nghề ở nông thôn, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, các cơ sở chế biến, khuyến khích các ngành công nghiệp dử dụng lao động và nguồn nguyên liệu tại chỗ như công nghiệp giấy…[7] Thứ ba: Hoàn chỉnh thị trường đã có, mở rộng thi trường mới để tiêu thụ nông, lâm nghiệp, thủy sản và hàng hóa dịch vụ phi nông nghiệp ở nông thôn. Thứ tư: Hoàn chỉnh quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản và ngành nghề dịch vụ ở nông thôn, theo hướng kinh tế hàng hóa gắn với thị trường. Thứ năm: Đổi mới phương thức tổ chức sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần gắn với chuyên môn hóa, tập trung hóa cao hơn. Thứ sáu: ứng dụng rộng rãi những thành tựu của khoa học kĩ thuật vào sản xuất và dịch vụ nhằm tăng năng suất lao động, năng suất đất đai, cấht lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của nông sản, hàng hóa và sản phẩm ngành nghể, dịch vụ nông thôn. [4] II. Một số giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn: Một điều cần nhấn mạnh là, tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta phải “hướng tới xây dựng một nền nông nghiệp hàng hóa lớn, đa dạng, phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao” [6,tr191], mà thực chất là cải thiện nhanh chóng trình độ của nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của các sản phẩm nói chung, sản phẩm trong khu vực nông nghiệp nói riêng. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải gắn với chuyển hướng cơ cấu đầu tư mạnh mẽ, với bước đi hợp lý trong từng giai đoạn cụ thể nhằm tận dụng tối đa lợi thế so sánh hiện có, trong đó lợi thế lớn nhất là lao động. Đây được coi là một trong những khâu quan trọng nhất. Vì vậy, để đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, góp phần thực hiện rút ngắn công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần tiến hành đồng thời một hệ thống các giải pháp đồng bộ... ở đây chỉ đề cập đến một số giải pháp được coi là chủ yếu sau: Một là, nhận thức rõ đặc trưng của nước ta, từ một nền nông nghiệp tự cung, tự cấp chuyển sang một nền nông nghiệp hàng hóa, cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường trong nước và xuất khẩu, đòi hỏi phải định hướng lại sản xuất nông nghiệp theo yêu cầu của thị trường. Nên chăng, từ nay đến năm 2010, có thể và cần giảm diện tích đất trồng lúa, giữ ổn định với một số diện tích ở những vùng có lợi thế hơn với hướng phát triển là thâm canh tăng năng suất, nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất và xuất khẩu lúa gạo. Chú trọng hiệu quả của các hoạt động nghiên cứu và triển khai, đầu tư thích đáng vào chuyển giao công nghệ, bằng con đường công nghiệp hóa công nghệ, - giải pháp căn bản và bền vững hơn cả, tạo ra sự phát triển nhảy vọt trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đưa công nghệ sinh học, giống mới, quy trình sản xuất mới, công nghệ mới vào việc bảo quản, chế biến nông sản..., vào tăng trưởng của từng ngành, từng sản phẩm, từng lĩnh vực và từng vùng kinh tế sao cho phù hợp với điều kiện sinh thái cụ thể. Khuyến khích mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ nông nghiệp như: trợ giúp kỹ thuật, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ tài chính và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm... Xóa bỏ tình trạng độc quyền, hạn chế rủi ro thị trường bằng việc cải thiện điều kiện mua bán sản phẩm của người nông dân; củng cố hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cũng như đội ngũ cán bộ làm công tác này để có thể nhanh chóng ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp; xúc tiến công tác đào tạo nông dân cả về kỹ thuật sản xuất và quản lý kinh doanh để giúp họ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Đặc biệt, Nhà nước có thể áp dụng các biện pháp hỗ trợ nông dân (trong khuôn khổ quy định của WTO), nhất là các chính sách về khuyến nông, đầu tư khoa học - kỹ thuật để nâng cao sản phẩm của khu vực nông nghiệp. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn. Nên chuyển một số doanh nghiệp gia công và chế biến nông sản ở thành phố, thị xã về nông thôn, đồng thời với việc phát triển các doanh nghiệp công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ có khả năng tiếp nhận công nghệ hiện đại. Ở những vùng nông thôn, - nơi có điều kiện, có thể xây dựng các khu vực công nghiệp tập trung, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu; đối với các làng nghề truyền thống ở nông thôn có lịch sử lâu đời cần kết hợp giữa truyền thống và hiện đại để phát huy hiệu quả các tiềm năng hiện có, nhất là vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất, vừa mở mang các loại hình du lịch làng nghề truyền thống. Hai là, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là một trong những giải pháp quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Bài học kinh nghiệm của các nước đã công nghiệp hóa cho thấy, quy luật phổ biến là công nghiệp hóa bao giờ cũng đi cùng với đô thị hóa - một trong các giải pháp thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa nông thôn và thành thị. Việc hình thành mạng lưới đô thị, một mặt giữ vai trò là cực tăng trưởng trong chiến lược phát triển vùng trên phạm vi cả nước, mặt khác có điều kiện tạo thêm nhiều việc làm, thu hút một phần lao động nông nghiệp, từng bước giải quyết vấn đề dư thừa lao động ở nông thôn. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bảo đảm an toàn, ổn định đời sống của lao động nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động giữ vai trò quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp - nông thôn. Ba là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai... nhất là hệ thống luật pháp kinh tế nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần. Khuyến khích và tạo điều kiện cho hội nông dân ở cơ sở hoạt động có hiệu quả. Tăng cường các hoạt động phổ biến, hướng dẫn, sử dụng và chuyển giao quy trình công nghệ mới với các hình thức thích hợp. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế hộ - với tư cách đơn vị sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ ở nông thôn - lực lượng này giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo ra việc làm mới thu hút một phần lao động nông nghiệp. Khuyến khích mô hình hợp tác xã kiểu mới - loại hình tổ chức kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể trong khu vực nông nghiệp. Sắp xếp lại và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong khu vực nông nghiệp, thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh; thay đổi cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động công ích thành những doanh nghiệp mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện dịch vụ kỹ thuật, cung ứng giống, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bốn là, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển vùng trong phạm vi cả nước, quan hệ kinh tế giữa các vùng trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng. Phát triển các vùng nông thôn có lợi thế so sánh, có thế mạnh về tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập như vùng duyên hải, biển đảo, vùng miền Đông và Tây Nam Bộ... Định hướng, quy hoạch phát triển mạnh hệ thống thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản, nâng cao sức mua của thị trường trong nước, mà trọng tâm là khu vực thị trường nông thôn, kể cả hệ thống chợ nông thôn.[9]. KẾT LUẬN Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho nông dân. Là nội dung quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp-nông thôn, phú hợp với nguyện vọng của nhân dân. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn những năm qua đã đạt được một số kế quả nhất định, đây là thuận lợi cơ bản tạo đà cho bước phát triển tiếp theo, nhằm đáp ứng nhu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn đòi hỏi phải có sự tác động nhiều hơn nữa của Nhà nước các cấp trong việc xây dựng chiến lược và định hướng phát triển phù hợp và đồng bộ theo ba nội dung: chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, lĩnh vực và cơ cấu vùng, lãnh thổ. Trong đó chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành có vai trò quyết định.Tuy nhiên việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập.Cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn còn mang nặng tính chất thuần nông. Cơ cấu sản xuấ nông, lâm, thủy sản chuyển dịch chậm và không đều. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính độc canh, tự cấp, tự túc, phân tán, quy mô nhỏ.Vì vậy, trong điều kiện kinh tế hiện nay của nước ta, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hiệu quả cần tập trung thực hiện các giải pháp: tạo nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, quan tâm hơn nũa về thị trường, vấn đề ruộng đất, chuyển giao khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và sự tác động của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế ưu tiên cho nông nghiệp, nông thôn. Ý KIẾN CÁ NHÂN Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là một vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình CNH, HDH đất nước.Tuy nhiên thực trạng hiện nay còn nhiều bất cập.Nhà nước và các cơ quan chính phủ, các bộ ngành trung ương cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề này. Cụ thể là cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất: Tiếp tục đẩy mạnh chương trình đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, giải quyết việc làm, tạo điều kiện lưu thông hàng hóa, tiêu thụ nông sản, miễn thuế nông nghiệp và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại phát triển. Thứ hai: Khuyến khích các hộ nông dân tham gia tổ chức hợp tác xã kiểu mới trên cơ sở tự nguyện, các hợp tác xã có nhiệm vụ cung cấp các yếu tố đầu vào và tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thứ ba: Cần phải chú ý hơn đến vấn đề thương hiệu cho những sản phẩm trong nước cũng như các sản phẩm xuất khẩu.Tạo điều kiện thuận lợi khi hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.Nhất là trong giai đoạn hiện nay, nước ta vừa gia nhập WTO, đặt ra cho nông nghiệp,nông thôn nuớc ta nhiều cơ hội nhưng cũng lắm thách thức.Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn càng đòi hỏi được quan tâm hơn. Thứ tư: tăng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.Như là xây dựng các nhà máy chế biến và bảo quản nông sản ở địa phương, Đầu tư phát triển thủy lợi, giao thông nông thôn.Cần hạn chế sự đóng góp của nhân dân.Xây dựng và phát triển các hệ thống khuyến nông từ trung ương đến địa phương. Thứ tư: Tăng cường công tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật đặc biệt là công nghệ sinh học vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, cũng như nhập các giống mới có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Phụ Lục Bảng 01:Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước tính theo giá thực tế (đơn vị:%) Ngành kinh tế 1995 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Nông, lâm , ngư nghiệp 27,18 25,43 24,54 23,25 22,99 21,83 21,76 Công nghiệp, xây dựng 28,75 34,49 36,73 38,12 38,54 39,94 40,09 thương mại, dịch vụ 44,07 40,08 38,73 38,63 38,47 38,23 38,15 Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê năm 2004, Hà nội, 2005 Bảng 02:Lao dộng nông nghiệp trong lao động xã hội Chỉ tiêu Đơn vị 1995 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng lao động xã hội 1000 người 33,030 35,975 37,609 38,561 39,507 40,573 41,568 Lao động nông, lâm, ngư nghiệp 1000 người 23,534 24,792 24,481 24,468 24,455 24,443 24,430 Tỷ trọng % 71,25 68,91 65,09 63,45 61,90 60,24 58,77 Nguồn:tổng cục thống kê: niên gián thống kê 2002 và Niên giám thống kê 2004. NXB thống kê Hà nội Bảng 03:Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng GDP Khu vực 2000 2001 2002 2003 2004 tốc độ tăng tỉ lệ tốc độ tăng tỉ lệ tốc độ tăng tỉ lệ tốc độ tăng tỉ lệ tốc độ tăng tỉ lệ toàn bộ nền kt 6.97 100 6.89 100 7.04 100 7.26 100 7.69 100 trong đó: Do nông lâm ngư nghiệp 1.1 16.2 0.69 10 0.91 12.9 0.77 10.61 0.74 9.6 Do công nghiệp và xây dựng 3.47 51.1 3.68 53.4 3.45 49 3.81 52.48 3.93 51.07 Do dịch vụ 2.22 32.7 2.52 36.6 2.68 38.1 2.68 36.91 3.02 39.33 Nguồn: Tính toán theo Niên giám thống kê 2004, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2005. Bảng 04: Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp 1990 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Toàn ngành 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Trồng trọt 79.3 77.9 77.9 79.7 79.2 78.2 77.9 76.7 75.4 76.3 Chăn nuôi 17.9 19.3 19.4 17.7 18.5 19.3 19.6 21.1 22.4 21.6 Dịch vụ 2.8 2.8 2.7 2.5 2.3 2.5 2.5 2.2 2.2 2.1 Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê, 2004, Nxb thống kê, Hà Nội 2005. Bảng 05:Cơ cấu hộ nông thôn phân theo ngành sản xuất chính Loại hộ 1994 2001 Năm 2000 so với 1994 Số lượng (1000 hộ) Tỷ lệ (%) Số lượng (1000 hộ) Tỷ lệ (%) Số lượng (1000 hộ) Tỷ lệ (%) Tổng số hộ 11.974,5 100 13.909,5 100 1935 Hộ nông nghiệp 9.528,9 79,5 10.723,9 71,1 1.195 -2.4 Hộ lâm nghiệp 18,2 0,2 24 0,2 5,,8 Hộ thủy sản 229,9 1,9 509 3,7 279,1 +1.8 Hộ phi nông, lâm, ngư nghiệp 2.197,5 18,4 2625,5 19 455 +0,6 Nguồn: Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb thống kê, Hà Nội, 2003, tr.977. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, những vấn đề lý luận và thực tiễn. 2. Giáo trình kinh tế nông nghiệp đại cương. 3. GSTS Nguyễn Kế Tuấn: CNH, HĐH Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam, con đường và bước đi. 4. PGSTS Nguyễn Sinh Cúc: Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Thống kê, Hà Nội 2003. 5. Thời báo kinh tế việt nam, ngày 30/12/2005 6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006. 7. www.mot.gov.vn 8. www.gso.gov.vn 9. www.tapchicongsan.org.vn 10. www.vneconomy.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn Thực trạng, xu hướng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan