TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO:
1. Lịch sử hình thành và phát triển WTO:
Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai vẫn còn chưa kết thúc, các nước đã nghĩ đến việc thiết lập các định chế chung về kinh tế để hỗ trợ công cuộc tái thiết sau chiến tranh. Hội nghị Bretton Woods triệu tập ở bang New Hampshire (Hoa Kỳ) năm 1944 nhằm mục đích này. Kết quả của Hội nghị Bretton Woods là sự ra đời của 2 tổ chức tài chính: Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (nay gọi là Ngân hàng Thế giới - WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Một tổ chức chung về thương mại cũng được đề xuất thành lập với tên gọi Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO).
Phạm vi đề ra cho ITO là khá lớn, bao trùm lên cả các vấn đề việc làm, đầu tư, cạnh tranh, dịch vụ, vì thế việc đàm phán Hiến chương (hiểu cách khác là Điều lệ) của ITO diễn ra khá lâu. Trong khi đó, vì mong muốn sớm cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh công cuộc tái thiết sau chiến tranh, năm 1946, một nhóm 23 nước đã đàm phán riêng rẽ và đạt được một số ưu đãi thuế quan nhất định. Để ràng buộc những ưu đãi đã đạt được, nhóm 23 nước này quyết định lấy một phần về chính sách thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO, biến nó thành Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).
GATT có hiệu lực từ 1/1/1948 như một thoả thuận tạm thời trong khi chờ ITO được thành lập. Nhưng ITO không ra đời: mặc dù Hiến chương ITO đã được thông qua tại Havana (Cuba) tháng 3/1948, nhưng việc Quốc hội Hoa Kỳ trì hoãn không phê chuẩn Hiến chương làm cho các nước khác cũng không phê chuẩn, dẫn đến ITO không trở thành hiện thực. Do vậy, GATT trở thành cơ cấu đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế cho đến khi WTO ra đời.
Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát triển còn khoảng 15%.
II. NỘI DUNG CHÍNH CÁC HIỆP ĐỊNH CỦA WTO:
III. VIỆT NAM GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO:
1. Lịch sử gia nhập WTO của Việt Nam
1.1 Tiến trình Việt Nam gia nhập WTO phải trải qua 6 giai đoạn
IV. THỰC TRẠNG, THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CAM KẾT WTO – HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:V. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH WTO:
60 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3920 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi thực hiện các hiệp định WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hội đồng Liên hiệp Pari và Đại hội đồng của Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) thông qua vào tháng 9/1999. Hệ thống bảo hộ nhãn hiệu của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với Hiệp định TRIPS và khoản 1 Điều 6 bis Công ước Pari.
3.3.3. Về chỉ dẫn địa lý, bao gồm cả tên gọi xuất xứ hàng hóa:
- Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ theo quy định tại các điều từ 750-753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Phần III của Luật SHTT năm 2005. Việt Nam lưu ý một chỉ dẫn địa lý sẽ không được bảo hộ nếu đã trở thành tên gọi chung ở Việt Nam. Chỉ dẫn địa lý nước ngoài được bảo hộ ở nước xuất xứ mới có thể được bảo hộ ở Việt Nam.
- Bất kỳ chủ thể nào có quyền, theo luật pháp của nước ngoài, sở hữu, sử dụng hoặc nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý ở nước xuất xứ đều có quyền nộp đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý đó tại Việt Nam và có thể được ghi nhận trong Đăng bạ chỉ dẫn địa lý Việt Nam.
- Đại diện Việt Nam cho rằng Luật SHTT năm 2005 đã bảo hộ các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam và nước ngoài phù hợp với Hiệp định TRIPS. Theo đó, các quy định trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là Thành viên sẽ được áp dụng trong trường hợp có xung đột.
3.3.4. Kiểu dáng công nghiệp:
- Pháp luật hiện hành của VN phù hợp với các yêu cầu của Điều 26.1 Hiệp định TRIPS. VN lưu ý, mặc dù các quy định liên quan không được diễn đạt giống hệt như lời văn của Hiệp định TRIPS nhưng các quy định của các Điều 123.1(a), 124.2 và 126.1 của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 cũng đã bao hàm việc sản xuất, bán hoặc nhập khẩu sản phẩm mang kiểu dáng “về cơ bản là bản sao” của kiểu dáng được bảo hộ.
- Thời hạn bảo hộ ban đầu đối với kiểu dáng công nghiệp là 5 năm tính từ ngày nộp đơn-có hiệu lực từ ngày đăng ký - và có thể được gia hạn 2 lần liên tiếp, mỗi lần 5 năm.
3..3.5. Sáng chế:
- Sáng chế có tính mới đối với thế giới, trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp được bảo hộ theo quy định tại các Điều từ 750 đến 753 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 và Phần III của Luật SHTT năm 2005. Đặc biệt, đối tượng không phải bảo hộ theo Hiệp định TRIPS vẫn được bảo hộ tại VN.
- Sáng chế có tính mới đối với thế giới, và có khả năng áp dụng công nghiệp - thậm chí không có trình độ sáng tạo nhưng không phải là hiểu biết thông thường - có thể được bảo hộ theo Bằng độc quyền giải pháp hữu ích. Chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế hoặc Bằng độc quyền giải pháp hữu ích có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sở hữu, và chuyển giao quyền sử dụng sáng chế cho người khác.
Chủ sở hữu có quyền yêu cầu người khác chấm dứt hành vi xâm phạm và có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra. Thời hạn hiệu lực của những Bằng độc quyền sáng chế và Bằng độc quyền giải pháp hữu ích tương ứng là 20 và 10 năm tính từ ngày nộp đơn - có hiệu lực từ ngày cấp.
3.3.6. Bảo hộ giống cây trồng:
- Các quy định về bảo hộ giống cây trồng mới theo các tiêu chuẩn của UPOV. Các điều kiện bảo hộ được áp dụng cho giống cây trồng theo quy định tại các Điều từ 158 đến 162 của Luật SHTT năm 2005 hoàn toàn tương thích với các điều kiện bảo hộ quy định tại các Điều từ 5 đến 9 của UPOV, bao gồm tính mới, tính khách biệt, tính đồng nhất và tính ổn định.
- Thời hạn bảo hộ quyền của người tạo giống là 25 năm đối với cây thân gỗ và cây nho và 20 năm đối với các giống cây trồng khác kể từ ngày các quyền được xác lập. Không mở rộng quyền của người tạo giống đối với sản phẩm thu hoạch hoặc sản phẩm được sản xuất trực tiếp từ sản phẩm thu hoạch được từ việc sử dụng trái phép vật liệu nhân giống của giống cây được bảo hộ.
3.3.7. Thiết kế bố trí mạch tích hợp:
Đại diện VN khẳng định thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn được bảo hộ theo các Điều 4.4, 6.3 (a) và Phần III của Luật SHTT 2005.
3.3.8. Các yêu cầu đối với thông tin bí mật, bao gồm bí mật thương mại và dữ liệu thử nghiệm:
- Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy định mà không phải đăng ký. Chủ sở hữu bí mật kinh doanh có quyền cấm việc sử dụng trái phép bí mật kinh doanh của mình và yêu cầu các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ra lệnh chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại.
- Đại diện VN xác nhận rằng Chính phủ VN sẽ tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết nhằm tuân thủ đầy đủ tất cả các quy định của Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT kể từ ngày gia nhập WTO mà không viện dẫn đến bất kỳ thời hạn chuyển tiếp nào.
3.4. Hoạt động đầu tư:
Minh bạch hóa chính sách đầu tư/ kinh doanh:
- Việt Nam không có cam kết tổng thể về chính sách đầu tư mà chỉ có nghĩa vụ minh bạch hóa vấn đề này. Trong báo cáo của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, ngoài việc mô tả hiện trạng chính sách, pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư , Việt Nam khẳng định một số nguyên tắc sau:
Nhà đầu tư, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ đầu tư, kinh doanh trong các lĩnh vực ngành nghề mà pháp luật không cấm và được quyết định hình thức, địa điểm đầu tư, tỷ lệ góp vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm..., trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác.
- Danh mục lĩnh vực đầu tư/ kinh doanh có điều kiện hoặc cấm đầu tư/ kinh doanh sẽ được định kỳ rà soát nhằm xác định những quy định còn chòng chéo hay mâu thuẫn để xem xét sửa đổi, bổ sung, hoặc loại bỏ.
- Việc sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ danh mục các lĩnh vực/ ngành nghề cấm đầu tư/ kinh doanh hoặc đầu tư / kinh doanh có điều kiện sẽ tuân thủ hoàn toàn các nghĩa vụ của Việt Nam với WTO, kể cả những nghĩa vụ về minh bạch hóa, nghĩa vụ theo hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) và biểu cam kết cụ thể của Việt Nam về dịch vụ. Ý kiến của doanh nghiệp, cá nhân và tổ chức có liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung các danh mục này trong quá trình soạn thảo sẽ được công khai hóa phù hợp với Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Cam kết về điều kiện và thủ tục cấp phép
Việt Nam bảo đảm áp dụng các điều kiện và thủ tục cấp phép theo nguyên tắc không tạo ra các rào cản độc lập về tiếp cận thị trường; cụ thể là:
- Thủ tục và điều kiện cấp phép phải được công bố trước khi có hiệu lực và phải xác định rõ thời hạn để cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định việc cấp phép.
- Cơ quan có thẩm quyền phải xem xét và quyết định việc cấp phép trong thời hạn đã xác định nêu trên.
- Lệ phí xét hồ sơ xin cấp phép không được tạo ra một rào cản độc lập về tiếp cận thị trường.
- Theo yêu cầu của người nộp hồ sơ xin cấp phép, cơ quan có thẩm quyền phải thông báo tình trạng hồ sơ và phải cho biết hồ sơ đó đã đầy đủ hay chưa; hồ sơ được coi là đầy đủ khi đã điền đủ các thông tin phải cung cấp theo quy định, nếu có yêu cầu bổ sung thông tin, cơ quan có thẩm quyền phải thông báo không chậm trễ cho người nộp hồ sơ và phải nêu rõ những thông tin cần bổ sung để hoàn thiện hồ sơ; người nộp hồ sơ phải có cơ hội để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hồ sơ.
- Trường hợp không được cấp phép, người nộp hồ sơ có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thông báo bằng văn bản lý do từ chối cấp phép.
- Trường hợp hồ sơ cần phê duyệt, người nộp hồ sơ phải được thông báo không chậm trễ bằng văn bản sau khi hồ sơ đó đã được phê duyệt.
- Khi bị từ chối cấp phép, người nộp hồ sơ có thể nộp hồ sơ mới để sửa đổi các điều kiện chưa đáp ứng yêu cầu cấp phép đã nêu trong hồ sơ đã nộp trước đó;
- Trường hợp cần kiểm tra để cấp phép hành nghề, cơ quan có thẩm quyền phải ấn định trong thời gian hợp lý.
Cam kết mở cửa thị trường đầu tư trong các ngành dịch vụ
Việt Nam đã cam kết mở cửa 11/12 ngành với 110 phân ngành dịch vụ theo quy định của WTO, gồm:
Các dịch vụ kinh doanh;
Các dịch vụ thông tin ( chuyển phát, viễn thông, nghe nhìn);
Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật có liên quan;
Dịch vụ phân phối ( bán buôn, bán lẻ, đại lý, nhường quyền thương mại);
Các dịch vụ giáo dục ( giáo dục phổ thông cơ sở, giáo dục bậc cao, giáo dục cho người lớn, các dịch vụ giáo dục khác);
Các dịch vụ môi trường ( xử lý nước thải, rác thải, khí thải, đánh giá tác động môi trường);
Các dịch vụ tài chính ( bảo hiểm, ngân hàng , chứng khoán);
Các dịch vụ y tế ( bệnh viện, nha khoa, và khám bệnh);
Các dịch vụ du lịch ( nhà hàng, khách sạn, đại lý lữ hành và điều hành tour du lịch);
Các dịch vụ giải trí, văn hóa, thể thao ( nhà hát, nhạc sống, kinh doanh trò chơi điện tử);
Các dịch vụ vận tải ( vận tải biển, vận tải thủy nội địa, vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường bộ, các dịch vụ hỗ trợ cho tất cả các phương thức vận tải.
Nhìn chung, trừ một số ngành dịch vụ chưa được cam kết, lộ trình mở các cửa các dịch vụ nói trên được thực hiện ngay sau khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO hoặc trong một số năm kể từ thời điểm gia nhập.
Cam kết về hình thức đầu tư ( hiện diện thương mại) và điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam
- Trừ khi có quy định khác trong biểu cam kết về dịch vụ, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép hiện diện thương mại tại Việt Nam dưới các hình thức:
Hợp đồng hợp tác kinh doanh;
Doanh nghiệp liên doanh
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Văn phòng đại diện của nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài không được phép kinh doanh thu lợi nhuận
Nhà đầu tư nước ngoài không được phép hiện diện thương mại dưới hình thức chi nhánh, trừ khi có quy định khác trong biểu cam kết
- Trừ khi pháp luật Việt Nam có quy định khác hoặc theo sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam với tỷ lệ không quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Sau 01 năm kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, hạn chế nói trên sẽ được loại bỏ, trừ hạn chế đối với ngân hàng và các ngành không được đưa vào biểu cam kết. Đối với các ngành/ phân ngành khác nêu trong biểu cam kết , tỷ lệ cổ phần nhà đầu tư nước ngoài được phép mua lại của doanh nghiệp Việt Nam phải phù hợp với hạn chế về vốn góp nước ngoài quy định tại biểu cam kết( nếu có), kể cả những hạn chế về hình thức trong giai đoạn chuyển đổi( nếu có thể áp dụng)
Cho dù có những hạn chế nêu trong biểu cam kết, song các điều kiện về sở hữu, hoạt động, hình thức pháp nhân quy định tại Giấy phép đầu tư / chứng nhận đầu tư hoặc các hình thức khác sẽ không hạn chế hơn các điều kiện áp dụng trước thời điểm Việt Nam gia nhập WTO
3.5. Doanh nghiệp nước ngoài
- Tuân thủ quy định WTO, ta đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo chí và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời gian chuyển đổi (như gạo và dược phẩm).
Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền xuất khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu.
- Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí...
3.6. Bỏ tài trợ xuất khẩu:
- Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành dệt may).
- Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
IV. THỰC TRẠNG, THÀNH CÔNG VÀ HẠN CHẾ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CAM KẾT WTO – HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ:
1. Thực trạng doang nhiệp Việt Nam:
Ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Từ đó đến nay, người dân Việt Nam đã chứng kiến nhiều diễn biến kinh tế phức tạp, có cái hay nhưng cũng không ít điều dở, từ việc hội nhập này.
Với Việt Nam, việc gia nhập WTO đã tạo ra cơ hội để thúc đẩy cải cách thể chế, tạo lập môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ...
Trung tâm Thông tin tư liệu thuộc Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã có báo cáo đánh giá những tác động của việc gia nhập WTO đến đời sống kinh tế xã hội của Việt Nam với tiêu đề “Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO”. Theo báo cáo này, bên cạnh các tác động hữu hình như gia tăng kim ngạch xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh, hệ thống phân phối được cải thiện... việc gia nhập WTO còn có những tác động vô hình khác.
Nhận thức của xã hội về nhu cầu hội nhập đã có chuyển biến và gia tăng đáng kể. Quan điểm cho rằng Việt Nam không thể đứng ngoài sân chơi chung nếu muốn tiếp tục phát triển đã trở nên phổ biến trong xã hội. Hoặc cũng nhờ hội nhập mà thể chế nhà nước có sự đổi mới mạnh mẽ, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ hơn.
Việc giảm 30% thủ tục hành chính mà Việt Nam đang làm một phần cũng nhờ sức ép của hội nhập. Các tác giả báo cáo nói trên còn cho rằng, cùng với tiến trình hội nhập, cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp Việt Nam đều có nhận thức tốt hơn về thị trường, về những điểm yếu cố hữu của nền kinh tế hay của bản thân doanh nghiệp, từ đó tìm ra cách ứng phó linh hoạt, chủ động.
- Tuy nhiên, việc nhận diện những bất cập sau ba năm gia nhập WTO có lẽ sẽ cần thiết hơn cho những nhà hoạch định chính sách cũng như doanh nghiệp để có những điều chỉnh kịp thời.
Xuất nhập khẩu: chưa bứt phá không thể phủ nhận kết quả tăng trưởng xuất khẩu trong hai năm đầu gia nhập WTO (năm 2007 tăng 21,3% và năm 2008 tăng 29,5%. Riêng năm 2009, do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, xuất khẩu của Việt Nam giảm 9% (trong khi hầu hết các đối tác thương mại chính của Việt Nam đều giảm mạnh hơn mức này). Số liệu thống kê cho thấy, tính chung kim ngạch xuất nhập khẩu trung bình hai năm 2008-2009 là 150 tỉ đô la Mỹ/năm, tương đương với hơn 160% tổng GDP của cả nước.
Điều này cho thấy độ mở về thương mại của Việt Nam ngay trong thời gian đầu gia nhập WTO đã khá cao. Mặc dù vậy, xét về tổng thể, kết quả gặt hái như trên chưa được xem là một sự bứt phá. Tính bình quân hai năm đầu gia nhập WTO, kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng trưởng 25,27%, không quá cao so với con số 22,63% của hai năm “tiền” WTO là 2005-2006, thậm chí cũng chỉ bằng ba năm trước đó (2004-2006). Còn nếu so sánh với Trung Quốc thì càng thấy sự chênh lệch. Trong sáu năm sau khi gia nhập WTO, xuất khẩu của Trung Quốc tăng 28,85%/năm, cao gấp 2,91 lần so với mức 9,9%/năm trong giai đoạn tiền WTO (1996-2001).
Đi sâu vào các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, thì nông sản là mặt hàng được xem có nhiều cơ hội để hưởng lợi từ việc Việt Nam gia nhập WTO, nhưng thực tế lại không như mong muốn. Ba năm qua, 2007-2009, tuy kim ngạch xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản có tăng so với năm 2006 nhưng vẫn chậm hơn tốc độ tăng xuất khẩu nói chung (trừ cà phê).
Ngoài ra, đầu tư của Nhà nước cho lĩnh vực nông nghiệp hiện mới ở mức 8% chứ chưa đạt đến 10% giá trị nông nghiệp theo như thỏa thuận với WTO. Không chỉ vốn đầu tư nhà nước mà cả vốn ODA, vốn FDI đầu tư cho khu vực này vừa thấp vừa có xu hướng giảm. Với thực trạng yếu kém như vậy, theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, khu vực nông nghiệp và nông thôn đang chịu nhiều tác động bất lợi nhất sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Một khi độ mở của thương mại càng cao thì nguy cơ dễ bị tổn thương càng lớn trước những cú sốc giá, những rào cản thương mại và sự thay đổi chính sách của các nước nhập khẩu.
Để hạn chế những thiệt hại kiểu như vậy thì chính sách của Việt Nam càng phải minh bạch và phải có tính tiên liệu được. Điều đáng nói, đây lại là điểm yếu trong việc hoạch định chính sách ở nước ta. Một minh chứng rõ nét cho nhận định này là việc cắt giảm thuế đột ngột và thiếu một hàng rào kỹ thuật trong ngành chăn nuôi đã khiến thịt nhập khẩu ồ ạt về Việt Nam trong năm 2009 làm ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Trước đó, trong hai năm 2008-2009, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu thịt nhiều và nhanh hơn lộ trình cam kết, cho dù để có được mức thuế như cam kết, các nhà đàm phán đã phải “đấu trí” rất gay go. Sau khi rất nhiều hộ gia đình, trang trại chăn nuôi gia cầm trong nước bị thịt nhập khẩu “đánh” tơi tả thì các cơ quan chức năng mới điều chỉnh thuế. Cũng qua trường hợp trên cho thấy sự phối hợp giữa các cơ quan bộ, ngành còn hạn chế.
Khi gia nhập WTO, người dân trong nước có cơ hội tiếp cận và sử dụng nhiều mặt hàng với giá rẻ hơn nhưng điều đó không có nghĩa là chất lượng hàng cứ bị thả nổi, không thể kiểm soát được. Trong những năm qua, hàng xuất khẩu của Việt Nam liên tục phải đối phó với các hàng rào phi thuế quan, các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp... của các nước, trong khi ở chiều ngược lại Việt Nam lại có quá ít các hàng rào kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu và kiểm soát chất lượng hàng nhập.
Đầu tư nước ngoài: những bất cập Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI), sau ba năm gia nhập WTO, lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam là hơn 114 tỉ đô la Mỹ (vốn đăng ký), cao gấp 4,5 lần mục tiêu đề ra cho cả giai đoạn năm năm 2006-2010. Tương tự, vốn thực hiện trong ba năm qua, 2007-2009, cũng đạt 29,5 tỉ đô la, cũng vượt chỉ tiêu đề ra cho năm năm. Kết quả này cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam đã ngày càng thuận lợi hơn, nhiều cơ hội làm ăn ở Việt Nam đã thành hiện thực.
Tuy nhiên, đằng sau những con số đáng ghi nhận nói trên cũng đã xuất hiện một số mặt trái của nó mà nguyên nhân chính có lẽ do tầm nhìn, năng lực của các cơ quan nhà nước còn nhiều hạn chế. Ví dụ, tình trạng các địa phương đua nhau lập khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm thu hút vốn FDI với suy nghĩ rằng cứ thu hút nhiều vốn FDI thì kinh tế địa phương sẽ phát triển, mà không tính tới những tác động về môi trường, xã hội mà các dự án này có thể gây ra. Báo cáo “Việt Nam sau ba năm gia nhập WTO” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cũng nhận định rằng tình hình thu hút và sử dụng vốn FDI gần đây đang dẫn đến một số hệ lụy làm ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam như đầu tư quá nhiều vào khu vực bất động sản vốn mang lại giá trị gia tăng thấp, làm thâm hụt cán cân thương mại, môi trường sinh thái bị tác động xấu, sinh kế của người dân bị mất đất bị ảnh hưởng nặng...
Năng lực cạnh tranh: chậm cải thiện Theo báo cáo nói trên, cả năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam đều thấp và chậm được cải thiện so với các nước trong khu vực. Ở góc độ quốc gia, những nút thắt cổ chai của nền kinh tế như nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng, năng lực thể chế, trình độ công nghệ đã được nói đến rất nhiều nhưng đến nay vẫn chưa giải quyết được. Đây chính là những lực cản đối với cạnh tranh ở tất cả mọi cấp độ. Trong khi đó, doanh nghiệp vẫn làm ăn theo cách như lâu nay, chưa tận dụng được cơ hội từ WTO mang lại do thiếu thông tin. Năm 2009, nhiều doanh nghiệp có thêm thị trường mới là do áp lực từ bán hàng nhiều hơn là tận dụng các cơ hội giảm thuế hay mở cửa của các thị trường. Vì vậy thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là tạo ra cơ chế và phương tiện để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và rất nhỏ có thể cạnh tranh được trong một sân chơi lớn.
Còn khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, nếu không có sự cải tiến mạnh thì có thể sẽ thua ngay trên sân nhà chứ chưa nói đến ở nước ngoài. Chẳng hạn, xuất khẩu hàng nông sản trong năm 2008 tăng chủ yếu là nhờ sốt giá, trong khi đó, ngay ở thị trường trong nước, các mặt hàng như thịt, đường, trái cây... đều lao đao vì hàng nhập.
2. Những điểm mạnh của doanh nghiệp Việt Nam:
- Doanh nghiệp Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào, tuổi trẻ, cần cù, khéo tay, ham học hỏi, giá nhân công thấp.
- Doanh nghiệp Việt Nam có thị trường nội địa và thị trường quốc tế rộng lớn. Khi tham gia vào WTO, lợi ích lớn nhất mà Việt Nam thu được từ hội nhập là thị trường xuất khẩu thuận lợi cho Việt Nam mở rộng. Cạnh tranh bình đẳng với các nước , không còn vướng rào cản về thuế và hạn ngạch.
- Mức độ tổn thương bởi suy thoái kinh tế thấp do các doanh nghiệp Việt Nam không quá dựa vào vốn vay.
- Việt Nam có vị trí địa lý kinh tế thuận lợi, nằm trên chuỗi cung toàn cầu.
- Chính phủ quan tâm hoàn thiện hệ thống pháp luật, thể chế kinh tế và cải cách thủ tục hành chính, quyền tự chủ kinh doanh được tôn trọng. Khi gia nhập vào WTO và cam kết thực hiện các nguyên tắc tự do hóa thương mại giữa các thành phần kinh tế, giữa trong nước và nước ngoài, Việt Nam sẽ phải cải cách các luật lệ sao cho phù hợp với quốc tế. Qua đó, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng và thông thoáng cho mọi thành phần kinh tế.
- Khu vực doanh nghiệp mới hình thành, đầu tư chưa nhiều, dễ dàng trong việc tái cấu trúc mà không bị quá nhiều tốn kém.
- Là nước đi sau, Việt Nam cũng có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới, những ứng dụng khoa học kĩ thuật đã được các nước đi trước áp dụng thành công để thực hiện chiến lược tiến nhanh bắt kịp.
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã ban hành các chính sách, xây dựng quan hệ đối ngoại và tiến hành cải cách hành chính. Những thay đổi này đã dẫn đến một giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và khuyến khích luồng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp liên tục chuyển vào Việt Nam. Các nhà tài trợ vốn ODA cũng gia tăng việc đóng góp nguồn tài trợ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam. Những cải cách này đang được củng cố vững chắc bởi việc Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và nhu cầu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ để tạo việc làm cho dân số đang gia tăng. Nếu các nỗ lực trong quá trình tiếp tục cải cách hành chính và cải cách thị trường được duy trì thì khả năng duy trì tốc độ phát triển kinh tế ổn định của Việt Nam tiếp tục gia tăng trong khi hạn chế sự tăng trưởng các vấn đề có tiềm năng nảy sinh.
3. Những hạn chế của doanh nghiệp Việt Nam:
- Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam không được đào tạo đầy đủ, cơ bản kiến thức về kinh tế thị trường cạnh tranh và hội nhập toàn cầu. Trình độ quản lý, yếu tố tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp còn nhiều bất cập, lúng túng khi thực hiện quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường.
- Do hoàn cảnh đất nước mới mở cửa và hội nhập, doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm trên thương trường, đặc biệt là kinh nghiệm xử lý các cơ hội cũng như nguy cơ mang tính toàn cầu, khả năng chịu đựng các va đập, rủi ro trong kinh doanh thấp, chưa thực sự am hiểu các thông lệ, luật phát kinh doanh quốc tế... Thiếu tính sáng tạo đổi mới, tư duy không theo kịp với sự chuyển biến của thị trường và đối thủ cạnh tranh
- Doanh nghiệp Việt Nam thiếu kinh nghiệm quản lý, nhất là quản lý các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, phạm vi hoạt động trải rộng trên nhiều quốc gia, trong đó, một số lại tự ti hoặc tự thoả mãn với những kết quả hiện tại. Nguồn nhân lực chất lượng thấp, kỹ năng quản lý doanh nghiệp hạn chế
- Tầm nhìn của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế, chưa có chiến lược kinh doanh phù hợp, rõ ràng. Chưa thực sự đặt khách hàng vào vị trí trung tâm, thường áp đặt suy nghĩ của mình cho khách hàng, thiếu sự cam kết lâu dài. Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt cũng thiếu tập trung xây dựng chiến lược kinh doanh, lựa chọn sản phẩm cốt lõi và thị trường trọng điểm
- Khả năng liên kết, hợp tác, chia sẻ thông tin giữa các doanh nghiệp kém, thậm chí là không có. Các điểm yếu này không phải là quá trầm trọng, những rõ ràng nếu không được khắc phục có hiệu quả sẽ có ảnh hưởng xấu và ngày càng lớn đối với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
- Quy mô doanh nghiệp nhỏ, năng lực tài chính, công nghệ và tổ chức thị trường yếu. Tư tưởng tiểu nông, dễ hài lòng với thực tại và thiếu tính hợp tác. Doanh nghiệp Việt Nam còn gặp khó khăn về thể chế thị trường chưa đồng bộ, cơ sở hạ tầng còn yếu kém làm tăng chi phí giao dịch..
- Các sản phẩm điện tử nguyên chiếc được nhập khẩu từ các nước khác, sự tham gia sản xuất của các hãng điện tử nổi tiếng ngay ở thị trường trong nước đã làm cho các doanh nghiệp điện tử Việt Nam đã yếu lại càng yếu hơn do không có khả năng cạnh tranh.
Ngành công nghiệp phụ trợ đang rất yếu, là một rào cản rất lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài có dự định đầu tư vào Việt nam. Trong thực tế, chưa có những chính sách rõ ràng và thích hợp giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam mạnh dạn đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ. Đó là một trong những lý do làm cho mục tiêu của chính sách thuế theo tỉ lệ nội địa hóa không đạt được như mong muốn. Chúng ta mới chỉ quan tâm, khuyến khích về cầu mà chưa quan tâm khuyến khích về cung.
Năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém. Nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, cơ sở hạ tầng chưa thỏa mãn được các nhà đầu tư quốc tế.
- Bắt đầu từ thời điểm 1/1/2009, các doanh nghiệp bán lẻ của nước ngoài có cơ hội để thâm nhập thị trường nội địa. Không những thế, từ 1/1/2010, thị trường phân phối hàng hóa sẽ công bằng đối với cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đây là mối lo cho cả các doanh nghiệp sản xuất. Bởi nếu doanh nghiệp phân phối của Việt Nam thua thì doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam cũng có nguy cơ thua ngay trên sân nhà.
- Sân chơi WTO là sân chơi công bằng. Vì thế, nó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa mới có thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên vai trò định hướng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Hiện nay những bất cập trong qui hoạch, quản lý, điều hành đang là rào cản lớn cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ và điện tử - công nghệ thông tin.
- Chính sách thuế thiếu linh hoạt dẫn tới giá thành cao, không có sức cạnh tranh. Khi làm thủ tục cho linh kiện nhập khẩu, các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn bởi chính sách thuế, thủ tục hải quan... dẫn đến việc đã yếu lại càng yếu. Ví dụ: tivi nhập khẩu nguyên chiếc, nếu nhập từ ASEAN thì thuế suất chỉ có 5%. Nhưng nhiều linh kiện để lắp ráp tivi thuế suất vẫn rất cao như cuộn biến áp (28%); cầu chì (29%); phím nguồn, phím điều khiển (18%), các chi tiết nhựa (18%)…
- Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong ngành Công nghiệp điện tử còn thấp về cả quy mô hoạt động, tiềm lực tài chính đến trình độ công nghệ, trình độ quản lý. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp còn chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, không có khả năng cạnh tranh về giá… Ngoài ra, sự điều hành của Nhà nước còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới khi hội nhập kinh tế quốc tế.
4. Một số thành tựu cơ bản mà kinh tế Việt Nam đạt được từ khi gia nhập WTO.
Kể từ khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, các chuyên gia trong và ngoài nước đã có rất nhiều đánh giá tích cực về những thành tựu mà Việt Nam đạt được. Giai đoạn 2007-2009 chứng kiến sự tham gia của Việt Nam vào WTO.
Nhìn vào con số tăng trưởng kinh tế 3 năm qua cho thấy sự bứt phá ngoạn mục: Năm 2007 tăng trưởng kinh tế đạt 8,5%; Năm 2008 đạt 6,2%; Năm 2009, mặc dù ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhiều nền kinh tế tăng trưởng âm - thì Việt Nam vẫn tăng trưởng dương, ở mức 5,3%. Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng GDP khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm, trong khi đó,khu vực công nghiệp và xây dựng tăng dần.
Sang năm 2010, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009; tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại.
Tốc độ tăng trưởng các quý năm 2010 Tốc độ tăng trưởng kinh tế 2006-2009
4.1. Sản xuất công, nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện, tăng trưởng khá và chuyển dịch theo hướng hàng hoá. Số lượng sản phẩm tăng nhanh, chủng loại sản phẩm đa dạng, chất lượng ngày càng cao, cơ cấu sản phẩm có nhiều thay đổi, điều kiện và tính chất của các yếu tố sản xuất cũng có nhiều điểm mới so với trước.Tốc độ tăng trưởng của khu vực này theo GDP năm 2007 tăng 3,76%, năm 2008 tăng 4,07%. Nông sản hàng hoá Việt Nam vẫn đáp ứng đầy đủ nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến như mía đường, rau quả, lúa gạo, chè. Lượng gạo xuất khẩu năm 2008 đạt trên 4,7 triệu tấn, kim ngạch đạt trên 2,9 tỉ USD tăng 94,8% so năm 2007. Năm 2009, tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước đạt 219.887,18 tỷ đồng, tăng 2,98% so với năm 2008.
Sản xuất công nghiệp tuy gặp khó khăn về thị trường, nhưng theo đánh giá chung là từ khi gia nhập vào WTO vẫn tăng trưởng khá cao. Năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,1% cao hơn năm 2006 (17,0%), trong đó khu vực ngoài nhà nước tăng 26,0%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,2%. Năm 2008, sản xuất công nghiệp vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá 13,9%, trong đó khu vực kinh tế ngoài nhà nước tăng 18,0%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 18,0%. Cơ cấu sản xuất công nghiệp đã có chuyển biến tích cực: ngành công nghiệp chế biến đã đạt tốc độ tăng trưởng cao, năm 2007 tăng 19,1%, năm 2008 tăng 15,3% và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn. Năm 2009, giá trị sản xuất công nghiệp giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 696.577 tỷ đồng, tăng 7,6% so với năm trước. Sang năm 2010, tính đến tháng 11, giá trị đạt 717,1 nghìn tỷ đồng, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước tăng 7,5%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước tăng 14,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,9% (dầu mỏ và khí đốt giảm 2,7%, các ngành khác tăng 19,4%). Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác khoáng sản, tài nguyên thiên nhiên.
4.2. Kinh tế đối ngoại
Phát triển toàn diện cả về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ. Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn. Về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), thu hút được 12 tỷ USD năm 2006 lên 21 tỷ USD năm 2007 và 64 tỷ USD năm 2008, năm 2009, Việt Nam vẫn tiếp tục là một điểm đến quan trọng của FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký là 21,3 tỷ USD. Như vậy tổng số FDI đăng ký trong 3 năm qua đã vượt 1,3 lần tổng số FDI thu hút được của tất cả các năm trước đó cộng lại. Đóng góp của khu vực FDI vào GDP đạt mức trung bình trên dưới 40% trong khoảng 1 chục năm gần đây. Bên cạnh nguồn FDI, ODA vào Việt Nam cũng liên tục tăng mạnh. Những năm gần đây, chúng ta thu hút bình quân 5-6 tỷ USD từ nguồn này cho các dự án phát triển hạ tầng và quốc kế dân sinh. Riêng năm 2009, tổng số ODA cam kết cho Việt Nam đạt trên 8 tỷ USD.
Ngoài ra, thông qua kênh đầu tư gián tiếp của thị trường chứng khoán, nguồn vốn đổ vào Việt Nam cũng không ngừng tăng lên từ 2,1 tỷ USD năm 2006 lên 8,9 tỷ USD năm 2007. Cũng phải kể thêm một nguồn đầu tư quan trọng khác từ kiều hối của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài gửi về trong nước thông qua các kênh khác nhau ở mức 6-7 tỷ USD/năm trong mấy năm gần đây. Các số liệu nói trên cho thấy sự tin tưởng của giới đầu tư, chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế vào khả năng phát triển ổn định của nền kinh tế Việt Nam cũng như sự hấp dẫn của thị trường Việt Nam. Những nguồn vốn đầu tư quan trọng như vậy đổ vào Việt Nam đã giúp duy trì tăng trưởng cao khá ổn định của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm qua, đồng thời góp phần thúc đẩy tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam.
4.3. Xuất nhập khẩu
Thuận lợi hết sức quan trọng là ngay sau khi gia nhập WTO, Việt Nam lập tức được hưởng sự đối xử bình đẳng trong thương mại và mở cửa thị trường của 150 nước thành viên. Các hàng rào thuế quan phi WTO mà hàng hoá Việt Nam bị áp đặt một cách bất lợi bị bãi bỏ, nhờ đó Việt Nam có thể tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của mình sang thị trường các nước thành viên. Mặt khác, với việc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường Việt Nam và do yêu cầu đầu vào của nhiều ngành sản xuất, nhập khẩu vào Việt Nam cũng tăng rất mạnh. Trong hai năm 2007 và 2008, mức tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam đạt bình quân khoảng 25 %/ năm. Năm 2009, do khủng hoảng toàn cầu nên tỷ lệ tăng xuất nhập khẩu của Việt Nam bị tụt xuống đáng kể, nhưng vẫn ở mức cao so với nhiều nền kinh tế khác. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tính đến tháng 11/2010 ước tính đạt 6,5 tỷ USD, tăng 3,6% so với tháng trước và tăng 35,6% so với cùng kỳ năm trước.
Sáu mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỉ USD là cà phê, cao su, gạo, sản phẩm gỗ và thuỷ sản (tôm, cá tra, cá ba sa)Điểm tích cực đáng kể nữa là cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam tiếp tục thay đổi theo hướng giảm dần các mặt hàng nguyên liệu thô, nông sản chưa chế biến và tăng dần số lượng cũng như giá trị các mặt hàng hàng chế biến, hàng công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Phát triển mạnh của hoạt động xuất nhập khẩu những năm qua là động lực thúc đẩy phát triển các ngành sản xuất và dịch vụ ăn theo và, do vậy, góp phần quan trọng duy trì tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Hiện nay, tỷ lệ giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam trên tổng GDP là trên 170 %. Điều này cho thấy hai điểm quan trọng sau. Một là, nền kinh tế Việt Nam gắn kết và phụ thuộc quan trọng vào nền kinh tế và thị trường thế giới. Hai là, thương mại quốc tế là động lực và yếu tố then chốt của tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
4.4. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Quá trình gia nhập WTO thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Thực tế cho thấy, cơ cấu nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đã có những chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá với tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng và tỷ trọng nông lâm nghiệp giảm dần. Trong những năm đầu của thập niên 2000, tỷ lệ các khu vực công nghiệp, dịch vụ và nông lâm nghiệp trong tổng giá trị nền kinh tế quốc dân còn ở mức lần lượt là 38 %, 39 % và 23 %, thì đến 2008-2009 tỷ lệ tương ứng là 40 %, 39,5 % và 20,5 %. Những chuyển dịch này là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Những ngành, lĩnh vực có khả năng tiêu thụ nhiều sản phẩm được phát triển mạnh. Một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, dày da, điện tử có xuất khẩu mạnh và tiêu thụ nhiều ở trong nước đã phát triển rất nhanh trong mấy năm gần đây.
5. Những thách thức của Việt Nam sau khi gia nhập WTO:
Khi gia nhập vào WTO, tham gia hội nhập kinh tế quốc tế Việt Nam cũng chịu nhiều tác động do những diễn biến trên thị trường thế giới, nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới.
- Hội nhập kinh tế với các dòng lưu chuyển thương mại và đầu tư lớn và nhanh hơn cũng làm ảnh hưởng đến cán cân thanh toán, qua đó ảnh hưởng đến tương quan cung – cầu ngoại tệ và kèm theo đó là cung tiền tệ và lãi suất. HNKTQT đã làm BOP và các cán cân thành phần biến động mạnh và khó lường hơn rất nhiều. Tác động rõ nhất của hội nhập kinh tế quốc tế đối với BOP trong các năm 2007-2009, so với trước khi gia nhập WTO, là gia tăng mức độ thâm hụt thương mại, thâm hụt cán cân vãng lai và chu chuyển vốn, cả về số tuyệt đối và tỷ lệ theo GDP
- Thay đổi tương quan cung – cầu ngoại tệ cũng làm ảnh hưởng đến tỷ giá và, trong điều kiện chính sách tỷ giá được thực hiện theo hướng thả nổi có quản lý, việc quản lý tỷ giá cũng chịu ảnh hưởng nhất định. Có thể thấy trong giai đoạn 2007-2009, tỷ giá VNĐ/USD diễn biến hết sức phức tạp, theo những chiều hướng khác nhau
Ngay cả trong giai đoạn tỷ giá VNĐ/USD có xu hướng tăng, mức tăng cũng đã khó lường hơn rất nhiều. Chính vì vậy, tỷ giá VNĐ/USD trên thị trường liên ngân hàng và biên độ giao dịch cũng liên tục được điều chỉnh trong giai đoạn 2007-2009
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động đến nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM và thị trường tài chính, tỷ lệ nợ xấu đã tăng lần lượt lên gần 2,1% năm 2008 và hơn 2,2% vào tháng 6/2009. Như vậy, trái với các kỳ vọng về tác động của mở cửa hội nhập đối với tăng trình độ quản trị rủi ro và chất lượng tín dụng, tỷ lệ nợ xấu vẫn tăng do những tác động tiêu cực khác từ hội nhập (khủng hoảng kinh tế) là lớn hơn.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cũng ảnh hưởng đến ngân sách nhà nước (NSNN), qua đó tác động đến thâm hụt NSNN và ổn định kinh tế vĩ mô. Chính vì vậy, Việt Nam dễ bị tổn thương hơn trước những cú sốc từ bên ngoài như biến động giá cả trên thị trường thế giới, tình hình kinh tế của các nước bạn hàng thương mại chính, các sự kiện chính trị, vv...Quá trình hội nhập trong giai đoạn 2007-2009 đã tác động mạnh đến cả thu – chi NSNN. Thu NSNN, tính theo tỷ lệ % so với GDP, đã liên tục giảm do phụ thuộc nhiều vào thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, trong khi nguồn thu này bị ảnh hưởng bởi cả việc cắt giảm thuế quan theo cam kết hội nhập và cả khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến các nước đối tác giảm hoạt động thương mại. Trong khi đó, chi NSNN lại tăng mạnh nhằm đầu tư nâng cao năng lực tận dụng cơ hội từ hội nhập, đồng thời hạn chế những tác động tiêu cực của hội nhập đối với an sinh xã hội
- Lạm phát: Dưới tác động của các diễn biến kinh tế thế giới và chính sách kinh tế trong nước, lạm phát ở Việt Nam trong 3 năm hậu gia nhập WTO đã diễn biến phức tạp hơn, theo những chiều hướng khác nhau. Diễn biến lạm phát trong giai đoạn 2006-2009 (theo chỉ số giá tiêu dùng CPI, so với cùng kỳ năm trước) được thể hiện trong Hình 6. Theo đó, lạm phát tăng liên tục, đặc biệt mạnh kể từ tháng 9/2007 để đạt đỉnh 28,3% vào tháng 8/2008 (so với mức 6,4% vào tháng 1/2007). Tính chung trong năm 2007, tốc độ tăng CPI đã đạt mức 12,6%, mức cao nhất kể từ năm 1996, và cao gần gấp đôi so với mức năm 2006 (6,6%).
- Xuất khẩu dễ bị tổn thương trước biến động từ bên ngoài như các cú sốc giá cả hay sự xuất hiện rào cản thương mại mới. Điều này một phần do chủng loại mặt hàng xuất khẩu còn nghèo nàn, tập trung vào một số ít hàng xuất khẩu chủ lực, thiếu đột phá.
- Giá dầu thô và giá lương thực – là hai mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam – cũng như giá nhiều mặt hàng xuất khẩu khác tăng cao, nên Việt Nam được lợi từ yếu tố tăng giá, và điều này ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng. Hơn nữa, thị trường xuất khẩu vẫn tiếp tục được mở rộng nhờ HNKTQT cũng có tác động tích cực đến tăng trưởng. Trong hai nhóm tác động trên, tác động tiêu cực có mức độ ảnh hưởng lớn hơn, lại được truyền dẫn nhanh hơn vào nền kinh tế do mở cửa.
- Ngành công nghiệp chế biến: cũng là ngành chịu tác động của HNKTQT nhiều nhất do có định hướng xuất khẩu cao. Năm 2009 ngành công nghiệp chế biến phục vụ thị trường trong nước gặp rất nhiều khó khăn và chịu sức ép cạnh tranh khốc liệt của hàng nhập khẩu tràn vào sau khi thuế suất nhập khẩu nhiều mặt hàng giảm theo lộ trình cam k ết của WTO và các cam kết khác.
- Dịch vụ: Tác động tiêu cực rõ nhất của HNKTQT năm 2009 là tác động lên ngành kinh doanh có tính thị trường cao (kinh doanh khách sạn, nhà hàng và ngành kinh doanh bất động sản). Tốc độ tăng GTTT của ngành kinh doanh khách sạn, nhà hàng giảm xuống còn 2,3% so với mức tăng 8,6% năm 2008 và 12,8% năm 2007. Trong khi đó, sau khi tăng với tốc độ cao vào năm 2007, tốc độ tăng GTTT của ngành kinh doanh và tư vấn dịch vụ nhà đất giảm còn 2,5% năm 2008 và tăng nhẹ lên 2,54% năm 2009
- Tiêu dùng: Năm 2009, trong thời gian khủng hoảng tài chính và suy thóai kinh tế, tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình giảm mạnh, chỉ còn 3,9% so với mức 9,2% năm 2008 do các hộ gia đình đã thu hẹp chi tiêu. Do đó, tốc độ tăng tiêu dùng cuối cùng của cả nền kinh tế cũng giảm xuống còn 4,2% so với 9,0% năm 2008 và 10,6% năm 2007
- Tỷ lệ thất nghiệp Năm 2007, ngay sau khi gia nhập WTO, số lượng người thất nghiệp là 1.030.346 người, giảm 155 người so với năm 2006. Tuy nhiên, trong các năm tiếp theo, số lượng người thất nghiệp đã gia tăng nhanh chóng, năm 2008 tăng thêm trên 59 ngàn người, tăng rất nhanh lên 1,509,596 người vào năm 2009 (thêm 420 ngàn người). Số người bị mất việc cuối năm 2008 và năm 2009 chủ yếu thuộc các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu như may mặc, giày dép, hàng thủ công mỹ nghệ. Tổng thời kỳ 2007-2009, số người bị thất nghiệp tăng thêm 160 ngàn người/năm, tốc độ tăng 13,6%/năm, phản ánh sự biến động của kinh tế, đặc biệt là khủng hoảng tài chính khá rõ nét.
Như vậy là cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế bắt đầu từ cuối năm 2007 đã tác động tiêu cực lên nền kinh tế Việt nam thông qua một số kênh như giá cả, thương mại và đầu tư (bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài và chu chuyển vốn).
V. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆT NAM KHI THỰC HIỆN CÁC HIỆP ĐỊNH WTO:
1. Cơ hội:
- Môi trường kinh doanh đã được cải thiện đáng kể nhờ hệ thống chính sách đã trở nên minh bạch, nhiều biện pháp bảo hộ (quản lý giá, trợ cấp xuất khẩu, độc quyền xuất nhập khẩu) được bãi bỏ, tạo thuận lợi cho việc hình thành một sân chơi bình đẳng cho mọi đối tượng kinh tế, thúc đẩy đổi mới kinh tế.
Các thành tố của hệ thống thị trường đã hiện diện. Việt Nam đã có đủ sáu thị trường là thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường tài chính tiền tệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học. Đây cũng là một thành tựu đáng kể.
- Việc tự do hóa thương mại theo các quy định chung của WTO đã buộc nền kinh tế trong nước phải có những điều chỉnh phù hợp để đáp ứng cho việc sản xuất tiêu dùng trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp đã phần nào ý thức được sự cần thiết của việc không ngừng nâng cao chất lượng hàng hóa, đẩy mạnh công tác quảng bá, tiếp thị, tìm kiếm thị trường mới, duy trì và mở rộng thị phần tại những thị trường truyền thống. Từ đó, sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung sẽ được nâng lên đáng kể.
- Được hưởng ngay thành quả của GATT & WTO về thuế nhập khẩu và các hàng rào phi thuế quan…
- Mang lại động lực cho cải cách nền kinh tế :
Xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ mang chuẩn mực quốc tế để phát triển kinh tế thị trường
Xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế
Giảm thiểu các biện pháp hành chính can thiệp vào kinh doanh của doanh nghiệp
Thay đổi tư duy kinh tế - từ kinh tế Nhà nước sang kinh tế tư nhân làm động lực cơ bản phát triển
Chuyển kinh tế Nhà nước sang hoạt động thị trường
- Doanh nghiệp có môi trường kinh doanh thuận lợi để phát triển
Không bị phân biệt đối xử
Được quyền tiếp cận với thị trường trong và ngoài nước
Được quyền tiếp cận với thông tin
Ít bị hành vì thủ tục hành chính
Hạ tầng cơ sở kinh doanh tốt hơn
- Việt Nam trở thành thị trường hấp dẫn đầu tư nước ngoài vì:
Môi trường kinh doanh mang chuẩn mực quốc tế
Không bị phân biệt đối xử: MFN, NT
Thủ tục đầu tư và thuế tương tự như các doanh nghiệp Việt Nam
Được quyền tự do kinh doanh theo cơ chế thị trường
- Chi phí kinh doanh của doanh nghiệp có điều kiện giảm vì :
Thuế nhập khẩu giảm, mua nguyên vật liệu, máy móc sẽ rẻ hơn
Cạnh tranh lớn thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư công nghệ, máy móc, quản lý chi phí để giảm giá
Chi phí thủ tục hành chính ít hơn (vì đơn giản hóa thủ tục hành chính nhà nước là mục tiêu của WTO)
Tham nhũng ít hơn (giảm chi phí dưới bàn)
Giảm chi phí tiếp cận với thông tin ( cơ chế chính sách của Nhà nước; thị trường…)
Ít chi phí hơn vì cơ sở hạ tầng phát triển tốt hơn (Bỏ tài trợ trực tiếp Nhà nước sẽ đầu tư vào cơ sở hạ tầng)
- Xuất khẩu sẽ dễ dàng hơn (4):
Vì năng lực cạnh tranh tốt hơn (vì cạnh tranh cao dẫn tới sản phẩm tốt hơn; giá hạ hơn)
Xuất khẩu sang 152 nước sẽ được hưởng MFN
Ngành xuất khẩu dệt may không còn quy định bằng hạn ngạch
Dễ dàng hơn khi tiếp cận thông tin thị trường nước nhập khẩu (vì WTO yêu cầu mỗi nước thành viên công khai hóa chính sách thương mại của mình)
Hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn: do phát triển nhiều nhà cung cấp, sự lựa chọn của doanh nghiệp và người dân nhiều hơn rẻ hơn
Doanh nghiệp có điều kiện bảo vệ quyền lợi của mình tốt hơn trên thị trường quốc tế
Doanh nghiệp phát triển mạnh và bền vững hơn vì giảm tài trợ “đèn đỏ” khiến doanh nghiệp phải tự phát huy nội lực
- Đời sống nhân dân được cải thiện:
Nhiều công ăn việc làm hơn
Nhiều hàng hóa dịch vụ hơn để thỏa mãn
Điều kiện học tập, chữa bệnh, du lịch văn hóa tốt hơn
- Tư nhân hóa và cổ phần hóa: Việt Nam phải báo cáo thường niên cho WTO về tiến độ cổ phần hóa chừng nào còn duy trì chương trình này
2. Thách thức:
- Phải tái cơ cấu, cải tổ nền kinh tế, phải minh bạch và công khai chính sách ngoại thương, chính sách thuế…. Làm giảm tính độc lập và tự chủ của chính phủ trong quản lý nền kinh tế.
- Mở cửa thị trường khi hội nhập, Việt Nam ít nhiều đã bị tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu. Đặc biệt trong bối cảnh sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn yếu, trình độ lao động thấp, tỷ trọng kinh tế dựa nhiều vào xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài, sức đề kháng và ứng phó khủng hoảng còn hạn chế, doanh nghiệp Việt Nam bị động trước diễn biến của thị trường quốc tế, kinh tế Việt Nam trong năm 2009 đã cho thấy những suy giảm rõ rệt.
- Nhập khẩu tăng cao càng làm cho thâm hụt thương mại lớn thêm. Phân hóa giữa các vùng, miền, tầng lớp xã hội ngày càng rõ rệt. Cơ chế hành chính cồng kềnh và những tồn tại cố hữu trong quy trình quản lý điều hành kinh tế vĩ mô cũng là một trở ngại trong việc thực thi các cam kết WTO và tận dụng những cơ hội mà việc gia nhập tổ chức này mang lại. Việc cải cách, điều chỉnh chính sách, pháp luật chưa được thực hiện một cách đồng bộ, dẫn tới một số quy định vẫn còn chưa phù hợp với cam kết WTO. 6 thách thức lớn khi Việt Nam thực thi cam kết WTO:
- Các nhà máy Việt Nam có chất lượng thấp, kỹ thuật lạc hậu, giá thành cao, hệ thống phân phối kém, thiếu hiểu biết về hệ thống pháp luật. Khi trở thành thành viên WTO, ngay lúc đầu giới kinh doanh Việt Nam sẽ mất thị trường và phải bước vào đoạn điều chỉnh cấp thời.
- Nhiều doanh gia Việt Nam không am tường luật lệ và thủ tục (mới) của WTO. Những luật lệ và thủ tục hiện hành của WTO còn thay đổi nhiều. Trong bước đầu hội nhập WTO, giới kinh doanh Việt Nam gặp phải những cạnh tranh rất gay gắt vì giới quản lý cũng như nhân viên phải cấp kỳ lãnh hội cách làm ăn mới để thích hợp với thương trường WTO. Nhiều nguy cơ thua đậm trong những vụ tranh chấp pháp lý.
Sự thay đổi trong luật lệ kinh doanh là thử thách lớn cho khu vực dịch vụ Việt Nam, không có vốn, không có công nghệ, và cũng chẳng có kinh nghiệm so với các đối thủ quốc tế. Hệ thống phân phối hàng hóa trong nội địa của Việt Nam sẽ gặp phải những cạnh tranh mãnh liệt của những công ty nước ngoài.
- Tất cả những xí nghiệp nội địa phải cạnh tranh ở mức cao hơn. Các xí nghiệp này phải tự chỉnh đốn để sản xuất hàng chất lượng và có dịch vụ tốt hơn, hay phá sản. Những khu vực yếu kém trong cạnh tranh như dịch vụ, sản xuất sắt thép, lắp ráp xe hơi và nông nghiệp sẽ bị đe dọa trầm trọng.
Một số doanh nghiệp Nhà nước sẽ mất đi những đặc quyền, đặc lợi trong hoạt động thương mại và dịch vụ đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và phân phối. Doanh nghiệp Việt Nam phải tự cạnh tranh bình đẳng trong điều kiện mất đi sự bảo hộ, ưu đãi từ phía Nhà nước với các nhà thương mại và cung cấp dịch vụ hàng đầu thế giới.
Khu vực trước đây thuộc độc quyền kinh doanh của nhà nước như điện lực, viễn thông, sẽ bị áp lực nặng nề để mở cửa cho tư doanh. Nhiều công ty Việt Nam có khả năng bị công ty ngoại quốc nuốt chửng.
- Sự phá sản của công ty nội địa làm tăng nạn thất nghiệp và gây bất ổn định trong xã hội. Mặt khác, ngay cả nguồn vốn đầu tư nước ngoài có khả năng, trong vài trường hợp, đưa đến tình trạng tài chính bất ổn định.
- Sự thay đổi quá nhanh của nền kinh tế nếu không có sự chuẩn bị kĩ về mọi mặt sẽ dẫn đến việc là xáo trộn thị trường, gây lỗ hỏng cho nền kinh tế.
3. Các giải pháp hội nhập
- Thứ nhất, cần tiếp tục thay đổi một cách sâu sắc nhận thức và tư duy trong xây dựng chính sách và điều hành quản lý nhà nước theo hướng từ trực tiếp, hành chính, mệnh lệnh sang gián tiếp thông qua việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, tiêu chí và các đòn bẩy kinh tế.
- Thứ hai, để góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, cần áp dụng các chính sách để hạn chế nhập siêu và thâm hụt thương mại, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, khuyến khích việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước.
- Thứ ba, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trên cả ba cấp độ nhà nước, doanh nghiệp và ngành hàng. Phát huy nội lực, bảo vệ thị trường trong nước, xây dựng chiến lược và quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thứ tư, tiếp tục đẩy mạnh vận động các nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, tham gia tích cực vào vòng đàm phán Ðô-ha, tiếp tục thực thi đầy đủ các cam kết gia nhập WTO, tận dụng tốt những quyền lợi mà thành viên WTO được hưởng, xử lý hài hòa, thống nhất mối quan hệ giữa cam kết gia nhập WTO với khuôn khổ pháp lý hiện hành, tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư.
- Thứ năm, thực hiện chính sách phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách an sinh xã hội, giảm khoảng cách giàu - nghèo trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Thứ sáu, các bộ, ngành và các địa phương cần nâng cao chất lượng nội dung các Chương trình hành động sau khi gia nhập WTO, xác định rõ nguồn lực cần thiết để bảo đảm cho việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ đề ra; xử lý hài hòa các vấn đề có tính chất liên ngành, liên vùng như chiến lược, quy hoạch phát triển của địa phương, bảo đảm hiệu quả đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng; bảo vệ môi trường sinh thái,...; xây dựng thể chế và cơ chế theo dõi, kiểm tra, giám sát, đánh giá và điều chỉnh việc triển khai Chương trình hành động của Chính phủ và các chương trình hành động của bộ, ngành và địa phương sao cho thiết thực, hiệu quả và phù hợp với thực tế của bộ, ngành và địa phương.
- Thứ bảy, tăng cường công tác đào tạo, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý, công chức, viên chức, các doanh nhân và người lao động, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cơ hội và thách thức của việt nam khi thực hiện các hiệp định wto.doc